Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tình Yêu Ra Trận - Rafael Sabatini

Đây là cuốn "Love-At-Arms" (1907) của Rafael Sabatini. Cuốn này cũng được NXB Phụ Nữ / Nhã Nam phát hành với tên "Này chiến trận, này cuồng si" (dịch giả: Lê Đình Chi). Toàn bộ câu chuyện xảy ra vào thời Giáo hoàng Alexander VI (tức Roderigo Borgia, khoảng 1492 - 1503), một thời kỳ phát triển rực rỡ về văn học nghệ thuật của Italia, nhưng đây cũng là một thời kỳ loạn lạc nhiễu nhương khi Italia bị chia năm xẻ bảy liên tục rơi vào những cuộc nội chiến không dứt để tranh dành quyền bá chủ giữa các quốc gia nhỏ. Nổi bật lên trong những cuộc chiến không ngừng ấy là mưu toan thống nhất Italia không thành của gia đình Borgia - chủ yếu là Giáo hoàng và con trai, Cesare Borgia. Roderigo Borgia nổi tiếng là nhân vật ăn chơi phong lưu nhất Italy thời ấy với ít nhất 3 người con trai và 2 người con gái được chính thức thừa nhận, kết quả của vô số cuộc tình. Cesare Borgia mới 20 tuổi đã được phong Hồng y, để rồi sau đó cũng bỏ áo chùng sang một bên để trở thành công tước Valentinois, nỗi kinh hoàng của cả Italia. Tất cả bắt đầu bằng việc Gian Maria Sforza, công tước Babbiano, cầu hôn cháu gái công tước Urbino để tìm kiếm liên minh chống lại mối đe doạ từ Cesare Borgia. Mọi chuyện đều xuôi chèo mát mái, thế nhưng rắc rối bắt đầu khi cô dâu, không cam chịu biến mình thành vật hi sinh cho một liên minh chính trị, liều lĩnh bỏ trốn chỉ vài ngày trước khi hôn lễ được cử hành... Khi bị ép vào cuộc hôn nhân chính trị, nàng - một công nương yêu kiều, mơ mộng, vốn xa lạ với những đua tranh ngoài bức tường thành - bỗng liều lĩnh chống lệnh vua, đem quân cố thủ trong lâu đài, những muốn bảo vệ danh dự của mình. Khi trái tim mách bảo, chàng - một bá tước đam mê phiêu lưu, không màng quyền bính - đã sát cánh cùng nàng, dưới danh nghĩa kẻ đánh thuê hèn mọn, không màng hiểm nguy, âm thầm bảo vệ người trong mộng. Tình yêu và âm mưu, hận thù và đố kỵ, tất cả tưởng như đã rõ ràng khi chiếc cầu dưới cổng thành Roccaleone uy nghi hạ xuống... *** Rafael Sabatini (1875 - 1950) là nhà văn chuyên viết truyện thám hiểm - lãng mạn và thu được nhiều thành công lớn. Ông đã nhận được giải Book Prize. Một số tác phẩm nổi tiếng của ông  là: Chim ó biển (1915), Cuộc đời chìm nổi của thuyền trưởng Blood (1922)... Ông xuất hiện trên bầu trời văn học cùng thời với rất nhiều tên tuổi rực sáng khác như A. Dumas, W. Scott, và là một trong những tác giả được mến mộ nhất thời ấy, với dòng tiểu thuyết hiệp sĩ, lãng mạn. Một số tác phẩm nổi tiếng của Rafael Sabatini: - Này chiến trận, này cuồng si - Chim ó biển (The sea hawk, 1915), - Cuộc đời chìm nổi của thuyền trưởng Blood (Captain Blood, 1922); - Scaramouche (1921); - Bellarion the Fortunate (1926)...  *** Từ dưới thung lũng, tiếng chuông Angelus khẽ vẳng lại theo làn gió đêm. Trong ngôi lều của người chăn dê trên đồi có một nhóm sáu người, đầu trần, khẽ cúi xuống tuân theo tiếng chuông báo giờ cầu nguyện tối. Từ trên mái nhà bụi bặm dòng xuống một ngọn đèn bằng đồng ba bấc vừa cháy leo lét vừa bốc khói mờ mịt, toả ánh sáng tù mù cùng mùi khói khét nồng ra khắp căn lều tối tăm. Tuy vậy căn lều vẫn đủ sáng để có thể thấy cả toán người đều ăn vận với vẻ phong lưu quyền quý hoàn toàn tương phản với khung cảnh nghèo nàn xung quanh. Hồi chuông cuối cùng chìm dần trong tiếng gió thổi rì rào đều đều qua sườn đồi, cả sáu người cùng thành kính làm dấu thánh, từ tốn đội mũ rồi nhìn nhau với vẻ dò hỏi. Nhưng trước khi có người nói ra lời điều đang làm tất cả bận tâm, chợt có tiếng gõ nhẹ lên cánh cửa lều mối mọt. « Cuối cùng cũng tới rồi », ông lão Fabrizio da Lodi khẽ kêu lên nhẹ nhõm như trút được gánh nặng, trong khi một người trẻ tuổi cao dong dỏng, ăn mặc bảnh bao sải bước về phía cửa và mở rộng cửa theo ánh mắt ra lệnh của Fabrizio. Bước qua ngưỡng cửa là một người đàn ông cao lớn, đội một chiếc mũ rộng vành không có ngù lông, chiếc áo choàng phủ kín người được chàng cởi ra khi bước vào để lộ bộ đồ xoàng xĩnh chàng đang mặc. Một chiếc áo da thắt chặt ở ngang hông bởi một chiếc thắt lưng kết bằng mạng sắt, bên trái đeo một thanh kiếm dài, trong khi từ sau hông phải của chàng lấp ló cán của một con dao găm. Chiếc quần bó màu đỏ được bỏ vào trong ống đôi ủng bằng da không thuộc, đôi ủng dài đến quá gối bó sát ống chân hoàn tất ở chàng vẻ ngoài thường thấy của một người lính đánh thuê đang lúc hết việc làm. Bất chấp vẻ ngoài của chàng, cả sáu người quý tộc có mặt trong khung cảnh lạ lùng này đều cung kính bỏ mũ ra một lần nữa, và đứng yên với vẻ chờ đợi chăm chú. Chàng dừng lại một chút để bỏ hẳn chiếc áo choàng, người trẻ tuổi đã mở cửa cho chàng vội vã bước tới giúp một cách thành thạo đến độ có thể tưởng nhầm anh ta được sinh ra để sắm vai hầu phòng. Sau đó chàng bỏ mũ, để lộ khuôn mặt trẻ trung đẹp trai, vừa quý phái vừa khoẻ khoắn tràn đầy sức sống và mái tóc dày đen nhánh được giữ trong một chiếc mạng đan bằng chỉ vàng - vật duy nhất cho biết chàng có địa vị cao sang hơn nhiều so với vẻ bề ngoài. Chàng nhanh nhẹn bước về phía toán người đang đứng cạnh chiếc bàn cục mịch trơn nhẫy, đôi mắt đen lướt nhanh qua tất cả những khuôn mặt đang đối diện với chàng. « Thưa các ngài, tôi có mặt. » Sau cùng chàng lên tiếng, « Con ngựa của tôi bị què cách Sant’ Angelo nửa dặm và tôi đã buộc phải đi bộ đoạn đường còn lại. » « Đức ông chắc đang mệt lắm », Fabrizio lên tiếng, với vẻ quan tâm săn đón luôn được dành cho những người có địa vị, « Hãy uống một cốc vang Puglia, thưa đức ông. Fanfulla, lại đây », ông gọi anh chàng quý tộc trẻ đã đóng vai hầu phòng. Nhưng người mới tới đã khoát tay cản lại. « Chuyện đó để sau. Thời giờ lúc này quý hơn các ngài tưởng đấy. Rất có thể, thưa các ngài, nếu không bị buộc phải đi bộ tới đây tôi đã chẳng bao giờ tới nơi được. » « Tại sao ? », một người bật hỏi, bộc lộ sự băn khoăn vừa nảy ra trong đầu đám quý tộc, thậm chí không ai dấu được vẻ lo lắng trên khuôn mặt. « Chẳng lẽ chúng ta bị phản bội ? » « Nếu các ngài đang trong tình thế phải đề phòng sự phản bội, thì có thể đúng là vậy, các bạn thân mến. Trong lúc tôi vừa đi khỏi chiếc cầu bắc qua Metauro và lần theo lối đi từ cầu lên, tôi nhìn thấy một đốm sáng nhỏ nhấp nháy đằng sau mấy bụi cây ven đường. Đốm sáng đó là ánh mặt trời phản chiếu trên mũ sắt của một gã đang rình rập đằng sau bụi cây. Tôi đi lại gần hơn theo con đường, mũ kéo thấp xuống vừa đủ để che bớt mặt mà vẫn không cản trở tầm nhìn. Đến khi đi ngang qua chỗ gã do thám đang ẩn nấp giữa đám lá đáng lẽ đã giấu