Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tình Yêu Qua Sáu Nghìn Dặm

Giuyn Vecnơ và tác phẩm Misen Xtrôgôp Giuyn Vecnơ (1828- 1905), nhà văn Pháp nổi tiếng được coi như bậc thầy về sáng tác truyện phiêu lưu mạo hiểm và khoa học viễn tưởng. Ngay từ những tác phẩm đầu tay của mình, ông đã giành được cảm tình của đông đảo bạn đọc Pháp và các nước khác trên thế giới. Sách của ông đã được dịch ra nhiều thứ tiếng và được in đi in lại nhiều lần với hàng triệu bản phát hành khắp nơi trên thế giới. Có thể nói những tác phẩm của Giuyn Vécnơ không những được giới trẻ, mà cả những bạn đọc nhiều lứa tuổi khác nhau ưa thích. Hơn bốn chục năm (từ 1862 đến đầu 1905) Giuyn Vecnơ đã viết được 63 tiểu thuyết và 2 tuyển tập truyện vừa và truyện ngắn được in thành 97 quyển sách với tham vọng là đề cập đến toàn bộ hành tinh chúng ta, từ thiên nhiên ở các vùng khí hậu khác nhau đến thế giới động vật, thực vật, phong tục tập quán cho đến sinh hoạt muôn màu muôn vẻ của các dân tộc trên thế giới. Những tác phẩm của Giuyn Vecnơ không những thể hiện tài nghệ tuyệt vời của một nhà văn có lối viết rất hấp dẫn, sâu sắc, miêu tả những con người và sự vật hết sức tinh tế, mà còn thể hiện kiến thức uyên bác, tư tưởng tiến bộ và trí tưởng tượng phong phú của một nhà khoa học. Ông vừa là người khởi xướng loại truyện khoa học viễn tưởng mà đến nay nhiều tiên đoán khoa học của ông đã trở thành hiện thực, vừa là nhà văn nổi tiếng về những tiểu thuyết phiêu lưu, mạo hiểm làm cho người đọc rất thích thú và qua đó, những độc giả trẻ nâng cao được trình độ hiểu biết và trau dồi được phẩm chất đạo đức của mình. Giuyn Vecnơ là con một luật sư ở thành phố Năngtơ. Ngay từ khi còn ở tuổi thanh niên, sau khi tốt nghiệp trung học, Giuyn Vecnơ đã theo học trường Luật ở Pari, nhưng vẫn có xu hướng say mê văn thơ, âm nhạc và sân khấu. Khi đã tốt nghiệp và hành nghề luật sư, ông bắt đầu đi vào con đường sáng tác văn học, đồng thời tìm hiểu về khoa học tự nhiên, thường xuyên đến đọc sách ở Thư viện Quốc gia, đi nghe các buổi thuyết trình về địa lý, thiên văn, hàng hải, lịch sử và các phát minh về khoa học, kỹ thuật. Nhờ đó, sau này những kiến thức mà ông tiếp thu được đã thành cơ sở cho những sáng tác kiệt xuất của ông. Những tác phẩm đầu tiên của ông như “Năm tuần lễ trên khinh khí cầu (1862), “Cuộc thám hiểm trong lòng đất” (1864), “Những cuộc du hành của thuyền trưởng Hatơraao” (1864 - 1865), “Những đứa con của thuyền trưởng Grant” (1865 - 1866) v.v... đều lập tức có tiếng vang lớn trong giới độc giả thuộc nhiều thế hệ khác nhau. Misen Xtrôgôp là một trong những cuốn tiểu thuyết phiêu lưu được đánh giá vào loại xuất sắc nhất, vừa có tính giáo dục cao, vừa có tính giải trí lành mạnh với những tình tiết éo le phức tạp, những pha hết sức hồi hộp và bất ngờ, khiến người đọc cảm thấy bị lôi cuốn, say mê, hấp dẫn không sao cưỡng nổi và muốn đọc một mạch suốt 32 chương với gần 500 trang sách. Điều đáng khâm phục là Giuyn Vecnơ miêu tả đất nước và con người Nga chính xác và chân thật tới mức như tác giả là một người Nga, hay ít nhất là đã sinh sống trên đất nước Nga nhiều năm rồi, để có một sự hiểu biết tường tận đến như vậy về địa lý, lịch sử cũng như phong tục tập quán và tính cách con người Nga trong giai đoạn lịch sử đó. Nhân vật chính của tiểu thuyết là Misen Xtrôgôp, con trai một người thợ săn ở Xibir. Anh được rèn luyện từ nhỏ, nên trở thành một thanh niên, cường tráng, dũng cảm và mưu trí. Năm hai mươi tuổi, anh được tuyển vào đội quân liên lạc đặc biệt của Nga hoàng làm một người lính và sau đó trở thành đại úy của đội quân ưu tú này. Thời gian đó bọn giặc Tactar đang nổi lên xâm chiếm vùng Xibir, phần châu Á của nước Nga. Hàng chục vạn quân đủ mọi chủng tộc từ những người Kiêcghidi, Mông Cổ, Apganixtang, Udơbêch, Thổ, Ba Tư, Do Thái... dưới cái tên chung là quân Tactar