Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Nói Vậy Mà Không Phải Vậy - Robert J. Samuelson

John Kenneth Galbraith, nhà kinh tế học và nhà văn, đã dùng cụm từ “quan niệm phổ biến”[1] (conventional wisdom) từ cách đây hơn bốn thập kỷ, trong cuốn sách bán chạy nhất của ông năm 1958 với tựa đề Xã hội Thịnh vượng (The Affluent Society). Theo định nghĩa của Galbraith thì các quan niệm phổ biến là tập hợp các niềm tin của đại bộ phận con người về một đề tài hay chủ thể nhất định. Những niềm tin đó không nhất thiết phải là đúng đắn, mà chỉ đơn giản là chúng được hiểu rộng rãi và được tôn trọng. Từ đó, cụm từ này dần dần xâm nhập vào ngôn ngữ của cuộc sống hàng ngày, và khi ý nghĩa ban đầu của Galbraith vẫn tồn tại thì nó đã khơi gợi cảm hứng cho những biến thể hiện đại khác của khái niệm trên. “Quan niệm phổ biến” của Galbraith là đồng nhất, vững chắc và lan tỏa rộng khắp, còn các phiên bản sau này lại cho rằng chúng là những điều hợp xu thế, hợp thời trang một cách khôn ngoan. Nhưng cho dù cũ hay mới thì quan niệm phổ biến (như Galbraith đề cập đến) lại thường là điều sai. Đôi khi quan niệm phổ biến còn đối lập với sự thật. Nó thường là sự sắp đặt các dữ kiện và nhận thức một cách nghệ thuật và có chọn lọc, để cho thấy một chân lý đáng tin cậy - mặc dù đó là sự dối trá. Nhưng các quan niệm phổ biến tồn tại được, bởi vì nó kể lại một câu chuyện khá hấp dẫn, xét theo một mức độ nhất định nào đó. Quan niệm phổ biến có được sức mạnh là nhờ vào khả năng đáp ứng được nhu cầu tâm lý hoặc chính trị. Sau đó hành vi của chúng ta lại giúp củng cố niềm tin. Chúng ta sẽ nhìn thấy những gì mình muốn thấy, sẽ nghe được những điều mình muốn nghe. Chúng ta tìm kiếm những người có uy tín để được lặp lại và củng cố lại các niềm tin và thành kiến của mình. Galbraith đã viết: “trong một chừng mực nào đó thì sự gắn kết của quan niệm phổ biến là một nghi thức tôn giáo, đó là hành động để xác nhận lại, như đọc Kinh Thánh hay đi lễ nhà thờ”. Sớm muộn gì thì quan niệm phổ biến cũng sẽ phải thay đổi hoặc sụp đổ. Nhưng các yếu tố phá hủy nó lại hiếm khi là các phân tích logic hay sự thuyết phục. Đó thường là các tình huống hoặc tác động của các sự kiện thực tế. Với bản chất của mình, quan niệm phổ biến sẽ “phòng vệ” bằng các ngôn từ hoặc lập luận. Người ta không muốn tỉnh ngộ từ các ý tưởng quen thuộc, vị kỷ, và làm vừa lòng họ. Người ta có xu hướng triệt tiêu sự hoài nghi, loại bỏ những bất đồng khó chịu hoặc chối bỏ sự mâu thuẫn. Những gì có thể làm thay đổi tâm trí con người thường là các trải nghiệm rõ ràng không thể phủ nhận và đôi khi khắc nghiệt, sau đó thường thì quan niệm phổ biến bị sụp đổ. Nhưng đây không phải là lý do dễ chấp nhận. Tôi trực tiếp biết điều này. Năm 1969, tôi là phóng viên của một tờ báo. Sự hấp dẫn chủ yếu của công việc này (ngoài việc được nhìn thấy cái tên của mình in trên báo chí) là các cơ hội học hỏi các điều mới mẻ và giải thích các khám phá này trước độc giả. Đó là cái cớ để đặt câu hỏi, thường là không giới hạn, đối với các công dân bình thường. Cái cần được tìm kiếm luôn luôn là “sự thật”, mặc dù “sự thật” đúng nghĩa - thường là rất phức tạp, không rõ ràng và gây nhiều tranh cãi - là khó hoặc không thể xác định được. Khi tôi trở thành người phụ trách một chuyên mục (columnist) của báo năm 1976, mục tiêu vẫn không đổi: đó là chuyển tải các hiểu biết đầy đủ hơn về một vấn đề hay hiện tượng nào đó. Càng làm việc này thì tôi càng “đụng đầu” với các quan niệm phổ biến, bởi vì đó là nơi mà nội dung bài viết dẫn tới. Các bài bình luận của tôi ngày càng đặt câu hỏi hoài nghi hoặc bác bỏ các quan niệm phổ biến. Một số bài bình luận của tôi đã được thu thập lại và trình bày trong cuốn sách này. Tôi không viết bất cứ điều gì để kết tội quan niệm phổ biến. Một số người có xu hướng “chạy theo thời thượng” mới nổi đã quay lại cáo buộc những điều đáng được lãng quên, chỉ vì các sự kiện đó đã làm họ mất uy tín. Vào những năm giữa thập niên 80, đã có những cảnh báo về việc “quá trình suy thoái công nghiệp của Hoa Kỳ” (deindustrialization) khiến chúng ta trở thành một đất nước mà tại đó những người làm hamburger và thợ giặt ủi được trả mức lương thấp (xem “Chúng ta không phải là đất nước của các tiệm giặt ủi”); khái niệm này đã không thể tồn tại sau sự bùng nổ kinh tế trong thập niên 90. Và cũng không có chuyện Nhật Bản sẽ qua mặt chúng ta về mặt kinh tế khi đất nước này vượt qua được sự đình trệ trong thập niên 90. Nhưng những hoài nghi vẫn tiếp diễn, có vẻ như không thay đổi chút nào trước những bằng chứng và lập luận logic bất lợi. Chúng ta được nghe rằng các nhóm lợi ích giàu có và bảo thủ đang thống trị Washington, nhưng thực tế không phải như vậy (xem “Các nhà môi giới quyền lực âm thầm”). Mới gần đây, internet đã được quảng bá là một trong những thành tựu công nghệ vĩ đại nhất từ sau khi ngành in ấn ra đời, sự so sánh này làm tổn thương lịch sử (xem “Internet và Gutenberg”). Đương nhiên, không phải tất cả các quan niệm phổ biến đều sai. Nếu tất cả chúng đều là sai thì xã hội đã tan rã. Những sai lầm của từng ngày, phát xuất từ các ý tưởng sai, sẽ nhân rộng ra và làm cho sự hỗn loạn lan tràn. Nhưng chúng ta không cưỡng lại được các xu hướng mơ hồ. Tại sao vậy? Galbraith đưa ra vài manh mối. Theo cách này hay cách khác, ông chỉ đơn giản là dán lên cái nhãn mới cho thứ đã xưa cũ: tính ỳ của lòng tin. Người ta bám chặt lấy những gì họ đã biết và những gì làm họ cảm thấy thoải mái. Galbraith đã quy cho hiện tượng này là việc không thích quá nhiều cái mới. Mà không chỉ có vậy. Đó là sự nhượng bộ thực dụng trong cuộc sống hàng ngày. Nếu chúng ta liên tục xem xét lại các niềm tin và giả định, chúng ta sẽ đờ đẫn ra vì do dự. Chúng ta sẽ thường xuyên trầm tư và chần chừ không quyết. Nhưng trong văn hóa truyền thông hiện đại, quan niệm phổ biến không còn là những gì như trước đây - và khi đó nó đặt nền móng cho những sai lầm. Theo Galbraith, quan niệm phổ biến bao gồm các ý tưởng cổ điển. Nó giống như rượu vang để lâu ngày. Nó có danh tiếng thông qua việc được vô số các nhân vật có uy tín nhắc đi nhắc lại liên tục qua nhiều năm. Giống như rượu vang, quan niệm phổ biến cũng có thể bị hỏng. Với các sự kiện hoặc các kiến thức mới, quan niệm phổ biến cũng có thể chỉ còn là chuyện đã qua hoặc lý thuyết lỗi thời. Ngược lại, quan niệm phổ biến ngày nay lại thường xuất hiện từ vô định. Các lý thuyết - hầu hết là bàn về các chủ đề mà gần như tất cả mọi người chưa nghĩ đến hay người ta chỉ có chút ít quan điểm rõ ràng - bất ngờ mang tính thời sự và được chấp nhận. Các lý thuyết này không chín muồi theo cách phù hợp, mà được “đóng gói” nhanh chóng, quảng cáo rầm rộ và “bán” một cách quyết liệt. Quan niệm phổ biến đã ít tự nhiên hơn và chứa đựng nhiều toan tính hơn so với trước kia. Nó ngày càng trở thành hoạt động buôn bán có tính trí tuệ hoặc chính trị. Tôi cho rằng điều này giúp giải thích tại sao đa phần quan niệm phổ biến đã trở nên hời hợt, nhầm lẫn và ngu xuẩn. Các ý tưởng là tay sai cho tham vọng của con người, các nhóm lợi ích hoặc các chương trình của giới chính trị hay trí thức. Nó không phát xuất từ những nỗ lực vô tư để khám phá sự thật. Nó là sự vận dụng của kinh doanh và phải gánh chịu mọi sự thái quá của kinh doanh. Người ta nhấn mạnh