Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Đông Lai Bác Nghị (Dương Tấn Tươi)

Nếu không có tài dàn xếp của bao sự ngẫu nhiên thì đâu có quyển Đông-Lai bác nghị nầy!

Đầu tiên, một vị túc nho của chốn Thần kinh, lúc tản cư vào Sài-thành, ngẫu nhiên đến trú ngụ cạnh phòng khám bịnh của chúng tôi. Đó là việc hệ trọng: vì đối với chúng tôi, bực đại nhân ấy là một người thầy đáng kính, mặc dầu Cụ vẫn có nhã ý tự xem mình là bạn vong niên; vì đối với quyển sách này, bực lão thành ấy mới thật là người cha tinh thần, mặc dù Cụ ấy vẫn một mực chối từ không nhìn nhận.

Vả lại, vì muốn giữ vẹn cốt cách của nhà ẩn dật, Cụ yêu cầu chúng tôi đừng nêu danh Cụ vào trong sách! Thật đáng phục thay đức tính khiêm tốn của bực nho phong, mà cũng khổ cho chúng tôi vì phải dài dòng nhắc lại tiểu sử của bổn dịch mà chỉ được phép dùng một chữ « Cụ » vỏn vẹn để kể cho tròn câu chuyện!

Thì cũng bởi vai tuồng quan trọng của vị túc nho ấy trong khi phiên dịch cho nên chúng tôi xin độc giả niệm tình tha thứ khi thấy chúng tôi lắm lời nói về thân thế của một người đương cầu xin đời đừng nhắc đến tên.

Sanh trưởng trong một thế gia của chốn đế đô, cha làm Thượng thơ bộ Lễ, thì khi vào sân Trình, Cụ chiếm bằng cử nhân, việc ấy, theo chúng tôi, cũng chưa đáng kể. Đáng nể là khi rời cửa Khổng để theo tân học, chỉ trong mấy năm Cụ theo kịp các bạn đồng niên nơi lớp tú tài « Tây »! Rồi sang Pháp để trau giồi học mới, rồi xông pha nơi bể hoạn, rồi cuối cùng nối được chức của cha, thì với sức học đó, với thông minh đó, âu cũng là một việc có thể đoán trước được. Tìm mua: Đông Lai Bác Nghị TiKi Lazada Shopee

Ngày nay, đã chứng kiến bao cuộc bể dâu, Cụ chỉ còn giữ lại một ham muốn là tận hưởng chữ « nhàn » trong thời hưu trí. Muốn được thế, Cụ ẩn mình trong đám rừng người để thưởng thức một câu thơ đẹp với chén trà ngon hoặc cùng vài ba tri kỷ luận bàn về văn học. Cụ nhứt quyết chủ trương: « Lịch sử và địa dư đặt nước nhà vào giữa hai nguồn văn hóa, muốn trở nên một công dân đất Việt, chúng ta phải thâu thập cả đôi. Âu Tây giúp ta kỹ thuật, Á Đông cho ta nghệ thuật làm người ».

Để chứng minh lời nói, Cụ nhắc lại một gay cấn vừa xảy ra trong trường quốc tế, rồi chỉ rõ giải pháp của người xưa khi gặp cảnh ngộ tương tợ để bắt buộc kẻ đối thoại phải nhìn nhận: « Thiếu Hán học là một sự thiệt thòi rất lớn ».

Sẵn có quan niệm ấy nên Cụ nhận lời ngay khi chúng tôi ngỏ ý cầu học. Lối dạy của Cụ thật là đặc biệt. thường ngày Cụ dùng tiếng Việt để giảng bài, nhưng khi gặp áng văn quá bóng-bảy hay huyền-diệu thì Cụ dùng cả tiếng Pháp để diễn-tả tư-tưởng, mượn triết-học Đức để so-sánh, đem học-thuyết Hy-Lạp để chứng minh, cốt-yếu là giúp học trò hiểu cho thấu đáo, tận-tường. Khi gặp tư-tưởng thanh-cao hoặc áng văn bất-hủ, chúng tôi lật đật ghi rồi chép lại trong giờ nhàn rỗi để trình lên cho Cụ xem-xét. Cụ dò từng câu, đối-chiếu từng chữ để phê-bình. Nhờ Cụ tiến dẫn, chúng tôi mới « nuốt hận » chép thơ của Tư-mã Thiên, sụt sùi thảo tờ biểu xuất-sư của Gia-Cát, băn khoăn đứng trên lầu Nhạc-Dương với Trọng-Yêm, ngạo nghễ biên thơ từ-chức cùng Tạ-Phùng-Đắc.

*

Ngẫu-nhiên khéo sắp cho chúng tôi gặp được một bực thầy đáng kính, thì cũng nhờ ngẫu-nhiên chúng tôi lại gặp quyển sách đáng yêu.

Kẻ vừa nhập đạo thường không tiếc lời ca-tụng tôn-giáo mới của mình. Chúng tôi nào có tránh được thường tình đó trong khi hầu chuyện với ông Trương-Quan, một nhân vật mà giới mại bản Huê-kiều và làng « thanh sắc » bổn xứ vẫn còn nhớ tiếng. Nghe chúng tôi ca tụng nhân tánh của nền văn-hóa Trung-Hoa, Trương-quân đột-ngột hỏi: « Như thế chắc bác-sĩ đã đọc quyển Đông-Lai bác nghị rồi? » Chúng tôi phải thẹn thùng nhìn nhận: « Chẳng những chưa được đọc mà như phần đông người Việt-Nam, chúng tôi chưa từng nghe đến tên! »

Vì bác-sĩ khen ngợi văn học cổ Trung-Hoa, trí tôi vùng nhớ lại câu chuyện hai mươi năm về trước khi còn thơ ngây cặp sách vào trường để ăn mày chữ. Trong những giờ các bạn được nghỉ ngơi hoặc nô đùa chạy giỡn thì chúng tôi bị ông bác ngồi kèm bên cạnh ép buộc đọc một vài trang Đông-Lai bác nghị. Đó là lời phê-bình về hành vi và hạnh kiểm của các nhân vật đời Đông-Chu. Câu văn huyền diệu, lập luận chặt chẽ, tâm lý sâu sắc là ba đặc điểm của tác phẩm bất hủ đó. Nhưng đối với bộ óc non nớt của đứa trẻ lên mười thì làm sao thưởng thức nổi vẻ đẹp của câu văn hay và sự điêu-luyện của bài luận khéo? Vậy mà, ông bác vẫn bắt buộc chúng tôi « ê » « a » đọc cho xong vì: « nơi trường, thầy dạy cháu làm văn; nơi đây, bác dạy cháu làm người ». Lời của bác thật là chí lý! Thời-đại Đông-Chu là khoảng đen tối nhứt của lịch-sử Trung-Hoa, vì lúc ấy, xã hội đương vươn mình thay đổi lốt, nên gây ra bao sự xáo trộn lớn lao. Bực thánh phải chung đụng với sát nhân, hiền triết phải ăn ở cùng gian tà, rồi tranh đấu chống chọi nhau nẩy sanh ra trăm ngàn việc, hay dở đều có. Tất cả hai mặt - tốt và xấu, thanh với tục - của con người đều phô bày. Nếu gặp một nhà phê-bình có cặp mắt tinh đời, có bộ óc sáng suốt, lại thông tâm lý, hiểu chánh trị, khảo sát thời kỳ ấy thì chắc chắn sẽ để lại cho đời một tác phẩm vô cùng hữu ích. Lữ Đông-Lai có đủ điều kiện ấy cho nên quyển Bác-nghị là một chiếc thuyền đã cắm sào ở ngoài dòng thời gian… Khi đọc quyển Đông-Lai, chúng ta có cảm giác đương nghe một tay thợ chuyên môn giải thích về các bộ phận trọng yếu của guồng « máy lòng » rồi chỉ cho chúng ta thấy các nguyên do thường làm cho động cơ ấy chạy. Cũng bởi « động cơ » và nguyên do ấy không thay đổi cho nên lời của Đông-Lai luận về một thời vẫn có thể giúp ích cho người trong muôn thuở. Vì lẽ đó, lúc trẻ, chúng tôi oán trách ông bác bao nhiêu, thì ngày nay, đã tránh được nhiều kinh nghiệm chua cay, chúng tôi lại cám ơn ông bác bấy nhiêu!