kín tung tích gã nếu gã không bị ánh mặt trời phản chiếu trên mũ làm lộ, tôi chợt nhận ra khuôn mặt quỷ quyệt của Masuccio Torri. » Cả đám thính giả của chàng ồ lên, vẻ lo lắng càng lộ rõ, một vài người thậm chí tái mặt. « Hắn rình mò ai mới được chứ? Tôi tự hỏi, và câu trả lời là hắn đang đợi tôi. Nếu tôi đoán không sai, hắn còn biết rõ quãng đường tôi phải đi, và không hề nghĩ đến chuyện tôi lại đi bộ, cũng như việc tôi có thể tới đây dưới bộ cánh như thế này. Vậy là, nhờ sự tình cờ cũng như chiếc mũ và chiếc áo choàng mà tôi đã dùng che kín người, hắn đã để tôi đi qua không đoái hoài gì. » « Trước Đức Mẹ Đồng Trinh ! », Fabrizio kêu lên nóng nảy, « tôi xin thề là đức ông đã lầm. Ngoài sáu chúng tôi chẳng ai khác trên toàn đất Italy biết ngài tới đây. Và tôi có thể thề trên cây thánh giá rằng không ai trong chúng tôi đã hé môi để lộ ra ngoài. » Ông quay sang nhìn những người còn lại như muốn tìm kiếm sự đồng tình. Không hề chần chừ, tất cả đều lập tức xác nhận lời thề của ông quý tộc già với những lời thề không kém thiêng liêng cho tới khi người mới đến phải giơ tay ra dấu cần sự yên lặng để chấm dứt tràng thề thốt. « Cả tôi cũng không hé ra với ai, » chàng trấn an, « vì tôi tôn trọng ngài, Fabrizio. Thế nhưng … tại sao Masuccio lại nấp né như kẻ trộm trong bụi cây bên đường như thế ? », chàng tiếp tục, với một giọng hơi khác,« Thưa các ngài, tôi không biết các ngài hẹn tôi đến đây làm gì, nhưng nếu các ngài có ý mưu phản thì hãy dè chừng ! Công tước đã biết về âm mưu của các ngài, hoặc chí ít cũng nghi ngờ. Nếu tên do thám đó không phải được cử đi theo dõi tôi, thì không nghi ngờ gì nữa, gã có nhiệm vụ theo dõi và bẩm lại cho Công tước chủ của hắn tên những người có mặt tại đây. » Fabrizio nhún vai tỏ vẻ dửng dưng coi thường, một thái độ được Ferrabraccio đứng bên cạnh chia sẻ. « Cứ để ông ta biết », ông này dè bỉu với một nụ cười hằn học, « Ông ta sẽ biết khi đã quá muộn. » Người mới đến hơi ngả đầu ra sau, đôi mắt đen của chàng sáng lên nửa băn khoăn, nửa vỡ lẽ. Chàng thở dài. « Vậy là tôi đã đoán đúng », chàng nói lạnh lùng, «các ngài quả nhiên đang có ý phản nghịch. » « Thưa ngài Bá tước Aquilla », Fabrizio trả lời chàng, « chúng tôi phản bội một người để tận trung phục vụ một đất nước. » « Nước nào vậy ? » Bá tước Aquilla vặn lại khinh miệt. « Công quốc Babbiano. » « Các ngài phản bội Công tước để trung thành với công quốc ? », chàng hỏi, giọng càng có vẻ khinh bỉ. « Thưa các ngài, tôi thấy khó mà tiêu hoá được lý lẽ của các ngài. » Đám người dự mưu lặng lẽ trao đổi với nhau bằng những cái nhìn bàng hoàng. Họ đã không hề trông chờ một thái độ như vậy từ phía chàng bá tước, và nhìn nhau tự hỏi liệu có nên đi xa hơn không. Cuối cùng, khẽ thở dài, Fabrizio quay về phía Aquilla. « Thưa ngài bá tước », ông bắt đầu vói giọng nghiêm trang bình thản, « Tôi là một người già cả ; tên tuổi của tôi cũng như của gia đình tôi chưa hề có chút tỳ vết. Ngài không thể cho tôi là một kẻ tệ hại đến mức đã ngần này tuổi đầu còn cam tâm nhúng tay vào những chuyện có thể làm hoen ố bản thân hay danh dự gia đình. Làm một tên phản nghịch, thưa ngài, là một tội lỗi xấu xa. Hơn ai hết, không ai trong chúng tôi đáng bị kết án nặng nề như thế. Xin ngài hãy làm ơn lắng nghe tôi nói hết ; và sau khi đã biết tất cả, hãy phán xét chúng tôi. Không, chúng tôi trông đợi ở ngài nhiều hơn phán xét, thưa ngài bá tước. Chúng tôi mong ngài hãy dẫn dắt chúng tôi cứu quê hương chúng ta khỏi mối hoạ huỷ diệt đang đe doạ. Chúng tôi xin hứa sẽ không manh động khi chưa được ngài chấp thuận- sẽ chỉ làm theo sự chỉ huy của ngài. » Francesco del Falco, bá tước Aquilla, nhìn người quý tộc già, vẻ khinh miệt không còn nữa, thay vào đó là cái nhìn suy tư pha lẫn vẻ ngạc nhiên. Chàng khẽ gật đầu như để chấp nhận lời thỉnh cầu. « Xin ngài cứ nói, », chàng trả lời. Fabrizio vừa định nói tiếp thì vẫn lại là quý ngài Ferrabraccio chen ngang vào yêu cầu Aquilla thề trên danh dự hiệp sĩ sẽ không phản bội họ trong trường hợp chàng từ chối đề nghị của những người dự mưu. Sau khi chàng thề và mỗi người đều đã xoay xở tìm được cho mình một chỗ ngồi tàm tạm trong căn lều cũ nát, Fabrizio tiếp tục vai trò phát ngôn viên cho cả toán quý tộc dự mưu và tiết lộ lý do khiến ông mời bá tước đến dự cuộc hẹn của họ. Bằng vài câu ngắn gọn, ông tóm lược tính cách của Gian Maria Sforza, công tước tại vị của Babbiano, người đã được ông bác hùng mạnh Lodovico Sforza, công tước Milan, đặt lên ngai. Ông phàn nàn về sự xa hoa quá độ, về những cuộc truy hoan thâu đêm suốt sáng và thói quen chểnh mảng chính sự của đức ông công tước, cũng như sự bê trễ của ngài trong việc hoàn thành những trách nhiệm mà cương vị cao quý của ngài đòi hỏi. Tất cả được Fabrizio nhắc đến bằng thái độ chừng mực và tế nhị, một sự thận trọng hoàn toàn không thừa vì Francesco del Falco là em họ công tước. « Đến lúc này, thưa ngài bá tước », ông tiếp tục, » ngài không thể không biết sự bất bình với công tước anh họ ngài đang lan rộng trong dân chúng. Năm ngoái đã xảy ra vụ mưu phản của Bacolino suýt nữa đã khiến chúng ta rơi vào tay Florence. Vụ bạo động bất thành, nhưng một cuộc nổi loạn tiếp theo rất có thể sẽ không thất bại. Sự mất lòng dân ngày càng trầm trọng của công tước có thể khiến nhiều người hơn hưởng ứng một khi bạo loạn lại nổ ra, và chúng ta sẽ không còn là một quốc gia độc lập nữa. Sự tồn vong của nước nhà đang bị đe doạ. Không chỉ bởi nội loạn, mà cả ngoại xâm nữa. Kẻ xâm lăng đó chính là Cesare Borgia. Quyền lực ghê gớm của hắn lan nhanh như dịch bệnh trên toàn cõi Italy mà hắn đang ngoạm dần từng mảng chẳng khác gì người ta nhâm nhi một chùm nho, hết quả này đến quả khác. Đôi mắt tham lam của hắn đã bắt đầu nhòm ngó chúng ta. Và chúng ta, hoàn toàn chưa chuẩn bị sẵn sàng, có gì trong tay để đương đầu với sức mạnh áp đảo của công tước Valentinois ? Tất cả ngài công tước của chúng ta đều biết, vì chúng tôi đã nói đi nói lại không biết bao nhiêu lần với đức ngài, cũng như chúng tôi đã chỉ ra cho công tước lối thoát. Thế nhưng xem ra với mối nguy hiểm đang đe doạ mình, ngài công tước cũng phớt lờ như ngài đã luôn dửng dưng với sự cứu rỗi của bản thân. Công tước dành toàn bộ tâm trí cho tiệc tùng, khiêu vũ, săn bắn và đủ trò tiêu khiển phóng túng khác, và nếu chúng tôi có đánh bạo ngỏ lời can ngăn thì nguyền rủa và đe doạ là câu trả lời duy nhất chúng tôi nhận được. » Da Lodi ngừng lại, dường như nhận ra ông bắt đầu không kiềm chế nổi sự phẫn nộ trong lời nói. Nhưng các chiến hữu của ông một cách vô thức, tiếp tục