Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bí Ẩn Bộ Cờ Montglane

Độc giả bị cuốn hút vào tác phẩm “Mật mã Da vinci” sẽ yêu thích những bí mật chất chồng đan xen của “Bí mật bộ cờ Montglane”. – Matthew Pearl, tác giả của “The Dante Club” Một bí mật được cất giấu qua nhiều thế kỷ, để tránh xa những kẻ sẽ lạm dụng quyền năng của nó. Một phụ nữ gan dạ và bí ẩn đã dành cả đời mình để chống lại các quy luật và bảo vệ lịch sử thoát khỏi tiến trình thay đổi vĩnh viễn. Khi ngọn lửa cách mạng Pháp bùng cháy và quyền lực của nhà vua bị tước đoạt, các nữ tu của Tu viện Montglane buộc phải khai quật một bí mật chốn giấu hàng ngàn năm trong những bức tường bao bọc tu viện. Toả đi khắp thế giới, mỗi người mang theo một quân cờ của bộ cờ vua huyền bí đã được tám người Ma-rốc trao tặng cho vua Charlemagne từ thời xa xưa, ẩn trong mỗi quân cờ là một mật mã. Bất cứ ai tập hợp được các quân cờ này đều có thể tham gia vào ván cờ chứa đựng quyền lực vô biên - một ván cờ mang đến ngày tàn cho tất cả các vị vua chúa. Nhiều thế kỷ sau, một cô gái được chọn là người kế tục để bảo vệ các quân cờ thất lạc. Liệu cô có tìm ra lời giải đáp bí ẩn lớn lao nhất mọi thời đại không? “Pha trộn yếu tố hư cấu lịch sử cùng điều thần bí cổ xưa và tạo ra một tác phẩm vàng” - Tạp chí People “Hấp dẫn…lạ thường ngoài sức tưởng tượng” – Newsday “Vừa sôi nổi vừa sâu sắc… chẳng mấy người cưỡng lại được sức hút của tác phẩm” - Los Angeles Times Book Review *** Câu chuyện về bộ cờ vua và những bí ẩn đẫm máu mang một sức hút mãnh liệt. Nó khiến những ai yêu thích sách có màu sắc trinh thám và bộ môn cờ vua tìm thấy rất nhiều điều thú vị. Katherine Neville Toàn bộ tên các chương sách đều được đặt liên quan đến cờ vua: Phòng vệ, Quân tốt tiến đến bốn cánh hậu, Một ván cờ… Nếu nhìn lại, rõ ràng, có thể hình dung cả câu chuyện là một ván cờ kỳ bí và đầy huyền ảo với những quân cờ là con người và những nước đi đầy toan tính. Sự hấp dẫn phủ trùm lên cuốn truyện còn ở cách xây dựng nhân vật: Đồ sộ và đa dạng với sự đan xen của nhiều tuyến, nhiều nhân vật nhưng cũng sắc sảo và độc đáo với từng nhân vật một. Maurice Talleyrand là một trong những nhân vật hấp dẫn nhất của tác phẩm. Hiện ra như một “ác quỷ” đầy mưu mô xảo trá, thâm độc và rất nguy hiểm qua lời kể của nữ tu viện trưởng tu viện Montglane. Talleyrand được mô tả: “đã làm tình với rất nhiều, nhiều đến nỗi anh không đếm xuể”. Thế nhưng, dần dần, càng về sau, độc giả càng hiểu sâu sắc về anh - như một con người khác. Hoàn toàn không dễ dàng để theo dõi số phận của các nhân vật. Bởi thế, cuốn sách này không dành cho những ai thiếu sự chú tâm. Mỗi dòng chữ trong truyện đều gián tiếp hoặc trực tiếp hé lộ những bí mật tiếp theo trong số phận nhân vật và số phận bộ cờ Montglane. Nếu độc giả nhắm mắt lại, hình dung đường dây số phận chồng chéo của các nhân vật sẽ nhận ra rằng, hóa ra, họ đang theo dõi một ván cờ của lòng tham con người. Tất cả đều bắt nguồn từ lòng tham - một loại bi kịch mang màu sắc cổ điển trong các vở kịch, tiểu thuyết. Bộ cờ Montglane được cho là có ẩn chứa trong nó một bí ẩn chết người khiến những kẻ lạm dụng nó sẽ thay đổi lịch sử. Cuộc săn tìm bộ cờ đã khiến con người bộc lộ mặt trái của mình. Yếu tố lịch sử và những huyền bí cổ xưa, với những nhân vật có thực như nữ hoàng Catherine của Nga, Napoleon Bonapart của Pháp, nhà triết học Voltare... đã biến Bí ẩn bộ cờ Montglane thành quyển sách vàng cho những ai yêu thích khám phá bí ẩn của lịch sử. Ngày xưa, Cao Bá Quát từng có câu nói đại ý, khi đọc sách, người ta có thể ngồi ở nhà mà bao quát chuyện nhân gian. Với quyển sách này, độc giả cũng sẽ có cảm giác như thế. Bởi cuốn sách là một kỳ thư hấp dẫn về chính trị, lịch sử, phong tục, lối sống và nhất là cờ vua, một bộ môn thể thao đầy trí tuệ. Hạ Vi *** Câu chuyện về bộ cờ vua và những bí ẩn đẫm máu mang một sức hút mãnh liệt. Nó khiến những ai yêu thích sách có màu sắc trinh thám và bộ môn cờ vua sẽ tìm thấy rất nhiều điều thú vị trong đó. Toàn bộ tên các chương sách đều được đặt liên quan đến cờ vua: phòng vệ, quân tốt tiến đến bốn cánh hậu, một ván cờ… Nếu nhìn lại toàn bộ quyển sách, rõ ràng, có thể hình dung cả câu chuyện về bí ẩn bộ cờ Montglane là một ván cờ kỳ bí và đầy  huyền ảo với những quân trong ván cờ là con người và những nước đi mà mỗi tính toán của con người trong đó. Sự hấp dẫn phủ trùm lên quyển truyện còn ở cách xây dựng nhân vật. Đồ sộ và đa dạng với sự đan xen của nhiều tuyến, nhiều nhân vật nhưng cũng sắc sảo và độc đáo với từng nhân vật một. Sự bất ngờ khi độc giả bóc tách từng tính cách số phận nhân vật làm nên sức quyến rũ không cưỡng nổi của một trong những quyển sách bán chạy nhất của nước Mỹ. Nếu độc giả nhắm mắt lại, hình dung đường dây số phận chồng chéo của các nhân vật sẽ nhận ra rằng, hóa ra, họ đang theo dõi một ván cờ số phận của lòng tham con người. Tất cả các bi kịch đều bắt nguồn từ lòng tham - một loại bi kịch mang màu sắc cổ điển trong các vở kịch, tiểu thuyết. Bộ cờ Montglane được cho rằng có ẩn chứa trong nó một bí ẩn chết người mà những kẻ lạm dụng nó sẽ thay đổi lịch sử. Cuộc săn tìm bộ cờ đã khiến con người bộc lộ mặt trái của mình. Nhà văn Katherine Neville đã trung thành với phong cách “đồ sộ” như bà từng làm với Đam mê được xuất bản trước đây. Những nhân vật lịch sử như Charlemagne, Napoléon, Voltaire, nữ hoàng Catherina II..... vẫn tiếp tục thực sự của đam mê. Họ cũng yêu, ghét, vui, buồn...với những tham vọng không che giấu. Và chính vì thế mà họ rất đời, rất người.   Trang Trang *** Katherine Neville là tác giả người Mỹ có những tác phẩm bán chạy nhất trên thế giới trên tờ NY Times, USA Today chuyên viết tiểu thuyết phiêu lưu/săn lùng kho báu. Các tiểu thuyết của bà bao gồm The Eight, A Calculated Risk, The Magic Circle và The Fire, là phần tiếp theo của The Eight.  *** TU VIỆN MONTGLANE, PHÁP  Mùa xuân năm 1790 Một nhóm nữ tu băng qua đường, những chiếc khăn trùm đầu nhàu nát của họ nhẹ bay chấp chới như cánh hải âu. Khi các cô lướt qua những vòm cổng đá cao vòi vọi của thành phố, đàn gà con và mấy chú ngỗng te tái tránh lối, vỗ cánh loạn xạ, bì bõm lội qua vũng bùn. Các nữ tu bước trong làn sương mù u ám vẫn bao phủ thung lũng mỗi sớm tinh mơ và từng cặp sóng đôi lặng thinh đi về phía tiếng chuông trầm lắng, ngân lên từ những quả đồi trên kia. Họ gọi mùa xuân này là le Printemps Sanglant, theo tiếng Pháp, có nghĩa Mùa Xuân Đẫm Máu. Năm đó anh đào đơm hoa sớm, còn lâu tuyết trên các đỉnh núi cao mới tan. Những cành cây mảnh khảnh oằn cong xuống đất bởi sức nặng của những đóa hoa đỏ tươi ướt đẫm. Có người nói anh đào nở rộ sớm vậy là điềm lành, biểu tượng của sự hồi sinh sau một mùa đông khắc nghiệt và dài đằng đẵng. Nhưng rồi những cơn mưa giá rét kéo đến và làm đông cứng các khóm hoa trên cành, khiến thung lũng bị vùi sâu trong sắc hoa đỏ nhuốm những vệt sương nâu. Như thể vết thương bết máu khô. Và người ta nói đây là một dấu hiệu khác thường. Cao ngất ngưởng phía trên thung lũng, tu viện Montglane nhô lên sừng sững như mỏm đá khổng lồ trồi ra khỏi đỉnh núi. Công trình kiến trúc trông như pháo đài kia vẫn tách biệt với thế giới bên ngoài gần cả nghìn năm nay. Nó có sáu, bảy lớp tường dày chồng lên nhau vì khi những phiến đá ban đầu bị xói mòn qua nhiều thế kỷ, người ta đặt các