đến những gì làm nên hoàn cảnh của họ, và bỏ qua hoặc tối thiểu hóa những gì “không dính dáng”. Các tuyên bố là quá lời. Sự kiện được chọn lọc. Việc thẩm định bị phớt lờ hoặc không rõ ràng. Chính trị ảnh hưởng nhiều đến việc này. Nói đến chính trị, tôi không có ý nói riêng về hay tập trung phần lớn vào Đảng Dân chủ hay Cộng hòa, đến khuynh hướng tự do cấp tiến hay bảo thủ. Hình thái chính trị đang thắng thế ngày nay là cái mà tôi gọi là “chính trị giải quyết vấn đề”. Mọi khiếm khuyết trong xã hội, bằng cách nào đó, cần được chuyển đổi thành một “vấn đề” cụ thể, và sau đó có thể được “giải quyết”, thường là do chính quyền, còn nếu không là được giải quyết bởi “thị trường” hoặc một ai khác, một thứ gì khác. Nói chung người Mỹ lạc quan và thực dụng, rất sùng bái sự tiên tiến. Chúng ta gắn bó với ý tưởng cho rằng các vấn đề đều có thể được giải quyết - và từ đó sự không hoàn hảo được giảm đi. Tocqueville cho rằng, người Mỹ tin vào “sự hoàn thiện không giới hạn của con người”. Chúng ta phản đối ý niệm cho rằng một số thiếu sót chỉ đơn giản là những mảng bình thường của cuộc sống. Sau nữa, đây cũng không phải là một lực đẩy mới. Nhưng trong thời đại của chúng ta thì quan niệm phổ biến đã được nhắc đến nhiều hơn. Nó liên tục được nuôi dưỡng bởi các nhóm chủ trương biện hộ, các nhà chính trị doanh nhân (entrepreneurial politicians) - là các ứng viên hoặc viên chức văn phòng không thể dựa vào một bộ máy đảng phái mạnh tại trung ương để tiến lên phía trước, mà ngày càng phải tự thân vận động - và các trí thức lớn, của cả hai cánh Tả và Hữu. Tất cả họ đều rao giảng cho công chúng về tất cả mọi thứ, từ chính sách của chính phủ đến việc phổ biến văn hóa. Chúng ta được dẫn dắt để tin rằng hầu hết các vấn đề xã hội và kinh tế đều có thể được giải quyết và mong muốn của người dân là có thể được xoa dịu hay đáp ứng. Với những vấn đề được tìm ra để giải quyết, những nhóm chủ trương biện hộ, các chính trị gia, và các vị thương nhân kinh doanh ý tưởng khác nhau đã tự khẳng định mình. Họ thiết lập sự nhận biết, nâng cao tầm nhìn của họ, và kết nối các cử tri hoặc khán giả. Sự chủ trương biện hộ hòa lẫn với tự quảng cáo. Sản phẩm mà quá trình này tạo ra là sự thổi phồng bất tận. Một vấn đề không thể đơn giản là quá khiêm tốn, bất tiện, khó tránh khỏi, hoặc khó giải quyết. Vấn đề phải là chuyện lớn, nghiêm trọng, nguy hiểm, và bức xúc - và có thể giải quyết được. Vì vậy, các vấn đề được cường điệu hóa lên về mặt quy mô và mức độ nghiêm trọng, theo đó sức mạnh của các giải pháp đề xuất cũng được thổi phồng lên theo. Việc tìm kiếm các khoản đóng góp cá nhân để tài trợ cho chiến dịch chính trị không thể đơn giản chỉ mang tính tự hạ thấp mình và không “sạch”; nó phải khuấy động được những nền móng cho dân chủ - và có thể thu hồi được từ “chiến dịch cải cách tài chính” (xem “Cái Giá của Chính trị”). Chăm sóc sức khỏe được quản lý (managed care) không thể chỉ đơn giản là một phương pháp mới và chưa hoàn hảo để cung cấp các dịch vụ y tế; nó phải là một cuộc tổng công kích không thương xót dành cho sự tích hợp của y học hiện đại và khôi phục được từ “cải cách y tế” (xem “Chuyện hoang đường về “con quái vật” Chăm sóc sức khỏe được quản lý”). Trong những năm 1990, việc các thành viên Đảng Cộng hòa chiếm đa số ghế trong Quốc hội không thể chỉ đơn giản là sự thay đổi trong quyền lực chính trị để có thể sửa đổi đường lối và bầu không khí chính trị của đất nước. Nó phải là một “cuộc cách mạng” toàn diện làm thay đổi chính trị và cuộc sống như chúng ta đã biết (xem “Họ gọi đây là một cuộc cách mạng?”). Đến một mức độ nhất định, sự biện hộ đòi hỏi việc tranh luận phải trở thành các bài học đạo đức: người tốt (hoặc các ý tưởng tốt) đối lập với cái xấu. Người anh hùng và kẻ xấu xa cùng tạo nên “sức nặng” (throw-weight) của trí tuệ và chính trị để cho chương trình nghị sự được nâng cao, đầy hoài nghi, và có các đối thủ công kích nhau. Ở Hoa Kỳ, loại vận động này tìm thấy một đối tượng khán giả sẵn lòng. Vượt trên sự lạc quan - một niềm tin rằng những gì bị hỏng có thể được sửa chữa - là di sản mang tính nhiệm vụ của chúng ta. Người Mỹ luôn luôn tưởng tượng mình là một ngoại lệ đặc biệt và đúng đắn, nhất quyết cải tiến nhân loại với việc tấn công vào thành trì của sự ngu dốt, quyền lực thối nát hay điều ác. Những đặc tính này của dân tộc là rất tuyệt vời. Chúng thường làm chúng ta chìm vào sự ngây thơ ngấm ngầm rằng: nếu chỉ vì cái gì đó chưa được thực hiện trước đây thì không có nghĩa là điều đó không thể được thực hiện. Những niềm tin vào sự tiến bộ có thể tạo ra tiến bộ và thường xuyên là như vậy. Tuy nhiên, một số đức tính tốt của dân tộc, khi để vượt quá mức hợp lý, cũng trở thành thói xấu (xem “Các vết đen trong đạo đức của chúng ta”). Chính trị “Giải quyết vấn đề” là một trong những loại hỗn hợp khó chịu của sự thành công và thất bại. Khi thất bại, nó dẫn đến một thứ quan niệm phổ biến với đầy rẫy các điều giản đơn và ngớ ngẩn, trong khi vẫn gợi cảm hứng cho các “giải pháp” mà đôi khi có hại nhiều hơn là có lợi. Vấn đề của dịch vụ chăm sóc sức khỏe không phải là “được quản lý”, mà là mâu thuẫn trong nhu cầu của công chúng: chúng ta muốn bảo hiểm y tế toàn diện (universal health insurance), tuyệt đối tự chủ cho các bệnh nhân và bác sĩ trong quá trình điều trị và kiểm soát được chi phí y tế. Không có chế độ nào có thể đồng thời đáp ứng các nhu cầu không nhất quán này. (Nếu tất cả mọi người đã bảo hiểm cho tất cả mọi thứ, và bác sĩ hay bệnh nhân đều có thể yêu cầu bất cứ gì họ muốn - thì chi phí sẽ không thể kiểm soát được.) Vấn đề với “chiến dịch cải cách tài chính” là: nếu sử dụng kết luận logic của nó thì tự do ngôn luận chính trị sẽ bị bịt miệng. Điều phiền toái là truyền thông hiện đại (qua truyền hình, quảng cáo, gửi thư hàng loạt) đều cần tiền. Nếu truyền thông không phải là vấn đề ngôn luận, thì là cái gì? Và nếu mọi người không thể chi tiền để biện hộ cho các quan điểm chính trị và hỗ trợ các ứng cử viên chính trị mà họ tán thành, thì họ “tự do” như thế nào? Nghệ thuật biện hộ có hiệu quả để khỏa lấp các hoài nghi sẽ làm hỏng các thông điệp đạo đức. Vấn đề sẽ không còn đơn giản như vậy nữa, giải pháp không còn rõ ràng như vậy nữa. Xung đột giữa các mục tiêu mong muốn được tối thiểu hóa, và giới hạn thực tế của các giải pháp đề xuất cũng vậy. Chúng ta, những người trong báo giới, hỗ trợ cho sự lẩn tránh - và đôi khi còn xúi giục nó. Là người Mỹ, chúng ta chia sẻ tính nhạy cảm trong việc giải quyết vấn đề. Ngoài ra, chúng ta cũng có lợi ích riêng. Chúng ta cần thu hút và giữ được độc giả. Cả bản năng và lợi ích của chúng ta đều được đặt trong việc nghiên cứu các mâu thuẫn và xung đột. Chúng ta thường hào hứng tham gia vào các cuộc vận động đạo đức hay chính trị. Đó là câu chuyện hay và thu hút các khách hàng của chúng ta. Mặc dù đó là sự thật từ lâu nay, nhưng thực tế cạnh tranh mới đã thổi phồng các hiệu ứng. Chỉ cách đây một vài thập kỷ, trong những năm của thập niên 1960 - phương tiện truyền thông tin tức quốc gia mới chỉ gồm một nhóm nhỏ và ổn định với các tổ chức: 3 mạng lưới truyền hình (ABC, CBS, và NBC); 3 tạp chí (Time, Newsweek, và Thông cáo Tin tức & Thế giới của Hoa Kỳ), một số báo chí quốc gia có tầm cỡ (Thời báo New York, The Wall Street Journal, Bưu