lầm rầm khẳng định một cách phẫn nộ ngay cả khi nhà quý tộc già đã ngừng lời. Francesco nhíu mày thở dài. « Hỡi ôi, tôi cũng hoàn toàn ý thức được mối nguy hiểm các ngài nói tới. Nhưng… các ngài muốn trông đợi gì ở tôi ? Tại sao lại kể với tôi nỗi lo của các ngài ? Tôi không phải là chính khách. » « Chúng ta không cần đến chính khách ở đây. Babbiano cần một người lính ; một người có thể tổ chức một đội quân để chống lại cuộc xâm lược sắp tới…hay đúng hơn đã bắt đầu. Tóm lại, thưa ngài bá tước, chúng tôi cần một người lính như ngài. Trên toàn cõi Italy, còn có ai, cho dù là phụ nữ, trẻ con, là không biết đến danh tiếng của bá tước Aquilla ? Những kỳ công anh hùng của ngài trong cuộc chiến giữa Pisa và Florence, những chiến thắng oanh liệt và tài thao lược của ngài dưới màu cờ của Venice, tất cả đã trở thành đề tài cho những bản anh hùng ca. » « Ngài Fabrizio ! » Francesco kêu khẽ, tìm cách hãm lại tràng ca tụng nhiệt tình của người đối thoại, gò má rám nắng của chàng hơi đỏ lên. Nhưng Da Lodi vẫn tiếp tục không để ý : « Và ngài, bá tước, một người đã thể hiện mình can đảm như thế khi làm tư lệnh lính đánh thuê cho nước ngoài, chẳng lẽ lại là người chần chừ khi đem tài thao lược và sự can trường của bản thân ra chống lại kẻ thù của chính quê hương mình ? Không bao giờ. Chúng tôi biết tâm hồn yêu nước của Francesco del Falco, và hy vọng vào điều đó. » « Và các ngài đã không lầm », chàng trả lời chắc nịch, « Khi cần thiết các ngài sẽ thấy tôi luôn sẵn sàng. Nhưng cho đến lúc đó, về tất cả sự chuẩn bị cần thiết … tại sao các ngài không nói với công tước như đã nói với tôi ? » Một nụ cười buồn khẽ thoảng qua khuôn mặt cao quý của da Lodi, trong khi Ferrabraccio, vẫn với vẻ bộc trực đến lỗ mãng, bật cười mỉa mai rồi trả lời : « Liệu chúng tôi có thể nói với ông ta », ông đáp, « về thao lược, về lòng can đảm, về trận mạc được không ? Làm thế thì cũng ngược đời như đi nhắc nhở Roderigo Borgia làm tròn bổn phận của đấng chăn chiên, cũng vô ích như đi phun nước hoa lên một đống phân vậy. Những gì nói được với Gian Maria chúng tôi đã nói cả, và cho dù năn nỉ khuyên nhủ với ông ta cũng vô ích hệt như với ngài, chúng tôi cũng đã chỉ ra cho ông ta một cách khác để cứu nguy Babbiano và tránh cuộc tấn công của Cesare Borgia. » « A ! Và cách đó là gì ? » chàng bá tước hỏi lại, cái nhìn hướng về Fabrizio. « Một cuộc hôn nhân với gia đình công tước Urbino, » Lodi trả lời, « Guiđobaldo có hai cô cháu gái. Chúng tôi đã đánh tiếng với ông ta, và ông ta cũng sẵn sàng chấp nhận cuộc hôn nhân mà chúng tôi đề nghị. Trở thành thông gia với gia đình Montefeltro, chúng ta sẽ không chỉ nhận được sự giúp đỡ từ Guidobaldo, mà cả từ Bologna, Perugia, Camerio, cũng như một số nước nhỏ khác hiện đã là liên minh với Urbino. Như thế chúng ta có thể đối đầu với Cesare Borgia bằng một liên minh đủ mạnh để khiến y không bao giờ dám đặt chân lên lãnh thổ của chúng ta. » « Tôi cũng đã nghe nói về chuyện này, » Francesco nói, « nếu thành công đó sẽ là một bước đi khôn ngoan. Đáng tiếc là cuộc thương lượng đã không đi đến đâu. » « Thế nhưng tại sao nó lại không đi đến đâu ? Quỷ tha ma bắt, tại sao ? », Ferrabraccio nóng nảy gầm lên, nắm tay hộ pháp đấm mạnh xuống chiếc bàn như muốn đập vụn nó ra từng mảnh, « Tại vì Gian Maria không có hứng lấy vợ ! Cô bé chúng tôi làm mối cho ông ta xinh xắn như một nàng tiên vậy, ấy thế mà ngay cả đi xem mặt ông ta cũng không màng. Bởi vì ở Babbiano có một cô ả … » « Thưa ngài bá tước, » Fabrizio vội vàng cắt ngang, sợ rằng ông bạn sẽ đi quá xa, « mọi chuyện đúng như Ferrabraccio đã nói. Đức ông công tước không muốn cưới vợ. Và chính chuyện này đã khiến chúng tôi quyết định hẹn gặp ngài ở đây tối nay. Công tước sẽ chẳng làm gì để cứu công quốc, và chúng tôi chỉ còn biết trông cậy vào ngài. Dân chúng đứng về phía chúng tôi ; trên đường phố Babbiano mọi người nói công khai rằng ngài là công tước mà họ muốn để trị vì và bảo vệ họ. Thể theo ý nguyện thiêng liêng của nhân dân, » ông quý tộc già đứng dậy, kết thúc với giọng run rẩy vì xúc động, « và nói lên tiếng nói của nhân dân, mà chúng tôi chỉ là đại diện, chúng tôi xin trao cho ngài vương miện công tước của Babbiano. Hãy trở về cùng chúng tôi đêm nay, thưa chúa công, và sáng mai, chỉ cần hai mươi tay thương hộ tống, chúng ta sẽ tiến vào Babbiano để suy tôn ngài làm công tước. Ngài cũng không phải lo đến sự chống trả nào, cho dù nhỏ nhất. Ở Babbiano chỉ còn một người còn trung thành với Gian Maria – chính là gã Masuccio mà ngài nói đã trông thấy tối nay. Mà cũng chỉ vì Gian Maria đã trả tiền để mua sự trung thành của gã và năm chục tên lính đánh thuê Thuỵ Sĩ . Hãy hành động, thưa đức ông ! Hãy để lý trí của ngài nói với ngài xem một người trung thực có cần đắn đo hay không trước khi phế bỏ một ông hoàng mà ngai vàng chỉ được che chở bởi sự bảo vệ thuê mướn từ năm mươi tay lính đánh thuê nước ngoài. » Tiếp theo bài diễn thuyết đầy ấn tượng là một khoảng yên lặng. Da Lodi vẫn đứng, những người khác đều ngồi, ánh mắt khẩn khoản hướng về chàng bá tước, chăm chú chờ đợi lắng nghe câu trả lời. Họ im lặng như vậy một lúc lâu, trong khi Aquilla bất động như một bức tượng. Chàng ngồi lặng thinh, tay nắm chặt thành ghế, đầu khẽ cúi dần về phía trước đến khi cằm chạm ngực, vầng trán cao nhíu lại, tối sầm. Trong khi mọi người chờ đợi câu trả lời của chàng, một trận chiến âm thầm bùng lên dữ dội trong chàng. Quyền lực chàng không hề trông đợi chợt đến quá bất ngờ ngay trong tầm tay, và sẽ là của chàng, chỉ cần chàng dang rộng vòng tay ra đón nhận, đã làm chàng choáng váng, đôi mắt hoa lên trong khoảnh khắc. Nhanh như một tia chớp chàng thấy mình trở thành công tước Babbiano. Trôi qua vùn vụt trước mắt chàng là hình ảnh của một sự nghiệp hiển hách khiến tên tuổi của chàng và tiếng tăm của Babbiano lan rộng khắp Italy. Từ một công quốc vô danh, lòng ái quốc và tài thao lược của chàng sẽ nâng Babbiano lên ngang hàng những quyền lực lớn nhất Italy – ngang hàng với Florence, Venice hay Milan. Chàng nhìn thấy lãnh thổ công quốc không ngừng mở rộng, các nước láng giềng trở thành chư hầu dưới sức mạnh của chàng. Chàng nhìn thấy mình chiếm lấy từng dặm đất Romagna từ tay Borgia, săn lùng gã như chàng vẫn săn lợn rừng ở vùng đầm lầy Commachio, hoặc buộc gã phải bỏ chạy về Vatican nấp sau vạt áo chùng của cha gã - mảnh đất cuối cùng chàng cho phép gã được đặt chân lên trên trái đất. Chàng mơ màng về một Babbiano hùng mạnh, được tất cả các nước cộng hoà cầu cạnh tìm kiếm sự liên minh để chống lại mối đe doạ từ Pháp