Đáp lời yêu cầu, ông Trương-Quan phải nhờ người về tận Thượng-hải mua giùm cho chúng tôi một bổn.

Của báu cầm tay, chúng tôi đến nhờ Cụ dẫn giải giùm điều thắc mắc: « Tại sao một tác phẩm giá trị dường kia, mà từ xưa, trong xứ ta chưa từng nói đến? »

Cụ giảng: « Những sách Trung-Hoa được phiên dịch và truyền bá ở Việt-Nam phần nhiều vì ba cớ: Một là bởi có nhiều người bị bắt buộc phải đọc đến, cho nên bàn tới cũng nhiều, dịch ra không ít, đó là những sách có tên trong chương trình thi cử. Hai là các thứ sách quyến rủ người vì cốt chuyện, ấy là lịch sử tiểu thuyết tức là truyện. Còn về loại thứ ba là vận văn, vì đọc lên nghe êm tai, lại dễ nhớ, nên có nhiều người ưa thích.

« Đông-Lai bác nghị không đứng vào ba hạng đó. Vì là văn phê bình nên đòi hỏi ở độc giả một trí phán đoán mà người đời ít hay dùng đến. Và là văn nghị luận nên khô khan mà bắt buộc người đọc phải suy xét mới thưởng thức. Không có vần, thiếu cốt chuyện hấp dẫn, lại không được ghi vào chương trình thi cử, như vậy ít người biết đến thì cũng là một chuyện không lạ. Nói thế không phải bảo sách ấy không có độc giả! Ngoài số thí sinh hiếu kỳ nên tìm Đông-Lai đọc trước khi vào đình thí, phần đông, các người mê thích sách đó toàn là những kẻ đã đỗ đạt, ra làm quan, ưa dùng quyển Bác-nghị để kiểm điểm hành động trong lúc chăn dân hay khi xử thế. Rồi đến lúc chiều tà bóng xế, khi đã mỏi mệt thì trí muốn yên nghỉ hơn là dịch sách? Vả lại đối với các bực tiền bối ấy, dịch hay viết sách là một sự ngoài tưởng tượng. Đối với họ, học là hành nghĩa là đem ra áp dụng, để làm tròn bổn phận của mình, chớ không dám học để truyền cho ai cả. »

*

Rồi theo lệ thường, Cụ giải thích, chúng tôi ghi chép. Cả thảy được tám mươi bốn bài.

Mỗi bài là một sự ngạc nhiên. Trong văn chương Trung-Hoa, chúng ta thường bực mình vì gặp lời nhiều hơn ý. Với Lữ Đông-Lai, câu văn đẹp đẽ vẫn đi kèm với tư tưởng cao thâm. Lắm bài không đầy gang tấc mà chất chứa ý dài muôn vạn dặm. Càng suy xét, càng thấy sâu rộng. Về mặt tâm lý thực nghiệm và chánh trị thực hành, chưa chắc có quyển sách nào trong văn chương Âu-Mỹ sánh kịp Đông-Lai bác nghị. Ấy là chưa bàn đến lý luận, phần cốt yếu của sách. Mở đầu cho mỗi bài, tác giả nêu ra một tư tưởng căn-bản, nhiều khi không dính-líu với cốt chuyện đem ra phê-bình.

Độc-giả còn tưởng nhà văn lạc đề, thì chỉ vài câu, đã móc dính đầu-đề với ý-niệm căn-bản. Rồi dùng câu chuyện đem phê-bình để chú-thích tư-tưởng chánh ghi trên đầu bài.

Trước với sau, đầu với đuôi đều ăn khớp, các bộ-phận liên-lạc cùng nhau một cách tế-nhị làm cho độc-giả tưởng là đương nghe nhà toán-học khéo chứng-minh một định-lý của hình-học.

*

Rồi một hôm, mấy người bạn tình-cờ đến viếng giữa giờ giảng dạy của cụ, đó là ngẫu nhiên thứ ba.

Cũng như chúng tôi, các bạn đều bị câu văn trong-sáng và lập-luận huyền-diệu của Đông Lai hấp-dẫn nên mới khuyên chúng tôi cho xuất-bản. Từ-chối là sự dĩ-nhiên, vì bổn-tâm của chúng tôi là chỉ học cho mình… Lý-luận của các bạn thật cũng chặt-chẽ: « Hiện nay, quốc-văn đương nghèo… học-sanh thiếu món ăn tinh-thần, v.v…. Trong lúc các tiểu-thuyết khiêu-dâm chường mặt trên báo và trong hàng sách thì ôm giữ cho mình một tác-phẩm có giá-trị là một việc… ích kỷ, một tội to đối với nền học-vấn ».

Không phương chối-cãi, đành phải nghe theo. Từ đây mới gặp bao nỗi khó …

*

Trước hết, nếu cho in vỏn-vẹn tám mươi bài nghị-luận của Đông-Lai mà chẳng có những đoạn Xuân-Thu, Tả-Truyện thì làm sao độc-giả lãnh-hội được? Vả lại, lắm khi, vì bắt-bẻ một câu hoặc một chữ của Tả-Truyện mà Đông-Lai viết thành bài « bác-nghị ». Vậy dịch Xuân-Thu và Tả-Truyện song-song theo « bác-nghị » là một sự tối-cần. Cũng là một điều quá khó.

Các bạn chắc đều biết Xuân-Thu là một trong năm quyển kinh của Đức Khổng-tử. Đó là bộ sử nước Lỗ do Ngài sửa-định, chép từ đời Lỗ Ẩn-công cho đến Lỗ Ai-công gồm có 240 năm (từ 721 tới 481 trước tây lịch).

Với quan-niệm hiện-tại về sử học khi chúng ta trịnh-trọng lật quyển Xuân-Thu thì sẽ vô-cùng ngạc-nhiên hay thất-vọng. Vì đó chỉ là một mớ sử liệu chép rời-rạc, dường như gặp chuyện thì ghi, không màng đến sự liên-lạc hay tương-quan. Lại có nhiều việc quan-trọng mà không chép. Khi chép thì quá vắn-tắt gần như đơn-sơ. Thí-dụ: bà Khương-thị vì thương con không đồng nên gây ra cuộc xung-đột giữa Trịnh Trang-công và em là Cung Thúc-Đoạn thì nào là quỷ-kế của anh, nào là tham-vọng của em, nào là lời bàn của bá-quan rồi đến trận đánh, với cuộc vây thành phá lũy, cho đến khi cùng đường Thúc-Đoạn chạy vào xứ Yển. Trịnh Trang-công giam mẹ, thật là bao nhiêu gây cấn mà trong Xuân-Thu chỉ có một câu: « Mùa hạ, tháng năm, Trịnh-bá thắng Đoạn tại Yển ». Có lúc còn vắn tắt hơn, như « Tề cứu Hình » hoặc « Địch đánh Vệ ».

Vậy thì chân giá trị của bộ Xuân-Thu ở đâu mà vẫn được xem là quyển kinh để « định công luận, đoán án cho muôn đời »? Tại sao chính Đức Phu-Tử cũng yêu cầu người đời « biết cho ta » hay « buộc tội cho ta » thì nên do bộ Xuân-Thu? Như vậy, bực thánh và dư luận cổ kim đã lầm chăng? Hoặc giả, vì quan niệm về sử học của xưa với nay quá khác nhau mới có điều chinh lịch đó?

Nếu thật thế thì tại sao một học giả của thời đại nầy, cụ Nguyễn-Văn-Tố, một người mà chưa ai dám ngờ vực về sức học uyên thâm, cũng chưa ai dám nghi đến sự thận trọng của ngòi bút, đã viết: « Muốn thưởng thức cái hay của bộ Xuân-Thu, phải nhận thấy hương nồng của triết lý, thơm ngát của luân lý, mùi vị của chánh trị ở trong kinh đó. »

Làm sao những câu văn vắn-tắt sơ sài kia lại chứa được bao nhiêu mùi, hương và vị?