điện Washington) trong đó chỉ có một tờ có phạm vi phát hành toàn quốc (tờ Journal) và một vài dịch vụ thông tin chính yếu (Hiệp hội báo chí (Associated Press), Liên đoàn báo chí quốc tế (United Press International). Điều này cho phép các chuyên gia tin tức - các nhà biên tập, các nhà báo - có quyền quyết định những gì là “tin tức” và những gì không phải là “tin tức”. Phán xét của họ rõ ràng là có thể sai lầm và không được “miễn nhiễm” với xu thế chính trị đang thống trị hay xu hướng của giới trí thức. Nhưng các phán xét phần lớn cũng chỉ là phán xét của riêng giới đưa tin mà thôi. Với lượng độc giả ổn định, áp lực thương mại buộc sử dụng tin tức để thu hút người đọc và người xem thời đó là chưa nhiều. Tình hình hiện nay là hoàn toàn khác. Sự phát triển của các phương tiện truyền thông thật ấn tượng: đã có các kênh truyền hình cáp (MTV, ESPN, CNN, C-span); có một mạng lưới truyền hình chủ chốt khác (Fox); thêm hai tờ báo quốc gia (tờ Hoa Kỳ Ngày Nay và Thời báo New York); Internet và vô số các trang web với các tin tức, thông tin tài chính, y tế, khiêu dâm và nhiều nhiều nữa. Không ai còn có thể giữ vững lượng khán giả của mình. Khi các mạng lưới truyền thông còn kiểm soát được các kênh truyền hình, người xem phải theo dõi các chương trình tin tức ban đêm (thường là được ấn định cùng thời điểm) - hoặc không có gì khác để xem. Bây giờ họ có thể bấm nút để xem chương trình nấu ăn, thể thao, hoạt hình, phim truyện, câu chuyện du lịch, mua sắm cho gia đình. Hoặc họ có thể lướt net. Lượng khán giả của mạng tin tức ban đêm sụt giảm nhanh. Độc giả của báo chí cũng giảm, tuy chậm hơn nhưng nói chung là đã giảm. Kết quả là những người kinh doanh tin tức đã mất quyền lực trong việc xác định những gì là tin tức và những gì không phải là tin tức. Ngày càng nhiều, người đọc và người xem mới là những người xác định đâu là tin tức, với việc thu nhặt và chọn lọc những gì họ muốn, hoặc quyết định rằng họ không cần tin tức nữa. Điều này làm tăng thêm yêu cầu đối với người biên tập và các phóng viên báo phải làm sao để cho các tin tức phổ biến hơn và hấp dẫn hơn. Hiện đã có sự nhập nhèm giữa tin tức và giải trí, khi các giá trị của truyền hình đã lan tràn trong tất cả các phương tiện truyền thông. Để lôi kéo khán giả, bài bình luận phải trở nên “cao giọng” hơn. Chương trình “Bắn chéo” (CrossFire)[2] của kênh CNN là người đi đầu: chính trị tương đương như thi đấu vật chuyên nghiệp. Sự độc lập trong công tác biên tập đã bị thu hẹp lại. Biên tập viên vẫn được quyết định những gì sẽ được in hoặc được xem, nhưng nếu những gì họ làm là không thành công trên không gian thị trường, họ sẽ bị thay thế. Các nhà phê bình trong lĩnh vực truyền thông đại chúng thường xuyên than phiền rằng sự thống trị của một vài doanh nghiệp lớn đã hạ thấp các giá trị của thông tin xuống mức chỉ còn là lợi nhuận. Tình trạng này, trong nhiều khía cạnh, lại là ngược lại. Cạnh tranh mạnh hơn đã tấn công vào sự tự chủ trong biên tập. Càng có nhiều gã khổng lồ trong ngành truyền thông thì các giá trị của tin tức lại càng trở nên khó khăn hơn. Khi một vài công ty lớn thống trị thị trường (ba mạng lưới truyền hình là ví dụ rõ ràng), họ có thể chấp nhận sự độc lập cao hơn từ các phòng ban tin tức, chính xác là vì tổng lợi nhuận là con số chắc chắn và có thể dự đoán được. Ngược lại, số lượng các “đại gia truyền thông” ngày nay là rất nhiều và họ cũng ít được an toàn hơn trước. Sự cạnh tranh khốc liệt để giành lấy khách hàng đã nhấn mạnh tầm quan trọng của sự thành công trong thương mại và xói mòn các giá trị thuần túy của việc biên tập. Đến một mức độ nhất định thì tin tức đã được dân chủ hóa. Nó ngày càng được tung ra theo mệnh lệnh của thị trường. Điều này tạo thuận lợi cho một phong cách biên tập, theo đó nhấn mạnh vào các câu chuyện đạo đức của các đấng anh hùng và những kẻ vô lại, rồi rút ra những xung đột một cách sâu sắc - về bất cứ điều gì để tạo ra một “tin đồn”. Những gì mà tôi muốn đề xuất là: cách thức mà chúng ta, ở đây được hiểu như một xã hội, tổ chức và trình bày thông tin - một cách có hệ thống và hầu như dự đoán được từ trước - ngày càng dẫn đến sự sai lạc. Truyền thông không chắc chắn và những người thực hành chính trị “giải quyết vấn đề” (các chính trị gia, các nhóm biện hộ, “những cái đầu hiểu biết”) đã “kết hôn” với sự dễ dãi. Họ cùng nhau khai thác để đạt được mục tiêu hẹp: có được sự nổi tiếng hoặc khét tiếng, thúc đẩy một chương trình nghị sự của giới chính trị hay trí thức, nắm bắt được khán giả và thị phần. Kết quả là chúng ta bị oanh tạc bởi các luồng vấn đề miên man không dứt (một số vấn đề xã hội, một số căng thẳng trong vấn đề con người - ma túy, bệnh tật, lạm dụng trong hôn nhân gia đình, stress) và các giải pháp đi kèm. Nhiều vấn đề trong số đó là có thật, một số các giải pháp có thể thực sự có ích. Nhưng có sự cường điệu thổi phồng trong cả hai nội dung: vấn đề và giải pháp, bởi vì đó là những thứ thu hút sự chú ý. Tôi gọi quá trình này là “cái sai”. Đó là sự xuyên tạc thực tế nói chung, tuy nhiên không phải là kết quả của sự dối trá cố tình. Đúng hơn thì đó là sản phẩm bình thường của chính trị và truyền thông dân chủ của chúng ta. Điều đó xảy ra, khi chúng ta tìm hiểu và tranh luận các vấn đề có ảnh hưởng đến cả tập thể. Nếu không làm như thế, chúng ta sẽ không phải là chính chúng ta nữa. Nhìn chung, tiến trình này là lành mạnh. Nhưng quá trình này sẽ trở thành không lành mạnh khi nó đơn giản hoá quan điểm của chúng ta về sự thật và lãng mạn hóa sức mạnh của chúng ta khi thay đổi sự thật đó. Đối với tôi, sự đơn giản hóa và cường điệu hóa nhằm phục vụ lợi ích bản thân là một cánh đồng phì nhiêu cho các báo cáo và bình luận. Chúng cầu mong để được trở nên tinh vi và xác thực. Tôi đã cố gắng để cung cấp được một bối cảnh: để cho mọi người có bức tranh vô tư và đầy đủ về thế giới của chúng. Kết luận của tôi là: quan niệm phổ biến (thường) là sai, vì nó là phương tiện cho một số chương trình chính trị hay tham vọng cá nhân. Trong thực tế, tôi không tin rằng có bất kỳ một nhóm chính trị, kinh tế, xã hội, hoặc một nhóm ý thức hệ nào lại có “độc quyền” về cái sai. Bạn có thể nhìn thấy một cơ chế tương tự cũng hoạt động như vậy trên khắp các quang phổ chính trị và trên tập hợp các mối quan tâm và yêu cầu của xã hội. Những người bảo thủ có xu hướng ca ngợi “thị trường”, ngay cả khi thị trường rõ ràng phạm sai lầm (xem “Sự sáp nhập kỳ lạ”). Những người tự do cấp tiến có xu hướng nói quá lời trước những ảnh hưởng dần dần về sau của sự bất bình đẳng trong thu nhập (xem “Không phải là các hộ gia đình điển hình”). Các chuyên gia môi trường bàn về việc hủy diệt hành tinh trong bối cảnh của “ngày tận thế” (xem “Bạn đừng lo lắng”). Một lần nữa, những vấn đề thường là có thực, nhưng chúng cần phải được trình bày trong những điều kiện khắc nghiệt nhất để khơi dậy sự quan tâm hay củng cố cho giải pháp đề xuất. Mặc dù các kỹ thuật đã phổ biến rộng rãi, vẫn có xu hướng nghiêng về các loại “sai lầm” nổi trội nhất: đó là những cái sai “cấp tiến” (liberal untruths). Lý do chính yếu là tầng lớp “viết nguệch ngoạc và nói huyên thuyên” - các nhà báo, biên tập viên, các nhà nghiên cứu học thuật, các nhà bình luận - có xu hướng tự do cấp tiến nhiều hơn là bảo thủ. Rất nhiều các