lớp tường mới bên ngoài lớp cũ với những giàn chống đỡ. Kết quả tạo thành một hỗn hợp kết cấu ảm đạm và chính vẻ ngoài đó ấp ủ nhiều lời đồn đại về chốn này. Tu viện là kiến trúc nhà thờ cổ kính nhất còn nguyên vẹn ở Pháp, và nơi đây cất giữ một lời nguyền cổ xưa sắp được đánh thức lần nữa. Khi cái họng chuông đen ngòm vang vọng khắp thung lũng, những nữ tu sĩ còn lại, từng người, từng người một, rời mắt khỏi công việc, để những chiếc cào, chiếc cuốc sang một bên. Họ bước qua những rặng cây anh đào trải dài đối xứng hai bên lối đi để trèo lên con dốc ngược trở về tu viện. Ở cuối đoàn người dài lê thê, hai nữ tu trẻ mới vào viện, Valentine và Mireille, khoác tay nhau lê bước rón rén trong những chiếc ủng lấm lem bùn. Họ đã tạo thành một phần lạc lõng bổ sung vào hàng ngũ trật tự của các nữ tu. Mireille cao lớn, tóc đỏ với đôi chân dài và bờ vai rộng, trông giống cô nông dân khoẻ mạnh hơn là tu sĩ. Cô đeo một cái tạp dề lớn bên ngoài chiếc áo và những lọn tóc quăn đỏ ló ra lơ thơ bên dưới khăn trùm. Bên cạnh Mireille, Valentine mặc dù cao gần bằng nhưng có vẻ mỏng manh ẻo lả. Làn da nhợt nhạt của Valentine nom cứ như trong suốt, nước da trắng được tôn thêm lên nhờ mái tóc vàng nhạt rũ xuống vai. Cô đã nhét chiếc khăn trùm đầu vào túi áo, và miễn cưỡng bước đi bên cạnh Mireille, vừa đi vừa đá ủng vào bùn. Hai cô gái trẻ này, những tu sĩ nhỏ tuổi nhất ở tu viện, là chị em họ bên ngoại. Cả hai đêu mồ côi từ nhỏ sau trận đại dịch khủng khiếp đã tàn phá nước Pháp. Bá tước de Remy già nua, ông ngoại Valentine, đã phó thác hai cô cho nhà thờ trước lúc ông qua đời, để lại số di sản khá lớn bảo đảm cuộc sống cho hai cô cháu gái. Hoàn cảnh giáo dưỡng hình thành nên một sự gắn bó khăng khít giữa hai cô gái. Cả hai đều ngập tràn vẻ hân hoan vô bờ của tuổi trẻ. Tu viện trưởng thường nghe thấy vài nữ tu lớn tuổi phàn nàn rằng lối sống này chẳng phù hợp chút nào với cuộc đời ẩn dật tại một nhà tu kín, nhưng bà cũng hiểu rằng kiềm chế sức sống của tuổi trẻ thì tốt hơn là tìm cách bóp nghẹt nó. Và người viện trưởng cũng cảm thấy có đôi chút thiên vị dành cho hai chị em côi cút, một tình cảm khác thường so với cả tính cách lẫn địa vị của bà. Các nữ tu đứng tuổi hẳn sẽ ngạc nhiên khi biết rằng bản thân viện trưởng thuở thiếu thời đã duy trì một tình bạn sâu sắc như thế với một cô gái. Hai người đã tách biệt nhau nhiều năm trời và xa cách hàng ngàn dặm. Lúc này, trên dốc mòn, Mireille đang nhét những lọn tóc đỏ bướng bỉnh trở vào dưới tấm khăn trùm đầu và giật mạnh cánh tay cô em họ trong khi lên lớp về tội chậm trễ. "Nếu em vẫn cứ lề mề nấn ná mãi, Mẹ Bề Trên sẽ lại quở phạt chúng ta", cô nói. Valentine vùng khỏi tay chị và xoay một vòng. "Trái đất đang đắm chìm trong cảnh sắc mùa xuân", cô hò reo, đung đưa hai cánh tay và suýt nữa lộn nhào xuống vách đá dựng đứng. Mireille vội kéo cô lôi đi dọc theo bờ vực cheo leo. "Cớ sao chúng ta phải giam mình trong cái tu viện ngột ngạt buồn tẻ ấy khi mọi vật ngoài kia đang căng tràn nhựa sống ?" "Vì chúng ta là những nữ tu", Mireille bĩu môi vặc lại, gấp gáp bước đi, bàn tay bấtu chặt cánh tay Valentine. "Và nghĩa vụ của chúng ta là nguyện cầu cho nhân loại". Nhưng làn sương mờ ấm áp dâng lên từ đáy thung lũng đã mang theo mùi thơm ngào ngạt đến nỗi mọi thứ xung quanh đều ngát hương hoa anh đào nở rộ. Mireille cố gắng không đế ý tới nỗi xốn xang mà cảnh vật nơi đây dấy lên trong cô. "Ơn Chúa, chúng ta chưa phải là nữ tu", Valentine nói. "Chúng ta vẫn chỉ là những người mới tu chừng nào còn chưa tuyên thệ. Chẳng bao giờ quá muộn để được cứu rỗi. Em đã nghe thấy các nữ tu lớn tuổi thì thào với nhau rằng hiện các tên lính đang lúc nhúc khắp nơi trên đất Pháp, đánh cắp kho báu của các tu viện, vây bắt các nhà tu hành và tống họ về Paris. Có thể một vài tên lính cũng sẽ đến đây và bắt em về Paris. Rồi họ đưa em đi xem nhạc kịch mỗi đêm, và uống sâm banh từ chiếc giày của em !" "Những người lính chẳng phải lúc nào cũng mê ly như em mơ mộng đâu", Mireille nhận xét. "Suy cho cùng, nghề của họ là giết chóc chứ đâu phải đưa người ta đi xem hát". "Đó không phải tất cả những gì họ làm", Valentine nói, giọng cô trầm xuống thành một tiếng thì thào bí hiểm. Họ đã lên đến đỉnh đồi, nơi con đường trở nên bằng phẳng và thoáng đãng hơn nhiều. Ở đây lát đá phiến phẳng lỳ giống những con đường cao tốc thênh thang thường thấy ở các thành phố lớn. Phía bên kia đường, người ta trồng những cây bách lớn nổi lên trên nền một rừng cây anh đào, trông chúng có cái vẻ trang trọng nhưng gớm ghiếc, giống như chính cái tu viện này, hết sức lạc lõng. "Em nghe nói", Valentine ghé sát vào tai cô chị họ thì thầm "rằng lính tráng thực hiện những hành động đồi bại đối với nữ tu sĩ ! Nếu một tên lính tình cờ bắt gặp một nữ tu, trong một cánh rừng chẳng hạn, hắn sẽ lập tức lôi một vật ra khỏi đũng quần, đặt vật ấy vào trong người nữ tu lắc qua lắc lại. Và thế là khi hắn xong việc, nữ tu sẽ có em bé !" "Thật là báng bổ !" Mireille thét lên, giằng ra khỏi tay Valentine và cố nén một nụ cười thoáng trên môi. "Chị nghĩ em thô lổ đến thế là cùng, làm sao trở thành nữ tu được". "Đó đúng là điều em đã nói suốt ngay từ đầu", Valentine thú nhận. "Em thích làm cô dâu của một người lính hơn làm cô dâu của Chúa". Khi hai chị em tiến đến gần tu viện, họ có thể trông thấy bốn hàng cây bách sóng đôi ở mỗi lối ra vào và tạo thành hình một dấu thánh giá. Những thân cây bao bọc quanh hai cô gái khi họ gấp gáp chạy xuyên qua làn sương mù đang sẫm dần lại. Họ đi qua những cánh cổng tu viện và băng ngang khoảng sân rộng. Khi họ đến gần những cánh cửa gỗ cao nặng nề dẫn đến thánh đường chính, tiếng chuông tiếp tục rung lên, chẳng khác gì hồi chuông báo tử len lỏi qua lớp sương dày đặc. Từng người dừng lại trước cửa để gạt bùn đất khỏi đế ủng, thoăn thoắt làm dấu thánh, và bước qua cánh cổng chính đồ sộ. Không ai trong hai cô liếc nhìn lên dòng mẫu tự tiếng Francs thô sơ khắc vào khung vòm đá gắn trên cửa, nhưng cô nào cũng biết nó viết gì, như thể những từ ngữ kia đã khắc sâu vào trái tim các cô: Nguyền rủa kẻ nào mang những bờ tường này xuống cõi tục. Nhà vua chỉ bị ngăn cản bởi bàn tay của Chúa mà thôi. Bên dưới lời đề từ, cái tên được khắc thành những chữ viết lớn rời nhau 'Carolus Magnus'. Ông chính là người tạo ra công trình này và cả lời nguyền ám lên những ai sẽ phá hủy nơi đây. Đó là nhà cai trị vĩ đại nhất của Đế chế Francs trong hơn một nghìn năm trước, người được cả nước Pháp biết đến với danh xưng hoàng đế Charlemagne.  (Charlemagne (Charles ler le Grand), vua của người Francs từ năm 768 đến 814 và là hoàng đế của đế chế Occident từ năm 800 đên 814, được coi là một trong những ông vua vĩ đại nhất nước Pháp nhờ công thống nhất và mở rộng lãnh thổ quốc gia.) Những bức tường phía trong tu viện tối tăm, lạnh lẽo, và ẩm ướt rêu phong. Từ chính điện bên trong có thể nghe thấy những tiếng thì thầm cầu nguyện của các tu sĩ mới vào viện cùng tiếng lách cách khe khẽ khi họ lần tràng kinh Kính Mừng, kinh Sáng Danh, và kinh Lạy Cha. Valentine và Mireille vội vã đi qua nhà nguyện lúc người cuối cùng trong số những nữ tu mới vào viện đang quỳ gối khấn vái và hai cô dõi theo tiếng xì xào bàn tán đến bên một cánh cửa nhỏ phía sau bệ thờ, nơi phòng làm việc riêng của Mẹ Bề Trên. Một nữ tu lớn tuổi hơn đang hối thúc người tụt lại sau cùng nhanh nhanh đi vào. Valentine và Mireille đưa mắt nhìn nhau và bước vô. Bị gọi đến phòng làm việc riêng của nữ tu viện trưởng kiểu này thật kỳ lạ. Rất ít nữ tu đặt chân đến đây, mà nếu có đến thường là để nhận kỷ luật. Valentine, người luôn bị trách phạt, rất hay đến đây. Thế nhưng tiếng chuông tu viện xưa nay vốn để triệu tập tất cả các nữ tu sĩ. Chắc hẳn tất cả mọi người sao có thể bị gọi đến phòng làm việc của Mẹ Bề Trên nhận hình phạt cùng một lúc được chứ ? Khi họ bước vào căn phòng rộng có trần thấp, Valentine và Mireille thấy tất cả các nữ tu trong viện quả thật đã tề tựu ở đó, cả thảy hơn năm mươi người. Trên những dãy ghế dài bằng gỗ cứng đối diện bàn viết của nữ tu viện trưởng, họ ngồi thì thào với nhau. Rõ ràng ai cũng nghĩ đây là một sự việc khác thường, và những khuôn mặt ngước nhìn lên khi hai cô bước vào với vẻ mặt hãi hùng. Hai chị em ngồi vào chỗ của họ ở dãy ghế cuối cùng. Valentine siết chặt tay Mireille. "Chuyện này là sao ?" Cô thì thào. "Điềm dữ đây, chị nghĩ vậy", Mireille đáp, giọng cũng thì thầm. "Mẹ Bề Trên trông có vẻ nghiêm nghị và ở đây có hai phụ nữ chị chưa gặp bao giờ".  Ở cuối căn phòng dài, phía sau chiếc bàn đồ sộ bằng gỗ anh đào bóng loáng, nữ tu viện trưởng đứng đó. Bà nhăn nheo và khô cứng như một mảnh da khô, nhưng vẫn lộ ra uy quyền của chức vụ to lớn bà đang nắm giữ. Sắc thái muôn thuở trong điệu bộ của bà gợi lên ý nghĩ từ lâu bà đã hòa hợp thể xác vào chính tâm hồn mình, nhưng hôm nay trông bà viện trưởng nghiêm trang hơn bao giờ hết. Từ trước tới giờ, các nữ tu chưa từng thấy bà như thế lần nào. Hai người lạ mặt, đều là những phụ nữ trẻ to xương với đôi bàn tay lớn, lù lù xuất hiện hai bên nữ tu viện trưởng như những thiên thần báo oán. Một người có làn da tái nhợt, tóc đen và đôi mắt sáng, trong khi người kia mang những đường nét khỏe mạnh giống Mireille, với nước da trắng mịn và mái tóc màu nâu hạt dẻ chỉ hơi sẫm hơn những lọn tóc nâu đỏ của Mireille một chút. Dù cả hai mang dáng dấp những nữ tu nhưng họ không khoác trên mình y phục tu hành mà mặc những bộ quần áo đi đường màu xám trơn rất bình thường. Tu viện trưởng chờ cho tất cả các nữ tu sĩ yên vị và cánh cửa được khép lại. Khi căn phòng hoàn toàn yên ắng, bà mới bắt đầu nói với chất giọng bao giờ cũng khiến Valentine nghĩ đến âm thanh chiếc lá khô bị xéo nát. "Các con của ta", nữ tu viện trưởng nói, chắp hai tay phía trước, "trong gần một nghìn năm nay, dòng tu Montglane đã trụ vững trên đỉnh núi này, thực hiện nghĩa vụ của chúng ta đối với nhân loại và phụng sự Chúa. Mặc dù cách ly khỏi thế gian nhưng chúng ta vẫn nghe thấy những bất bình âm ỉ trong tình trạng náo động ngoài kia. Tại nơi này, trong cái xó xỉnh nhỏ bé, chúng ta đã và đang tiếp nhận những tin dữ xảy ra gần đây, nó có thể làm thay đổi sự chở che an toàn mà chúng ta tận hưởng bấy lâu. Hai người phụ nữ đứng cạnh ta là những người đưa tin. Ta xin giới thiệu xơ Alexandrine de Forbin, bà ra dấu về phía người phụ nữ tóc đen, và Marie Charlotte de Corday, họ cùng nhau điều hành Tu viện các xơ tại tỉnh Caen ở địa phận miền Bắc. Họ đã đi suốt chiều dài nước Pháp dưới lớp áo cải trang, một hành trình gian khổ, để đem đến cho chúng ta lời cảnh báo. Vì vậy ta yêu cầu các con hãy lắng nghe những điều họ nói. Điều đó tối quan trọng đối với tất cả chúng ta. Tu viện trưởng ngồi xuống, và người phụ nữ được giới thiệu là Alexandrine de Forbin hắng giọng, nói nhỏ nhẹ đến nỗi các nữ tu sĩ phải căng tai lắng nghe. Tuy vậy lời lẽ của cô ta rất rõ ràng. "Các chị em đạo hữu của ta", cô bắt đầu, "câu chuyện mà chúng tôi phải kể không dành cho những người nhút nhát. Trong chúng ta có những người đến với Chúa với hy vọng cứu rỗi nhân loại. Có những người đến đây với hy vọng thoát ly trần thế. Và cũng có những người miễn cưỡng đến đây, không hề cảm thấy bất kỳ động lực nào hết". Nói đến đây, cô đưa cặp mắt đen láy, long lanh về phía Valentine khiến cô này thẹn đỏ cả mặt. 'Bất kể các chị nghĩ mục đích của mình là gì thì nó cũng đã thay đổi, kể từ hôm nay. Trong hành trình của Charlotte và tôi đã đi dọc suốt chiều dài nước Pháp, qua Paris và tất cả làng mạc. Chúng tôi đã chứng kiến không chỉ những người đói khát mà cả những người chết vì đói. Dân chúng đang nổi loạn trên đường phố để giành giật miếng ăn. Những cảnh tàn sát, đàn bà vác những chiếc đầu bị cắt lìa cắm trên đỉnh ngọn giáo diễu qua khắp các khu phố. Những cảnh hiếp dâm, và còn tệ hơn thế. Trẻ nhỏ bị giết, người lớn bị tra tấn ngay trên các quảng trường và bị phanh thây bởi những đám đông giận dữ ..." Các nữ tu không còn giữ yên được nữa. Giọng họ vang lên đầy hốt hoảng trong khi Alexandrine tiếp tục câu chuyện đẫm máu. "Bây giờ là tháng tư. Tháng mười năm ngoái, nhà vua và hoàng hậu đã bị một đám đông phẫn nộ bắt cóc khỏi cung điện Versailles và bị đưa về giam giữ tại điện Tuilleries ở Paris. Chúng ép nhà vua ký vào một văn kiện, bản "Tuyên ngôn nhân quyền", tuyên bố quyền bình đẳng cho mọi người. Thực tế, Quốc hội hiện đang điều hành chính phủ; nhà vua không có quyền can thiệp. Đất nước chúng ta đã vượt xa tầm một cuộc cách mạng. Chúng ta đang trong tình trạng vô chính phủ. Tồi tệ hơn nữa, Quốc hội phát hiện trong ngân khố quốc gia không có vàng; nhà vua đã làm vương quốc khánh kiệt. Ở Paris, người ta tin rằng nhà vua sẽ không sống sót qua năm nay". Cơn chấn động lướt qua những dãy ghế của các nữ tu, và tiếng xì xào sửng sốt râm ran khắp gian phòng. Mireille siết nhẹ bàn tay Valentine trong khi cả hai đều nhìn chằm chằm vào người nói. Những phụ nữ trong căn phòng này chưa bao giờ nghe thấy những ý nghĩ kiểu đó được phát biểu lớn tiếng, và họ cũng không thể hình dung những điều như vậy là có thật. Tra tấn, vô chính phủ, giết vua. Sao có thể thế được ? Viện trưởng đập tay xuống mặt bàn yêu cầu giữ trật tự, và các nữ tu sĩ im bặt. Bấy giờ Alexandrine ngồi vào chỗ, còn xơ Charlotte đứng một mình cạnh bàn. Giọng nói của xơ to và mạnh mẽ. "Trong Quốc hội có một kẻ cực kỳ xấu xa. Mặc dù tự nhận mình là thành viên của giới tăng lữ nhưng hắn rất khao khát quyền lực. Y chính là giám mục địa phận Autun. Trong thâm tâm, những người thuộc Giáo hội La Mã tin rằng hắn là hiện thân của ma quỷ. Họ nói hắn sinh ra đã có móng chân chẻ đôi, biểu tượng của cái ác, rằng hắn uống máu con nít để giữ vẻ trẻ trung, rằng hắn cử hành lễ Đen cầu xin quỷ Satăng. Vào tháng mười, tên giám mục này đề xuất với Quốc hội cho Nhà nước tịch thu toàn bộ tài sản của Nhà thờ. Ngày hai tháng mười một, dự luật Tịch Biên của hắn được Mirabeau, một chính khách cấp cao, ủng hộ trước quốc hội, và đã được thông qua. Ngày mười ba tháng hai, công cuộc tịch thu bắt đầu. Bất cứ tăng ni nào chống đối cũng đều bị bắt giam. Và ngày mười sáu tháng hai, tên giám mục của vùng Autun ấy được bầu làm chủ tịch Quốc hội. Giờ đây chẳng gì có thể ngăn hắn lại được". Các nữ tu sĩ đang trong tâm trạng cực kỳ kích động, họ cất cao giọng kêu than kinh hãi và cực lực phản đối, nhưng giọng Charlotte vang vọng trên hết. "Khá lâu trước khi đưa ra dự luật Tịch Biên, giám mục Autun đã mở những cuộc điều tra về nơi cất giữ tài sản của Giáo hội ở Pháp. Mặc dù bản dự luật ghi rõ các linh mục bị tước vị trước và các nữ tu sĩ được tha nhưng chúng tôi biết tên giám mục đó đã để mắt tới tu viện Montglane. Nhiều