tràn vào xâm chiếm vùng phía Đông xứ Xibir mênh mông, gây biết bao đau thương, tang tóc cho nhân dân vùng này. Cấu kết chặt chẽ với chúng có tên phản bội cực kỳ nham hiểm và xảo quyệt, Ivan Ôgarep, đại tá trong quân đội Nga hoàng. Bất mãn vì bị đại công tước, em trai của Nga hoàng giáng chức về tội vô tổ chức, tên này đã xúi giục một số tù trưởng bộ lạc ở những vùng biên cương xa xôi nổi lên chống Nga hoàng, âm mưu xâm chiếm vùng Đông Xibir, dùng thủ đoạn gián điệp và nhiều mánh khóe xảo trá khác để bắt sống đại công tước hòng trả thù riêng. Nga hoàng nắm được ý đồ nguy hiểm của tên phản bội này đã phái Misen Xtrôgôp đem mật thư của nhà vua trao tới tận tay đại công tước - lúc này đang ở Irkuxk - để phá vỡ âm mưu đó. Suốt chặng đường dài gần sáu ngàn dặm, từ Maxcơva đến Irkuxk, Misen Xtrôgốp đã trải qua bao gian khổ khó khăn do kẻ thù và thiên nhiên khắc nghiệt gây ra tưởng chừng như khó có thể vượt qua được. Nhưng đói khát, mệt nhọc, băng tuyết, bão táp không làm anh nao núng. Mấy lần sa vào tay giặc, anh đều tìm cách trốn thoát kể cả lần giặc đã đốt mù cả hai mắt anh. Giặc bắt mẹ anh để hành hạ và uy hiếp cũng không khuất phục được anh. Ý chí gang thép của anh đã làm cho bọn giặc man rợ cũng phải sợ hãi và khâm phục. Cuối cùng, nhờ trí thông minh, lòng dũng cảm, thái độ bình tĩnh, mưu trí và nhất là tấm lòng trung thành tận tụy với đất nước, Misen Xtrôgôp đã làm tròn sứ mệnh. Quân phiến loạn bị đánh tan, tên phản bội Ivan Ôgarep bị tiêu diệt, nhân dân Xibir được giải thoát khói ách nô dịch của quân Tactar. Truyện còn được lồng vào một mối tình trong sáng và thanh cao giữa Misen Xtrôgôp và Nađia, cô gái Latvi cũng xông pha ngàn dặm, chia sẻ vói chàng trai dũng cảm bao gian nan khổ ải để tìm cha trong miền Xibir mênh mông tuyết trắng. Khi đã hoàn thành sứ mệnh, trước mặt cha cô, Misen Xtrôgôp nói với người bạn gái: - Nađia!... khi rời Riga để tới Irkuxk, em có còn để lại sau em niềm thương nhớ nào khác ngoài lòng thương nhớ người mẹ đã khuất của em không? - Không, anh ạ, - Nađie đáp, - không còn một niềm thương nhớ nào khác cả. - Nếu vậy thì, Nadia! - Misen Xtrôgôp run giọng nói tiếp. - Anh không tin rằng Thượng đế đã run rủi cho chúng ta gặp nhau, đã bắt chúng ta cùng trải qua bao gian truân thử thách, lẽ nào lại không muốn cho chúng ta được mãi mãi bên nhau? - Ôi, anh! - Nađia thốt kêu lên và sà vào hai cánh tay dang rộng của Misen Xtrôgôp. Và quay lại phía Vaxili Fêđor, mặt đỏ bừng, cô kêu lên: “Cha ơi!”. Người dịch VŨ LIÊM *** - Tâu bệ hạ, một công điện mới. - Từ đâu đến? - Từ Tômxk. - Đường dây đã bị cắt từ thành phố đó phải không? - Bị cắt từ hôm qua, muôn tâu. - Tướng quân hãy từng giờ đánh điện tới Tômxk và yêu cầu cho ta biết tin tức nhé! - Xin tuân lệnh bệ hạ - Tướng Kixôp đáp. Những lời trao đổi trên đây xảy ra vào hồi hai giờ sáng, giữa lúc đêm hội ở Tân Cung đang diễn ra huy hoàng náo nhiệt nhất. Trong đêm đó, ban nhạc của các trung đoàn Prêobragienxky và Paulôpxki không ngừng chơi những điệu vũ nhạc được chọn trong những điệu hay nhất như Pônka, Mazurka và những điệu Vansơ. Những cặp nam nữ nối tiếp nhau nhảy không dứt qua những phòng khách lộng lẫy của lâu đài được xây dựng cách “tòa nhà đá cũ” có mấy bước, nơi xưa kia đã từng xảy ra bao thảm kịch rùng rợn - Và... đêm nay, tiếng vang xưa trỗi dậy, dội vào trong các điệu đối vũ. Ngài đại thống chế của triều đình cũng được hỗ trợ đắc lực trong công việc tế nhị của mình. Các công tước cùng những sĩ quan hộ vệ của các vị đại thần trực ban, các sĩ quan trong hoàng cung cũng tự mình tham gia, đôn đốc việc tổ chức vũ hội. Các công tước phu nhân, ngọc quý đầy người, các bà thị nữ với xiêm áo ngày hội mạnh dạn làm gương cho các bà vợ sĩ quan và viên chức cao cấp của “Kinh thành đá trắng” cổ kính. Vì vậy, khi tín hiệu của điệu nhạc “Pôlône” vừa nổi lên, thì tất cả quan