Chỉ vì Đức Phu-Tử khéo dùng một phương pháp kín đáo: quên TÊN và VIỆC.

Sự quên hữu ý, sự cố tâm quên có nghĩa là chê bai, là khiển trách.

Như trong thí dụ trên, không chép tên Trịnh Trang-công chỉ gọi Trịnh-bá là chê lỗi chẳng biết dạy em.

Như Thúc-Tôn Kiểu-Như, đại phu nước Lỗ chuyên chế mạng lịnh qua rước vợ ở nước Tề thì Xuân-Thu chép: « Vợ Kiểu-Như tên Phụ-Hỉ ở Tề về. »

Như vua của nước Châu, tên Thiệt, chức là công, thường gọi là Châu-công, vì sợ loạn nên bỏ xứ trốn qua Tào, sau cùng qua triều Lỗ, Xuân-Thu chỉ chép: « Thiệt đến ».

Còn vua nước Kỷ, tước là bá, khi qua triều Lỗ lại dùng lễ của man di, Xuân-Thu chỉ biên: « Kỷ đến triều ».

Chẳng những thiếu là chê, có khi thừa cũng là khiển trách, như thêm tên tộc của các vị vua có lỗi. Muốn chỉ trích vua Vệ dùng kế tiểu nhơn để chiếm nước Hình thì Xuân-Thu ghi: « Mùa xuân, tháng giêng, ngày bính ngọ, Vệ-hầu tên Hủy diệt Hình. »

Khi muốn tỏ sự hư hèn của Tống Chiêu công thì chép: « Mùa đông, tháng mười một, người Tống giết vua tên là Chử-cữu. »

Nhưng phần nhiều khi Xuân-Thu thêm tức là khen, nếu ghi cả chức tước.

Muốn nêu tấm lòng trung của hai bề tôi nước Tống - công tử Ấn và Đãng Ý-Chư - Xuân-Thu chép: « Người Tống giết quan đại tư mã. Quan đại tư thành trốn qua Lỗ ».

Như câu: « Mùa thu, tháng tám, ngày giáp ngọ, tên Vạn của Tống giết vua tên Tiệp và quan đại-phu Cừu Mục » là dụng-ý phạt Nam-Cung Trường-Vạn, một kẻ thí chúa, lại chê vua Tống vì tánh ham đùa-bỡn với bề tôi, phải mua lấy cái chết thảm-khốc, còn khen quan đại-phu tuy yếu-đuối mà dám cầm hốt đánh một tên võ phu, coi thường cái chết.

Chỉ thêm bớt vài chữ, Đức Phu-tử đã tỏ sự khen chê, ban điều thưởng phạt. Mà khen với chê, thưởng và phạt, khi đã trưng nhiều lượt, sẽ tỏ bày một luân-lý và một đường chánh-trị. Cả hai là sản-phẩm của quan niệm về cuộc đời, về vũ-trụ tức là triết-lý.

Phương-pháp kín đáo ấy chẳng những bày tỏ được mấy nguồn văn hoá mà còn gây một ảnh-hưởng, một hiệu lực phi thường: được một tiếng khen của Xuân-Thu là hưởng giọt mưa Xuân đầm-ấm, bị một câu trách là chịu ngọn nắng Thu gay gắt. Thật là kết quả mỹ-mãn, nhờ bởi tay thợ thánh khéo dùng một khí cụ thô sơ. Và cũng vì thế, sự phiên dịch Xuân-Thu chất chứa bao nhiêu nỗi khó: phải cân nhắc từng chữ, phải theo đúng nghĩa mà còn lo-sợ thừa lời.