cuộc điều tra của y tập trung nhắm vào xung quanh Montglane này. Chúng tôi vội vã đến đây báo cho các chị biết chuyện này. Kho báu của Montglane không được để rơi vào tay hắn". Nữ tu viện trưởng đứng đó, đặt tay lên bờ vai vững chãi của Charlotte Corday. Bà nhìn khắp lượt các hàng ghế nữ tu trong những bộ trang phục đen, những chiếc nón hồ cứng của họ rập rờn dưới kia như mặt biển đầy hải âu hoang dã, và bà nở một nụ cười. Đây là các con chiên của bà, những người bà đã dẫn dắt từ rất lâu và có thể bà sẽ không được gặp lại họ trong đời một khi tiết lộ điều buộc phải nói ra. "Giờ thì các con đã nắm được tình cảnh như ta", viện trưởng nói. "Mặc dù đã biết từ nhiều tháng nay về số kiếp của chúng ta nhưng ta vẫn không muốn nói làm các con lo sợ, đến khi nào ta chọn được một hướng đi. Trên hành trình đáp lại lời kêu gọi, các xơ ở Caen đã chứng thực nỗi hãi hùng tồi tệ nhất của ta". Các nữ tu lúc này đã rơi vào một sự im lặng chết người. Không thể nghe thấy một âm thanh nào ngoài giọng nói của nữ tu viện trưởng. "Ta là một bà già có thể sẽ được gọi về với Chúa sớm hơn hình dung. Lời thề nguyện của ta khi bắt đầu cai quản tu viện này không chỉ là lời thề với Chúa. Gần bốn mươi năm trước, lúc trở thành nữ tu viện trưởng của Montglane, ta đã thề giữ kín một bí mật, nếu cần có thể hy sinh cả tính mạng để bảo toàn nó. Bây giờ đến lúc ta thực hiện lời thề này. Nhưng ta phải chia sẻ một vài điều của bí mật với từng người các con và đến lượt các con phải thề giữ kín. Câu chuyện của ta dài, và các con phải kiên nhẫn nếu ta có nói chậm rãi. Khi ta kể xong, các con sẽ biết tại sao từng người trong chúng ta buộc phải làm những điều tất yếu". Nữ tu viện trưởng tạm ngừng để nhấp một ngụm nước trong chiếc cốc lễ bằng bạc đặt trên bàn trước mặt rồi nói tiếp. Hôm nay là ngày bốn tháng tư năm 1790 sau Công nguyên. Câu chuyện của ta bắt đầu vào một ngày bốn tháng tư cách đây nhiều năm. Người tiên nhiệm đã kể ta nghe, như thông lệ bao đời nay từ khi tu viện ra đời, viện trưởng sẽ truyền lại câu chuyện cho người kế nghiệp trong buổi lễ thác vị. Và bây giờ ta kể các con nghe... Mời các bạn đón đọc Bí Ẩn Bộ Cờ Montglane của tác giả Katherine Neville & Nguyễn Lâm Xuân Các (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Sững Sờ và Run Rẩy - Amélie Nothomb
Một cô gái trẻ phương Tây làm việc cho một công ty của Nhật, do sự khác biệt văn hóa, nên đã chu du một vòng công sở với những công việc ít ai ngờ tới nhất. Điểm hấp dẫn đầu tiên trong cuốn sách nhỏ nhắn này: đây là một câu chuyện có thật, từng xảy ra với Amélie Nothomb. Với điểm xuất phát chân thực đó, một câu chuyện phiêu lưu hài hước đã mở ra với cả tá tình huống dở cười dở mếu. Thay vì có một vị trí ổn định trong công ty, đổi chỗ cho cái nhìn trân trọng đối với một đồng nghiệp nước ngoài, Amélie loay hoay hết chỗ nọ tới chỗ kia, thậm chí, có lúc cô thấy mình thậm chí chưa phải là con số không. Cuốn sách được trải ra giữa hai thế giới đối lập. Ước muốn trở thành một phiên dịch, song Amélie giống một kẻ vô công rồi nghề ở công ty; đổi lại cho bao công sức thi đầu vào, Amélie lượn lờ khắp các ngóc ngách như một hình ảnh lố bịch khi đi bóc lịch hoặc tranh việc phân phát thư của người đưa thư; lẽ ra phải đau khổ, vật vã lắm, nhưng Amélie lại cảm thấy nhẹ nhõm và rất đỗi bằng lòng trước những công việc vớ vẩn nhất mà cô tự xin hoặc bị giao phải làm. Sự khôi hài của hoàn cảnh và lối kể chuyện bình dị, chân thực, tao nhã đã tạo nên sự quyến rũ thú vị cho Sững sờ và run rẩy, lôi kéo độc giả trong một khám phá mới mẻ: hiện đại hóa mâu thuẫn lâu đời giữa phương Đông và phương Tây. Nó khiến người ta đón nhận những điều vô lý nhất đang dồn ép Amélie theo chiều hướng tích cực: lo lắng nhưng không sợ hãi, thất vọng nhưng không sụp đổ. Không mô tả nhiều song thế giới nhân vật trong Sững sờ và run rẩy hiển hiện thật đậm nét với phát hiện tinh tế của Amélie Nothomb, từ nét tính cách của mỗi cá nhân tới hình ảnh chung về những người trong hệ thống công sở ở Nhật. Tất tật chỉ có bốn người: ông Haneda là chủ tịch hội đồng quản trị, ông Omochi là cấp phó, sau đó là ông Saito và cô Mori. Mọi va chạm, mâu thuẫn, xung đột đều liên quan tới chừng ấy người. Nhưng họ là sức mạnh không gì phá vỡ nổi khi xếp đặt cạnh nhau và được kết nối bằng thứ keo dính đặc biệt có tên là “nguyên tắc”. Amélie bị đẩy thành bà “Nước Tiểu” trong cơ quan cũng chỉ vì cô không sao hiểu nổi hệ thống ấy, và điều này như một thứ gia vị hài hước, tạo cho cuốn tiểu thuyết góc nhìn sắc sảo mà đậm chất hài hước. *** Amélie Nothomb sinh ngày 13/8/1967 tại Kobe, Nhật Bản và chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn hóa đất nước mặt trời mọc. Năm 1992, cô xuất bản tiểu thuyết đầu tay, Hygiène de l’assassin (Hồi ức kẻ sát nhân), cuốn sách đánh dấu thành công đầu tiên của cô. Đến nay, Amélie đã xuất bản 17 tiểu thuyết và trở thành một hiện tượng văn học không chỉ của nước Pháp. Các tác phẩm của cô được dịch ra gần 40 thứ tiếng khác nhau, trong đó Sững sờ và run rẩy ra mắt năm 1999, đánh dấu một bước ngoặt trong sự nghiệp của nữ nhà văn trẻ. Đây chính là cuốn sách thành công nhất của Amélie Nothomb, giành Giải thưởng Lớn của Viện hàn lâm Pháp cho thể loại tiểu thuyết. Tờ Le Soir nhận xét: “Amélie Nothomb là một trong những nhà văn nổi bật nhất trong thời đại cô. Với sự đều đặn của máy đếm nhịp, cây bút này cho ra đời những tiểu thuyết thường được ca ngợi bởi sự độc đáo, tính nhân văn và chất dữ dội của chúng”. *** Ông Haneda là cấp trên của ông Omochi. Ông Omochi là cấp trên của ông Saito. Ông Saito là cấp trên của cô Mori. Và cô Mori là cấp trên của tôi. Còn tôi không là cấp trên của ai hết. Hoặc có thể nói theo cách khác. Tôi làm theo lệnh của cô Mori, cô Mori làm theo lệnh của ông Saito, và cứ tiếp tục như thế, các mệnh lệnh được truyền từ trên xuống dưới qua các cấp thứ bậc với sự chính xác này. Vậy là, trong công ty Yumimoto, tôi y theo lệnh của tất cả mọi người. Ngày mùng 8 tháng Giêng năm 1990, chiếc thang máy nhả tôi lên tầng cuối cùng trong tòa nhà của công ty Yumimoto. Ô cửa sổ cuối sảnh thu hút tôi, giống như người ta bị hút về phía cửa sổ máy bay bị vỡ. Ở phía xa, rất xa là thành phố xa tới mức tôi cứ ngỡ như chưa bao giờ đặt chân tới đó. Thậm chí tôi không nghĩ tới việc phải trình diện ở lễ tân. Thực ra, lúc đó trong đầu tôi chẳng có ý nghĩ gì khác ngoài cái khoảng không hấp dẫn kia, ngoài cái khuông cửa mênh mông toàn kính kia. Cuối cùng, một giọng khàn khàn gọi tên tôi từ đằng sau. Tôi quay lại. Một người đàn ông trạc năm mươi tuổi, dáng người nhỏ thó, gầy và xấu xí, nhìn tôi vẻ khó chịu. - Sao cô đến mà không báo cho lễ tân? - ông ta hỏi tôi. Tôi chẳng biết trả lời sao nên im lặng. Tôi cúi gập người và nhận thấy là trong vòng mười phút, dù chưa nói lời nào, tôi đã gây ấn tượng không hay vào ngày đầu tiên đến nhận việc ở công ty Yumimoto. Người đàn ông nói ông ta là Saito. Ông dẫn tôi qua vô số những căn phòng rộng thênh thang và giới thiệu tôi với nhiều nhóm người có mặt trong đó, nhưng ông ta nêu tên họ tới đâu thì tôi cũng quên dần tới đó. Sau đó, ông dẫn tôi vào phòng làm việc của cấp trên của ông ta, đó là ông Omochi, dáng người đồ sộ và đáng sợ, chứng tỏ ông ta chính là phó chủ tịch. ... Mời các bạn đón đọc Sững Sờ và Run Rẩy của tác giả Amélie Nothomb.