và Tây Ban Nha. Chàng nhìn thấy tất cả lướt qua trước mắt, và sự cám dỗ như xiết chặt tâm hồn thượng võ của chàng trong vòng đai sắt. Thế rồi một bức tranh hoàn toàn khác hiện ra trước mắt chàng. Trong những lúc thời bình chàng sẽ làm gì ? Trong cung điện chàng luôn cảm thấy buồn chán vô vị. Chàng được sinh ra để sống cuộc đời phóng khoáng của một người lính chứ không phải cho không khí tù hãm của cung đình. Để đánh đổi lấy quyền lực chàng sẽ phải hy sinh gì ? Tự do vô giá của chàng. Để trở thành chủ nhân của người khác trong một số việc, để làm nô lệ cho họ trong nhiều việc hơn thế. Trên danh nghĩa là người trị vì, trên thực tế là kẻ bị cai quản đủ đường. Cho tới khi chàng không còn làm hài lòng các chủ nhân thực sự của chàng nữa. Đến lúc đó, cũng vào một buổi hội họp ban đêm như tối hôm nay, người ta sẽ lại âm mưu để thay thế chàng bằng người khác như chàng đang được mời mọc thay thế Gian Maria. Cuối cùng, chàng nghĩ tới người mà chàng đang được thúc giục cướp lấy cơ nghiệp. Đó là anh họ chàng, con trai người chị gái của cha chàng, một người trong huyết quản đang chảy cùng dòng máu với chàng. Sau hồi lâu, chàng ngẩng đầu lên nhìn những khuôn mặt lo lắng nửa tối nửa sáng dưới ánh đèn tù mù. Một nụ cười lạnh lùng thoáng qua giây lát trên cặp môi cương nghị của chàng. « Tôi chân thành cảm ơn vinh dự lớn lao các ngài đã dành cho tôi »,chàng trả lời chậm rãi, « một vinh hạnh mà tôi e mình hoàn toàn không xứng đáng. » Tất cả đồng thanh lên tiếng phản đối. « Hay ít nhất, đó là một vinh dự tôi không thể chấp nhận. » Tiếp theo là một khoảnh khắc im lặng, khuôn mặt đám quý tộc dự mưu đang hăng hái nhiệt tình bỗng chốc ỉu xìu bất bình. « Nhưng tại sao, thưa ngài ? », ông lão Fabrizio kêu lên, đưa tay về phía chàng, giọng nghẹn ngào. « Tại sao kia chứ, thề có Đức Mẹ Thánh Thần ? » « Bởi vì – hãy nói đến chỉ một thôi bên cạnh các lý do khác - người các ngài yêu cầu tôi lật đổ và thay thế là người cùng dòng máu với tôi. » Và nếu giọng nói của chàng không hoàn toàn bình thản đám người dự mưu có thể cho rằng chàng đang lên án họ. « Tôi đã nghĩ, » anh chàng Fanfulla đẹp trai bảnh bao đánh liều chen vào, « với một người như bá tước, nước nhà và lòng ái quốc sẽ quan trọng hơn huyết thống cơ đấy. » « Cậu nghĩ không sai đâu, Fanfulla. Tôi đã chẳng vừa nói rằng đó chỉ là một bên cạnh các lý do khác sao ? Hãy nói thử xem, thưa các ngài, lý do nào khiến các ngài tin tôi sẽ trị vì các ngài một cách công minh và khôn ngoan ? Một cách tình cờ vào lúc khủng hoảng này Babbiano cần một người lính lãnh đạo nó. Nhưng đừng để điều này huyễn hoặc các ngài, vì sẽ có lúc một người như thế sẽ không còn thích hợp cho việc trị quốc nữa, cũng như trường hợp của công tước tại vị trong hoàn cảnh hiện nay. Đến lúc đó thì sao đây ? Một chàng hiệp sĩ lang thang là một triều thần biếng nhác và một chính khách tồi. Cuối cùng, các bạn thân mến – vì các ngài muốn biết tất cả những gì diễn ra trong trái tim tôi – còn một sự thật nữa là tôi cũng yêu quý bản thân mình một chút. Tôi yêu quý sự tự do của bản thân, và không hề muốn chết ngạt trong bầu không khí ngập mùi nước hoa của cung đình. Các ngài thấy là tôi đang thẳng thắn với các ngài. Tôi luôn ưa thích lang bạt trên thế gian này, vũ khí đeo sau lưng, tự do như cơn gió trên trời cao. Liệu một chiếc vương miện công tước và một chiếc áo choàng tím … » Chàng bật cười vang thành tiếng. « Vậy đấy, thưa các bạn ! Các ngài đã có quá đủ lý do rồi. Một lần nữa tôi cảm ơn các ngài, và lấy làm tiếc rằng, để được là tôi, tôi không thể trở thành người các ngài muốn. » Chàng ngồi lại xuống ghế, nhìn họ với ánh mắt chưa khi nào lại buồn bã đến thế. Sau một giây im lặng, da Lodi cất tiếng, với giọng run run, cầu khẩn chàng suy nghĩ lại quyết định của mình. Ông lão còn đang toan tiếp tục thuyết phục thì Aquilla cắt ngang ngăn lại. « Tôi đã cân nhắc kỹ rồi, thưa ngài Fabrizio. » chàng trả lời dứt khoát, « không gì có thể lay chuyển được tôi đâu. Nhưng tôi xin hứa với các ngài điều này : tôi sẽ tới Babbiano tìm cách thuyết phục anh họ tôi. Tôi sẽ làm hơn thế ; tôi sẽ thuyết phục công tước trao cho tôi việc chỉ huy quân đội. Nếu được công tước chấp thuận, tôi sẽ tổ chức lại lực lượng của chúng ta, đồng thời tìm cách liên minh với các nước láng giềng để bảo đảm, ít nhất ở mức độ nào đó, an ninh của chúng ta. » Đám quý tộc vẫn cố tìm cách thuyết phục chàng, nhưng vô ích. Cuối cùng, da Lodi, với khuôn mặt rầu rĩ, đứng lên cảm ơn chàng vì lời hứa sẽ sử dụng ảnh hưởng của chàng với Gian Maria. « Ít nhất chúng tôi muốn cảm ơn ngài bá tước về chuyện này ; về phía mình, chúng tôi sẽ tận dụng mọi ảnh hưởng chúng tôi có được ở Babbiano để chức chỉ huy quân đội được trao cho ngài. Chúng tôi những muốn thấy ngài được tôn vinh ở một địa vị cao quý hơn, và nếu ngài thay đổi ý định… » « Đừng hy vọng vào điều đó, » bá tước trả lời, lắc đầu nghiêm nghị. Đột nhiên, trước khi có ai kịp nói thêm điều gì, chàng trẻ tuổi Fanfulla degli Arcipreti đứng bật dậy, đôi lông mày nhíu lại, khuôn mặt điển trai hiện vẻ cảnh giác lo lắng. Chàng đứng yên một giây như vậy rồi lao vội về phía cửa, mở rộng cửa ra rồi đứng lắng nghe, trong khi mọi người đều nhìn theo với vẻ ngạc nhiên. Nhưng không cần đợi đến khi chàng vừa quay lại vừa kêu lên kêu báo động, mọi người đã hiểu nguyên nhân khiến chàng đột nhiên hành động lạ lùng như vậy. Ngay sau khi tiếng động do cánh cửa bị mở đột ngột gây ra vừa dứt, tất cả đều nghe thấy tiếng bước chân theo nhịp đều đặn từ xa vẳng lại. ... Mời các bạn đón đọc Tình Yêu Ra Trận của tác giả Rafael Sabatini.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Con Lừa Và Tôi - Juan Ramón Jiménez