cuộc điều tra đã xác nhận điều này trên báo chí. Năm 1992, gần 90% các nhà báo của Washington ủng hộ Bill Clinton, theo kết quả một trong những cuộc thăm dò ý kiến. Nhưng trên phạm vi quốc gia, lượng phiếu phổ thông dành cho Clinton chỉ là 43%. Một cuộc khảo sát trong giới học thuật (dành cho các giáo sư tại các trường cao đẳng và đại học hệ 2 năm và 4 năm) được xuất bản trong cuốn Giáo dục cấp cao Ký sự (Chronicle of Higher Education) cho thấy: 5,2% cho rằng mình “cực tả”; 39,6% “tự do cấp tiến”; 37,2% “trung lập” (không tả mà cũng không hữu); 17,6% “bảo thủ”; và 0,4% “cực hữu”. Kết quả không phải là một liên minh có ý thức giữa báo chí và nhóm ủng hộ tự do cấp tiến và nhóm chính trị gia Dân chủ. Hầu hết các nhà báo và nhà biên tập (ít nhất là của báo chí, tạp chí tin tức, và kênh truyền hình chính thống, mặc dù rõ ràng không thuộc các tạp chí hoặc chương trình truyền hình chuyên bày tỏ quan điểm) đều tán thành ý kiến cho rằng họ nên khách quan và trung lập. Họ hào hứng đăng tải các scandal liên quan đến những người tự do cấp tiến cũng như bảo thủ. Họ biết rằng hầu hết các chính trị gia và những người theo một phe phái nào đó đều cố gắng “thêu dệt” nên các câu chuyện. Một số nhà báo tự xem mình như là nền tảng thụ động để người khác tuyên truyền. Tất cả chúng ta đều biết rằng mọi người có xu hướng để cho các “nguồn” khác sử dụng. Phần lớn những gì báo chí thực hiện lại không đả động gì nhiều đến các nhà chính trị hay các phe phái. Chúng ta chỉ đơn giản là kể lại một “câu chuyện hay”, hoặc đóng vai trò truyền thống là “giám sát” chính phủ, các cơ quan và các tập đoàn. Xu hướng này còn tinh tế hơn. Những câu chuyện do các chính trị gia tự do cấp tiến và các “chuyên gia” các loại (nhà kinh tế, nhà khoa học, bác sĩ, nhà khoa học xã hội, nhà giáo) kể lại đã tìm thấy những người nghe đồng cảm nhiều hơn là những câu chuyện kể của những người bảo thủ. Các anh hùng và tên vô lại của phe tự do cấp tiến, các giá trị và niềm tin của họ tương ứng sát sao hơn với các triết lý và thành kiến của nhà báo và nhà biên tập. Những gì đến từ các nguồn tự do cấp tiến có vẻ như đáng tin cậy hơn và xác đáng hơn. Nó phù hợp với các ý niệm về xung đột xã hội và theo đuổi một xã hội tốt. (Họ cho rằng) Đây không phải là thành kiến. Đó là thực tế. Thông thường họ không thể tưởng tượng các sự vật theo cách nào khác. Ngược lại, những người bảo thủ - hoặc người không thuộc nhóm tự do cấp tiến -thường được xem là người biện hộ cho các doanh nghiệp và người giàu có. Hoặc họ bị bêu riếu là những người nhẫn tâm và kỳ quặc. Các giá trị của riêng tôi là khá chính đáng (tôi tin là vậy), mặc dù những người khác có dán lên cái nhãn là quá bảo thủ hoặc - ít khi hơn - là quá tự do cấp tiến. Tôi tin rằng Chính quyền trung ương nhìn chung là đem lại các lợi ích cho quốc gia, nhưng tôi cũng nghĩ rằng việc mở rộng chính phủ sẽ đem lại nhiều vấn đề khó khăn mang tính thực tiễn và tạo điều kiện cho sự lạm quyền. Người ta có thể trở nên quá phụ thuộc vào phúc lợi của chính phủ. Thuế có thể tăng quá cao và ảnh hưởng đến sức khỏe kinh tế hoặc tự do cá nhân. Mặc dù khó có thể xác định được các giới hạn nhưng chúng thực sự tồn tại. Tương tự như vậy, tôi đặt nhiều niềm tin vào các “thị trường” - sự tự do để xác định những gì mà chúng ta cần sản xuất, giá cả của chúng, cách thức chúng ta tiết kiệm và đầu tư, và nơi chúng ta làm việc - nhưng tôi không tin rằng các thị trường là cái hiểu-biết-hết-mọi-thứ hoặc hoàn hảo. Các thị trường cũng có sai lầm và cần sự giám sát và điều tiết của chính phủ. Thường thì có ranh giới mỏng manh giữa mức độ quá ít và quá nhiều của công việc này. Sau cùng, tôi tin vào những gì đôi khi bị chế nhạo là “những giá trị truyền thống gia đình”: tình yêu cha mẹ và kỷ luật của cha mẹ, nếu có thể. Với sự may mắn, các bậc cha mẹ có thể giúp con cái của họ lớn khôn và thành những người lớn có trách nhiệm và tự lập. Cha mẹ đem lại tình yêu, các bài học nhỏ về cuộc sống hàng ngày, và những kiến thức cần có. Từ thử thách này mà một cá nhân có thể có năng lực và sự tự tin. Mặc dù việc nuôi dạy con cái là một việc phức tạp - và không có sự đảm bảo cho thành công - các tổ chức của chính phủ và xã hội không thể dễ dàng thay thế cho các bậc cha mẹ đầy tình thương yêu và đủ khả năng (xem “Thứ mà tiền không thể mua được”). Tôi đã có vợ và ba đứa con, hiện chúng ở độ tuổi từ mười đến mười lăm. Đó là những phần quan trọng nhất của đời tôi. Các nhà báo, những người phụ trách chuyên mục là “con lai” (tôi tin là như vậy). Quan điểm của tôi cho rằng họ không phải là nhà báo thuần túy, cũng không phải là người biện hộ thuần túy. Họ là sự kết hợp của cả hai. Họ pha trộn quan điểm và tình cảm trong bài báo của mình. Mối nguy hiểm lớn nhất - hậu quả của việc quá ấn tượng với tầm quan trọng của riêng mình - là trở thành kẻ “nhai lại chính mình” (self-parody): một người có quan điểm và phong cách có thể được dự đoán trước, và có thể bị bắt chước theo một cách dễ dàng. Sự nguy hiểm của riêng tôi là, từ việc liên tục thách thức quan niệm phổ biến, tôi trở thành người hoài nghi chính mình (reflexively skeptical) trước bất kỳ quan điểm nào của đám đông hoặc thường xuyên phê phán bất cứ điều gì là mới hoặc khác biệt. Tôi nhận thức được sự nguy hiểm, nhưng không phải lúc nào tôi cũng có thể vượt lên trên nó. Đa phần trong nghề báo chí, những gì chúng tôi viết ra thường là vào thời hạn chót. Các đánh giá phải được thực hiện một cách nhanh chóng. Chúng thường sai. Tôi nghi ngờ việc liệu có hay không những người phụ trách chuyên mục lớn mà lại không lúng túng vì một số bài viết của mình trong quá khứ. Nếu có những người này thì tôi không nằm trong số đó. Lẽ ra tôi có thể đưa vào cuốn sách này những sai lầm ngớ ngẩn của riêng tôi. Một trong những bài viết yêu thích nhất của tôi đã đặt ra khái niệm về “công nghệ trì hoãn” - đối lập với công nghệ tiên tiến, chúng là các công nghệ mới tạo ra những phương pháp cồng kềnh và đắt tiền để thực hiện các công việc đã được làm một cách đơn giản và không mấy tốn kém trước đây. Một ví dụ là sách điện tử, đối với tôi thì đây đã từng là một ý tưởng tồi, trong khi dùng sách giấy là quá thuận lợi. Sau khi suy xét, tôi đã quyết định không đưa vào đây bài viết này. Robert J. Samuelson Ngày 26, tháng 9 năm 2000 Washington, D.C.I Mời các bạn đón đọc Nói Vậy Mà Không Phải Vậy của tác giả Robert J. Samuelson.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tư Duy Pháp Lý Của Luật Sư