Sao Mai
Tác phẩm hay nhất năm 2014 do Entertaiment Weekly, Buzzfeed và Shelf Awarness bình chọn Trái Đất đang chết dần. Dưới những tầng đất sâu của Sao Hỏa, có một cộng đồng những con người mắt và tóc đỏ quạch như màu của hành tinh mà họ đang sống. Nhiệm vụ của họ là khai thác Helium 3 - một thứ nguyên tố được cho là sẽ biến bề mặt Sao Hỏa thành nơi con người có thể sinh sống được. Họ là niềm hy vọng cuối cùng của nhân loại. Họ là Đỏ. Ngoại trừ… tất cả là một lời nói dối khổng lồ. Các Đỏ không phải những người tiên phong. Họ chỉ là những nô lệ bị lợi dụng làm việc quần quật cho đến chết! Đỏ trỗi dậy phảng phất đâu đó những nét quen thuộc với các độc giả của Đấu trường sinh tử, Chúa ruồi, Trò chơi của Ender hay Trò chơi vương quyền. Nhưng đây vẫn là một cuốn sách hết sức khác biệt. Hồi hộp đến nghẹt thở, bất ngờ đến choáng váng, tàn nhẫn đến lạnh người. Rơi xuống chói lòa như một ngôi sao băng và cuốn ta đi như một cơn bão.  *** Thời cơ đã đến.Gánh lấy trách nhiệm lãnh đạo cuộc nổi dậy liên hành tinhvới những liên minh không ổn định và khó lòng bền vững, Darrowvật lộn để tìm xem ai là người có thể tin tưởng. Cậu đang phải trực tiếp đối mặtnhững kẻ thù hiểm độc, gian hùng và tàn nhẫn nhất màtrong số đó, có cả những ngườicậu từng coi là bạn. Xảy ra trong khoảng 9-12 tháng sau những sự kiện của Đứa Con Hoàng Kim,nhữnggì được kể trong Sao Mai đã xuất sắc khép lại bộ ba Đỏ trỗi dậy– thiên sử thi về Darrow,chàng thanh niên Đỏ đã chiến đấu để sống sót quacuộc Tạo Tác vĩ đại, ẩn nhẫn chờ thời, từng bước leo lên nấc thang danh vọng, vượt qua những cuộc chiến tranh tàn khốc từ Học Viện đến Viện Hàn Lâm, trở thành chiến binh Hoàng Kim hùng mạnh nhất. Trong khi hai cuốn trước tập trung vào những thách thức cá nhân của Darrow, cuốn tiểu thuyết này tôn vinh tình bạn. Một dấu chấm rực rỡ và cảm động cho thiên sử thi đầy máu, nước mắt của những người vùng lên từ lòng đất. *** Tiểu thuyết gia Pierce Brown sinh ngày 28-1-1988 tại Thành phố Denver, bang Colorado- Hoa Kỳ. Là Tiểu thuyết gia sinh thuộc cung Bảo Bình, cầm tinh con (giáp) mèo (Đinh Mão 1987). Pierce Brown xếp hạng nổi tiếng thứ 29753 trên thế giới và thứ 176 trong danh sách Tiểu thuyết gia nổi tiếng. Tổng dân số của Hoa Kỳ năm 1988 vào khoảng 244,498,982 người. Tiểu thuyết gia của thể loại khoa học viễn tưởng và nhà biên kịch người là tác giả của tờ New York Times bán chạy nhất Red trilogy Rising trong đó bao gồm các chức danh Red Rising, Kim Sơn và Morning Star.  Trước khi bán Red Rising, anh là tác giả tiểu thuyết và đã bị từ chối bởi nhiều hơn 120 đại lý. Ông là một khoa học và kinh tế chính trị lớn tại Đại học Pepperdine. Ông đã làm việc như là một trang trong chương trình trang NBC khi sống trong nhà để xe giáo viên khoa học chính trị của ông khi ông bán Red Rising. *** Sâu thẳm trong bóng đêm, xa khỏi sự ấm áp, khỏi mặt trời và các vệ tinh, tôi nằm im lặng như những tảng đá đang vây quanh giam giữ cơ thể còng queo của tôi trong hầm mộ kinh hoàng. Tôi không thể đứng dậy. Không thể duỗi chân tay. Chỉ có thể cuộn tròn như quả bóng, một hóa thạch héo hắt đã từng là người. Hai tay bị còng sau lưng. Tôi trần truồng trên nền đá lạnh. Hoàn toàn cô độc cùng bóng đêm. Dường như đã nhiều tháng, nhiều năm, cả thiên niên kỷ trôi qua, kể từ lần cuối hai đầu gối của tôi được duỗi thẳng, kể từ lần cuối sống lưng tôi không phải oằn lại. Đau nhức đến điên cuồng. Các khớp xương của tôi rệu rã. Đã bao lâu kể từ khi tôi chứng kiến các bạn Hoàng Kim của mình đổ máu xuống mặt cỏ? Kể từ khi tôi cảm nhận nụ hôn của anh bạn Roque hiền hòa đặt lên má trong lúc cậu ta bóp vỡ trái tim tôi? Thời gian không phải một dòng sông. Không phải ở đây. Trong hầm mộ này, thời gian là đá. Nó là bóng tối, vĩnh viễn và kiên định, thước đo duy nhất của nó là con lấc kép của sự sống - hơi thở và nhịp đập của trái tim. Hít vào. Thình… thịch. Thình… thịch. Thở ra. Thình… thịch. Thình… thịch. Hít vào. Thình… thịch. Thình… thịch. Và nó lập lại mãi mãi. Cho đến khi… đến khi nào? Đến khi tôi chết vì tuổi già? Đến khi tôi đập đầu vào đá? Hay đến khi tôi moi ra những cái ống mà các Vàng đã lắp vào bụng dưới tôi để đẩy chất dinh dưỡng vào và đổ chất thải ra? Hay cho đến khi mày phát điên? “Không.” Tôi nghiến răng. Phảiiiii. “Chỉ là bóng tối thôi.” Tôi hít thở. Bình tĩnh lại đi. Tôi chạm vào tường để trấn tĩnh. Lưng, các ngón tay, xương cụt, gót chân, ngón chân, đầu gối, đầu. Rồi lặp lại. Cả chục lần. Cả trăm lần. Tại sao không làm nhiều hơn để chắc chắn? Cứ làm cả nghìn lần đi. Phải. Tôi đơn độc. Tôi đã nghĩ có những số phận còn tôi tệ hơn thế này, nhưng giờ đây tôi biết không có gì tôi tệ hơn. Con người không phải một hòn đảo. Chúng ta cần những người yêu thương mình. Chúng ta cần những người ghét bỏ mình. Chúng ta cần có người ràng buộc mình với cuộc đời, cho chúng ta lý do để sống, để cảm nhận. Tất cả những gì tôi có là bóng tối. Đôi lúc tôi hét lên. Đôi lúc tôi bật cười giữa đêm, giữa ngày. Ai mà biết? Tôi cười để giết thời gian, để thải ra số calo mà Chó Rừng cho tôi, và để cơ thể tôi run rẩy chìm vào giấc ngủ. Tôi cũng khóc. Tôi ngân nga hát. Tôi huýt sáo. Tôi lắng nghe những giọng nói phía trên. Những giọng nói vọng lại từ đại dương của bóng tối sâu thẳm. Hòa cùng chúng là tiếng leng keng điên loạn của xích và xương, rúng động qua những bức tường của nhà ngục. Thật gần mà lại xa cả nghìn cây số, như thể cả thế giới đang tồn tại ngay phía trên bóng tối mà tôi lại không thể nhìn thấy, không thể chạm vào, nếm nó, cảm nhận nó, hay đâm qua tấm màn để lại được sống giữa thế giới ấy. Tôi bị giam cầm trong tịch mịch. Lúc này tôi lại nghe thấy những tiếng động. Những sợi xích và những lóng xương dần lộ ra trong hầm ngục. Có phải những tiếng động đó là của tôi? Tôi cười trước ý nghĩ ấy. Tôi chửi tục. Tôi bày mưu lập kế. Giết. Tàn sát. Đẽo khoét. Xé toạc. Thiêu rụi. Tôi cầu xin. Tôi ảo tưởng. Tôi thương thuyết. Tôi thút thít nói những lời nguyện cầu với Eo, cảm thấy hạnh phúc vì em đã không phải chịu đựng số phận này. Cô ta đâu thèm lắng nghe. Tôi hát những bài ca thời thơ ấu và ngâm Trái Đất lụi tàn, Người Thắp Đèn, Ramayana, Odyssey bằng tiếng Hy Lạp và tiếng Latin, rồi bằng những từ ngữ như tiếng Ả Rập, tiếng Anh, tiếng Trung và tiếng Đức, nhớ lại từ những dữ liệu mà Matteo đã tải cho khi tôi vẫn còn là một thằng nhóc. Truy cầu sức mạnh từ vị anh hùng ngoan cường thành Argos, vốn chẳng mong cầu gì hơn tìm được đường về nhà. Ngươi đã quên những gì hắn làm. Odysseus là một vị anh hùng. Ông đã vượt qua tường thành của Troy bằng con ngựa gỗ của mình. Như tôi đã đập tan đội quân Bellona bằng Cơn Mưa sắt xuống Sao Hỏa. Và rồi… “Không,” tôi gắt gỏng. “Im đi.” …họ đã tiến vào thành Troy. Đã tìm thấy những bà mẹ, những đứa trẻ. Và hãy đoán xem họ đã làm gì? “Im đi!” Ngươi biết họ đã làm gì. Mồ hôi. Xương. Máu. Da thịt. Tro tàn. Tiếng khóc than. Bóng tối râm ran những tiếng cười khúc khích. Thần Chết ơi Thần Chết… Chiến công nào rốt cuộc chẳng nhuộm trong máu tươi. Tôi đang ngủ mê chăng? Hay đang thức? Tôi đã mất phương hướng. Mọi thứ lẫn vào nhau, nhấn chìm tôi trong những mộng ảnh, tiếng thì thầm và tiếng huyên náo. Hết lần này đến lần khác, tôi kéo hai cổ chân mảnh dẻ nhỏ nhắn của Eo. Đánh vỡ mặt Julian. Nghe Pax, Quinn, Tactus, Lorn và Victra trút hơi thở cuối cùng. Quá nhiều khổ đau. Mà để làm gì kia chứ? Để khiến vợ tôi phải thất vọng. Để khiến người của tôi phải thất vọng. Để Ares, và để những người bạn của mày phải thất vọng. Còn lại được bao nhiêu người? Sevro? Ragnar? Ngựa Hoang? Ngựa Hoang, Nếu cô ta biết mày ở đây thì sao… Nếu cô ta không thèm bận tâm thì sao… Mà tại sao cô ta phải bận tâm? Mày là kẻ đã phản bội lại cô ta. Mày là kẻ đã lừa dối cô ta. Mày là kẻ đã lợi dụng tâm trí, cơ thể và máu của cô ta. Mày đã cho cô ta thấy bộ mặt thật của mình và cô ta đã bỏ chạy. Nếu đó là cô ta thì sao? Nếu cô ta là người phản bội lại mày thì sao? Khi đó mày có còn yêu cô ta nữa không? “Im đi!” Tôi thét lên với chính mình, với bóng tối. Đừng nghĩ đến cô ấy. Đừng nghĩ đến cô ấy. Tại sao không? Mày nhớ cô ta kìa mà. Mộng ảnh của cô hiện lên trong bóng tối như nhiều mộng ảnh khác đã hiện lên trước đó - một cô gái đang cưỡi ngựa trước mặt tôi ở phía bên kia cánh đồng xanh, xoay người trên yên ngựa và cười bảo tôi hãy đuổi theo. Mái tóc cô gợn sóng như những sợi rơm mùa hè rung rinh trên chiếc xe kéo của người nông dân. Mày thèm khát cô ta. Mày yêu cô ta. Cô gái Hoàng Kim. Hãy quên ả chó cái Đỏ ấy đi. “Không.” Tôi đập đầu vào tường. “Chỉ là bóng tối mà thôi,” tôi thì thầm. Chỉ là bóng tối đang đùa bỡn với tâm trí. Nhưng tôi vẫn cố quên đi Ngựa Hoang và Eo. Không có thế giới nào khác ngoài nơi này. Tôi không thể nhớ những gì không tồn tại. Máu nóng nhỏ xuống trán từ vết thương đã khô giờ đây lại tróc vảy. Nó chảy xuống mũi tôi. Tôi thè lưỡi ra, lần trên lớp đá lạnh cho đến khi tìm thấy những giọt máu. Chúng có vị muối, sắt của Sao Hỏa. Chậm rãi. Chậm rãi. Hãy để sự thi vị của cảm giác ấy được trường tồn. Để vị máu vấn vương và nhắc tôi nhớ rằng tôi là con người. Một Đỏ của Lykos. Một Chim Lặn. Không. Mày không phải. Mày chẳng là gì cả. Vợ mày đã bỏ rơi mày và cướp đi đứa con của mày. Ả điếm của mày đã quay lưng lại với mày. Mày không đủ tốt. Mày quá cao ngạo. Quá ngu ngốc. Quá xấu xa. Giờ thì mày đã bị quên lãng. Thật sao? Lần cuối gặp Ngựa Hoang, tôi đang quỳ gối bên cạnh Ragnar trong hầm mỏ ở Lykos, khẩn cầu cô gái Hoàng Kim phản bội giống loài của cô ấy và sống vì điều cao cả hơn. Tôi biết nếu cô quyết định gia nhập cùng chúng tôi, ước mơ của Eo sẽ bừng nở, một thế giới tốt đẹp hơn sẽ nằm trong lòng bàn tay chúng tôi. Nhưng thay vào đó, cô đã bỏ đi. Có lẽ nào cô đã quên tôi? Có lẽ nào tình yêu mà cô dành cho tôi đã rời bỏ cô? Cô ta chỉ yêu cái mặt nạ của mày. “Chỉ là bóng tối mà thôi. Chỉ là bóng tối mà thôi. Chỉ là bóng tối mà thôi,” tôi lẩm bẩm mỗi lúc một nhanh hơn. Đáng lẽ tôi khỏng nên ở đây. Đáng lẽ tôi phải chết. Sau cái chết của Lorn, tôi bị áp giải đến chỗ của Octavia để các Nhà Tạo Tác của bà ta mổ xẻ hòng tìm ra bí mật đã giúp tôi trở thành Hoàng Kim. Để biết liệu có còn những kẻ khác như tôi hay không. Nhưng Chó Rừng đã thương thuyết để được giữ tôi bên mình. Hắn đã tra tấn tôi tại dinh thự ở Attica của hắn, đã hỏi tôi về Các Con Trai Của Ares, về Lykos, và về gia đình tôi. Hắn chưa bao giờ nói làm thế nào hắn khám phá ra bí mật của tôi. Tôi đã cầu xin hắn kết liễu mạng sống của tôi. Cuối cùng, hắn giam tôi vào ngục đá. “Khi đã mất đi tất cả, người có chí khí sẽ đòi được chết,” Roque đã từng nói với tôi. “Đó là một cái kết đáng phục.” Nhưng một gã thi sĩ giàu có thì hiểu gì về cái chết? Chỉ kẻ nghèo hèn mới hiểu. Chỉ các nô lệ mới hiểu. Nhưng ngay cả khi thèm khát nó, tôi vẫn sợ nó. Vì càng chứng kiến thế giới tàn bạo này, tôi càng ít tin ràng nó kết thúc bằng một điều hư cấu êm tai. Cửu Nguyên không có thật. Đó là lời nói dối mà bố mẹ nói với lũ con đang chết đói của mình, để giải thích cho nỗi kinh hoàng. Chẳng có lời giải thích nào cả, Eo đã mất. Em đã không theo dõi tôi chiến đấu vì giấc mơ của em. Em đã không ngó ngàng đến việc tôi tạo ra được định mệnh gì à Học Viện, không bận tâm liệu tôi có yêu Ngựa Hoang hay không, vì ngày em ra đi, em đã trở thành hư vô. Chẳng có gì khác ngoài thế giới này. Đó là khởi nguồn và là kết thúc của chúng tôi. Cơ hội duy nhất để chúng tôi tận hưởng niềm vui trước khi chấm dứt đời mình. Phải. Nhưng mày không cần phải chấm dứt. Mày có thể thoát khỏi nơi này, bóng tối thì thầm với tôi. Chỉ cần nói ra những lời ấy. Nói ra. Mày biết cách mà. Nó nói đúng. Tôi biết. “Tất cả những gì mày cần nói là ‘tôi kiệt quệ rồi’, và toàn bộ chuyện này sẽ kết thúc,” Chó Rừng đã nói với tôi từ rất lâu, trước khi hắn ném tôi vào địa ngục này. “Tao sẽ đưa mày đến sống tại một dinh thự đẹp đẽ suốt quãng đời còn lại và sẽ gửi cho mày những ả Hồng xinh xắn, ấm áp, và đủ thức ăn để khiến mày béo tốt hơn cả Lãnh Chúa Tro Tàn. Nhưng những lời ấy đi kèm một cái giá.” Xứng đáng thôi. Hãy cứu bản thân mày. Không còn ai khác đến cứu mày đâu.   Mời các bạn đón đọc Sao Mai của tác giả Pierce Brown.
Sơn Ca Vẫn Hót
Câu chuyện xoay quanh 2 chị em Isabelle (biệt danh "Sơn ca") và Vianne tham gia kháng chiến, sẵn sàng nhận những nhiệm vụ đầy thách thức trong cuộc chiến tranh năm 1939 tại Pháp. *** Kristin Hannah là tác giả Mỹ đoạt giải và nhà văn ăn khách của hơn 20 tiểu thuyết, bao gồm cả bom tấn quốc tế.  Các tác phẩm tiêu biểu: A Handful of Heaven, The Enchantment, Once in Every Lifetime, If You Believe, When Lighting Strikes, Waiting for the Moon, Home Again, On Mystic Lake, Angel Falls, Summer Island, Distant Shores, Betwwen Sisters, The Thing We Do for Love, Comfort & Joy, Magic Hour… Sơn ca vẫn hót (The Nightingale), là tựa sách đoạt giải Tiểu thuyết lịch sử hay nhất do bạn đọc bình chọn trên Goodreads năm 2015, và thắng giải Bạn đọc bình chọn ở hạng mục sách hay cùng năm. Cô cũng đoạt giải Sách hay nhất của năm trên trang Amazon, iTunes, Buzzfeed, thời báo Wall Street Journal, Paste, và The Week. Sơn ca vẫn hót hiện đang hoàn tất khâu sản xuất tại hãng phim Tri Star, với sự chỉ đạo của đạo diễn giành được nhiều giải thưởng Michelle MacLaren. Home Front đã được hãng phim 1492 Film (nhà sản xuất của bộ phim đề cử Oscar The Help) lựa chọn để dựng thành phim, với Chris Colombus viết kịch bản, sản xuất, và đạo diễn. Cuốn Between Sisters từng được chương trình The Early Show của kênh CBS chọn là một trong những cuốn sách hay nhất trong mùa hè. Những điều chúng ta làm vì yêu là một câu chuyện đầy sâu lắng, trọn vẹn để tôn vinh sự kỳ diệu của tình mẫu tử, những niềm vui sướng khi được trở về nhà, và nhận được kết quả xứng đáng của tình yêu. Tác giả ăn khách nhất của Thời báo New York Times “đã chạm vào nơi sâu lắng nhất, đa cảm nhất trong từng góc nhỏ của trái tim chúng tôi.” (tác giả Tami Hoag).  “Hannah nắm bắt được niềm vui và nỗi đau trong một gia đình khi cuốn hút người đọc vào cuộc đời các nhân vật của cô và khiến họ cảm thấy như những người bạn thân quen, một lần nữa chứng tỏ cô là ngôi sao trong thể loại văn học hư cấu về người phụ nữ.” (Booklist) “Hannah rất giỏi đi sâu vào tâm lý của các nhân vật chính và khắc họa những sắc thái của cảm xúc.” (The Washington Post Book World) “Vô cùng thú vị… Hannah có đôi tai nhậy cảm với lời thoại và khả năng thiên phú đưa người đọc xâm nhập vào trong đầu nhân vật.” (The Seattle Times) “Cuốn sách tuyệt vời này là một ví dụ kinh điển cho những câu chuyện vô cùng xúc động và kích thích tư duy, sở trường của Hannah. Sự ấm áp và đa dạng của các nhân vật đã chạm tới được những cảm xúc sâu kín nhất.” (Romantic Times) *** Những ánh đèn sẽ tắt trên toàn cõi châu Âu; Cả đời chúng ta sẽ không thấy chúng sáng trở lại nữa. SIR EDWARD GREY, VỀ THẾ CHIẾN I   Tháng Tám năm 1939 Pháp Vianne Mauriac rời khỏi căn bếp lạnh lẽo với những bức tường trát vữa giả đá và bước ra sân trước. Trong buổi sáng hè đẹp nắng này ở thung lũng sông Loire, mọi thứ thật rực rỡ. Những tấm khăn trải giường màu trắng bay lật phật trong gió, đám hoa hồng xô nhau hé cười dọc theo tường rào bằng đá ngăn giữa ngôi nhà của chị với con đường. Hai chú ong cần mẫn lượn quanh những bông hoa. Vianne nghe thấy tiếng một đoàn tàu rền rĩ xa xăm, sau đó là tiếng cười đáng yêu của một bé gái. Sophie. Vianne mỉm cười. Chắc đứa con gái tám tuổi của chị đang chạy quanh nhà, khiến bố con bé phải làm đủ thứ để vừa lòng nó trong lúc chuẩn bị cho chuyến dã ngoại ngày thứ Bảy của cả nhà. - Con gái em đúng là một bạo chúa. - Antoine lên tiếng khi xuất hiện trên ngưỡng cửa. Anh đi về phía vợ, mái tóc bóng mượt loang loáng dưới ánh nắng. Anh vừa tút tát lại đồ nội thất sáng nay - chà giấy ráp một cái ghế đã nhẵn bóng - nên trên mặt và vai anh có một lớp