Đây là một chuỗi chuyện ngắn nối tiếp nhau, đầy cảnh sắc và tình tiết của một ngôi làng Tây Ban Nha rất gần gũi với một ngôi làng Việt Nam: con chim én, giếng nước, rặng bìm bịp…..Người với vật gắn bó với nhau như đôi bạn, quen mặt từng gã Bô-hê-miên, thằng mọi, đứa bé nghèo khó hay tật nguyền, nhớ từng gốc cây bạc hà, cùng mơ những giấc mơ hẩm hiu giống nhau, đem lòng yêu những vẻ đẹp phù du nhất….cho đến ngay cuối cùng bỗng hóa thành thê lương. Truyện kết thúc ở cảnh thi sĩ ra đồng đứng bên ngôi mộ của lừa. *** Juan Ramon Jiménez (24 tháng 12 năm 1881 – 29 tháng 5 năm 1958) là nhà thơ Tây Ban Nha đoạt giải Nobel Văn học năm 1956. Juan Ramón Jiménez sinh ở Moguer, gần Huelva, học xong cao đẳng Jimenez vào Đại học Seville nhưng bỏ để đi làm báo. Năm 1900, xuất bản tập thơ đầu tiên Almas de violeta (Hồn hoa tím) và tiếp theo đó gần như mỗi năm một tập thơ ra đời. Sáng tác thời kỳ đầu của ông chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa lãng mạn Đức và chủ nghĩa tượng trưng Pháp, giàu cảm xúc trữ tình với những hình tượng thiên nhiên đầy màu sắc. Juan Ramon Jiménez mất tại Puerto Rico năm 1958, hưởng thọ 76 tuổi. Thơ của ông được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới, trong đó có tiếng Việt. Tác phẩm: Almas de violeta (Hồn hoa tím, 1900), thơ Ninfeas (Những bông huệ nước, 1900), thơ Rimas (Vần điệu, 1902), thơ Arias tristes (Những khúc ca buồn, 1903), thơ Jardines lejianos (Những khu vườn xa, 1904), thơ Pastorales (Những bài thơ đồng quê, 1905), thơ Elejias puras (Những khúc bi ca, 1908), thơ Baladas de primavera (Những khúc ca xuân, 1910), thơ La soledad sonora (Sự cô đơn âm vang, 1911), thơ Poemas májicos y dolietes (Những bài thơ huyền ảo đau buồn, 1911), thơ Laberinto (Mê cung, 1913), thơ Estio (Mùa hè, 1915), thơ Sonetos espirituales (Những bài sonet trí tuệ, 1917), thơ Diario de un poeta recién casado (Nhật ký nhà thơ mới cưới vợ, 1917), thơ Eternidades (Vĩnh cửu, 1918), tập thơ Piedra y cielo (Đá và bầu trời, 1919), thơ Piedra (Thơ ca, 1923), thơ Belleza (Vẻ đẹp, 1923), thơ Animal de fondo (Con thú từ độ sâu tâm hồn, 1949), thơ *** Tôi đã bảo La Rô:  - Mình đợi đoàn xe ngựa. Xe đưa tiếng rì rào của rừng ở xa của Công nương, đưa đến cái huyền bí của rừng thông Thần Linh, cái mát mẻ từ các đầm lầy Chư Mẫu và Tần Bì Song Thụ, mùi vị vùng Rocina…  Tôi đã đem con lừa, đẹp và lộng lẫy, cho nó ve vản lớt phớt đám thiếu nữ đường Máy Nước, nơi đây mặt trời lay lắt buổi chiều đến tàn tạ, thành một giải hồng mờ ẩn, trên cái chái hiên thấp có quét vôi. Kế đó chúng tôi chọn bờ đường cạnh Đồng Lò mà đứng, từ đây ta thấy rõ trọn con đường Đồng Bằng.  Chưa chi, những chiếc xe ngựa đầu tiên đã ló dạng, leo dốc. Mưa phùn dịu nhẹ, thường xảy ra vào những ngày lễ Thánh mẫu Rocio, rơi từ những đám mây hoa cà, và nhanh chóng tan xuống các thửa nho xanh. Nhưng thiên hạ chẳng buồn ngước mắt nhìn mưa.  Dẫn đầu, cưỡi trên lưng lừa, la, ngựa, được kết giải theo lối phương Đông và bờm thì bện tết, là những cặp nam nữ đính ước hân hoan: trai, thật tươi; gái, cân quắc. Cả một đoàn người rậm đám nhặm lẹ, qua qua lại lại, không ngớt đuổi bắt, liền lưng thành một lễ hội xa mã vĩ đại.  Theo sau, trờ tới chiếc xe Lưu Linh huyên náo, cục mịch ngả nghiêng. Kế đó ta thấy xuất hiện, giống như một dãy giường ngủ, một đoàn xe trải vải trắng, chở những thiếu nữ tóc đen, chắc nịch, đương độ, ngồi dưới lọng, vừa vỗ vào mặt trống có chuông lủng lẳng, vừa lớn tiếng ca hát.  Vẫn còn ngựa, vẫn còn lừa….  Viên phụ thủ giáo đường, đầu hói, xương xẩu, đỏ gấc, mũ rộng vành hất ngược sau lưng. Và cây trượng vàng, ở thế nghỉ, chống tựa vào bàn đạp ngựa, y dõng dạc:  - Vạn tuế Đức Bà Rociooo! Vạn tuế!  ... Mời các bạn đón đọc Con Lừa Và Tôi của tác giả Juan Ramón Jiménez.
Con đường xứ Flandres - Claude Simon
Con đường xứ Flandres, xuất bản năm 1960, được Claude Simon viết dựa trên những trải nghiệm của chính ông trong những năm chiến tranh Thế giới thứ II.   Tác phẩm là những hồi tưởng của nhân vật chính – Georges – về trận đánh vào năm 1940 mà trung đoàn kỵ binh của anh đã thất bại và về quãng thời gian anh ở trong trại tập trung của quân Đức.    Sĩ quan chỉ huy của Goerges – de Reixach – được giải đi bởi một người làm công cho anh ngày trước, người có lẽ đã từng có quan hệ tình cảm với Corinne, vợ của Reixach. Georges chứng kiến cảnh de Reixach bị một xạ thủ bắn chết. Anh nghi ngờ rằng de Reixach cố tình phơi mình ra trước họng súng để chịu chết và anh bị ám ảnh bởi sự bí ẩn của việc tự sát này: liệu rằng đó là do de Reixach cảm thấy xấu hổ vị thất trận hay vì biết được vợ mình ngoại tình? Trong hình dung của Georges, Corinne là một phụ nữ vô cùng khêu gợi. Sau khi chiến tranh kết thúc, anh ngủ với cô cốt để tìm lời giải đáp cho điều bí ẩn về cái chết của de Reixach và cả để đồng cảm với Reixach nhưng không đạt được kết quả.    Ẩn chứa đằng sau việc lên án chiến tranh, cuốn tiểu thuyết còn khai thác những tính cách của con người, nhưng dục vọng và những hiểu biết hạn chế của chúng ta về các sự việc xảy ra. Với tựa gốc “Description fragmentaire d'un désastre” (tạm dịch là: Những mô tả rời rạc về thảm họa), cuốn tiểu thuyết không sử dụng lối kể truyện thông thường, kể theo trình tự mà lại thuật lại mọi sự kiện theo lối “xây dựng cảm nhận dựa trên trí nhớ” (lời của Simon), quyện chặt với một chuỗi các sự kiện tạo nên những móc xích xung quanh thời khắc xảy ra cái chết của de Reixach, và lời kể khi thì ở ngôi thứ nhất, khi thì ở ngôi thứ ba số ít. Chưa hết, các sự kiện, sự việc trong cuốn tiểu thuyết được diễn tả bằng cả những lời độc bạch của nhân vật chính lẫn những lời khai của một người bạn tù – Blum và của Corinne. *** Claude Eugène-Henri Simon (10 tháng 10 năm 1913 – 6 tháng 7 năm 2005) là nhà văn Pháp đoạt giải Nobel Văn học năm 1985.   Claude Simon sinh ở Antananarivo, Madagascar, là con trai của một sĩ quan đã hy sinh khi Thế chiến thứ nhất mới bắt đầu. Cùng với mẹ và ông bà ngoại, Simon về Perpignan (Pháp) và bắt đầu đi học. Simon tốt nghiệp trường trung học Stanislas ở Paris, sau học ở Đại học Oxford và Đại học Cambridge (Anh). Ông mơ trở thành họa sĩ nhưng phải từ bỏ ý định này sau một thời gian theo học hội họa và quay sang viết văn.   Năm 1936, Claude Simon sang Barcelona tham gia đội quân tình nguyện quốc tế chiến đấu chống lại tướng Francisco Franco. Trong Thế chiến thứ hai, ông chiến đấu trên nhiều mặt trận và bị quân Đức bắt làm tù binh năm 1940. Sau khi trốn thoát khỏi trại tù binh, Simon trở về tham gia phong trào Kháng chiến ở thị trấn Perpignan.   Thành công đầu tiên trong văn học của Claude Simon đến vào năm 1945 sau khi xuất bản tiểu thuyết Le tricheur (Kẻ lừa đảo). Tác phẩm thời kì này viết theo lối trần thuật truyền thống, chịu ảnh hưởng của Fyodor Mikhailovich Dostoevsky, William Faulkner, Marcel Proust và triết học chủ nghĩa hiện sinh.   Từ giữa thập niên 1950 trở đi Claude Simon bắt đầu tìm tòi, đặt khởi đầu cho trào lưu Tiểu thuyết mới với đặc trưng là cốt truyện “hiện thực” trở thành thứ yếu, còn trung tâm chuyện kể là những miêu tả và các hình tượng không kết gắn với nhau về mặt thời gian, tất cả các cảm xúc đồng hiện trên một bình diện như trên một bức tranh. Năm 1960 Simon kí tên vào “Tuyên ngôn 121” của các trí thức Pháp ủng hộ phong trào đòi độc lập cho Algérie. Tiểu thuyết La route de Flandres (Những con đường xứ Flandres) cũng được xuất bản vào năm này đã mang lại cho ông giải thưởng của tạp chí Express năm 1961. Có thể nhận thấy trong tác phẩm này sự đứt đoạn giữa các sự kiện và ngôn ngữ mô tả chúng - một kĩ thuật mới trong phong cách tiểu thuyết - thể hiện kiếp người vô nghĩa, những đoạn đời không lối thoát, hoặc chỉ dẫn đến cái chết mà thôi. Tiểu thuyết Histoire (Lịch sử, 1967) được trao giải thưởng Meditri. Năm 1973 ông được phong học vị danh dự của Đại học Miền Đông nước Anh.   