Quyển sách này là phiên bản mới của quyển Tài ba của luật sư xuất bản năm 2010 và tái bản hai lần sau đó. Đó là kết quả của những góp ý từ độc giả, của kinh nghiệm tác giả thu thập được qua các lớp học được tổ chức tại Đoàn Luật sư TP. Hồ Chí Minh cũng như sự tìm tòi và học hỏi của bản thân trong suốt 5 năm qua. Cũng như sách trước, quyển sách này được viết cho các luật sư mới bước chân vào nghề.  Tựa quyển sách nêu bật một điều kiện tri thức của luật sư, điều mà họ phải có khi hành nghề. Đó là công cụ của họ, giống như người nông dân phải có cuốc. Tư duy pháp lý của luật sư bắt nguồn từ khả năng phân tích của họ và kết quả của nó là các lập luận trình bày cho người khác. Luật sư phải giỏi phân tích vì trong nghề nghiệp của mình, họ phải đương đầu với các sự kiện hay các thực tại nhất định của cuộc sống. Khách hàng không đem một văn bản luật đến cho luật sư mà là một vụ tranh chấp, một vấn đề pháp lý cần có câu trả lời. Đáp ứng cho khách hàng, luật sư phải phân tích vụ việc và đề ra giải pháp phù hợp luật lệ. Vậy trước hết, luật sư biết cách tư duy pháp lý là để phục vụ mình!  Trong một vụ tranh chấp được xét xử ở tòa thì luôn luôn có hai bên. Luật sư của nguyên đơn nộp lý lẽ lên tòa để khởi kiện thay cho thân chủ. Họ khởi đầu một vụ kiện. Ở đó chống đỡ cho thân chủ – bị đơn – là một luật sư khác. Họ giúp kết thúc vụ án. Biết tư duy pháp lý, cả hai nghiên cứu vụ việc một cách “toàn diện, đầy đủ và khách quan”. Do vậy họ sẽ đóng góp nhiều lý lẽ để tòa án xem xét trong quá trình tố tụng. Chính luật sư của nguyên đơn sẽ làm cho công việc ban đầu của thẩm phán thành dễ dàng hay rắc rối. Như thế, tư duy pháp lý của luật sư đóng góp đáng kể cho tòa án.  Trong một vụ tư vấn, luật sư chỉ có đối tác, hiển hiện đâu đó. Tư duy pháp lý giúp họ phân tích vụ việc để thấy trọng tâm, bản chất của nó, hầu đề nghị cách thực hiện đúng và nhanh. Được như vậy là vì sự phân tích trong tư duy pháp lý đòi hỏi luật sư phải có kiến thức.  Tư duy pháp lý trình bày ở đây là một phương pháp, một “cái cuốc”. Nó sẽ giúp các luật sư mới vào nghề, khi chịu học và được chỉ bảo thêm, thì không bao lâu có thể một mình đảm nhận công việc. Ở đây, tác giả cố gắng trình bày phương pháp một cách rõ ràng và tỉ mỉ. Điều đó làm cho quyển sách này khác với các quyển trước có cùng nội dung. Và để cho quyển sách không dày quá, chỉ có một số vụ án mới được thêm vào.  So với quyển sách đầu tiên xuất bản năm 2003, đến quyển năm 2015 này, thời gian đã đủ dài để độc giả quen thuộc với phương pháp trong sách, vốn được du nhập từ nước ngoài và đã được “địa phương hóa”. Tất nhiên cố gắng đó đã không thể là một thành quả nếu không có Nhà xuất bản Trẻ làm ... “bà đỡ” trong thời gian đã nêu cũng như sự giúp đỡ của các bạn bè thân thiết. Dẫu sao, quyển sách này vẫn còn những khiếm khuyết. Lời nói đầu xin được ngưng ở đây với câu: Xin quý độc giả tha thứ và chỉ giáo về những khiếm khuyết, vốn không thể tránh được do sự bất toàn của con người.  Nguyễn Ngọc Bích Tháng 3 năm 2015 *** Đối tượng của quyển sách này là luật sư đang tập sự trong một đoàn luật sư. Nó giúp bạn “kiếm tiền từ thân chủ”. Bởi thế bạn nào còn đang là sinh viên hay học viên, tức đang phải “kiếm điểm từ thầy dạy” thì nên hỏi ý kiến các thầy của mình trước khi dùng.  Bạn có thể hỏi tôi là: Khi học ở Học viện Tư pháp, tôi đã được dạy và đọc nhiều về các kỹ năng của luật sư, vậy TDPL dạy thêm kỹ năng gì? Tôi xin trả lời là đi tìm các câu hỏi pháp lý (legal issue) nằm trong một vụ tranh chấp. Nó đi xa hơn và sâu hơn quá trình nghiên cứu một vụ án mà bạn đã học ở Học viện Tư pháp, vốn được khái quát như sau1:  i. Nghiên cứu toàn bộ hồ sơ vụ án; ii. Đọc lướt qua toàn bộ hồ sơ; iii. Ghi chép các sự kiện chính theo ngày tháng, theo nội dung sự việc, theo sự kiện;  1 “Giáo trình kỹ năng giải quyết vụ kiện dân sự”; (Hà Nội: Học viện Tư pháp; NXB Công  an Nhân dân, 2007); t.289.  iv. Sắp xếp và nghiên cứu các chứng cứ; v. Suy nghĩ về phương hướng để tìm ra giải pháp giải quyết vụ án có lợi  cho khách hàng của mình.  Để thực hiện công việc ấy, tôi chia quyển sách này ra làm bốn phần:  • Phần một: Giới thiệu với bạn về TDPL và đưa ra các điều kiện bạn phải có, hay phải thay đổi so với trước kia để có thể có TDPL. Tốt nghiệp trường luật xong bạn chưa có khả năng TDPL để làm luật sư; vì trường luật đào tạo bạn làm cán bộ pháp chế (tức là soạn luật để cho người khác áp dụng, và giám sát việc thực hiện luật). Bạn sẽ biết về điều này rõ hơn khi đọc Chương 2 của Phần này.  • Phần hai: Trình bày cách TDPL; gồm phương pháp thực hiện; các vụ án để bạn... luyện chưởng và biết tính chất của các CHPL.  • Phần ba: Đưa ra một số vụ án để các bạn tập làm một mình hầu kiểm tra mức độ sử dụng TDPL.  • Phần bốn: Một số bài đọc thêm để bạn mở rộng kiến thức.  Điều tôi chú trọng trong quyển sách là thu thập các sự kiện, vụ việc để phân tích. Chúng xuất phát từ thực tế, do tôi thu thập từ các bài của báo chí và các bản án của các tòa án khác nhau. Tuy nhiên, tôi không ghi lại các nguồn, số bản án, số báo... vì tôi muốn các bạn chỉ quan tâm đến các sự kiện hay vụ việc có thật để bạn có dữ kiện phân tích; và xin nhấn mạnh, không có một mục đích nào khác. Như đã nói ở Lời nói đầu, số vụ án trong sách này không tăng nhiều so với sách cũ; vì tôi sợ quyển sách sẽ dày như... từ điển, khó cầm. Vấn đề là đi vào chất lượng.  Đây là sách “dạy nghề”, không phải sách nghiên cứu. Ngoài ra vì “cái cuốc” mà bạn muốn trang bị cho mình vốn trừu tượng, nên nhiều khi tôi phải nhấn mạnh, làm cho nó rõ ra bằng hình minh họa, và lặp đi lặp lại ở nhiều chỗ. Việc này giống như cầm tay chỉ việc. Mong bạn không khó chịu vì cứ phải nghe đi nghe lại mãi.  Để đền cho bạn, tôi có nhờ một đồng nghiệp vẽ minh họa ở vài chỗ. Tự nhận họa sĩ tay ngang, người vẽ tên là Huỳnh Thị Kim Hồng.      Mời các bạn đón đọc Tư Duy Pháp Lý Của Luật Sư của tác giả Nguyễn Ngọc Bích.
Nghiệp Tình Yêu
Geshe Michael Roach đã viết cuốn sách Năng đoạn Kim cương. Nó được đặt theo tên của một bộ kinh nổi tiếng giải thích về nghiệp cùng khía cạnh kém quan trọng hơn của nó, đó là khái niệm “không” trong Phật giáo. Nó đã trở thành cuốn sách kinh doanh bán chạy trên khắp thế giới, được dịch ra khoảng 25 thứ tiếng, và được hàng triệu người đón nhận; nổi tiếng nhất là bản tiếng Trung và nó đã giúp nhiều người đạt được tự do tài chính. Từ đó, mọi người bắt đầu mời ông đến nói chuyện về cuốn sách. Kể từ khi cuốn sách ra đời, Geshe cùng các đồng nghiệp tại Học viện Năng đoạn Kim cương đã tiến hành các buổi hội thảo kinh doanh và khóa tu cho hàng ngàn người thuộc nhiều quốc gia. Trong những chương trình này, họ thường tổ chức những buổi thảo luận nhỏ có tên là “Trí tuệ cho cuộc sống hàng ngày,” và ở đó, những người tham gia sẽ có cơ hội đặt các câu hỏi có liên quan đến công ty cũng như sự nghiệp của họ. Một hôm, trong một chương trình ở Trung Quốc, một người phụ nữ đã hỏi rằng liệu Geshe có thể trả lời một câu hỏi không liên quan đến kinh doanh mà về mối quan hệ của cô với chồng được không. Liệu các Nguyên tắc Năng đoạn Kim cương – các nguyên tắc về hạt giống nghiệp – có áp dụng được vào cuộc sống gia đình không? Geshe trả lời rằng, tất nhiên là được; rằng những hạt giống nghiệp trong tâm chúng ta, chịu trách nhiệm cho tất cả mọi thứ và tất cả mọi người xung quanh chúng ta. Đột nhiên, như thể một con đập vừa bị vỡ, mọi người bắt đầu đưa ra những câu hỏi mà từ lâu bị dồn nén về những vấn đề tế nhị nhất liên quan đến mối quan hệ của họ với người bạn đời của mình. Lúc đó, ông nhận ra rằng quan tâm đến các nhu cầu tâm linh – cũng như các nhu cầu cơm áo gạo tiền – không thôi là chưa đủ. Những mối quan hệ thân mật có lẽ chính là nguồn hạnh phúc lớn nhất trong cuộc đời; và chúng cũng có thể trở thành nguồn đau khổ lớn nhất. Nếu chúng ta muốn hạnh phúc, và nếu chúng ta muốn thế giới hạnh phúc, thì chúng ta phải giải quyết vấn đề về mối quan hệ này! Đáng ngạc nhiên là Phật giáo có rất nhiều lời khuyên dành cho chúng ta về mối quan hệ của chúng ta với người bạn đời. Có hàng ngàn quyển sách vô giá, chứa đựng mọi kiến