bụi gỗ mỏng. Anh cao lớn, vai rộng, khuôn mặt chữ điền, và có một lớp râu mỏng đen nhánh luôn đòi hỏi phải nỗ lực để ngăn nó trở thành một hàm râu rậm rì. Antoine vòng một cánh tay quanh người Vianne và kéo vợ sát vào người anh. - Anh yêu em, V. - Em cũng yêu anh. Trên thế giới này không còn điều gì chân thật hơn thế. Vianne yêu mọi thứ nơi người đàn ông này: nụ cười của anh, cách anh lầm bầm trong khi ngủ, cười ngượng nghịu sau khi hắt hơi, và hát ông ổng trong lúc tắm. Chị đã phải lòng anh từ mười lăm năm trước, trên sân trường, trước cả khi hiểu được tình yêu là gì. Anh là tất cả những điều đầu tiên đối với chị - nụ hôn đầu, mối tình đầu, người yêu đầu. Trước khi gặp Antoine, Vianne chỉ là một con bé gầy như que củi, vụng về, hay lo lắng và nói lắp bắp mỗi khi sợ hãi, mà sợ hãi là chuyện khá thường xuyên. Một đứa con gái mồ côi mẹ. - Giờ con sẽ là người lớn trong nhà, - ba đã nói với Vianne như thế khi họ đến ngôi nhà này lần đầu tiên. Lúc đó Vianne mới mười bốn tuổi, mắt đỏ hoe và đau buồn không chịu nổi. Chỉ trong một khoảnh khắc, ngôi nhà này đã từ một chỗ nghỉ mát của gia đình trở thành một dạng nhà tù. Mẹ mất chưa được hai tuần, ba của Vianne đã từ bỏ vai trò người cha. Khi họ đến đây, ông không còn nắm tay hay đặt tay lên vai con gái, hay thậm chí là đưa cho nó một cái khăn mùi xoa để thấm nước mắt. - Nhưng con... con còn nhỏ mà, - Vianne đã nói như thế. - Con không còn nhỏ nữa. Lúc đó Vianne đã nhìn xuống đứa em gái, Isabelle, một đứa bé bốn tuổi chỉ biết mút ngón tay và chẳng hiểu được chuyện gì đang diễn ra. Isabelle cứ hỏi đi hỏi lại khi nào thì mẹ về. Khi cửa nhà bật mở, một phụ nữ có cái mũi như vòi nước và hai con mắt nhỏ xíu, đen thui như quả nho khô xuất hiện. - Bọn trẻ đây à? - Người phụ nữ hỏi. Cha Vianne gật đầu. - Chúng sẽ không gây rắc rối cho ông nữa. Chuyện đó diễn ra rất nhanh. Vianne không thực sự hiểu hết. Người cha rũ bỏ hai đứa con gái như người ta thay quần áo bẩn và để chúng lại với một người xa lạ. Hai đứa bé chênh tuổi nhau quá nhiều, đến nỗi dường như chúng không phải chị em ruột. Vianne muốn dỗ Isabelle, nhưng bản thân còn đang đau buồn tới mức chẳng thể nghĩ đến ai khác, đặc biệt là một đứa bé cứng đầu, nóng nảy và ồn ào như em gái mình. Còn nhớ những ngày đầu tiên ở đây, Isabelle cứ khóc ré lên và bị bà kia đánh đòn. Vianne phải xin cho con bé và cứ nhắc đi nhắc lại: “Chúa ơi, Isabelle, đừng khóc nữa. Nghe lời đi em”. Nhưng dù chỉ mới bốn tuổi, Isabelle đã tỏ ra là một đứa bất trị. Vianne đã trở nên tuyệt vọng vì tất cả chuyện đó - nỗi đau mất mẹ, nỗi buồn bị cha bỏ rơi, sự thay đổi gia cảnh đột ngột, và việc đòi mẹ đến ngán ngẩm của Isabelle. Chính Antoine là người đã cứu Vianne. Mùa hè đầu tiên sau cái chết của mẹ, hai đứa đã không thể tách rời nhau được. Với Antoine, Vianne đã tìm được một lối thoát. Năm mười sáu tuổi Vianne đã mang thai, và đến năm mười bảy thì kết hôn, trở thành bà chủ của Le Jardin. Hai tháng sau, Vianne sẩy thai và hoang mang, bối rối một thời gian. Không có cách nào khác hơn để diễn tả điều đó. Vianne thu mình lại với nỗi đau buồn và để nó vây kín mình, không thể quan tâm đến bất kỳ ai, hay bất kỳ điều gì, đặc biệt là đứa em gái nhỏ ưa khóc lóc vòi vĩnh. Nhưng chuyện đó đã qua rồi. Đó không phải là ký ức mà Vianne muốn nghĩ đến trong một ngày đẹp trời như hôm nay. Chị dựa người vào chồng trong lúc đứa con gái chạy đến chỗ hai người, tuyên bố: - Con xong rồi. Mình đi thôi. - Ồ. - Antoine nhăn mặt. - Công chúa đã sẵn sàng, chúng ta phải lên đường thôi. Vianne mỉm cười quay trở vào nhà để lấy chiếc mũ treo trên cái móc cạnh cửa. Vốn có mái tóc vàng hoe ánh đỏ, làn da trắng sứ và đôi mắt xanh, chị luôn phải bảo vệ mình khỏi ánh nắng. Trong lúc chị đội chiếc mũ rơm rộng vành, lấy đôi găng tay ren và chiếc làn đựng đồ ăn, Sophie và Antoine đã ra khỏi cổng. Vianne nhập bọn với hai cha con trên con đường đất trước nhà Nó chỉ vừa đủ rộng cho một chiếc xe hơi chạy qua. Bên kia đường là những đồng cỏ mênh mông, điểm xuyết cỏ xanh, hoa anh túc đỏ, thanh cúc lam, và những cánh rừng. Trong khu vực này của thung lũng sông Loire, những cánh đồng thích hợp để trồng cỏ khô hơn là trồng nho. Chỉ cách Paris chưa đầy hai giờ xe lửa, nhưng nó giống như một thế giới khác hẳn. Khách du lịch ít khi đến đây, kể cả trong dịp hè. Thỉnh thoảng một chiếc xe hơi bình bịch chạy qua, hoặc một chiếc xe đạp, xe bò, nhưng chủ yếu chỉ có gia đình họ trên đường. Họ sống cách Carriveau khoảng một cây số rưỡi, thành phố chưa đến một ngàn dân được biết đến như một điểm dừng chân trên con đường hành hương đến với thánh Jeanne d’Arc. Thành phố không có ngành công nghiệp nào, và chỉ có rất ít việc làm - ngoại trừ những chỗ làm ở sân bay, niềm tự hào của Carriveau. Đó là sân bay duy nhất của cả vùng. Ở Carriveau, các con đường nhỏ hẹp lát đá cuội len lỏi giữa những tòa nhà xây bằng đá vôi nép vào nhau một cách vụng về. Vữa rơi ra từ những bức tường đá, dây thường xuân che giấu sự sụp đổ khó thấy bằng mắt nhưng luôn cảm nhận được. Trải qua nhiều thế kỷ, ngôi làng đã được xây dựng theo kiểu chắp vá từng phần: những con đường cong queo, những bậc thang khấp khểnh và ngõ cụt. Màu sắc làm cho các tòa nhà trông sống động hơn: bạt đỏ căng trên khung sắt đen, ban công tô điểm những cây phong lữ trồng trong chậu sành. Đâu đâu cũng thấy thứ gì đó hút mắt: một khay bánh hạnh nhân với các tông màu nhạt, những chiếc làn đan bằng cành liễu đầy phô mai, giăm bông và xúc xích khô, những thùng cà chua, cà tím và dưa chuột đầy màu sắc... Các quán cà phê đông khách trong một ngày Chủ nhật đẹp trời. Cánh đàn ông ngồi quanh những chiếc bàn sắt, uống cà phê và hút thuốc lá tự cuốn, tranh luận sôi nổi. Đó là một ngày như mọi ngày ở Carriveau. Ông LaChoa đang quét quáy phía trước tiệm bán xa lát, bà Clonet lau tủ kính bày bán mũ, một nhóm các cậu thiếu niên sánh vai nhau đang đi bát phố, chuyển tay nhau một điếu thuốc lá và đá tung những món rác rưởi trên đường. Khi đến cuối thành phố, cả nhà rẽ về phía dòng sông. Tại một bãi cỏ phẳng phiu bên bờ sông, Vianne đặt làn đồ ăn xuống và trải khăn dưới bóng một cây dẻ. Chị lấy từ trong làn ra một ổ bánh mì que nóng giòn, một miếng phô mai béo ngậy, hai quả táo, vài lát giăm bông Bayonne, và một chai Bollinger’36. Chị rót cho chồng một ly champagne rồi ngồi xuống bên cạnh anh trong khi Sophie chạy ra bờ sông. Ngày hôm ấy trôi qua trong bầu không khí khoan khoái ấm áp của mùa hè. Họ trò chuyện, cười đùa và ăn uống. Chỉ đến cuối ngày, khi Sophie đã vác cần đi câu cá và Antoine đang làm cho cô bé một vòng hoa cúc đội đầu, anh mới nói: “Hitler sẽ sớm lôi tất cả chúng ta vào cuộc chiến tranh của hắn.” Chiến tranh. Đó là tất cả những gì người ta nói tới trong những ngày ấy, nhưng Vianne không muốn nghe nhắc đến nó. Đặc biệt là trong một ngày hè đẹp trời như thế. Chị khum tay che mắt quan sát con gái. Bên kia dòng nước, thung lũng sông Loire được canh tác cẩn thận và tỉ mỉ. Không có hàng rào, ranh giới, chỉ có những cánh đồng xanh mướt trải dài nhiều dặm, các mảng rừng và đây đó những ngôi nhà hoặc kho chứa xây bằng đá. Nhiều bông hoa nhỏ xíu màu trắng bay lơ lửng trong không khí, tựa như những túm bông nhỏ. Vianne đứng dậy và vỗ tay. - Sophie, đến giờ về rồi con. - Em không thể phớt lờ chuyện này được đâu, Vianne. - Em có cần phải bận lòng không? Mà tại sao chứ? Mẹ con em có anh bảo vệ đây rồi. Nói đoạn Vianne bật cười, có lẽ hơi to quá mức. Chị thu dọn đồ dã ngoại rồi dẫn cả nhà quay về con đường đất. Chưa đầy ba mươi phút sau, họ đã ở trước cánh cổng gỗ vững chãi của Le Jardin, trang viên của gia tộc chị từ ba trăm năm qua. Ngôi nhà hai tầng xây bằng đá đã ngả màu xám theo thời gian, có các cửa sổ cánh chớp màu xanh dương nhìn ra vườn cây. Dây thường xuân leo lên tận hai ống khói và phủ kín lớp gạch. Diện tích của khu đất chỉ còn lại bảy mẫu. Hai trăm mẫu đã bị bán đi trong hai thế