Từ thập niên 1980, Claude Simon trở về quê Perpignan, vừa viết văn vừa trồng nho. Với tiểu thuyết Les Géorgiques (Đồng nội, 1981), Simon bắt đầu xa rời phong cách thử nghiệm trong các cuốn sách trước đây của ông. Năm 1985 Simon được trao giải Nobel vì “sự kết hợp trong sáng tác của ông các nguyên tắc của thơ và hội họa”, vì “nhận thức sâu sắc về vai trò của thời gian trong mô tả con người”.   Năm 1989, nhà văn 76 tuổi cho ra đời tiểu thuyết L'acacia (Cây keo hoang) được đánh giá cao; cùng với Les Géorgiques là hai tác phẩm tự thuật độc đáo, trong đó lịch sử và hư cấu, quá khứ và hiện tại đan quyện vào nhau trong một hình thức kể chuyện vừa hư vừa thực. Claude Simon mất ở Paris năm 2005.   Tác phẩm:   - Le tricheur (Kẻ lừa đảo, 1945), tiểu thuyết   - La corde raide (Dây căng, 1947), tiểu thuyết   - Gulliver (1952), tiểu thuyết   - Le sacre du printemp (Mùa xuân đăng quang, 1954), tiểu thuyết   - Le vent (Gió, 1957), tiểu thuyết   - L'herbe (Cỏ, 1958), tiểu thuyết   - La route de Flandres (Con đường xứ Flandres, 1960), tiểu thuyết   - Le palace (Cung điện, 1962), tiểu thuyết   - La chevelure de Bérénice (Mái tóc Berenice, 1965), truyện ngắn   - Histoire (Lịch sử, 1967), tiểu thuyết   - La bataille de Pharsale (Trận Pharsale, 1969), tiểu thuyết   - Orion aveugle (Chòm Thiên Lang mờ tối, 1970), tiểu luận   - Les corps conducters (Những thân xác dẫn đường, 1971), tiểu thuyết   - Triptyque (Bức họa tam bình, 1973), tiểu thuyết   - Leçon de chose (Bài học vạn vật, 1975)   - Les Géorgiques (Đồng nội, 1981), tiểu thuyết   - L'acacia (Cây keo hoang, 1989), tiểu thuyết   - La Jardin des plantes (Vườn bách thảo, 1997), tiểu thuyết Mời các bạn đón đọc Con đường xứ Flandres của tác giả Claude Simon.
Cỏ - Claude Simon
Với Cỏ, sự phân hóa không mang tính tổng thể quy mô như ở Con đường Flandres mà xuất hiện trong cái thường nhật gần gũi của cuộc đời. Một bà lão 84 tuổi, đúng hơn là một cô gái già, nằm chờ chết trong một gian phòng tối tăm lạnh lẽo toát mùi nước Cologne rẻ tiền và mùi hoa tàn úa quen thuộc. Bà lão đợi chết, đang chết, bận bịu với cái chết, tập trung vào cái chết trong cô đơn, ngạo nghễ, cho dù bà không hay biết gì nữa, không nói năng, không cử động. Bà không còn ai để khóc cho mình ngoài người em trai, có lẽ, cũng đã già với tấm thân nặng nề in đậm dấu ấn thời gian. Đó là một cái chết bình thường của một người con hình thường đã sống một cuộc đời đơn điệu trong sự cần cù, giản dị, đượm phần khắc khổ, đạo hạnh. Qua những hồi tưởng miên man, đứt đoạn của Louise, người cháu dâu, đó là một người con có hiếu, một người chị hết lòng với em, đã giúp em thực hiện giấc mơ của người cha mù chữ suốt đời còng lưng trên mảnh đất: trở nên người có học thức và mang học thức của mình truyền thụ cho kẻ khác. Kết quả là người em đã trớ thành một giáo sư đại học, đã lập gia đình, có con, có dâu, nói chung có một địa vị xã hội đáng kể trong khi người chị gương mẫu kia vẫn một đời sống ở tỉnh lẻ với nghề giáo viên khiêm tốn. Những giờ phút hấp hối của người cô chồng là dịp để Louise ôn lại, ráp lại những mảnh vụn làm nên một số phận, đó cũng là thời gian của tấn bi kịch riêng nơi nàng: ý định cùng người yêu về sống tại một thành phố lạ và quá trình gãy đổ của nó, tất cả diễn ra âm thầm nhưng khốc liệt làm sao! Có thể nói, nhân vật trung tâm ở đây là thời gian, thời gian chi phối tất cả, hiện thân nơi tất cả: từ sự nảy nở và mục rữa của hoa trái đến tiếng mưa rơi, tiếng nước róc rách qua những đồng có, những cánh rừng, những thung lũng… Ðặc biệt sự tàn phá của nó nơi thân xác con người có lẽ khóc liệt hơn cả: thân xác bị gặm mòn bởi từng khoảnh khắc trôi qua của bà lão, thân xác biến dạng vì tuổi tác của người em trai, thân xác xấu xí núp sau những trang phục loè loẹt, giả tạo của bà vợ…: con người “chứng kiến sự tan rã của mình ngay khi còn sống”. Qua lần vách ngăn, Louise đã theo dõi tấm bi hài kịch của đôi vợ chồng già, từ cơn ghen ấp ủ suốt 40 năm của người vợ tới cuộc giằng co xô xát vừa thô bạo vừa tha thiết, tội nghiệp của hai người, trong đó có tiếng khóc, tiếng vỗ về..., đó phải chăng là cố gắng sau cùng của sự sống chống lại ám ảnh của cái chết? Nhưng đó là một cố gắng vô vọng, một cách nào đó lừa dối chính mình. Còn Louise? Cái chết của người cô chồng, người duy nhất trong gia đình nàng có cảm tình, là con dao cắt đứt mọi ràng buộc giữa nàng với nhà chồng: “Giờ đây cô sắp chết, vậy chẳng còn gì nữa”. Nàng sẽ làm lại cuộc đời tại một thành phố với người yêu, điều lẽ ra nàng phải thực hiện từ lâu. Nhưng tại sao nàng trù trừ, không dứt khoát khi ý đồ đã có cơ hội thực hiện? Nàng trù trừ không phải vì hối hận mà có lẽ vì chính tâm hồn nàng cũng rã rời, mệt mỏi, bị nhiễm độc bởi bầu không khí nồng nặc mùi vị của cái chết, của sự băng hoại ở chung quanh, ở sát kề bên thân thể. Nàng không giải thích hay không thể giải thích được. Nàng nghĩ: “Mình đã chết”, và ý nghĩ đó vang vọng trong nàng như một điệp khúc lạnh lùng, ghê rợn. Trước lời hẹn hò của người yêu về chuyến đi, nàng chỉ buông những tiếng “vâng, dạ…” hững hờ và rỗng tuếch. Và nàng biết nàng sẽ không tới, đồng thời cũng biết chàng biết rõ điều đó, và chính chàng cũng sẽ không tới. Nàng tự hỏi tất cả phải chăng chỉ là một sự dối trá, tự đánh lừa? Nói khác đi, tình yêu ở đây cũng chỉ là một sự thất bại thấy trước, như tình yêu giữa nàng và Georges, giữa đôi vợ chồng già kia (bố mẹ chồng của nàng). Khi xem một tấm ảnh cũ rơi ra từ mớ kỷ vật của người đang hấp hối, Louise đã tưởng tượng một cuộc tình nên thơ trong sáng nhưng bất thành của cô gái già trọn đời sống độc thân. Đó là một hình ảnh đẹp hiếm thấy về tình yêu trên những trang sách của Claude Simon: một cái gì gần như không có trong hiện thực.   