khách, không phân cấp bậc, đều tham gia vào cuộc diễu hành nhịp nhàng đó. Trong khung cảnh trang trọng như đêm nay, thì vũ hội này mang một tầm cỡ quốc gia. Những chiếc áo dài có đính nhiều tầng đăng ten xen lẫn với những bộ quân phục lấp lánh huân chương dưới ánh sáng của hàng trăm bộ đèn chùm, được những tấm gương soi phản chiếu làm sáng rực lên gấp mười lần, trông thật ngoạn mục, chói ngời, lóa mắt. Đại sảnh đường đẹp nhất trong tất cả các phòng khách ở Tân Cung thật xứng đáng làm khung cho sự lộng lẫy huy hoàng của những vị tai to mặt lớn cùng những bà mệnh phụ trang điểm cực kỳ diễm lệ. Vòm nhà thếp vàng tuy đã phai mờ đôi chút vì đã bị phủ một lớp gỉ của thời gian vẫn ánh lên những điểm sáng như những vì sao lấp lánh. Những tấm vóc làm màn che gió và màn treo ở cửa với những nếp gấp tuyệt mỹ ửng hồng lên một màu sắc nồng thắm, tương phản mạnh mẽ với những góc cạnh của tấm màn nặng trĩu. Nhìn qua những tấm kính các cửa sổ rộng lớn, hình bán nguyệt, người ta thấy ánh sáng tràn ngập các phòng, nhưng được một làn hơi nước nhẹ nhàng tỏa ra làm dịu bớt đi, đứng bên ngoài trông như phản quang của một đám cháy nổi bật lên trong đêm tối mà trong khoảng một vài tiếng đồng hồ bao trùm toà lâu đài rực sáng này. Bởi vậy, sự tương phản đó làm cho những tân khách không tham gia khiêu vũ cũng phải chú ý. Khi họ dừng lại bên những khung cửa sổ, họ có thể nhìn thấy một vài tháp chuông với những cái bóng khổng lồ hiện lên đó đây trong đêm, mờ mờ ảo ảo. Bên dưới những bao lơn chạm trổ, họ nhìn thấy những lính canh đi lại, súng vác vai, đầu đội mũ chỏm nhọn có giắt một chòm lông chim, trông như ngọn lửa, dưới ánh sáng của những pháo hoa bắn lên từ bên ngoài. Họ cũng nghe thấy bước chân của những đội tuần tra gõ nhịp nhàng trên mặt đá lát đường, có lẽ còn nhịp nhàng hơn cả những bước chân đang khiêu vũ trên sàn nhà các phòng khách. Thỉnh thoảng có tiếng hô của lính gác lặp đi lặp lại từ trạm này qua trạm khác và đôi lúc một tiếng kèn đồng, xen vào hợp âm của dàn nhạc, cất lên những nốt lánh lót giữa sự hài hòa chung. Dưới thấp hơn, trước tòa nhà, những khối đen sẫm nổi lên rõ nét dưới những luồng ánh sáng hình nón hắt ra từ các cửa sổ của Tân Cung. Đó là những con tàu xuôi dòng sông mà mặt nước lấp lánh dưới ánh sáng chập chờn của những ngọn đèn hiệu mấp mé ở các bậc thềm đầu tiên. Nhân vật chính của buổi khiêu vũ; người ra lệnh tổ chức đêm hội này; người mà tướng Kixốp tôn trọng như đối với các đấng quân vương, chỉ vận sơ sài một bộ quân phục sĩ quan khinh binh cận vệ. Đó chẳng phải là một sự trá hình, mà là thói quen của một người không thích sự diêm dúa bên ngoài. Cách ăn mặc của ông ta tương phản với những trang phục lộng lẫy của đám người nhộn nhịp xung quanh và chính vì thế mà nổi bật giữa đám tùy tùng của ông gồm những người Grudia, những người Cô-dắc, những người Lesghi, những kỵ binh với những bộ quân phục rực rỡ vùng Capcadơ. Nhân vật này, thân hình cao lớn, thái độ hòa nhã, nét mặt bình thản, nhưng vầng trán nhuốm vẻ suy tư, đi từ đám đông này tới đám đông khác, ít nói, thậm chí chỉ lơ đãng nghe, hoặc những câu tào lao vui nhộn của đám tân khách trẻ tuổi, hoặc những lời lẽ nghiêm chỉnh hơn của những viên chức cao cấp hay của những thành viên trong các đoàn ngoại giao, đại diện cho các quốc gia chủ yếu của châu Âu bên cạnh ông ta. Hai hoặc ba trong số những nhà chính khách mẫn tiệp đó - có tài về xem tướng mặt - hình như nhận thấy trên sắc diện của chủ nhân có vài biểu hiện lo lắng băn khoăn gì đó mà họ không rõ nguyên nhân, nhưng không một ai dám tự cho phép mình được hỏi han ông ta về vấn đề đó. Dù sao thì ý đồ của người sĩ quan đội khinh binh cận vệ, không còn nghi ngờ gì nữa, là làm sao để những mối lo âu thầm kín của mình không được gây bất kỳ một trở ngại nào cho đêm hội này - Và vì ông ta là một trong những đấng quân vương hiếm có