kỷ, khi tình hình tài chính của gia đình suy sụp dần. Bảy mẫu là quá đủ đối với Vianne. Chị không nghĩ mình cần nhiều hơn thế. Vianne đóng cửa lại sau khi mọi người đã vào nhà. Trong bếp, xoong chảo bằng đồng và gang được treo phía trên bếp lò. Những bó oải hương, hương thảo và cỏ xạ hương được treo trên xà nhà. Ngoài ra còn một cái chậu bằng đồng đã gỉ xanh qua năm tháng, đủ to để tắm cho một con chó nhỏ. Theo thời gian, lớp thạch cao trên tường đã bong tróc nhiều chỗ. Phòng khách là một sự pha trộn lung tung các món đồ và vải trang trí: ghế trường kỷ bọc dạ, thảm Aubusson, đồ gốm cổ Trung Hoa, rèm hoa và tranh vải. Một vài bức tranh treo trên tường rất đẹp và có thể được giá, số còn lại có vẻ nghiệp dư. Bao trùm lên tất cả là nét lộn xộn chắp vá của tình trạng sa sút tiền nong và gu thẩm mỹ lỗi thời, hơi tồi tàn, nhưng dễ chịu. Vianne dừng lại trong phòng khách và nhìn qua cửa kính trông ra sân sau, nơi Antoine đang đẩy Sophie trên chiếc xích đu anh làm cho con bé. Chị nhẹ nhàng treo mũ lên cái móc cạnh cửa rồi với lấy chiếc tạp dề, mặc vào người. Trong khi hai bố con chơi ngoài trời, Vianne nấu bữa tối. Chị bọc một miếng thăn lợn trong khoanh thịt hun khói cắt dày, buộc dây nhiều vòng rồi rán vàng trong dầu nóng. Trong lúc món thịt lợn được nướng trong lò, Vianne chuẩn bị các món ăn còn lại. Đúng tám giờ tối, chị gọi cả nhà vào dùng bữa rồi mỉm cười mãn nguyện khi nghe thấy tiếng chân chạy rầm rập, tiếng trò chuyện vui vẻ và tiếng kéo ghế ken két bên bàn ăn. Sophie ngồi ở đầu bàn, con bé đội vòng hoa cúc mà bố đã làm cho ở bờ sông. Vianne đặt đĩa thức ăn lên bàn. Một mùi thơm phức bốc lên - thịt lợn nướng và thịt xông khói rán giòn nấu táo, bên trên phủ một lớp nước xốt rượu vang béo ngậy, bên dưới là một lớp khoai tây nướng. Cạnh đó là một bát đậu Hà Lan tươi rưới bơ và rắc lá ngải giấm nhà trồng. Và để dùng kèm thì không thể thiếu bánh mì mà Vianne đã nướng sáng hôm qua. Như thường lệ, Sophie huyên thuyên suốt trong bữa ăn. Về khoản này thì con bé giống y hệt dì Isabelle của nó, không thể giữ mồm giữ miệng được. Cuối cùng, lúc họ ăn đến món tráng miệng - île flottante, đảo trứng nổi trên một lớp kem Anh -, sự im lặng hài lòng bao trùm quanh bàn ăn. - Thôi. - Cuối cùng Vianne đẩy món tráng miệng mới ăn hết một nửa của mình sang một bên và tuyên bố. - Đến lúc rửa bát rồi. - Mẹ ơi... - Sophie mè nheo. - Không được làm nũng. - Antoine nói. - Con lớn rồi. Vianne và Sophie đi vào trong bếp như mọi buổi tối. Hai người đứng vào vị trí - Vianne cạnh cái chậu đồng, Sophie cạnh cái bàn đá - và bắt đầu rửa rồi lau khô bát đĩa. Vianne có thể ngửi thấy thứ mùi ngòn ngọt và hơi gắt của điếu thuốc mà Antoine hút sau bữa tối phảng phất trong nhà. - Hôm nay bố chẳng thèm cười với mấy câu chuyện con kể. - Sophie nói trong lúc Vianne xếp đĩa lên chiếc kệ gỗ treo tường. - Bố bị làm sao ấy. - Không cười á? Ờ, chuyện đó cũng đáng báo động đấy. - Bố đang lo lắng vì chiến tranh. Chiến tranh. Lại nữa rồi. Vianne xua con gái ra khỏi bếp. Hai mẹ con lên gác rồi vào phòng của Sophie. Chị ngồi trên chiếc giường đôi, lắng nghe con gái huyên thuyên trong khi thay đồ ngủ; đánh răng và lên giường. Chị cúi xuống hôn con bé. - Con sợ lắm. - Sophie nói. - Chiến tranh sắp xảy ra ạ? - Đừng sợ. - Vianne nói. - Bố sẽ bảo vệ mẹ con mình. Nhưng ngay khi nói câu vừa rồi, chị chợt nhớ ngày trước mẹ cũng từng bảo chị đừng sợ. Đó là khi cha Vianne ra chiến trường. Sophie có vẻ chưa yên tâm. - Nhưng mà... - Không nhưng nhị gì cả. Con không việc gì phải lo lắng. Giờ thì ngủ đi. Vianne hôn Sophie lần nữa và để môi mình nấn ná lâu hơn trên má con bé. Chị xuống cầu thang rồi bước ra sân sau. Trời đêm khá oi bức, không khí đượm mùi hoa nhài. Chị tìm thấy Antoine đang ngồi ở chiếc ghế uống cà phê bằng sắt đặt trên bãi cỏ, chân choãi ra, người ngả sang một bên. Chị đến bên cạnh và đặt một tay lên vai chồng. Antoine nhả khói, rồi rít một hơi thuốc dài. Sau đó anh ngước nhìn vợ. Dưới ánh trăng, khuôn mặt anh tái nhợt và u ám, gần như không thể nhận ra. Anh thò tay vào trong túi áo và lôi ra một tờ giấy. - Anh bị động viên rồi, Vianne. Cùng với hầu hết đàn ông tuổi từ mười tám đến ba lăm. - Động viên? Nhưng... chúng ta chưa có chiến tranh mà? Em không... - Thứ Ba tới anh sẽ phải lên đường. - Nhưng... nhưng... anh chỉ là một bưu tá. Anh nhìn sâu vào đôi mắt chị, khiến chị đột nhiên nghẹn ngào. - Giờ anh đã là một người lính. Hình như thế. Mời các bạn đón đọc Sơn Ca Vẫn Hót của tác giả Kristin Hannah.
Ngựa Chứng Đầu Xanh - S. E. Hinton
Ponyboy mười bốn tuổi, gai góc và hoang mang, nhưng đằng sau vẻ bất cần là một tâm hồn nhạy cảm. Theo Ponyboy, thế giới này chỉ có hai loại người, Mỡ và Soc – dân Soc có tiền, có thể thoát khỏi hầu như mọi tội, với thái độ ngạo mạn khó ưa; dân Mỡ, ngược lại, sống ở khu ổ chuột và luôn phải cẩn thận đề phòng. Ponyboy là Mỡ, luôn tự hào về điều đó – cho tới một đêm khủng khiếp khi Johnny giết chết một thằng Soc. Cơn ác mộng bạo lực bắt đầu, bạo liệt cuốn Ponyboy vào một vòng xoáy hỗn loạn của sự kiện và cảm xúc, khiến hình ảnh về thế giới hai cực trong mắt cậu tan rã như bụi tro. Và rồi, trước khi thời niên thiếu kết thúc, Ponyboy đã nhận ra: sự đau đớn luôn giống nhau, dù là với Soc hay Mỡ đi chăng nữa.   Câu chuyện đầy sức mạnh về những chú ngựa chứng trẻ tuổi này được viết khi tác giả mới 17 tuổi và kể từ lần xuất bản đầu tiên năm 1967, Ngựa chứng đầu xanh đã trở thành một trong những cuốn sách bán chạy nhất lịch sử ngành xuất bản với 14 triệu bản tính đến 2005, và mỗi năm lại có nửa triệu bản nữa thêm vào con số đó. Một tác phẩm kinh điển dành cho tuổi thiếu niên. *** Khi từ bóng tối của rạp chiếu phim bước ra ngoài ánh nắng rực rỡ, tôi chỉ có hai thứ trong đầu: Paul Newman và một cuốc xe về nhà. Tôi ước gì mình trông giống Paul Newman - anh trông gai góc còn tôi thì không - nhưng tôi nghĩ bề ngoài của mình cũng chẳng đến nỗi nào. Tóc tôi màu nâu nhạt, hoe hoe đỏ còn mắt thì có màu xám ánh xanh lá. Tôi ước gì mắt mình xám hơn, vì tôi ghét hầu hết mấy gã mắt xanh lá, nhưng tôi phải bằng lòng với cái mình có thôi. Tóc tôi dài hơn tóc nhiều thằng con trai khác, cắt vuông vắn sau đầu, để dài phía trước và hai bên, nhưng tôi là một thằng Mỡ(1) và hầu hết hàng xóm tôi chẳng mấy khi nghĩ đến chuyện cắt tóc. Hơn nữa, tôi trông hay hơn khi để tóc dài. Tôi phải đi bộ về nhà một quãng dài mà không người đi cùng, nhưng dù gì thì tôi cũng thường đi một mình, chẳng vì lý do nào ngoại trừ vì thích được yên ổn xem phim, để có thể thả hồn vào trong bộ phim và sống với nó cùng diễn viên. Xem phim với một ai khác làm tôi có chút không thoải mái, cứ như có người nhìn qua vai khi ta đọc sách vậy. Tôi thì khác như vậy đó. Ý tôi là, anh ba tôi, Soda, mười sáu tuổi sắp lên mười bảy, chưa bao giờ giở lấy một cuốn sách, còn anh hai Darrel, mà bọn tôi gọi là Darry, làm việc muộn và vất vả đến độ chẳng còn đâu thời gian mà quan tâm đến đọc truyện hay vẽ tranh, vậy nên tôi chẳng giống hai anh. Và chẳng có đứa nào trong băng bọn tôi cảm hiểu phim ảnh và sách vở như tôi cả. Có lúc tôi đã nghĩ rằng mình là kẻ duy nhất trên đời này hiểu. Nên tôi làm việc đó một mình. Ít nhất Soda cũng cố hiểu, và cảm hiểu được nhiều hơn Darry. Nhưng nghĩ kỹ thì anh khác với bất cứ ai; anh hiểu mọi sự, gần như vậy. Ví dụ như anh chẳng bao giờ hò hét với tôi suốt như anh Darry, hay đối xử với tôi như thể một đứa lên sáu chứ không phải đã mười bốn tuổi rồi. Tôi quý Soda hơn bất cứ ai, kể cả là bố mẹ. Lúc nào anh cũng vô tư lự và cười toe toét, trong khi anh Darry lại nghiêm khắc, cương nghị và chẳng mấy khi nở miệng cười. Nhưng mặt khác, Darry đã trải qua rất nhiều thứ trong hai mươi năm cuộc đời, anh trưởng thành quá nhanh. Sodapop sẽ chẳng bao giờ chịu lớn cả. Tôi chẳng biết thế nào thì hay hơn nữa. Tôi sẽ sớm biết ra thôi. ... Mời các bạn đón Ngựa Chứng Đầu Xanh của tác giả S. E. Hinton.