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Đông Lai Bác Nghị PDF của tác giả Dương Tấn Tươi nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Những Điều Trường Harvard Thật Sự Dạy Bạn
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) sách Những Điều Trường Harvard Thật Sự Dạy Bạn của tác giả Philip Delves Broughton. Tôi không định đến Trường Kinh doanh Harvard (HBS) để viết sách về những gì trải qua. Thực ra, sau mười năm làm báo, tôi đến nơi này để thoát khỏi nghiệp viết lách, để không còn moi móc chuyện ngoài đời đưa lên những trang báo. Tôi muốn học về kinh doanh để làm chủ vận mệnh tài chính và quan trọng hơn, làm chủ thời gian của mình. Tôi đã quá mệt mỏi với việc phải kè kè chiếc điện thoại di động hay suốt ngày bị sếp hoạnh họe. Tôi hy vọng tấm bằng thạc sĩ quản trị kinh doanh (MBA) sẽ giúp tôi hiểu biết nhiều hơn về hoạt động của thế giới và có nhiều lựa chọn hơn cho cuộc sống của mình. Thực ra, tôi viết cuốn sách này không phải để “vạch áo cho người xem lưng”. Xét về nhiều mặt, tôi yêu quý hai năm ở Harvard. Các bạn học của tôi rất lịch thiệp và ân cần. Hầu hết giảng viên trong khoa tận tụy truyền cho sinh viên niềm say mê môn học. Cơ sở vật chất và con người đều rất tốt. Chẳng có chỗ nào quan sát chủ nghĩa tư bản tốt hơn nơi này. Đối với tôi và với những người tôi biết, Harvard đã làm thay đổi cách nhìn nhận tương lai và cơ hội bằng con đường kinh doanh. Nhưng đó cũng là thời kỳ căng thẳng hơn tôi nghĩ rất nhiều. Khối lượng bài học nặng nề, nhất là trong những tuần đầu tiên, chúng tôi phải đánh vật với các lĩnh vực chuyên môn của kinh doanh như tài chính, kế toán, điều hành, marketing và ứng xử trong tổ chức. Vài tháng sau, bản thân áp lực tìm việc, một công việc “thích hợp”, đã là một quá trình giáo dục riêng, vượt xa những gì xảy ra trong lớp học. Cuốn sách này là nỗ lực mô tả trải nghiệm của tôi và các bạn học trong cái nôi của chủ nghĩa tư bản này. Sau khi đọc lại nhật ký hai năm ở Harvard, tôi ngạc nhiên trước cảm xúc nảy sinh từ những gì đã trải qua. Tôi đã cho rằng thời gian học ở trường kinh doanh sẽ là một thời kỳ vô tư, chỉ có học và chuẩn bị chuyển nghề. Nhưng chúng tôi đã trò chuyện nhiều về khát vọng và cuộc sống tương lai cho mình và gia đình. Điều đó được thể hiện rõ trong cuốn sách này, bên cạnh những gì chúng tôi học được, những gì các diễn giả nổi tiếng diễn thuyết và những quyết định về công việc của chúng tôi… Cơ hội học ở HBS là một món quà quý giá. Năm 1960, mới chỉ có 5.000 người tốt nghiệp MBA từ các trường của Mỹ. Đến năm 2000, con số này tăng lên hàng trăm nghìn. Hiện nay, có đủ các loại khóa học MBA: khóa học điển hình toàn thời gian hai năm tại trường hoặc các khóa học bán thời gian, trực tuyến, buổi tối hay từ xa. Số lượng người đăng ký học MBA tại Trung Đông, Trung Quốc và Ấn Độ đang tăng vọt. Những người có bằng MBA có xu hướng hưởng lương cao hơn và công việc tốt hơn. MBA ba chữ cái quý báu này trở thành tấm vé “vào cửa”, trong một số trường hợp còn là điều kiện tiên quyết, để thành công trong kinh doanh. Tôi học tại HBS từ năm 2004 đến 2006. Cho tới thời điểm đó, trong số các cựu sinh viên của trường gồm có Tổng thống Mỹ, Bộ trưởng Tài chính Mỹ, Chủ tịch Ngân hàng Thế giới, Thị trưởng New York, chưa kể CEO của các tập đoàn lớn như General Electric, Goldman Sachs và Procter & Gamble (P&G). Theo danh sách Fortune 500 thì cựu sinh viên HBS chiếm tới 20% số những người đảm nhiệm các vị trí cao nhất trong công ty. Trong các quỹ đầu tư cũng đầy những MBA của Harvard. Mỗi khi trở lại trường, họ được tiếp đón như những ông hoàng. HBS cho rằng những đức tính cần có để thành công trong kinh doanh cũng cần thiết cho tất cả các ngành khác như chính trị, giáo dục, y tế và nghệ thuật. Tôi không xuất thân từ giới kinh doanh và về bản năng, tôi phản đối quan điểm doanh nhân có thể điều hành mọi thứ. Quan điểm này xuất hiện liên tục trong hai năm qua và lý giải vì sao một cuốn sách viết về tấm bằng MBA ở Harvard lại là mối quan tâm của đông đảo bạn đọc, không chỉ những người đã có hay muốn có bằng MBA. Ngôn ngữ, thói quen và phong cách lãnh đạo được dạy trong khóa học MBA ảnh hưởng đến tất cả chúng ta. Các trường dạy kinh doanh không chỉ sản sinh ra các nhà lãnh đạo trong kinh doanh. Các khóa học MBA còn quyết định cách sống, giờ giấc làm việc, các kỳ nghỉ, nền tảng văn hóa, sự chăm sóc y tế mà chúng ta nhận được và cả nền giáo dục cho con cháu chúng ta. Từ năm 2000, ngài Thạc sĩ Quản trị Kinh doanh đã có những quyết định quan trọng về mặt lịch sử và toàn cầu. Tóm lại, tấm bằng MBA, nội dung của nó và mạng lưới những người sở hữu tấm bằng này là rất quan trọng. Và nó có tham vọng để trở nên quan trọng hơn nữa. Cuốn sách này thể hiện quan điểm cá nhân tôi. Không một MBA nào có thể đại diện cho 900 sinh viên niên khóa 2006 của HBS. Mọi điều trong cuốn sách này đều đúng như tôi mô tả. Nhưng tôi đã đổi một số tên nhân vật và các chi tiết liên quan vì hai lý do: thứ nhất là vì sự riêng tư. Lớp học của HBS là một môi trường học tập an toàn, một nơi để thử và sai. Các bạn cùng lớp không biết tôi sẽ viết về những điều chúng tôi đã trải qua. Lý do thứ hai là việc thay đổi đó cho phép tôi mô tả trung thực những gì trải qua mà không phải lo lắng về danh tiếng của những người tôi yêu quý và khâm phục. Các giáo sư, vì vị thế thầy giáo của họ là công khai, cũng như các diễn giả từng đến nói chuyện, sẽ xuất hiện đúng như trong thực tế. Tôi dự định kết hợp các cách tiếp cận này để cung cấp một bức tranh chân xác về thời gian tôi ở HBS. Khi khóa học của chúng tôi kết thúc vào tháng 6 năm 2006, chúng tôi nhận được một bức thư ngỏ của thầy hiệu trưởng Jay Light. Ông viết: “Khi các bạn hòa vào đội ngũ cựu sinh viên HBS khắp nơi trên thế giới, tôi hy vọng các bạn tiếp tục giữ liên lạc với trường, chia sẻ suy nghĩ và quan điểm về những năm học ở đây”. Đây là suy nghĩ và quan điểm của tôi. *** Tóm tắt Cuốn sách "Những Điều Trường Harvard Thật Sự Dạy Bạn" của tác giả Philip Delves Broughton là một cuốn sách tự truyện kể về trải nghiệm của ông khi học MBA tại Trường Kinh doanh Harvard (HBS) từ năm 2004 đến năm 2006. Broughton là một nhà báo, và ông đã viết cuốn sách này để chia sẻ những suy nghĩ và quan điểm của mình về HBS, về kinh doanh và về thế giới. Review Cuốn sách được chia thành ba phần chính: Phần 1: Nhập học HBS Trong phần này, Broughton kể về quá trình nộp hồ sơ và trúng tuyển vào HBS. Ông cũng chia sẻ những suy nghĩ và cảm xúc của mình khi bắt đầu học tại đây. Phần 2: Học tập tại HBS Trong phần này, Broughton mô tả những trải nghiệm học tập của mình tại HBS. Ông nói về các lớp học, các giảng viên, các bạn học và những bài học mà ông đã học được. Phần 3: Ra trường HBS Trong phần này, Broughton kể về quá trình tìm việc và bắt đầu sự nghiệp của mình sau khi tốt nghiệp HBS. Đánh giá Cuốn sách "Những Điều Trường Harvard Thật Sự Dạy Bạn" là một cuốn sách thú vị và hấp dẫn. Broughton là một người viết giỏi, và ông đã kể câu chuyện của mình một cách chân thực và lôi cuốn. Cuốn sách cung cấp cho người đọc cái nhìn sâu sắc về HBS, về kinh doanh và về thế giới. Ưu điểm Cuốn sách được viết một cách chân thực và hấp dẫn. Broughton là một người viết giỏi, và ông đã chia sẻ những suy nghĩ và quan điểm của mình một cách sâu sắc. Cuốn sách cung cấp cho người đọc cái nhìn sâu sắc về HBS, về kinh doanh và về thế giới. Nhược điểm Cuốn sách có thể hơi dài dòng và chi tiết. Kết luận Cuốn sách "Những Điều Trường Harvard Thật Sự Dạy Bạn" là một cuốn sách đáng đọc cho bất kỳ ai quan tâm đến HBS, kinh doanh hoặc thế giới. Mời các bạn mượn đọc sách Những Điều Trường Harvard Thật Sự Dạy Bạn của tác giả Philip Delves Broughton.