Cũng như hầu hết các tác phẩm khác, Cỏ có bối cảnh làm nền là chiến tranh, ở đây là giai đoạn đen tối của nước Pháp năm 40. Claude Simon luôn trở về với chiến tranh như một bi kịch lớn của lịch sử cuốn hút những thân phận riêng lẻ, bé nhỏ. Điều này giải thích phần nào cái nhìn bi quan về con người trong một thế giới đổ vỡ, băng hoại, trong đó mọi cố gắng đều vô ích khi nó chỉ còn một đặc quyền là tan biến vào hư vô, “đặc quyền chết”. Ở đây, một phần nào, Claude Simon là người tiếp nối trào lưu triết học và văn học hiện sinh trước đó với Heidegger, Sartre, Camus… Trong bối cảnh của một thế giới hao hụt, tàn lụi như thế, con người nhận ra sự tha hóa của mình, nhận ra sự hiện diện của mình chỉ là một sự vô nghĩa (non - sens). Nó chỉ còn cách buông xuôi, thỏa hiệp với chính sự thất bại của mình, một lần cho tất cả. Nhưng đó không phải là giải pháp mà là sự bế tắc của mọi giải pháp.   Thể hiện một sự tan rã mang tính tổng thể nói trên đòi hỏi một thủ pháp nghệ thuật, một chất liệu ngôn từ tương xứng. Ta biết rằng điều cốt yếu ở Claude Simon không phải là kể một câu chuyện có đầu có đuôi với tình tiết, diễn biến hợp lý. Ông thường phá hủy trình tự thời gian và làm đảo lộn tất cả: thời gian chỉ còn là những mảnh vụn chất chồng hỗn độn lên nhau. Thời gian con người đã sống qua, khi tái hiện đã không còn là nó nữa. Nhà văn tìm kiếm một thời gian khác, bằng chữ viết của mình. Thật không ngoa khi nói rằng mỗi tác phẩm của ông chỉ là sự dàn trải của một câu văn duy nhất, không khởi đầu, không kết thúc, nó đứt đoạn và không ngừng sinh sôi nảy nở, nó bất chấp mọi qui luật và trật tự thường tình, nó mặc tình rong chơi giữa cái thực và cái hư, hiện tại và quá khứ. Viết là chất chồng những chữ, trong đó một chữ làm nẩy sinh một câu, một câu làm nẩy sinh một câu khác, một trang sách và cả một quyển sách trong cuộc vận hành liên tục, bất tận với những độc thoại nội tâm, những hồi tưởng, những mơ tưởng chen vào những mô tả, kể lể..., tất cả lẫn lộn vào nhau, tạo thành một tổng thể ở dạng nguyên sinh, và người đọc sẽ nhận ra ở đó một ý nghĩa, đúng hơn, chính cái tổng thể rối rắm phức tạp đó - một bức thảm muôn màu – tự nó hình thành một ý nghĩa sẽ được người đọc cảm nhận theo cái cách của mình. Với ông đề tài thực của tiểu thuyết chính là cuốn tiểu thuyết đang hình thành dưới ngòi bút nhà văn, dưới con mắt người đọc. Người đọc không còn bình yên trong cuộc hành trình hứa hẹn nhiều bất trắc cũng như chính nhà văn, qua những hình tượng những ngôn từ ngổn ngang kia cũng không ngớt dò dẫm, lắng nghe, kiếm tìm. Con đường vùng Flandres kết thúc, thật ra không có gì kết thúc ở đây: tác giả bỏ lửng nhân vật của mình trong trạng thái hoài nghi, mơ hồ (về chính những gì đã trải qua, nhớ lại). Cuộc phiêu lưu của Louise trong Cỏ kết thúc trong trạng thái lững lờ (sự chối từ ở đây không phải là một chọn lựa mà là một cách buông xuôi), khi nàng ngã người lên thảm cỏ, thân thể như tan lẫn vào cành lá, đất cát, khí trời, vào niềm yên ả của đêm thâu (la paix nocturne). *** Claude Eugène-Henri Simon (10 tháng 10 năm 1913 – 6 tháng 7 năm 2005) là nhà văn Pháp đoạt giải Nobel Văn học năm 1985.   Claude Simon sinh ở Antananarivo, Madagascar, là con trai của một sĩ quan đã hy sinh khi Thế chiến thứ nhất mới bắt đầu. Cùng với mẹ và ông bà ngoại, Simon về Perpignan (Pháp) và bắt đầu đi học. Simon tốt nghiệp trường trung học Stanislas ở Paris, sau học ở Đại học Oxford và Đại học Cambridge (Anh). Ông mơ trở thành họa sĩ nhưng phải từ bỏ ý định này sau một thời gian theo học hội họa và quay sang viết văn.   Năm 1936, Claude Simon sang Barcelona tham gia đội quân tình nguyện quốc tế chiến đấu chống lại tướng Francisco Franco. Trong Thế chiến thứ hai, ông chiến đấu trên nhiều mặt trận và bị quân Đức bắt làm tù binh năm 1940. Sau khi trốn thoát khỏi trại tù binh, Simon trở về tham gia phong trào Kháng chiến ở thị trấn Perpignan.   Thành công đầu tiên trong văn học của Claude Simon đến vào năm 1945 sau khi xuất bản tiểu thuyết Le tricheur (Kẻ lừa đảo). Tác phẩm thời kì này viết theo lối trần thuật truyền thống, chịu ảnh hưởng của Fyodor Mikhailovich Dostoevsky, William Faulkner, Marcel Proust và triết học chủ nghĩa hiện sinh.   Từ giữa thập niên 1950 trở đi Claude Simon bắt đầu tìm tòi, đặt khởi đầu cho trào lưu Tiểu thuyết mới với đặc trưng là cốt truyện “hiện thực” trở thành thứ yếu, còn trung tâm chuyện kể là những miêu tả và các hình tượng không kết gắn với nhau về mặt thời gian, tất cả các cảm xúc đồng hiện trên một bình diện như trên một bức tranh. Năm 1960 Simon kí tên vào “Tuyên ngôn 121” của các trí thức Pháp ủng hộ phong trào đòi độc lập cho Algérie. Tiểu thuyết La route de Flandres (Những con đường xứ Flandres) cũng được xuất bản vào năm này đã mang lại cho ông giải thưởng của tạp chí Express năm 1961. Có thể nhận thấy trong tác phẩm này sự đứt đoạn giữa các sự kiện và ngôn ngữ mô tả chúng - một kĩ thuật mới trong phong cách tiểu thuyết - thể hiện kiếp người vô nghĩa, những đoạn đời không lối thoát, hoặc chỉ dẫn đến cái chết mà thôi. Tiểu thuyết Histoire (Lịch sử, 1967) được trao giải thưởng Meditri. Năm 1973 ông được phong học vị danh dự của Đại học Miền Đông nước Anh.   Từ thập niên 1980, Claude Simon trở về quê Perpignan, vừa viết văn vừa trồng nho. Với tiểu thuyết Les Géorgiques (Đồng nội, 1981), Simon bắt đầu xa rời phong cách thử nghiệm trong các cuốn sách trước đây của ông. Năm 1985 Simon được trao giải Nobel vì “sự kết hợp trong sáng tác của ông các nguyên tắc của thơ và hội họa”, vì “nhận thức sâu sắc về vai trò của thời gian trong mô tả con người”.   Năm 1989, nhà văn 76 tuổi cho ra đời tiểu thuyết L'acacia (Cây keo hoang) được đánh giá cao; cùng với Les Géorgiques là hai tác phẩm tự thuật độc đáo, trong đó lịch sử và hư cấu, quá khứ và hiện tại đan quyện vào nhau trong một hình thức kể chuyện vừa hư vừa thực. Claude Simon mất ở Paris năm 2005.   Tác phẩm:   - Le tricheur (Kẻ lừa đảo, 1945), tiểu thuyết   - La corde raide (Dây căng, 1947), tiểu thuyết   - Gulliver (1952), tiểu thuyết   - Le sacre du printemp (Mùa xuân đăng quang, 1954), tiểu thuyết   - Le vent (Gió, 1957), tiểu thuyết   - L'herbe (Cỏ, 1958), tiểu thuyết   - La route de Flandres (Con đường xứ Flandres, 1960), tiểu thuyết   - Le palace (Cung điện, 1962), tiểu thuyết   - La chevelure de Bérénice (Mái tóc Berenice, 1965), truyện ngắn   - Histoire (Lịch sử, 1967), tiểu thuyết   - La bataille de Pharsale (Trận Pharsale, 1969), tiểu thuyết   - Orion aveugle (Chòm Thiên Lang mờ tối, 1970), tiểu luận   - Les corps conducters (Những thân xác dẫn đường, 1971), tiểu thuyết   - Triptyque (Bức họa tam bình, 1973), tiểu thuyết   - Leçon de chose (Bài học vạn vật, 1975)   - Les Géorgiques (Đồng nội, 1981), tiểu thuyết   - L'acacia (Cây keo hoang, 1989), tiểu thuyết   - La Jardin des plantes (Vườn bách thảo, 1997), tiểu thuyết     Mời các bạn đón đọc Cỏ của tác giả Claude Simon.