thức về nguồn gốc của mọi sự vật trong cuộc sống của chúng ta, kể cả thông tin về người bạn đời của chúng ta. Chúng là những giáo lý về hạt giống nghiệp. Ngoài ra còn có một bí quyết khác, có tên là Đạo Kim cương, xuất hiện từ hàng ngàn năm trước. Nó cung cấp cho chúng ta những phương cách mới vô cùng độc đáo để gắn kết với người bạn đời của mình và cùng với họ đạt được những đỉnh cao tuyệt đẹp không gì có thể so sánh được. Để đủ tiêu chuẩn viết một cuốn sách về Nghiệp tình yêu, Geshe cảm thấy rằng mình là người may mắn nhất so với những nhà sư đồng đạo vì ông ã trải qua nhiều mối quan hệ trước khi trở thành một nhà sư (phần lớn người Tây Tạng vào tu viện trong độ tuổi từ 7 đến 12). Ngài biết phụ nữ như thế nào – biết những niềm vui mà một mối quan hệ đem lại, cũng như những nỗi đau khổ tột cùng của tình yêu mang lại. Chính bố mẹ ngài Geshe cũng đã phải trải qua một cuộc li dị đầy tổn thương, một sự kết hợp tồi tệ giữa việc yêu nhau nhưng không thể ở cạnh nhau. Và ông nghĩ điều quan trọng nhất là ông đã có một mối quan hệ mà ông cho là thần thánh – ở đó ông biết được sơ qua về mối liên hệ giữa Đức Phật và bà Tilottama, giữa Dante và Beatrice. Trong những năm sau đó, Geshe đã làm vững mạnh thêm trải nghiệm này và đạt được một sự hiểu biết sâu hơn về nó, thông qua hàng ngàn giờ học các giáo lý dưới chân 12 vị thầy vĩ đại của Tây Tạng. Gehse đã được trao cánh cửa bí mật để đi vào những phương pháp tương tác với người bạn đời, và ông đã dành nhiều năm để dịch cũng như nghiên cứu hàng ngàn trang văn bản cổ nói về những phương pháp này. Geshe đã nghiêm túc thử làm theo các phương pháp này và đôi khi thu hút sự chú ý không mong muốn của báo chí cũng như sự giận dữ của giới chức tu viện vì một vài người trong số đó cho rằng những kiến thức này không thể được chia sẻ cho đại chúng. Nhưng ông tin rằng có một thế giới hoàn hảo, ông tin rằng chúng ta có thể, cùng nhau tạo ra nó, và ông tin rằng nó bắt đầu và kết thúc bằng một mối quan hệ hoàn hảo – bằng sự hiểu biết về các mối quan hệ giữa các cặp đôi. Vì vậy, Geshe muốn chia sẻ với bạn những gì ông đã học được để giúp bạn cải thiện mối quan hệ của riêng bạn. Qua nhiều năm, hàng ngàn người từ gần như tất cả mọi nơi trên thế giới đã hỏi Geshe những câu hỏi về những mối quan hệ của họ. Ngài đã chọn lọc ra 100 câu hỏi phổ biến nhất và trả lời chúng ở đây dựa theo tri thức và trí tuệ cổ xưa của Tây Tạng, kèm theo lời chúc tốt lành đến từ trái tim lạt-ma của ngài. Hy vọng nó sẽ giúp được bạn và con người hoàn hảo kia trong cuộc đời bạn. *** Chúng ta đều biết đến câu nói “Gieo nhân nào gặt quả ấy”. Nếu bạn còn mơ hồ về nhân và quả cũng như làm thế nào để gặt được trái ngọt, hãy đến với cuốn sách Nghiệp tình yêu, cách các hạt giống nghiệp hoạt động, bản chất của chúng và cách chúng ta sử dụng các hạt giống để tạo nên cuộc đời như mong muốn càng trở nên rõ ràng. Với nhiều người, khi nghe nói đến chữ nghiệp, họ sẽ cảm thấy người nói là kẻ tâm linh và có chút gì đó không thực tế. Nhưng cuốn sách đã chỉ ra rằng thực chất mọi việc xảy ra với ta đều đến từ bên trong ta, đến từ những việc ta làm, những điều ta nghĩ trong quá khứ. Với 100 câu hỏi nằm trong các mảng nội dụng như tìm kiếm, gắn bó, tình yêu, sự tin tưởng, chung thủy, sống chung, tình dục, giao tiếp, sự an toàn, vui vẻ, một cái nhìn vào tương lai, những đứa con,… đến từ chính những người tác giả từng gặp, ông đã đưa ra những lời giải đáp, và dẫn dắt, hướng dẫn từng người cách giải quyết vấn đề của mình. Những thắc mắc của họ cũng chính là những băn khoăn của rất nhiều người. Trong 100 câu hỏi ấy, bạn chắc chắn sẽ bắt gặp được hoàn cảnh của mình và nhờ cách tác giả chỉ dẫn, bạn có thể tự mình xử lí vấn đề. Chúng ta sẽ dừng oán trách, sẽ ý thức về những việc phải làm, biết cách gieo những hạt giống tốt, và biết cách dừng việc khuếch tán những hạt giống xấu cho cuộc đời mình. Bạn sẽ được biết về Bốn Bước Starbuck, về thiền café, Bốn quy luật nghiệp và nhiều điều thú vị khác nằm trong cuốn sách này. Có rất nhiều nội dung khác nhau trong quyển sách này như tôi đã đề cập ở trên. Khi đọc cuốn sách hãy bắt đầu bằng những câu hỏi đầu tiên để hiểu thế nào là hạt giống, nghiệp và các bước thực hiện. Đến khi bạn nắm được cách thức mọi thứ trong cuốn sách “vận hành”, bạn có thể đi thẳng đến với những nội dung mà mình quan tâm. Chẳng hạn bạn có vấn đề về sự gắn bó với người mình yêu thương, hãy mở trang sách đó và đọc những câu hỏi trong ấy để tìm ra hướng đi cho mình. Sẽ thật khó nếu ta đi qua lần lượt từng trang, vì vậy để cuốn sách thật sự hữu ích, hãy nắm những điều cơ bản, sau đó tìm đến đúng vấn đề bạn cần. Và bạn sẽ thấy, cuốn sách sẽ luôn đưa ra cho bạn được câu trả lời bất cứ khi nào bạn muốn. Tuy nói về tình yêu, nhưng những gì thu lại từ cuốn sách có thể áp dụng cho rất nhiều mối quan hệ khác, với nhiều tình huống khác nhau mà không phải là người yêu, là chồng/vợ mình (cũng hời đó chứ, đây được gọi là học 1 biết 10 chăng) Ủa, vậy rồi ai mà viết về nghiệp và hạt giống vậy? Đó là Geshe Michael Roach. Michael Roach (sinh ngày 17 tháng 12 năm 1952) là một giáo viên phi truyền thống của Phật giáo Tây Tạng. Là một nhà sư theo phái Gelugpa, ông là người Mỹ đầu tiên nhận bằng Geshe tại Tu viện Sera ở Tây Tạng (wikipedia). Geshe là danh hiệu dùng để phong cho một vị đã hoàn tất khóa huấn luyện dài hạn về triết học, giống như một người đạt được học vị Tiến sĩ của Tây Tạng chuyên ngành nghiên cứu Phật giáo. Ông cũng vô cùng nổi tiếng về thuyết năng đoạn kim cương của mình trong kinh doanh (trong trường hợp bạn hứng thú thì có khóa học Năng đoạn kim cương). Qua tìm hiểu có thể thấy có rất nhiều tranh cãi trong vai trò nhà sư Phật giáo của ông như ông vẫn để tóc dài và chung sống cùng một người phụ nữ (hi vọng điều này sẽ không ảnh hưởng đến cách bạn cảm nhận cuốn sách) Đây không phải là cuốn sách dành cho ai thích những gì nhẹ nhàng, giải trí. Khi đọc nó, bạn sẽ thấy như mình không thể đọc được hết cuốn sách ngay lập tức, bởi vì có thể sau mỗi câu hỏi bạn có thể sẽ phải dừng lại và ngẫm nghĩ để thật sự hiểu và nắm bắt được nó. Với tôi, cuốn sách giống một cuốn cẩm nang, để những khi cảm thấy đầu óc tràn ngập trong suy nghĩ, tôi mở ra, tìm đọc các câu hỏi và tìm thấy lối đi cho mình. Nhờ cuốn sách này, tôi trở nên tự tin hơn vì cảm thấy làm chủ được cuộc sống, không còn tìm kiếm giải pháp ở đâu xa ngoài chính mình, không cần trông chờ ai đó đến giải cứu mình nữa. Tôi đã thử áp dụng các hạt giống nghiệp, và kết quả tuyệt vời hơn những gì tôi cho đi. Tôi nghĩ rằng đây là một cuốn sách nên đọc, đặc biệt khi bạn cảm thấy mình đang nhận quá nhiều điều tồi tệ, thì rất có thể rằng đó là do bạn đã gieo chúng lúc trước và giờ chúng xuất hiện trên chính bạn. Và nếu bạn đang có cuộc sống tuyệt vời thì bạn sẽ biết mình đang gieo những hạt giống tốt đẹp và biết cách khuếch tán chúng lên. Một cuốn sách hay là khi bạn đọc nó vào đúng thời điểm nhận thức, sóng của bạn cùng rung một tần số với cuốn sách ấy. Chúc bạn có thời gian vui vẻ bên cuốn sách!                                                       Ngồi xuống, tĩnh lặng và thả mình vào trang giấy                                            _Mindful_Review Mời các bạn đón đọc Nghiệp Tình Yêu của tác giả Geshe Michael Roach.