mà tất cả mọi người đều đã quen phục tùng, ngay cả trong ý nghĩ, nên những niềm hoan lạc của đêm vũ hội không một lúc nào bị giảm sút. Trong khi đó, tướng Kixôp vẫn chờ người sĩ quan mà ông vừa chuyển bức điện từ Tômxk đánh về ra lệnh để rút lui, nhưng người sĩ quan vẫn cứ im lặng, Ông ta cầm đọc bức điện, vầng trán càng sa sầm. Tay ông như vô tình đặt vào chuôi kiếm, rồi đưa lên che mắt một lát khiến mọi người tưởng như ánh sáng làm ông bị chói và ông cần có bóng tối để tự nhìn mình rõ hơn. - Như vậy là, - ông nói và kéo tướng Kixôp tới gần một khung cửa sổ - từ hôm qua chúng ta không còn liên lạc được với đại công tước, em trai ta ư? - Không còn liên lạc được nữa, muôn tâu. Và thần e rằng chẳng bao lâu, những công điện không thể vượt qua được biên giới Xibir. - Nhưng quân đội các tỉnh Amua và Irkuxk cũng như quân đội tỉnh Tranxbaikali đã được lệnh hành quân cấp tốc đến Irkuxk rồi kia mà? - Lệnh đó đã được phát đi bằng bức điện cuối cùng mà chúng ta có thể chuyển tới bên kia hồ Baikan. - Chúng ta vẫn còn liên lạc trực tiếp được với chính quyền các tỉnh Yênixêixk, Ômxk, Xêmipalatinxko và Tôbônxk từ đầu cuộc xâm lăng của địch chứ? - Tâu hoàng thượng, vẫn còn liên lạc được và thần chắc rằng cho đến giờ phút này, bọn Tactar chưa vượt qua được sông Irtys và sông Ôbi. - Còn về tên phản tặc Ivan Ôgarep, chúng ta có tin tức gì không? - Không có tin gì cả, - tướng Kixôp thưa. - Cảnh sát trưởng cũng không biết được chắc chắn là hắn đã vượt qua biên giới chưa. - Đặc điểm nhận dạng của hắn phải được gửi ngay tới Nigiơni - Nôpgôrôd, Pecmơ, Ekatêrinbua, Kaximôp, Tiumen, Ichim Ômxk, Elamxk, Kôlyvan, Tômxk và tới tất cả các trạm bưu điện mà đường dây còn liên lạc được! - Lệnh của hoàng thượng sẽ được thi hành ngay tức khắc, - Tướng Kixôp đáp. - Tất cả công việc này cần phải tiến hành thật lặng lẽ đấy nhé! Bằng một dấu hiệu tỏ vẻ trân trọng phục tùng, sau khi khẽ cúi đầu, tướng Kixôp đi lẫn vào đám đông và rời khỏi các phòng khách. Không ai để ý đến sự ra đi của ông. Người sĩ quan đứng thẫn thờ một lúc và khi trở lại nhập vào các nhóm quân nhân, các nhà chính khách đã được hình thành ở nhiều điểm trong các phòng, thì vẻ mặt ông, trước đó đã có lúc bối rối, bỗng trở lại bình thản như cũ. Tuy vậy, sự kiện nghiêm trọng khiến có cuộc trao đổi ý kiến chớp nhoáng trên đây không phải là không ai biết như viên sĩ quan khinh binh cận vệ và tướng Kixôp tưởng. Điều đó, người ta không nói ra một cách chính thức, đúng thế, cũng như bán chính thức, bởi vì không có “lệnh’’ được công khai nói. Nhưng một vài nhân vật cao cấp cũng đã được thông báo tương đối chính xác về tình hình xảy ra ở phía bên kia biên giới. Dù sao họ cũng chỉ mới nắm được láng máng về những điều mà ngay cả những thành viên trong đoàn ngoại giao cũng không nói với nhau, thế mà có hai vị khách không mặc quân phục, cũng không mang huân chương trong buổi chiêu đãi ở Tân Cung, lại thì thầm trao đổi với nhau có vẻ như đã nhận được những tin tức khá chính xác. Làm thế nào, bằng con đường nào, nhờ có sự bặt thiệp như thế nào mà hai con người bình thường này lại biết cái mà những người khác vốn là những yếu nhân, cũng chỉ vừa mới ngờ tới? Người ta khó có thể tin như vậy. Hay là họ được trời phú cho cái tài tiên giác tiên tri? Hay là họ có một giác quan phụ cho phép nhìn thấy được tận bên kia chân trời của biên giới mà những con mắt người thường không thấy được chăng? Hoặc là họ có khiếu linh mẫn đặc biệt để khám phá ra những gì bí mật nhất. Hoặc là nhờ thói quen “sống cho tin tức và vì tin tức” ở họ đã trở thành bản chất thứ hai khiến tập tính của họ thay đổi chăng? Chúng ta hãy thử chấp nhận điều đó. Trong hai người này thì một là người Anh, còn người kia là công dân Pháp. Cả hai đều cao, gầy. Một người da nâu nâu như dân miền Nam xứ Prôvăngxơ, một người da hung hung đỏ như một nhà quý tộc xứ Lancasir. Anh chàng người Anh thì kiểu cách, lạnh lùng, phớt đời, tiết kiệm cả cử chỉ và lời nói, hình như chỉ nói năng và cử động khi thật cần thiết. Ngược lại anh chàng người Pháp thì linh hoạt, hăng hái, diễn tả cùng một lúc cả bằng môi, bằng mắt, bằng tay... ý nghĩ của mình với hàng chục cách khác nhau, trong khi người đối thoại với anh ta hình như chỉ có một cách duy nhất không thay đổi và như cố định trong đầu là chăm chú nghe và nhìn. Những nét khác biệt bên ngoài này dễ dàng làm cho bất cứ ai, dù có cặp mắt quan sát kém nhất cũng phải chú ý; nhưng một người giỏi xét đoán vẻ mặt, khi nhìn gần hai người ngoại quốc này sẽ xác định dứt khoát là sự trái ngược trong hành động bề ngoài của họ nói lên rằng người Pháp rất “tinh mắt”, còn người Anh rất “thính tai”. Thật vậy, cặp mắt - bộ máy quang học - của người này thường xuyên được sử dụng, nên đạt tới mức hoàn thiện lạ lùng. Võng mạc mắt ánh ta có độ nhạy tức thời như võng mạc những nhà ảo thuật chỉ qua động tác trang bài thật nhanh cũng nhận ra ngay được con bài nào, hay đơn thuần chỉ bằng sự sắp xếp một con bài mà người khác không tài nào nhận ra. Vậy là người Pháp này có một năng khiếu tuyệt vời mà người ta gọi là “trí nhớ bằng mắt”. Người Anh, ngược lại, hình như đặc biệt sinh ra để nghe và hiểu. Khi bộ máy thính giác tiếp nhận tiếng của một giọng nói, anh ta sẽ không thể nào quên được và mười năm, hai mươi năm sau, anh ta vẫn có thể nhận ra giọng nói đó trong hàng nghìn giọng nói khác. Đôi tai anh ta tất nhiên không có khả năng cử động như tai các loài vật có những loa tai to; nhưng các nhà sinh vật học nhận xét là tai người chỉ “gần như” bất động nên ta có quyển khẳng định rằng tai của người Anh trên đây vểnh lên, cụp xuống, nghiêng nghé... để tìm cách thu nhận cả những âm thanh chỉ mới vừa thoáng vẳng đến. Phải công nhận là năng khiếu về nghe và nhìn của hai nhân vật nói trên đã phục vụ tuyệt diệu cho nghề nghiệp của họ, vì anh chàng người Anh là phóng viên của tờ “Tin điện hàng ngày” và anh chàng người Pháp là phóng viên của tờ báo nào hoặc của những tờ báo nào thì anh ta không nói và khi có người hỏi, anh lại bông đùa trả lời là anh cung cấp tin tức cho “cô em họ Mađơlen” của anh. Thật ra anh chàng người Pháp tuy bề ngoài có vẻ nông nổi, nhưng lại rất mẫn tiệp và sắc sảo. Anh thường hay nói năng lung tung - có lẽ là để che giấu ý muốn tìm hiểu sự thực - nhưng không bao giờ chịu bộc lộ ý đồ chính của mình. Chính sự ba hoa đó đã giúp anh kín tiếng. Có thể nói là anh ta chín chắn và kín cạnh hơn bạn đồng nghiệp ở báo “Tin điện hàng ngày”. Với tư cách nhà báo, hai người tham dự đêm hội tổ chức tại Tân Cung tối 15 rạng 16 tháng Bảy là cốt để đưa tin sốt dẻo phục vụ thật hữu hiệu cho độc giả của họ. Không cần nói là cả hai anh chàng đều hăng say với sứ mệnh của mình ở trên đời này. Họ thích lao vào việc đi săn những tin tức bất ngờ nhất. Không gì làm cho họ sợ hãi cũng như làm họ chán nản trong khi đi tìm thắng lợi. Họ có thái độ bình tĩnh, không bao giờ nao núng. Chính đó là lòng dũng cảm thực sự của những người yêu nghề. Là những tay đua ngựa vượt rào nhà nghề trong cuộc săn tin này, họ vọt qua rào, vượt qua sông, nhảy qua bờ đất với nhiệt tình vô song của những con ngựa nòi muốn chạy tới đích “hoặc đoạt giải nhất hoặc là chết!”. Hơn nữa, những tờ báo của họ không bao giờ tiếc tiền đối với họ - đó là nhân tố thông tin mạnh nhất, nhanh nhất, hoàn hảo nhất mà người ta biết được cho đến nay. Cần phải nói thêm, và đây là một vinh dự đối với họ, là cả hai đều không bao giờ tò mò nhìn và nghe những gì thuộc về đời tư và họ chỉ hành động khi nào có dính líu đến quyền lợi chính trị và xã hội của họ. Tóm lại, họ làm như người ta thường nói trong khoảng vài ba năm nay, “thiên phóng sự lớn về chính trị và quân sự”. Nhưng, nếu theo sát họ, người ta sẽ thấy thường thường họ có một cách nhận định sự việc thật kỳ quặc, nhất là nhận định về những hậu quả của những sự việc đó, bởi lẽ mỗi người đều có “cách riêng của mình” để xem xét và đánh giá. Và cuối cùng thì không ai đang tâm trách cứ họ, vì họ làm việc thật nghiêm túc, hết mình bất cứ trong trường hợp nào. Mời các bạn đón đọc Tình Yêu Qua Sáu Nghìn Dặm của tác giả Jules Verne.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Vinh Quang Vô Ích