Đúng Việc - Một Góc Nhìn Về Câu Chuyện Khai Minh
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) sách Đúng Việc - Một Góc Nhìn Về Câu Chuyện Khai Minh của tác giả Giản Tư Trung. Nhiều năm trước, tôi có dịp lang thang trên quảng trường Trafalgar ở thủ đô London của nước Anh. Đây là quảng trường được xây dựng để kỷ niệm chiến thắng của hải quân Anh trong trận chiến Trafalgar lừng danh do Đô đốc Nelson chỉ huy. Nằm ngay vị trí trung tâm của quảng trường là một chiếc cột cao 52 mét mà ở trên đỉnh cột là bức tượng vị đô đốc tài ba đứng sừng sững giữa trời. Nhưng điều khiến tôi chú ý nhất không phải là bức tượng sừng sững đó, mà là một dòng chữ ở tấm điêu khắc gần chân cột: “England expects that every man will do his duty”. (Tạm dịch: Nước Anh mong muốn mỗi người sẽ làm tròn công việc/ bổn phận của mình) Đó chính là lời hiệu triệu nổi tiếng mà đô đốc Nelson đã gửi cho hạm đội của mình trước trận Trafalgar. Nhưng tôi nghĩ, chọn khắc dòng chữ này ở một trong những vị trí được xem như “trái tim” của nước Anh; người Anh không chỉ đơn thuần muốn kỷ niệm một trận chiến mà có lẽ muốn gửi gắm vào đó nhiều thông điệp hơn thế. Mỗi công dân Anh (và cả những người không phải là người Anh) khi đứng trước những dòng chữ này hẳn sẻ ít nhiều suy tư về những “công việc” hay “bổn phận” của mình: chúng là những gì, và mình đã làm chưa; nếu đã làm thì đã làm đúng và làm tốt những công việc ấy hay chưa? “Công việc của mình” – Mấy chữ trên tấm phù điêu về trận chiến Trafalgar năm ấy cũng đã ít nhiều bắt đầu gợi lên và gieo vào trong tôi những suy tư về mình, về thời cuộc, và đặc biệt là về những “trận chiến” diễn ra ở ngay xử sở của mình. Những suy tư đó đã thực sự thôi thúc tôi muốn viết một điều gì đó về “công việc”, về làm đúng và làm tốt “công việc”, về những “trận chiến” liên quan đến bản chất và chân giá trị của mọi vấn đề. Đó không phải là những trận chiến hữu hình giữa người với người, giữ gươm với súng như trong quá khứ; mà là những trận chiến giữa cái đúng và cái sai, giữa khai minh và vô minh, giữa cõi phàm và cõi thiêng, giữa cái cao đẹp và cái thấp hèn của con người. Những cuộc chiến vô hình ấy cũng khốc liệt và có sức tàn phá khủng khiếp không kém bất kỳ cuộc chiến hữu hình nào: Các thang giá trị trong xã hội bị đảo lộn; con người bị cuốn vào những vòng xoáy hỗn mang, nghi ngờ chính những điều đã từng được coi là chân – thiện – mỹ; công việc nào, lĩnh vực nào, ngành nghề nào, vấn đề nào cũng có những vấn đề được xem là “vấn nạn chưa có lời giải”.  Bất kỳ ai chứng kiến và cảm nhận những điều đó hẳn cũng sẽ đau đáu một câu hỏi nhân sinh như tôi: Căn nguyên của những gì đang diễn ra trong xã hội này, căn nguyên của những vấn đề con người ngày nay đang gặp phải là gì và do đâu?  Có rất nhiều lý do! Mỗi người sẽ chọn một cách lý giải, một cách giải mã riêng, tùy theo góc nhìn của mình. Và “đúng việc”, “sai việc”, cũng như chuyện định nghĩa lại mọi thứ và trả lại chân giá trị cho mọi vấn đề là góc nhìn và cách tiếp cận mà tôi chọn cho mình trong cuốn sách này. Tôi cho rằng, những thực trạng mà chúng ta nhìn thấy ngày nay của con người, của gia đình, của tổ chức và của xã hội là bắt nguồn sâu xa từ việc có quá nhiều thứ chưa được trả lại chân giá trị vốn có của nó và có quá nhiều người chưa hiểu đúng và làm tốt những “công việc” của mình. Vậy đâu là chân giá trị của mọi vấn đề, đâu là những “công việc” quan trọng nhất và nếu những “công việc” đó được hiểu đúng và làm tốt thì mọi thứ sẽ tốt đẹp hơn và xã hội cũng sẽ được vận hành một cách văn minh” Những “công việc” quan trọng nhất mà ai cũng phải làm trong đời, chính là: làm người, làm dân và làm việc. Khi mà những “công việc” này không được coi trọng và có quá nhiều người không làm đúng việc của mình (tức là làm sai việc) thì những gì mà chúng ta đang chứng kiến (như dân gian vẫn thường nói vui là “người không phải người, dân không phải dân, lãnh đạo không phải lãnh đạo, thầy không phải thầy, nghệ sĩ không phải nghệ sĩ, trí thức không phải trí thức, doanh nhân không phải doanh nhân, hay đại học không phải đại học, hiệp hội không phải hiệp hội…”), âu cũng là chuyện không đáng ngạc nhiên mấy! Bởi lẽ, lựa chọn “đúng việc” hay “sai việc” của mỗi người trong từng “công việc” ấy sẽ làm nên chính họ, cũng như làm nên xã hội mà họ sinh sống. Bởi lẽ, con người thì khác với muông thú và cỏ cây; con người tự do thì khác với con người nô lệ hay con người công cụ; công dân thì khác với thần dân hay nô dân; ca sĩ thì khác với thợ hát; nghệ sĩ thì khác với chiến sĩ; trí thức thì khác với trí nô; nhà báo thì khác với hồi bút; sử gia thì khác với sử nô; nhà quản trị thì khác với kẻ cai trị; doanh nhân thì khác với trọc phú hay con buôn… Nhưng làm sao lựa chọn nếu không hề biết đến sự tồn tại của những lựa chọn, không rõ đâu là sự khác biệt giữa chúng và đâu là “mình” giữa các lựa chọn đó? Làm sao có thể làm “đúng việc” khi chưa biết đâu là cái “đúng”? làm sao “làm ra chính mình”, làm sao “hãy là chính mình” khi chưa biết “đâu là mình”... Đó chính là những trăn trở đã dẫn đến những nội dung bàn trong cuốn sách này. Tuy vậy, cần làm rõ ràng, mục đích của cuốn sách này là để gợi mở và tranh luận chứ không phải để kết luận và thực hiện, để đặt vấn đề chứ không phải giải quyết vấn đề, để đặt ra các câu hỏi nhằm tìm kiếm câu trả lời chứ không phải là để khẳng định một chân lý (bởi lẽ không ai được phép độc quyền chân lý). Vì với một đề tài quá rộng và quá lớn như vậy, làm sao có câu trả lời nào có thể gói gọn được tất cả? cũng như làm sao có một định nghĩa về “đúng” vừa vặn với tất cả mọi người, mọi thời và mọi nơi? Nhưng ít nhất, bằng việc đặt ra những câu hỏi nhân sinh và liên tục, tra vấn mình về nó, ấy là lúc chúng ta có thể tiến gần hơn đến với câu trả lời, đến với việc tìm ra điều gì là “đúng” cho riêng mình, cho xứ sở của mình và cho thế gian này. Và đây chính là hành trình đi tìm chân lý, đi tìm chân giá trị và cũng là hành trình của muôn đời. Có người bạn hỏi tôi, có bao nhiêu là việc cần phải làm, vì sao lại ngồi lọ mọ viết cuốn sách này. Tôi trả lời rằng, tôi muốn viết cuốn sách này trước hết và chủ yếu là vì tôi thích “thích chia sẻ, bàn luận và học hỏi về việc “đúng việc”, về bản chất và chân giá trị của những vấn đề căn cốt của cá nhân, gia đình, tổ chức và xã hội).  