Bạn Không Thông Minh Lắm Đâu
Hiệu ứng Dunning-Kruger Bạn Vẫn Tưởng Bạn có thể dự đoán được chính xác khả năng của mình ở mọi tình huống. Sự ThậT Là Về cơ bản thì bạn khá kém trong việc đánh giá khả năng của bản thân và độ khó của những công việc phức tạp. Hãy tưởng tượng rằng bạn chơi rất giỏi một trò nào đó. Trò nào cũng được - cờ vua, Street Fighter1, bài poker - không quan trọng. Bạn thường xuyên chơi trò này với lũ bạn và lúc nào cũng thắng. Bạn cảm thấy mình thật giỏi, và bạn tin rằng mình có thể giành chiến thắng ở một giải đấu nếu có cơ hội. Vậy là bạn lên mạng tìm xem giải đấu khu vực sẽ diễn ra ở đâu và khi nào. Bạn trả phí tham gia và rồi bị hạ đo ván ngay trong hiệp đầu tiên. Hóa ra là bạn không giỏi lắm đâu. Bạn cứ nghĩ rằng mình thuộc dạng đỉnh của đỉnh, nhưng mà thực chất bạn chỉ là một tay ngang thôi. Đây được gọi là hiệu ứng Dunning-Kruger, và nó là một phần cơ bản trong bản chất của con người. Hãy thử nghĩ về những ngôi sao Youtube mới nổi trong mấy năm gần đây - những người múa máy một cách vụng về với các loại vũ khí, hoặc là hát chẳng bao giờ đúng tông cả. Những màn trình diễn này thường rất tệ. Không phải họ cố tình dùng bản thân để mua vui cho người khác đâu. Trình độ của họ thực sự tệ, và chắc hẳn bạn cũng thắc mắc là tại sao lại có người có thể tự đặt mình lên một sân khấu toàn cầu với những màn trình diễn đáng xấu hổ như vậy. Vấn đề nằm ở chỗ họ không tưởng tượng được là công chúng toàn cầu có thể khắt khe và đòi hỏi cao hơn so với lượng khán giả nhỏ bé họ vốn đã quen thuộc là bạn bè, gia đình và những người đồng cấp. Như nhà triết học Bertrand Russell đã từng phải than thở: “Trong thế giới hiện đại ngày nay thì những kẻ khờ khạo luôn tự tin hết mức trong khi những người khôn ngoan thì lại luôn nghi ngờ.” Hiệu ứng Dunning-Kruger là lý do tại sao mà những chương trình như America’s Got Talent1 hay American Idol2 có thể diễn ra. Ở trong phòng karaoke với lũ bạn, bạn có thể là người hát hay nhất. Nhưng để đối chọi với các thí sinh trong cả một quốc gia? Khó lắm. *** Nói cho vuông thì sách chỉ đáng 3.5* thôi, nhưng vì là sách mượn mà người mượn còn chưa đọc nên mình dúi thêm cho 0.5 * nữa, gọi là Tô có ghi công :sss Cuốn sách trình bày về các hiện tượng tâm lý thường gặp (ai hay theo dõi page “10 sự thật thú vị” trên facebook thỉnh thoảng sẽ gặp những bài tương tự và vừa hay, admin của trang cũng đang PR cho cuốn này :))) Chắc do đã đọc nhiều bài viết về lĩnh vực này nên mình không choáng ngợp đến mức sững sờ về nội dung sách :sss Dù vậy, có một cuốn sách tổng hợp lại và Việt hóa triệt để các thuật ngữ tiếng Anh (hay Đức kiểu Baader-Meinhof = thiên kiến xác nhận) thì cũng tiện cho tra cứu và chấn chỉnh bản thân mỗi khi lên cơn vĩ cuồng :3 Đọc xong dễ nảy sinh ham muốn lôi người khác ra test và nghiêm túc tập ngồi thiền, vì rõ ràng, với một tâm trí quá náo động dẫn tới quá tải như tâm trí người phương Tây thì không có gì lạ nếu nó mắc chứng này tật nọ. Giờ đến phần bình xét :sss 1. Hình thức sách =)))) Cái bìa như muốn gào vào mặt độc giả: Bạn không biết chữ như bạn tưởng đâuuuuu :/ và ngoài ra, người đọc có thể gặp chứng mù màu đột xuất :3 Sách dày nhưng đóng keo ở gáy hơi mỏng nên chưa gì đã bị gãy gáy :
Đức Tự Chủ
Nếu con người tự nhiên hoàn toàn thì không cần bàn vấn đề tự chủ. Song, tiếc chút là con người tự nhiên không hoàn toàn. Những yếu tố căn bản cấu thành bản chất người như lý chí, ý chí, bản năng thường hoạt động không đồng hợp. Lý trí dùng khai quang chân lý lại hay bị ý chí lôi cuốn: Lấy hư làm thực. Ý chí có đối tượng đặc biệt là hạnh phúc, lại nhiều lần bị bản năng chi phối quyến rũ: Lấy dữ làm lành. Có hai lực lượng chính và tà ác liệt tranh đấu thường xuyên trong mỗi con người. Ta cần có một năng lực đanh thép để tự hướng về con đường chính. Ai trong chúng ta cũng tự nhiên ưa ăn nhiều, ưa ở không, ưa kiêu ngạo, ưa bón kiết, ưa dâm tà… Epicure nói trong mỗi người có một (con heo). Nhưng kỳ thực chẳng những có một (con heo) mà nhiều (con vật) khác tà ác, thúc đẩy con người đi sai đường lối, định mạng mình. Phải làm sao chế ngự được mình, hoàn toàn làm chủ lấy mình, nói năng, hoạt động do huấn luyện ý thức của mình thì mới đi vững trên nẻo chính, mới mong xây cho cuộc đời một chân giá trị trường cửu. Cái bí quyết của thành công, cái miếng nghề của hạnh phúc, cái chìa khóa giá trị đời ta, thưa bạn là Đức tự chủ. Có nó ta có thể có tất cả. Không có nó ta chắc chắn sẽ không làm nên được việc gì. Thành công được không? Một người trong bất cứ công việc chi hễ vui làm, buồn thôi. Thành công được đại sự không? Kẻ không ép mình chịu khó thu hoạch những thành công nhỏ-nhỏ. Hạnh phúc được không? Một con người gặp trở lực, gặp sầu buồn thì bi quan ngập đời sống, thối chí và bỏ ăn bỏ ngủ. Giá trị bao nhiêu? Con người gặp nghịch ý chút là mắt trợn dọc, miệng la rùm và chân nhảy đong đỏng. Thưa bạn! Vậy cần thiết bạn phải lo cho mình có đức tự chủ để thành công. Bạn phải làm sao bạn chỉ nói những gì bạn tự ý muốn và không làm những gì mình muốn không làm. Bạn phải đặt cho bộ thần kinh bạn một dây cương chế ngự nó và bắt nó ngoan ngoãn tuân lệnh ý chí trui rèn rất già của bạn. Về mặt tiêu cực bạn phải coi như dịch tả1 những tật nói xàm xạp, tật múa tay chân cách vô lý, tật háo động không cần, tật vụt chạc, tật đa tình, đa cảm, đa xúc, tật hay than thân trách phận, bàn chuyện tâm phúc vô ích, tật náo động tâm thần, phiêu lưu trong biển tưởng tượng, mộng mơ vô bờ bến, tật thả hồn trong những tư tưởng hắc ám, dâm ô, bi quan, sầu tủi, hối tiếc, nản lòng… Về mặt tích cực bạn hãy thinh lặng, thinh lặng ít nói đã đành mà thinh lặng trong hành động nữa. Cử động điềm đạm. Hoạt động khi cần thôi, làm gì cũng chỉnh đạt, chu đáo. Có ý chí gang thép. Ưa trầm lặng suy nghĩ, cân đo, dè dặt. Ăn chịu đau khổ. Tìm trong đau khổ, cô đơn nguồn hứng thú. Không tư tưởng chi cần thiết, thì để tâm thần tịnh không. Dùng ý chí hướng dẫn não tưởng tượng cho có chừng mực. Thường thả hồn lên giới tư tưởng, siêu thiêng trong sạch. Nuôi óc bằng những ý tưởng bác ai, hi sinh, lạc quan, ưa đời, hi vọng, kiên nhẫn… Để giúp bạn tự chủ, để tập những điều khuyên trên, chúng tôi viết phỏng quyển sách này. Gọi là viết phỏng song nhiều chỗ trong nguyên văn chúng tôi đích xác. Và dù phiên dịch hay phỏng dịch chúng tôi bao giờ cũng lột hết đại ý của tác giả và trình bày theo tinh thần tiếng mẹ. Chỗ nào tác giả lập lại hay nói không hay, không cần [thì] chúng tôi miễn dịch để thêm vô chút ít riêng những gì bổ ích cho cuộc rèn luyện tâm hồn bạn. Làm công việc này, chúng tôi nhớ trước hết là giới nam và nữ thanh niên. Chúng tôi xin cung hiến riêng cho quí bạn. Chúng tôi trông cậy quyển sách này mỗi bạn đều có nó bên mình để tự luyện tinh thần tự chủ. Chân trời tương lai của bạn sẽ rực rỡ ánh sáng thành công, hạnh phúc, hay âm u những thất bại, khốn nguy, là do bạn có cái chìa khóa và biết sử dụng chìa khóa này [hay] không. Chúng tôi đã trộn tâm tưởng mình với tâm tưởng tác giả để cung hiến bạn mấy giòng chân thành sau đây. Xin bạn chịu khó đọc kỹ lưỡng, suy nghĩ, học thuộc lòng những qui tắc và thực tập những bài chúng tôi chỉ. Sau một tháng áp dụng các phương pháp trong sách này bạn sẽ thấy đời bạn đổi mới cách lạ. Bạn sẽ nghe trong người bạn cường dũng. Bạn sẽ ảnh hưởng bao kẻ xung quanh và ai giao tiếp bạn cũng nhận rằng mình đang bị lôi cuốn, thu phục bởi một dũng lực khác thường. Chúc Bạn mau đoạt kết quả mỹ hảo, như ý, và thân mến chào bạn.   