"Một vinh quang vô ích" đã được NXB Văn học in chung năm 1998 cùng tác phẩm "Người thứ 41" của nhà văn Boris Lavrenyov. Vì trong Thư viện đã có ebook "Người thứ 41" rồi, nên hoi_ls chỉ chuyển sang ebook "Một vinh quang vô ích" để chia sẻ cùng các bạn. ***  Sẵn một lòng một dạ yêu vợ, anh cương quyết bỏ ra đi. Mấy hôm nay, E-ka-tê-ri-na đã cố tình lánh mặt chồng. Ma-la-khốp hiểu rõ chị lắm. Việc anh gặp gỡ Séc-nép hầu như đối với chị là một hành động không sao tha thứ được. Bằng lời nói, hay bằng những tiếng van xin cũng không thể sao tỏ rõ ra được cái sự thật duy nhất, xuất phát từ lòng yêu thương vợ, đã khiến anh lên gặp Séc-nép.            “Vĩnh biệt, Ka-ti-u-cha!            Anh đi đây, thà như thế lại còn hơn. Anh rất tiếc xa On-ga. Chắc chắn sẽ làm nó buồn phiền. Bọn con cái là chúng hay đau khổ khi cha mẹ lục đục với nhau. Chúng ta đã có những phút sung sướng, như thế lại càng làm cho anh đau khổ hơn nữa khi đi.            Vát-xi-li”            Ma-la-khốp đặt mảnh giấy trên bàn, chẹn dưới lọ mực của On-ga sợ gió bay đi mất. Anh còn dùng dằng mãi mới bước ra khỏi nhà. Rồi anh vội lấy va-li, bước ra không còn ngoảnh cổ lại nữa.       *   *     *                 Khi dự xong hội nghị ở trạm máy kéo về tới nhà, E-ka-tê-ri-na đã thấy On-ga đang khóc. Nén lại, nó trao mảnh giấy cho mẹ. Nay em là một thiếu nữ có cặp mắt, trong vắt như mẹ. Em yêu chú dượng Vát-xi-li như một người bố đẻ. Từ ngày anh đến ở đây, anh không hề làm gì để em buồn lòng cả. Một sự việc chẳng đâu, anh cũng biết làm em sung sướng. Còn lâu mới đến đêm liên hoan ở Câu lạc bộ, Ma-la-khốp đã hứa dắt em đi coi và bảo em phải diện cho đẹp vào. Cả một tuần ròng, On-ga chờ đợi cái đêm vui đó. Bây giờ thế là hết.         Khi em còn nhỏ, không một ngày lẻ nào là anh không mua quà cho em. Em vẫn còn ngủ say, món quà đó đã đem đến để cạnh giường. Chỉ việc thức giấc dậy là đã nhìn thấy món quà đó. Thế là, nhảy ù xuống giường, còn mặc nguyên áo ngủ, em ôm chầm lấy chiếc cổ mập mạp của Vát-xi-a và reo lên, hoan hỉ. Ma-la-khốp cười như nắc nẻ, như bị gãi buồn. Trông thấy thế E-ka-tê-ri-na cũng bật cười.         Anh hét lên:         - Không phải chú, chạy ngay sang hôn mẹ đi!         - Cả mẹ nữa! - Thế là On-ga chạy sang chỗ mẹ.         Có thể nào những giờ phút hạnh phúc đó không còn trở lại nữa?         Chính anh là người đã dạy bảo em để em làm bài. Lúc nào anh cũng nhắc là em phải tự giải quyết lấy, không cần ai giúp đỡ. Bây giờ thì em đã mười bốn tuổi, đã học xong lớp bảy với điểm ngoại hạng. Chú Vát-xi-li đã từng khuyên: “Cần phải tiếp tục học tập nữa”. Thế mà lúc này chú đi mất rồi.       - Mẹ ơi, tại sao chú ấy lại đi, mẹ!       Có tiếng còi tàu từ ngoài sông Vôn-ga thét lên. E-ka-tê-ri-na vội chạy xả ra cửa sổ.       Trong khoảng trời mờ mờ xanh xanh, một con tàu trắng toát lướt qua một cách hiên ngang. Kìa, nó đã lấp đi đằng sau nhà thờ. Rồi nó lại xuất hiện, sáng rực. Nó lớn đần, lớn dần, ló ra khỏi nhà thờ, lướt xa một cách nhanh chóng, sau đó biến vào sau nhà sữa. Rồi nó lại hiện ra một lần nữa. E-ka-tê-ri-na cứ mải nhìn theo hút mãi, cho đến khi con tàu không còn thấy bóng đâu nữa. Mãi đến lúc ấy, mắt chị vẫn còn dõi nhìn. Biết đâu Vát-xi-a chả ở trong đó? Lần này là lần đầu tiên, đã từ lâu lắm, chị mới nghĩ đến anh, không thù hằn, như nghĩ đến một người thân cận nhất, đáng mến nhất. Đến đây chị mới cảm thấy rõ cả một sự thật ghê rợn: anh đã bỏ chị mà đi. Chị không bao giờ còn nhìn thấy mặt anh nữa. Anh ở đâu lúc này? Đất nước thì quá rộng lớn...   Mời các bạn đón đọc Vinh Quang Vô Ích của tác giả Sergey Voronin.