Bên cạnh đó tôi cũng cho rằng, thay đổi đến từ “TÔI” của mỗi người là con đường tốt nhất dẫn đến sự thay đổi chung của xã hội, đúng như tuyên ngôn bất hủ của bậc hiền triết Mahatma Gandhi: “You must be the change you wish to see in the world” (Tạm dịch: “Chính bạn phải là sự thay đổi mà bạn muốn nhìn thấy trong cuộc đời”). Nghĩa là, khi mỗi người (trong chúng ta) tự thay đổi chính bản thân mình trước, tự làm đúng và làm tốt “công việc” của mình, thì xã hội sẽ thay đổi theo chứ không trông chờ vào ai cả. Với quan điểm này, chúng ta có thể thấy rằng hành trình “tự lực khai hóa” (theo cách nói của nhà canh tân văn hóa Phan Châu Trinh) của mỗi người chính là con đường tốt nhất để mình tốt hơn, đồng thời cũng góp phần đổi thay xã hội mà mình đang sống. Do vậy, cũng có thể xem “Đúng việc” như là một người bạn đồng hành của tôi trên hành trình “Tự lực khai hóa” của mình.  Ngoài ra, như rất nhiều thành viên khác của cộng đồng, tôi cảm thấy mình còn có trách nhiệm công dân trong việc cất lên một tiếng nói, góp vào một giải pháp để thúc đẩy nhanh hơn hành trình tìm kiếm những cái đúng, tìm kiếm một “hệ điều hành” ưu việt hơn không chỉ cho riêng mình mà còn cho xứ sở của mình. Với riêng tôi, ngoài sở thích cá nhân, hay sự thôi thúc bởi trách nhiệm công dân, đó còn là trách nhiệm làm nghề (của một người làm giáo dục) nữa. Cuốn sách này đã được viết với tâm thế ấy, và với ý niệm rằng công việc quan trọng nhất (và có thể nói là công việc/ nghề nghiệp duy nhất) của mỗi người trên cõi đời này, không gì khác chính là “nghề làm người”, như nhà tư tưởng vĩ đại thời khai minh Jean Jacques Rousseau từng khẳng định. Có thể tiếp tục chi tiết hóa “nghề làm người” này bằng nhiều mảng việc nữa, mà trong đó “làm dân” và “làm việc” là hai phần việc quan trọng bậc nhất. Đó cũng là lý do vì sao mà ba chương chính của cuốn sách sẽ xoay quanh những câu chuyện “đúng việc” về “Làm người”, “Làm dân” và “Làm việc”. Tôi cũng dành riêng một chương thứ tư để bàn về việc “Làm giáo dục”, không chỉ bởi đó là công việc hay mối quan tâm của riêng tôi; mà còn bởi vì tính ảnh hưởng sâu sắc của giáo dục đến con người ấy được thụ hưởng hay bị “nhào nặn”. Phần cuối cùng chính là Lời kết cho những gì mà tôi đã chia sẻ. Trong quá trình tích lũy nhận thức và phát kiến ý tưởng của riêng mình về những vấn đề trên, tôi có chịu sự ảnh hưởng và học hỏi của nhiều nhà tư tưởng, nhà nghiên cứu, học giả … của thế giới cũng như của Việt Nam mà độc giả có thể bắt gặp xuyên suốt cuốn sách này. Nếu một ý tưởng, luận điểm, câu chữ… nào đó của cuốn sách có sự tương đồng với ý tưởng, luận điểm, câu chữ của một ai khác mà tên nhân vật đó không được dẫn như ở những phần khác, mong quý vị hãy hiểu rằng đó là một sơ suất không cố ý, một sự trùng hợp tình cờ hoặc một sự nhập tâm một cách vô thức của tôi và thứ lỗi cho sơ suất đó. Tôi cũng rất mong nhận được những sẻ chia, những góp ý, những ý kiến bàn luận của quý vị để câu chuyện “Đúng việc” có thể được hoàn thiện hơn và được tiếp nối ngoài khuôn khổ của cuốn sách.  Cũng nhân đây, tôi xin chân thành cảm ơn Nhà xuất bản Tri thức đã xuất bản cuốn sách, cảm ơn những bậc thức giả mà tôi rất kính trọng đã chia sẻ, ủng hộ và góp ý với tôi để hoàn thiện cuốn sách này, trong đó đặc biệt là cảm ơn những chia sẻ kiến thức hết sức quý báu của Nhà nghiên cứu Triết học Bùi Văn Nam Sơn và những góp ý vô cùng quý giá của Giáo sư Nguyễn Văn Trọng về bản thảo. Và tôi muốn gửi lời cảm ơn đặc biệt tới bạn Nguyễn Thúy Uyên Phương, một người cộng sự lâu năm mà tôi vô cùng quý mến đã giúp tôi lược đi và biên tập một số phần của cuốn sách này. Có thể nói, trong những ngày tháng bộn bề công việc, nếu không có sự hỗ trợ của bạn thì tập sách này khó có thể ra đời như tôi mong muốn. Tôi cũng cảm ơn những người đồng nghiệp đã cùng tôi san sẻ công việc của cơ quan để tôi có đôi chút tĩnh lặng cho chuyện viết lách.    Và đặc biệt, xin cám ơn quý vị đã đón nhận những chia sẻ của tôi. Quá trình viết cuốn sách này đã cho tôi cơ hội nhìn lại chính tôi và thế giới quanh tôi. Và tôi hy vọng rằng quý vị cũng sẽ tìm thấy đâu đó trong những câu chuyện chung mang tên “Đúng việc” này một câu chuyện riêng của chính mình. *** “Đúng việc-Một góc nhìn về câu chuyện khai minh” đã đồng hành sâu sắc cùng hành trình tự vấn của mỗi người, dù đó là ai trong suốt chặng sống của mình. Đúng như tác giả bày tỏ, “mục đích của cuốn sách này là để gợi mở và tranh luận chứ không chứ không phải để kết luận và thực hiện, để đặt vấn đề chứ không phải giải quyết vấn đề, để đặt ra câu hỏi nhằm tìm kiếm câu trả lời chứ không phải để khẳng định một chân lý…” Và bằng cách đặt ra câu hỏi “trúng”, câu hỏi trọng tâm cho hành trình của đời người trong tất thảy những vai trò ta mang, trong mối quan hệ với chính bản thân, với gia đình, đất nước…, tác giả để người đọc tự mình tìm, thấy và lựa chọn cho mình cách sống với một nguyên tắc giản dị: “Đúng việc”. Sách có 4 phần: Làm người; Làm dân; Làm nghề; Làm giáo dục. Mỗi phần có những mục nhỏ đi thẳng vào những vấn đề thiết thực quanh trục chính thế nào là “đúng việc”. Đó là “Làm người là… làm gì?”, “Làm thế nào để có được năng lực làm người?”, “Tại sao phải bàn về làm dân?”, “Làm việc cũng là làm người”, “Nhà trường”, “Nhà giáo”, “Gia đình”, “Người học”… “Ta là sản phẩm của chính mình” Cuốn sách mở đầu bằng những câu chuyện quanh việc “làm người”-điều tưởng hiển nhiên với những ai đã được sinh ra trên đời. Tác giả cũng không đi vào cung cấp một định nghĩa toàn vẹn mà hướng vào trọng tâm của ý nghĩa làm người, từ đó chỉ ra một trong những điều giúp cho con người trở nên khác biệt chính là “lẽ sống”, và sau nữa có một “lẽ” khác chỉ có con người mới hiểu và mới chiến đấu vì nó, đó là “lẽ phải”. Để có được giá trị xuyên suốt, vượt thời gian này và làm người đúng nghĩa thì cần trang bị cho mình “túi văn hóa” và “túi chuyên môn” bên cạnh “túi vật chất” (dường như đang trở thành túi tham, vô độ). Nhưng hành trình làm người là hành trình tự vấn không ngừng nghỉ và cuộc sống loài người là cuộc sống cũng đầy những mâu thuẫn, giằng xé. Bằng ngòi bút sẻ chia và cái nhìn đa chiều, giàu tương tác, nhà giáo Giản Tư Trung dẫn dắt câu chuyện cơ bản “Làm người” tới việc nhận ra “Ta là sản phẩm của chính mình”. Trong đó mô hình quản trị cuộc đời ta có 5 cấu phần: Tìm ra chính mình; Khai phóng bản thân; Giữ được chính mình; Sống với chính mình, Làm ra chính mình. Trong sự vận động nhanh chóng và dữ dội của đời sống, con người không khỏi hoang mang vì ý nghĩa sự sống và việc lựa chọn cách sống của mình để có được hai chữ “hạnh phúc”. Cuốn sách này chỉ ra một cách giản dị lối ra cho những loay hoay vốn thấy của đời người: “Làm cho ra người, làm cho ra việc rồi thì sẽ ra tiền”. Và “khi làm ra tiền thì có hạnh phúc cấp độ 1, khi làm ra việc thì được quý trọng, có hạnh phúc cấp độ 2, còn khi làm cho ra người thì được là chính mình, đó là hạnh phúc cấp