HOÀNG XUÂN VIỆT Sài Gòn, cuối đông 1954 *** 1. Bạn! Trong đời sống bạn có muốn thành công mọi việc không? Bạn có mong ước sự thành công dưới mọi hình thức, thứ thành công chính đáng, duy nhất, mà người lương thiện có thể tìm được chăng? Chắc chắn bạn ước mong, bạn muốn cách cương quyết. Vậy thì xin bạn hãy rất mực chú ý đọc và học quyển sách này. Chúng tôi hân hạnh tặng nó cùng tất cả những ai có tham vọng cao cả, thiện dụng những phú bẩm cá biệt của mình và những hoàn cảnh để canh tân địa vị, để tự hoàn thiện về đường tân đức và gây xung quanh mình ảnh hưởng tốt đẹp. Viết quyển sách này chúng tôi không có tham vọng làm văn, mà chỉ với mục đích cung hiến độc giả một Phương pháp Thực Hành và rõ rệt đảm bảo chắc chắn cho độc giả mọi thành công. Quả thực trong mấy trang này, chúng tôi xin trân trọng tặng chiếc chìa khóa, giúp bạn mở dần dần các cánh cửa khác nhau của thành công. Sau cùng nhờ chìa khóa này bạn được vào tận lâu đài bí nhiệm của thành công và hạnh phúc; không có chìa khóa này, bạn sẽ nhu nhược chôn vùi trọn kiếp đời sống mình trong đám quần chúng vô số những kẻ xoàng xoàng, thất bại của cuộc sống. 2. Chiếc chìa khóa nhiệm lạ này, thưa bạn! tức là Đức Tự Chủ Bạn hãy làm chủ lấy bạn. Bạn sẽ sử dụng có lợi nhất những năng lực mà nhân tính đã đặt định để bạn dùng mà bạn bỏ không; bạn sẽ ứng dụng có kết quả khả quan những hoàn cảnh; bạn sẽ trong một chừng mực nào đó chế ngự những hiện tượng mà không để bị chúng lôi cuốn, quản trị bạn. Hãy khắc ấn sâu vào tâm não bạn quyết định này là không tự chủ bạn sẽ không thành tựu được công việc gì cả. Bạn nên trầm nghĩ một chút. Những phú bẩm tinh thần minh suốt nhất không đảm bảo đủ cho bạn thành công. Bạn coi những kẻ đồng đăng bạn xưa bây giờ làm gì, những kẻ thuộc hạng có thiên phú dồi dào nhất phần nhiều người ta thất vọng; họ vất vơ sống cách đáng tiếc khi bao nhiêu kẻ khác xem ra ít tài năng hơn mà đã xây dựng cho mình những địa vị rực rỡ. Tại sao thế? Tại họ thiếu nghị lực cần thiết chứ gì. Khởi thắng là thứ bông hoa khó trồng, không phải đất nào cũng hợp; nó cần có ánh sáng mặt trời ý chí để rực nở nữa. Những cuộc thành công vĩ đại đâu phải chỉ vì số may. Ở dương thế này, mọi người không lúc này thì lúc khác đều gặp cơ hội thuận tiện, kẻ tự chủ nhanh chóng chụp lấy thời cơ, kẻ bạc nhược vì bỏ qua cơ hội nên chính sự yếu đuối của họ gây khó cho họ chớ không phải số phận. Thời vận là con chim hay đổi tính, nếu nó đáp cánh sát bạn, bạn phải lo chụp, bằng không nó vụt bay mất. Vậy xin bạn đừng bảo thất bại là con đẻ của bạc mệnh. Giữa bao nhiêu khó khăn bạn hãy anh dũng tranh đấu; sau cùng bạn sẽ chiến thắng mọi trở lực. Vật không động lực, sống bấp bênh như lục bình mặc tà ác cuốn lôi. Mỗi giờ phút bất động khiến cho tình thế nó thêm nguy ngập. 2. Nếu bạn muốn cảm thấy cách xâu xa sự cần thiết tự chủ thì hãy để vài phút hồi tưởng dĩ vãng của mình, bạn hãy nghiệm xét lịch sử đời tư mình Các công việc bạn có thịnh hành như bạn nguyện vọng không? Bạn học tập có tiến triển khả quan chăng? Tài năng bạn có gây ảnh hưởng gì trong xã hội không? Đời sống tinh thần và tâm đức của bạn có được nâng đỡ đúng cùng lý tưởng cao cả mà bạn thấy thì có những ước vọng tốt đẹp chăng? Nếu thành tâm tự xét, bạn sẽ mau mắn nhìn nhận sự canh tân thêm cho tình trạng mình và có thể hoàn toàn đổi lối cho nó nữa. Bạn đã không biết lợi dụng cơ hội thuận tiện này, lầm lẫn trong quyết định kia, đã thiếu tinh thần tiếp tục trong hoàn cảnh nọ. Và bạn cũng đã lùi bước trước một cuộc tiến nào đó không kém quan hệ. Bạn à! Tại sao bạn lại hành động thế ấy? Tôi bói đúng bạn trả lời sao. Bạn để mình bị lôi cuốn bởi một cơn bồng bột vô nghĩa, hoặc bởi một sức giục nóng nảy. Có khi bạn không thể chế ngự tính nhút nhát, hay mà bạn tâm tính tự tỷ mà bạn cảm [thấy] rất khổ đau trong những giờ phút mệt mỏi, thất bại. Lần khác bạn vụt nói một tiếng chua chát, cười nhạo, tuy có thể tha thứ được, song đã khiến bạn gieo ác cảm tai hại rất mực cho sự thành công. Còn nữa, nhiều lắm, nhiều lần bạn hành động theo dục tính thúc đẩy mà bất chấp tiếng nói của lý trí. Bạn không phải là một người tự chủ mà biến thành một con người máy, biến thành cái lò xo hễ động là bung… Con người muốn có giá trị, thưa bạn, đâu thể vậy được mà phải quản trị óc tưởng tượng, bộ thần kinh mình và hành động theo trí tuệ ý chí.   4. Trong quyển sách bé con này bạn sẽ tìm gặp một phương pháp luyện tự chủ trong một thời gian ngắn PHƯƠNG PHÁP cực kỳ đơn giản. Chúng tôi cố gắng gạn lọc bớt những lý thuyết hay bàn cãi không đưa dẫn trực tiếp đến thực hành. Phương pháp cực kỳ hiệu nghiệm.–Bạn cứ thí nghiệm những điều chúng tôi chỉ đi. Kinh nghiệm riêng sẽ chứng cùng bạn những điều chúng tôi nói là sự thật. Phương pháp để theo.–Nó chỉ đòi buộc vài sự cố gắng cần thiết. Bạn sẽ thấy dễ dàng thực hiện nó vì chúng tôi trình bày rõ ràng và bạn thực hiện nó mà cảm thấy hứng thú. Thực hành nó bạn mê say như mê say một môn thể thao chớ không phải nghe mình bị áp bức bởi luật lệ. Nó tăng dần những việc bạn cần luyện tập để từ từ làm chủ lấy mình mà khỏi phải Ép mình cực nhọc. Leo lên lầu một nhà cao tầng bằng thang máy êm ái, dễ leo hơn là một cây thang bắt dựng đứng khiến ta leo suýt cúp cổ. Cũng thế ấy mỗi ngày bạn sẽ cảm thấy bạn chắc chắn thành công trong việc tự chủ bằng những phương pháp hiệu nghiệm. Bạn hãy: Quen tưởng nhiều về những đức tính mà chúng tôi vừa chỉ cho bạn. Suy nghĩ kỹ rồi bạn sẽ tự bảo rằng: “Quả là một phương pháp siêu vượt các phương pháp khác giống vậy gặp trong những sách viết lộn xộn, đọc nát óc và đòi buộc nhiều việc mà ý chí còn non mềm không dễ gì thực hiện được”. Vậy bạn nên tín nhiệm hoàn toàn và theo sát từng điểm những lời khuyên của chúng tôi. Nếu bạn trung thành thực tập các lời khuyên ấy, thì bạn sẽ nhận thấy rõ ràng con người bạn ngày càng thay đổi dũng cường tốt đẹp.   5. Làm sao bạn dùng quyển sách này Bạn hãy đọc chậm, đọc chậm từng chương. Đọc và tiêu hóa xong các điều viết trong chương trước, rồi hễ qua chương sau. Muốn thành công trong việc tự chủ bạn đừng hấp tấp. Nhất là bạn đừng cẩu thả những việc luyện tập mà chúng tôi chỉ định. Chúng cấu thành một thứ thao luyện tâm linh và bạn sẽ được những kết quả khả quan bằng một sự thúc đẩy tinh thần. Khi mà bạn cảm nhận có tấn tới chút gì thì bạn dùng sự tấn tới ấy ám thị mình. Bạn sẽ chạy mau trong sự cải hóa đời mình. Bạn hãy tự nói những lời này hay là những lời giống vậy. “Chắc chắn là tôi cải tân tôi. Tôi mới tự kiểm soát mình trong một việc khó mà trước kia tôi không làm được. Tôi trở thành một con người cương dũng vì tôi biết sử dụng ý chí tôi. Tôi không để những lực lượng tâm linh tôi không sinh lợi ích gì và tôi dùng tất cả năng lượng, khí lực của tiềm thức tôi. Dồi rèn phú bẫm của tôi như vậy, mỗi ngày tôi làm chủ lấy tôi. Thế là tôi đã khởi sự chiếm đoạt lý tưởng của tôi và trở thành người mà tôi mơ ước trở thành”. 6. Khi bạn đã ngẫm nghiền xong những tư tưởng chứa đựng trong chương nói đầu này thì bạn hãy nghiên cứu những trang sau. Bấy giờ là bạn đã tiêm nhiễm tận đáy lòng phương pháp rồi vậy Bạn nhắm thành công à? Bạn sẽ thành công mau hay không tùy bạn trung thành cùng không trong việc thi hành phương pháp chúng tôi chỉ cho bạn. Mời các bạn đón đọc Đức Tự Chủ của tác giả Hoàng Xuân Việt.