Trường Ca Achilles
Lấy cảm hứng từ sử thi Iliad, tác giả Madeline Miller đã kể lại câu chuyện tình yêu đẹp đẽ nhưng bi tráng giữa hai người hùng Hy Lạp trong cuốn sách đầu tay của mình - Trường ca Achilles.   Sử thi Iliad của Homer bắt đầu vào những năm cuối của cuộc chiến thành Troy viết về cơn thịnh nộ của người anh hùng Achilles khi người cậu yêu thương nhất, Patroclus ngã xuống. Dù Homer không miêu tả Patroclus và Achilles như hai người tình thật sự nhưng ông cũng chưa bao giờ phủ nhận mối quan hệ đặc biệt của họ. Và để điền vào những chỗ còn trống trong Iliad, Madeline Miller đã viết nên Trường ca Achilles kể về mối tình cảm động giữa hai người anh hùng Hy Lạp mà từng bị nhiều người né tránh nhắc đến. Patroclus và Achilles - Một mối tình tráng lệ và bi thương Huyền thoại bắt đầu từ khi Patroclus, một hoàng tử trẻ vụng về và yếu ớt bị trục xuất khỏi chính vương quốc của mình vì vô tình mắc phải một tội lỗi nghiêm trọng. Cậu được đưa tới vương quốc Phthia, nơi vua Peleus chấp nhận hết những đứa trẻ lầm lạc và rèn luyện chúng trở thành một đội quân tinh nhuệ. Chính tại đây, Patroclus đã làm thân được với cậu con trai hoàng kim của vương quốc này, Achilles, kẻ được tiên đoán trở thành "Người Hy Lạp vĩ đại nhất", mạnh mẽ, đẹp đẽ và mang một nửa dòng máu nữ thần. Từ khi còn ở Phthia cho đến lúc được vị nhân mã Chiron nuôi dạy trên đỉnh Pelion, hai đứa trẻ có một sự gắn kết kỳ lạ. Dù trái ngược nhau hoàn toàn nhưng những gì Patroclus nghĩ đến Achilles lại không phải là sự ghen tị, đó là sự ngưỡng mộ gần như sùng bái. Theo thời gian, tình cảm của hai người càng ngày càng trở nên sâu đậm hơn, vượt lên trên cả tình bạn, tình bằng hữu hay tri kỷ, họ trở thành tất cả của nhau. Nhưng thần linh chưa bao giờ công bằng, các nữ thần Số phận có thể đưa con người đến với nhau theo cách thơ mộng nhất, và cũng có thể thử thách họ bằng những nghịch cảnh đau thương nhất. Thời niên thiếu, Achilles đã có nhận được một lời đề nghị hoặc là có một cuộc đời dài không ai biết tới hoặc một cuộc đời ngắn ngủi nhưng huy hoàng rực rỡ. Khi nàng Helen bị bắt cóc tới thành Troy, Achilles đã dong buồm tới thành Troy cùng những người Hy Lạp khác, chiến đấu lấy của cải và danh vọng. Bị giằng xé giữa tình yêu và nỗi lo sợ dành cho người bạn của mình, Patroclus ra trận theo Achilles. Và đây là khởi nguồn cho cơn thịnh nộ của Achilles trong những năm cuối cùng của cuộc chiến thành Troy với lời gào khóc vang thấu tận trời xanh. Madeline Miller để Trường ca Achilles được kể lại dưới lời của Patroclus, một chứng nhân cô đơn và đau khổ trước sự điên dại và thịnh nộ của Achilles. Nhưng Achilles hiện lên trong mắt của Patroclus không chỉ là một kẻ máu lạnh chỉ biết chém giết. Cậu cũng có cảm xúc như bao người thường khác, cậu cũng vật lộn phải trải qua những kỳ vọng lớn lao của người Hy Lạp. Dù cao ngạo và ích kỷ nhưng tình cảm Achilles dành cho Patroclus là chân thật, cậu cũng hy sinh nhiều thứ để được ở bên cạnh người tình, giống như cách Patroclus đã lùi lại phía sau để Achilles được tỏa sáng. Trường ca Achilles là một câu chuyện mà sau khi đọc xong, người đọc sẽ không bao giờ có thể đọc thần thoại Hy Lạp cũng như Iliad như cách họ từng đọc trước đây. Một kết cục ai cũng biết trước nhưng vẫn phải theo dõi đến từng câu chữ trong những trang sách cuối cùng. Dành 10 năm để kể một câu chuyện không được nhắc đến Tác giả Madeline Miller vốn là một giảng viên người Mỹ, tốt nghiệp bằng cử nhân và thạc sĩ ngành Latin học và ngành Hy Lạp cổ đại tại trường Đại học Brown. Là người yêu thích và hứng thú với các câu chuyện thần thoại Hy Lạp, cô nhận thấy nhiều bài luận văn đã chọn cách né tránh nhắc đến mối tình giữa Achilles và