độ 3”. Đọc kỹ phần “Làm người” rồi thì các phần sau đều có sự sáng tỏ, đó là “Làm dân”, “Làm nghề”, “Làm giáo dục”. Trên cái nền của việc biết “làm người”, thì những “vai” khác ta mang về thực chất đều là sự phóng chiếu của việc “làm người”. Vì thế, “Một con người tự do và một công dân có trách nhiệm của một xã hội văn minh sẽ sẵn lòng nhận lấy trách nhiệm tự thân của mình mà không cần biết là người khác có yêu cầu hay ghi nhận gì không…”. Cũng từ đây, tác giả đưa ra nhiều nội dung liên quan chặt chẽ khác để hướng đến việc làm người, làm dân trọn vẹn như mối quan hệ “dân trí”, “dân quyền”, “dân sinh”… Với tác giả thì “Không có ý niệm cân bằng giữa công việc và cuộc sống, bởi công việc chính là cuộc sống và làm cũng là sống.” Từ đây trong phần “Làm nghề”, tác giả phân tích những nghề nghiệp cụ thể với cách đặt vấn đề đối trọng. Đó là Quản trị hay cai trị?; Doanh nhân, trọc phú hay con buôn?; Trí thức hay trí nô?; Ca sĩ hay thợ hát?... Những câu chuyện làm nghề cụ thể, thiết thực được đặt ra trong phân tích đa chiều. “Vậy thì quan chức, công chức nên là gì trong mối quan hệ với dân?”. Nhiều thí dụ thực tế từ đời sống, cùng những chia sẻ của nhà giáo Giản Tư Trung thực sự khiến mỗi người có thêm dữ liệu để tự mình làm một cuộc tổng hợp, cho ra lựa chọn của riêng mình. Và rằng: “Suy cho cùng, cái tên chỉ là cái tên. Dù được gọi bằng cái tên gì-người đày tớ, người phục vụ, người bán hàng…, tất cả cũng như trở thành vô nghĩa nếu như người công chức không cảm nhận được sứ mệnh thiêng liêng trong công việc phục vụ nhân dân của mình….”. “Đúng việc - Một góc nhìn về câu chuyện khai minh": Hành trình tự vấn để làm người ảnh 4 Nói về trí thức, nhà giáo Giản Tư Trung thẳng thắn: “Có thể hình dung ba điều kiện để hình thành một con người trí thức, đó là (1) “sự hiểu biết” (có trí); (2) thức tỉnh xã hội”; và (3) “vì mục đích cao quý” (hướng xã hội đến cái đúng và cái đẹp, hướng xã hội đến cái chân-thiện-mỹ”. Nếu không hội đủ ba điều kiện này thì hoặc là “trí ngủ”, hoặc là “trí dỏm”, hay “trí gian”… Nhiều nghề khác cũng được đề cập dưới góc nhìn sắc sảo của tác giả, để đôi khi nhận thấy những điều tưởng như nghịch lý: “Nhưng không phải lúc nào người cảnh sát, công an làm đúng việc của mình cũng được thương, được quý”. Và cuối cùng công việc của người cảnh sát theo tác giả là phải trả lời cho câu hỏi bảo vệ “cái gì”?. Ở đây chính là bảo vệ pháp luật, với tinh thần “trọng luật mà có tình” chứ không phải là “trọng tình mà phá luật”… Nhiều thí dụ thực tế từ đời sống, cùng những chia sẻ của nhà giáo Giản Tư Trung thực sự khiến mỗi người có thêm dữ liệu để tự mình làm một cuộc tổng hợp, cho ra lựa chọn của riêng mình. Sau cùng là từ sự thấu hiểu đó mà kiên định cách sống làm người, làm dân, làm nghề, làm giáo dục đúng đắn mà mình được chọn. Mời các bạn mượn đọc sách Đúng Việc - Một Góc Nhìn Về Câu Chuyện Khai Minh của tác giả Giản Tư Trung.
Không Theo Lối Mòn
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) sách Không Theo Lối Mòn của tác giả Joachim De Posada & Ellen Singer: Cuộc đời đôi khi giống như một giấc mơ, nhưng là giấc mơ có thật, không cần tô vẽ và cũng không thể trốn tránh. Tuy được sinh ra trong một gia đình giàu có nhưng lại sớm rơi vào cảnh nghèo túng khi còn là một thiếu niên, tôi lớn lên và dần hiểu rõ về những hiểm họa khiến con người đánh mất thành công hơn là các bí quyết để đạt được nó. Mặc dù sau đó cha mẹ tôi đã gây dựng lại sự nghiệp, lấy lại được những gì đã mất nhưng có một điều cha mẹ tôi không bao giờ lấy lại được, đó là cách tư duy của một người thành đạt. Do đó, hàng ngày tôi phải đối mặt với sự sợ hãi bị mất tất cả một lần nữa của cả cha lẫn mẹ hơn là được chỉ bảo về “những nguyên tắc vàng” để duy trì sự thành công lâu dài. Bạn hãy thử tưởng tượng, khi bạn đang sống một cuộc sống sung túc và bỗng nhiên một buổi sáng thức dậy không còn một xu dính túi, bạn sẽ học được bài học để đời, nhưng bạn thường không có đủ thời gian để chiêm nghiệm chúng và lại càng không có điều kiện để truyền đạt lại cho người khác. Vì thế bí quyết đi đến thành công như một điều bí ẩn đối với tôi, một bí ẩn mà về sau tôi đã quyết tâm phải làm sáng tỏ. Tôi mong muốn mình hiểu được và có thể giải thích một cách hợp lý các vấn đề liên quan đến cuộc sống cũng như công việc của con người, như: Tại sao cùng một việc mà có người làm được, có người không? Tại sao có người thành công trong khi những kẻ khác lại thất bại? Tại sao nhiều người lại không thể duy trì sự thành công lâu dài cho mình? Tại sao 90% số người ở độ tuổi 65 vẫn không thể sống một cách dư dả thoải mái, mà phải tiếp tục làm việc, dựa dẫm vào bảo hiểm xã hội hoặc con cái? Quyển sách này dành cho tất cả chúng ta, từ những người chủ doanh nghiệp cho đến người làm công ăn lương. Nó dành cho vận động viên và cũng cho mọi người có chung mong muốn tiến về phía trước. Nó dành cho các giáo viên, những người đóng một vai trò quan trọng trong việc giáo dục thế hệ trẻ. Và nó đặc biệt dành cho các thanh thiếu niên sẵn sàng thay đổi thói quen của họ để trở thành con người thành đạt. Nhưng các bạn hãy nhớ rằng đây chỉ là những bí quyết, và việc áp dụng nó đến đâu thì bạn mới là người quyết định. Có ba con ếch đang trôi lềnh bềnh trên sông trong một chiếc lá. Một con quyết định nhảy xuống sông. Hỏi còn lại bao nhiêu con ếch trên chiếc lá? Đa số mọi người sẽ trả lời là còn lại hai con. Sai! Còn lại ba con ếch trên chiếc lá. Tại sao? Vì “quyết định nhảy” và “nhảy” là hai việc hoàn toàn khác nhau. Đã bao nhiêu lần bạn quyết định làm một việc gì đó rồi lại bỏ qua không thực hiện? Đã bao nhiêu lần bạn quyết định thay đổi nhưng lại sợ đương đầu với những thử thách mới có thể đến? Đã bao nhiêu lần bạn muốn từ bỏ một điều gì đó nhưng lại không muốn phá vỡ đi thói quen của mình?... Nếu những câu hỏi đó thực sự là những vấn đề bạn đang gặp phải thì tôi mong rằng khi bạn đọc xong cuốn sách này và áp dụng những điều học được vào hoàn cảnh của mình, bạn sẽ có những bước tiến dài về phía thành công. Francis Bacon đã từng nói: “Kiến thức là sức mạnh”. Ông ấy đúng nhưng lại quên mất một từ giúp câu nói trở nên hoàn toàn chuẩn xác: “Sử dụng kiến thức là sức mạnh”. Có được kiến thức đã khó nhưng áp dụng được nó vào thực tế còn khó gấp ngàn lần. Nếu bạn có hiểu biết mà không đưa được nó vào thực hành thì chẳng khác gì không biết. Đơn giản là vậy! Hãy đọc cuốn sách và áp dụng ngay những gì bạn học được. Cuộc sống của bạn sẽ thay đổi. - Tiến sĩ Joachim de Posada *** Tóm tắt Cuốn sách "Không Theo Lối Mòn" của tác giả Joachim de Posada là một cuốn sách về thành công. Tác giả chia sẻ những bí quyết mà ông đã học được trong suốt cuộc đời của mình, từ khi còn là một thiếu niên nghèo khó cho đến khi trở thành một doanh nhân thành đạt. Review Cuốn sách được viết theo phong cách kể chuyện, với những câu chuyện thực tế của chính tác giả và của những người mà ông đã gặp. Điều này giúp cho cuốn sách trở nên dễ đọc và dễ hiểu hơn. Tác giả