Dưới Ánh Sao Thu - Knut Hamsun
Dưới ánh sao thu (Under høstjernen) của Knut Hamsun, Nguyễn Thành Nhân dịch từ bản tiếng Anh Under the Autumn Star của W. W. Worster. *** Knut Hamsun tên thật là Rnud Pedersen, (04.8.1859 - 19.02.1952) nhà văn Na Uy đoạt giải Nobel Văn học năm 1920. Ông là nhà văn làm đổi mới văn xuôi Na Uy và là người luôn cố gắng thể hiện đời sống tâm hồn vô thức.   Năm 1890, tác phẩm Sult (Đói) của ông được xuất bản, gây chấn động lớn trong văn giới bấy giờ với một bút pháp lạ lùng sâu thẳm, mô tả rất xác thực, tinh vi, nhưng đôi khi cũng khá hài hước những cảm xúc và ý tưởng của một nhà văn trẻ đang hồi khốn khó. Có lẽ đây là tác phẩm gây ấn tượng sâu sắc nhất cho giới phê bình học giả cũng như bạn đọc toàn cầu kể từ ngày nó ra đời cho tới nay. Tác phẩm này cũng đã được dựng thành phim hai lần. Lần thứ nhất năm 1966, do Henning Carlsen (sinh 1929) nhà sản xuất phim lừng danh người Đan Mạch đạo diễn; lần thứ hai năm 2001 do đạo diễn, biên kịch người Mỹ Maria Giese đạo diễn. Từ đó trở đi, bút lực của ông ngày càng dồi dào sung mãn. Về mặt bút pháp, ông là một trong những nhà văn cùng thời khác như James Joyce (1882-1941), Marcel Proust (1871-1922) và Virginia Woolf (1882-1941)… đã khai thác một cách tài tình thủ pháp Dòng ý thức ; hình thành nên trào lưu văn học hiện đại. Nếu không xét tới quan điểm chính trị của Knut Hamsun – vốn đã trăm phần trăm sai trái, không có gì cần bàn cãi nữa (có lẽ bản thân Knut Hamsun cũng đã nhận ra những sai lầm của ông trong quãng thời gian cuối đời), có thể khẳng định đa phần những di sản văn học mà ông để lại cho nhân loại là vô cùng quý báu. Và người đọc chúng ta có thể tri ân ông ở khía cạnh này. Một số tác phẩm: - Den Gaadefulde. En kjærlighedshistorie fra Nordland (Con người bí ẩn, dưới tên Knud Pedersen, 1877), tiểu thuyết - Bjørger (dưới tên Knud Pedersen Hamsund, 1878), tiểu thuyết  - Fra det moderne Amerikas Aandsliv (Cuộc sống tinh thần của xã hội Mỹ hiện đại, 1889), tiểu luận  - Sult (Đói, 1890), tiểu thuyết  - Fra det ubevidste sjaceleliv (Từ cuộc sống vô thức của tâm hồn, 1890), tiểu luận  - Mysterier (Những điều bí ẩn, 1892), tiểu thuyết  - Redaktør Linge (Biên tập viên Linge, 1893)  - Ny Jord (Đất mới, hoàn tất năm 1893)  - Pan (Quý ngài, 1894), tiểu thuyết  - Ved Rigets Port (Nơi cổng vương quốc, 1895), kịch  - Livets Spil (Trò đời, 1896)  - Aftenrøde. Slutningspil (Hoàng hôn, 1898), kịch  - Victoria. En kjærlighedshistorie (Victoria, 1898), tiểu thuyết  - Munken Vendt. Brigantines saga I (1902), kịch thơ  - Det vilde Kor (Bản hợp xướng hoang dã, 1904), thơ  - Under Høststjærnen. En Vandrers Fortælling (Dưới ngôi sao mùa thu, 1906), tiểu thuyết  - Benoni (1908), tiểu thuyết  - En Vandrer spiller med Sordin (Kẻ lang thang chơi đàn không dây, 1909), tiểu thuyết  - Den sidste Glæde (Niềm vui cuối cùng, 1912), tiểu thuyết  - Børn av Tiden (Những đứa con của thế kỉ, 1913), tiểu thuyết  - Segelfoss By (Thị trấn Segelfoss, 2 tập, 1915), tiểu thuyết  - Markens Grøde (Nhựa của đất, 2 tập, 1917), tiểu thuyết  - Konerne ved Vandposten (Những người đàn bà bên giếng, 2 tập, 1920), tiểu thuyết  - Siste Kapitel (Chương cuối, 2 tập, 1923), tiểu thuyết  - Landstrykere (Những kẻ lang thang, 2 tập, 1927), tiểu thuyết  - August (Tháng Tám, 2 tập, 1930), tiểu thuyết  - Ringen sluttet (Vòng vây đã khép, 1936), tiểu thuyết  - Paa gjengrodde Stier (Theo lối mòn hoang, 1949) *** Tôi lê bước tới đường Raadhusgaten, và đứng một hồi cạnh trạm xe ngựa, quan sát lối vào khách sạn Victoria. Nhưng dĩ nhiên nàng đã ra ngoài thăm mấy người bạn. Tôi nhắm mắt đưa chân vào khách sạn, nói chuyện với người gác cửa. Phải, Fruen đang ở trong phòng số 12, tầng một. Vậy bà ta không ra ngoài thăm bạn sao? Không. Có phải bà ta chỉ ra ngoài chốc lát không? Fruen không hề nói thế. Tôi lại bước ra đường; những người đánh xe vung vẫy những tấm da phủ chân, mời mọc tôi hạ cố. Tôi chọn một cỗ xe và trèo vào. “Tới đâu ạ?” “Cứ ở yên tại chỗ. Tôi thuê anh theo giờ.” Những gã đánh xe đi quanh xì xào, kẻ bàn thế này, người tán thế kia: ông ta đang theo dõi khách sạn; ra ngoài để bắt ghen vợ ông ta đang hẹn hò với một thương gia đi du lịch nào đó. Phải, tôi đang theo dõi chỗ này. Có ánh đèn trong một hai căn phòng, và đột nhiên tôi chợt nghĩ ra rằng có thể nàng đang đứng ở một ô cửa sổ và trông thấy tôi. “Chờ chút,” tôi nói với người đánh xe, và lại đi vào khách sạn. “Phòng số 12 ở đâu?” “Tầng một.” “Nhìn ra đường Raadhusgaten phải không?” “Vâng.” “Vậy đó phải là em gái của tôi,” tôi nói, bịa đặt đôi điều để chuồn qua người gác cửa. Tôi đi lên cầu thang, và để không cho mình có cơ hội quay lại, tôi gõ cửa ngay khoảnh khắc tôi nhìn thấy con số. Không trả lời. Tôi gõ lần nữa. “Có phải hầu phòng không?” từ trong phát ra một giọng nói. Tôi không thể đáp phải; giọng tôi sẽ phản bội tôi. Tôi thử xoay nắm cửa – cửa đã bị khóa. Có lẽ nàng e rằng tôi có thể tới; có thể nàng đã nhìn thấy tôi ở bên ngoài. “Không, đây không phải là người hầu phòng,” tôi nói, và tôi có thể nghe những từ run rẩy một cách lạ lùng ra sao. Sau đó tôi đứng lắng nghe hồi lâu; tôi có thể nghe tiếng ai đó di chuyển bên trong, nhưng cửa vẫn đóng. Rồi có hai hồi chuông ngắn từ một trong những căn phòng dưới sảnh. Hẳn đó là nàng, tôi tự nhủ; nàng đang cảm thấy khó chịu, và đã ấn chuông gọi người hầu phòng. Tôi bước xa khỏi cửa, để tránh bất kỳ sự lúng túng nào cho nàng, và, khi người hầu phòng tới, tôi bước ngang qua như thể đang đi xuống thang. Lúc ấy người hầu phòng nói, “Phải, hầu phòng đây,” và cửa mở. “Không, không,” người hầu phòng nói; “chỉ có một quý ông đang xuống thang.” Tôi nghĩ tới việc lấy một phòng ở khách sạn, nhưng ý tưởng này khiến tôi khó chịu; nàng không phải là một bà vợ bỏ trốn để hẹn hò với những thương gia đi du lịch. Khi xuống tới dưới, tôi nhận xét với người gác cửa rằng hình như Fruen đang nằm nghỉ. ... Mời các bạn đón đọc Dưới Ánh Sao Thu của tác giả Knut Hamsun.