chia sẻ những bí quyết thành công của mình thành ba phần: Phần 1: Những nguyên tắc vàng Trong phần này, tác giả đề cập đến những nguyên tắc cơ bản cần có để đạt được thành công, chẳng hạn như: * **Lập kế hoạch và mục tiêu** * **Tư duy tích cực** * **Hành động** * **Kiên trì** * **Đổi mới** Phần 2: Những thói quen xấu Trong phần này, tác giả chỉ ra những thói quen xấu có thể cản trở con đường dẫn đến thành công, chẳng hạn như: * **Trì hoãn** * **Ngại thay đổi** * **Tự ti** * **Tham lam** * **Thích đổ lỗi** Phần 3: Những câu chuyện truyền cảm hứng Trong phần này, tác giả chia sẻ những câu chuyện của những người đã vượt qua nghịch cảnh để đạt được thành công. Đánh giá Cuốn sách "Không Theo Lối Mòn" là một cuốn sách hữu ích cho những người muốn tìm hiểu về thành công. Cuốn sách cung cấp những thông tin và lời khuyên thực tế, giúp người đọc có thể áp dụng vào cuộc sống của mình. Điểm mạnh Nội dung dễ hiểu và dễ áp dụng Cung cấp những thông tin và lời khuyên thực tế Kết hợp giữa lý thuyết và thực tế Điểm yếu Có một số thông tin đã được đề cập trong các cuốn sách khác Kết luận Cuốn sách "Không Theo Lối Mòn" là một cuốn sách đáng đọc cho những người muốn tìm hiểu về thành công. Cuốn sách cung cấp những thông tin và lời khuyên thực tế, giúp người đọc có thể áp dụng vào cuộc sống của mình. Mời các bạn mượn đọc sách Không Theo Lối Mòn của tác giả Joachim De Posada & Ellen Singer.
Ikigai - Chất Nhật Trong Từng Khoảnh Khắc
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) sách Ikigai - Chất Nhật Trong Từng Khoảnh Khắc của tác giả Yukari Mitsuhashi. Ikigai là gì? Trong hơn bảy năm làm một nhà báo tự do, đây là chủ đề phức tạp nhất mà tôi từng tìm hiểu. Tôi chưa từng chú tâm xem xét khái niệm ikigai cho đến khi được phân công viết một bài về đề tài này cho hãng tin BBC. Đây là một khái niệm quá đỗi phổ thông - và khắc sâu vào tinh thần của người Nhật - đến mức tôi chưa bao giờ từng thật sự dừng lại và suy ngẫm về ý nghĩa của nó. Cụm từ ikigai trong tiếng Nhật được hợp thành từ hai từ kanji: “iki” [ 生き], có nghĩa là cuộc sống, và “gai” [ 甲斐], có nghĩa là giá trị hoặc sự xứng đáng. Khi ghép lại, ikigai có nghĩa là giá trị của cuộc sống, hay hạnh phúc trong cuộc sống. Nói một cách đơn giản, ikigai là lý do bạn thức dậy vào mỗi buổi sáng. Một số diễn giải gần đây của phương Tây về ikigai có vẻ đào sâu vào quan điểm tìm kiếm ý nghĩa cho cả một đời người, nhưng đó không phải nghĩa chính xác của từ này. Từ “cuộc sống” [life] trong tiếng Anh có thể dùng để chỉ cuộc đời hoặc đời sống hàng ngày, nhưng trong tiếng Nhật, chúng tôi có hai từ riêng biệt cho hai khái niệm đó: “jinsei” [ 人生] là “cuộc đời”, còn “seikatsu” [ 生活] chỉ “đời sống thường nhật”. Khi tôi trò chuyện với Akihiro Hasegawa, nhà tâm lý học lâm sàng kiêm phó giáo sư tại Đại học Toyo Eiwa, người đã nghiên cứu khái niệm ikigai suốt nhiều năm, ông đã đưa ra một ý kiến thú vị. Ikigai được dịch sang tiếng Anh thành “mục đích sống” [life’s purpose], nghe có vẻ khá to tát. Về thực chất, ikigai không nhất thiết phải là mục đích của cả đời người. Từ “cuộc sống” ở đây nghiêng về nghĩa seikatsu - đời sống thường nhật - nhiều hơn. Nói cách khác, ikigai có thể là niềm vui của con người trong cuộc sống hàng ngày, một điều mà khi thiếu đi thì cuộc sống sẽ kém vui. Sở dĩ ikigai trở thành một đề tài khó diễn giải, ngay cả đối với người Nhật, là vì tuy khái niệm này rất phổ biến ở Nhật, nhưng nó không có trong sách vở. Tôi trưởng thành và sống phần lớn cuộc đời mình tại Nhật, nhưng tôi không nhớ trường học từng dạy tôi về ikigai. Chỉ riêng cấp tiểu học, học sinh Nhật Bản đã học hơn 1.000 chữ kanji, nhưng trong số đó không có ikigai. Ikigai là một khái niệm đa diện mà chúng ta sẽ dần hiểu ra trong quá trình sống và trưởng thành. “Ikigai của bạn là gì?” không phải là một câu hỏi đơn giản với một đáp án duy nhất, mà là một câu hỏi trừu tượng với vô số câu trả lời khả dĩ. Điều thôi thúc bạn thức dậy vào mỗi buổi sáng chính là ikigai của bạn - và không ai có thể nói bạn hãy chọn đáp án khác. Vì không có trường lớp nào dạy về ikigai nên tôi đã tự tìm hiểu khái niệm này, và tôi chia sẻ những đúc kết của mình qua quyển sách mà các bạn đang cầm trên tay đây. Trong các chương sắp tới, chúng ta sẽ khám phá nghĩa của ikigai, cách để tìm ra ikigai cho mỗi người, và vì sao việc đó lại giúp ta tìm được trọng tâm và niềm vui trong cuộc sống. Tôi chân thành cảm ơn các chuyên gia trong nhiều lĩnh vực khác nhau đã cung cấp cho tôi kiến thức và ý tưởng của họ, cũng như những người đã chia sẻ về ikigai của họ với tôi (bạn có thể xem những câu chuyện truyền cảm hứng ở chương năm). Mỗi người có một ikigai khác nhau, nhưng tôi hy vọng câu chuyện của những người khác sẽ giúp bạn khám phá ra ikigai của bản thân. Cuộc sống sẽ luôn đem đến cho ta những khó khăn riêng, và chắc chắn ikigai không phải là một công thức kỳ diệu giúp mọi thứ trở nên hoàn hảo. Nhưng khi có ikigai trên từng chặng đường, tôi hy vọng chúng ta có thể mãn nguyện khi nhìn lại cả cuộc đời mình. Mong rằng những hiểu biết của tôi về ikigai của người Nhật sẽ giúp bạn không chỉ hiểu được khái niệm này, mà quan trọng hơn, sẽ truyền cảm hứng cho bạn ngẫm nghĩ về ikigai của riêng mình. Cảm ơn bạn đã đồng hành cùng tôi trong hành trình này. Bất kể bạn tìm thấy ikigai nào sau khi đọc xong quyển sách này, tôi cũng xin “kanpai” (cụng ly) chúc mừng bạn! *** Tóm tắt Cuốn sách "Ikigai - Chất Nhật Trong Từng Khoảnh Khắc" của tác giả Yukari Mitsuhashi là một cuốn sách khám phá khái niệm ikigai của người Nhật. Ikigai là một khái niệm khó định nghĩa, nhưng có thể hiểu một cách đơn giản là lý do bạn thức dậy vào mỗi buổi sáng. Review Cuốn sách được viết một cách dễ hiểu và hấp dẫn. Tác giả Yukari Mitsuhashi là một nhà báo người Nhật, vì vậy cô ấy có thể cung cấp những hiểu biết sâu sắc về khái niệm ikigai từ góc nhìn của người Nhật. Cuốn sách cung cấp một cái nhìn tổng quan về ikigai, bao gồm: Nguồn gốc của ikigai Cách tìm ra ikigai Lợi ích của ikigai Cuốn sách cũng chia sẻ những câu chuyện truyền cảm hứng về ikigai của những người Nhật. Những câu chuyện này cho thấy rằng ikigai có thể được tìm thấy ở mọi lứa tuổi và hoàn cảnh. Đánh giá Cuốn sách "Ikigai - Chất Nhật Trong Từng Khoảnh Khắc" là một cuốn sách đáng đọc cho bất kỳ ai quan tâm đến khái niệm ikigai. Cuốn sách cung cấp những hiểu biết sâu sắc về một khái niệm quan trọng trong văn hóa Nhật Bản. Điểm mạnh Được viết một cách dễ hiểu và hấp dẫn Cung cấp những hiểu biết sâu sắc về ikigai Chia sẻ những câu chuyện truyền cảm hứng về ikigai Điểm yếu Một số người có thể cho rằng cuốn sách không đủ sâu sắc về ikigai Kết luận Cuốn sách "Ikigai - Chất Nhật Trong Từng Khoảnh Khắc" là một cuốn sách đáng đọc cho bất kỳ ai quan tâm đến khái niệm ikigai. Cuốn sách cung cấp những hiểu biết sâu sắc về một khái niệm quan trọng trong văn hóa Nhật Bản. Mời các bạn mượn đọc sách Ikigai - Chất Nhật Trong Từng Khoảnh Khắc của tác giả Yukari Mitsuhashi.