Patroclus, điều mà cô cảm nhận thấy chính là cốt lõi câu chuyện trong sử thi Iliad của Homer. Vậy nên lấy sử thi Iliad thành một điểm cố định trên đường chân trời và hướng về đó mà viết, Miller đã kể lại câu chuyện tình yêu đẹp đẽ nhưng bi tráng giữa hai người anh hùng, về lý do họ ra nông nỗi đó, và điều gì đã xảy ra giữa họ trong những phân cảnh mà Homer không mô tả. Một chi tiết cũng quan trọng khác chứng tỏ Miller rất trung thành với Iliad, đó là về "gót chân Achilles". Thực chất trong Iliad, Homer không hề nhắc đến điểm yếu gót chân này của Achilles, chi tiết này mãi về sau mới được thêm vào trong các phiên bản hậu Homer nhằm giải thích và thêm thắt vào việc Achilles dường như là bất bại. Theo đó, nữ thần biển Thetis đã thử nhiều cách để khiến Achilles trở nên bất tử, bao gồm nắm gót chân cậu nhúng xuống sông Styx và hơ cậu trên lửa để thiêu cháy dòng máu phàm nhân trong cậu. Đó là lý do tại sao gót chân lại trở thành điểm yếu của Achilles. Tuy nhiên, Madeline Miller vì lấy cảm hứng từ Iliad nên đã chọn cách triển khai nhân vật theo Homer. Cô cũng luôn thấy câu chuyện về "gót chân Achilles" rất không thực khi làm sao người ta có thể chết chỉ vì bị bắn vào gót chân. Hành trình 10 năm hoàn thiện cuốn sách Trường ca Achilles của Madeline Miller bằng đúng 10 năm diễn ra cuộc chiến thành Troy. Trong 5 năm đầu, cô đã viết xong bản thảo, soi xét nó thật lâu, rồi bỏ đi và viết lại từ đầu. Và phải đến 5 năm tiếp theo cuốn sách mới được hoàn thành và xuất bản. Ngay khi được ra mắt năm 2011, tác phẩm đã được công chúng đón nhận nhiệt thành. Tác phẩm sau đó được trao giải Orange năm 2012 cho hạng mục tiểu thuyết. Giải Orange, sau này đổi tên thành Women’s Prize, là một trong những giải thưởng văn học uy tín nhất của Anh, dành cho các tiểu thuyết nguyên tác được viết bằng tiếng Anh và bởi các tác giả nữ không phân biệt quốc tịch. Giống như cách Homer đã viết Odyssey để song hành cùng Iliad, năm 2018, Miller cũng viết cuốn tiểu thuyết thứ hai trong sự nghiệp của mình là Circe sau thành công của Trường ca Achilles. Circe là câu chuyện của một nữ phù thủy nguy hiểm nhưng đơn độc, đã thử thách người anh hùng Odyssey trên hành trình trở về quê hương sau cuộc chiến thành Troy. Cuốn sách sau đó được đề cử Women's Prize năm 2019, và cùng với Trường ca Achilles đã đánh dấu một sự nghiệp văn chương rực rỡ của Madeline Miller. *** Câu chuyện được kể dưới góc nhìn của Patroclus. Vậy Patroclus là ai? Cậu là hoàng tử trẻ thấp bé, nhẹ cân, không nhanh nhẹn, và có phần vụng về. Một lần mắc phải sai lầm nghiêm trọng, cậu đã bị cha mình trục xuất tới Phthia. Còn Achilles? Chàng là hoàng tử xứ Phthia, Chiến binh Hy Lạp mạnh mẽ nhất thế hệ của mình, con của vua Peleus và tiên biển Thetis. Ngay từ nhỏ, chàng đã được những cậu bé cùng tuổi vây quay với mong muốn giành được sự chú ý. Nhưng, giữa những con người ấy, cậu lại chọn Patroclus -một cậu bé cô độc và yếu đuối, một hoàng tử bị trục xuất làm người thân cận của mình. Cũng từ đó, Miller dẫn dắt người đọc say sưa theo dõi câu chuyện từ tình bạn trải những năm tháng tuổi thơ yên bình trên xứ Phthia, những giờ phút học tập vui vẻ trên núi cùng thầy nhân mã Chiron đã biến thành tình yêu lúc nào không hay. Và tình yêu ấy được thử thách bởi những lời tiên tri của thần số mệnh, bởi cuộc chiến thành Troy vĩ đại mà gian khổ, bởi sự ngăn cản của nàng tiên biển Thetis, được bảo vệ bởi lòng trung thành và sự cố gắng thay đổi bản thân từ Patroclus cùng sự vững chãi, tình yêu mãnh liệt của Achilles. Với ngôn từ đẹp đẽ, lối kể cuốn hút hấp dẫn, tác giả đã đem tới cho người đọc câu chuyện lôi cuốn, xúc động và cả bi thương diễn ra ở Hy Lạp “vào thời hoàng kim của các anh hùng”. Achilles từng hỏi Patroclus: “”Hãy kể tên một vị anh hùng được hạnh phúc đi. Tôi suy nghĩ: Heracles phát điên và giết cả gia đình; Theseus mất vợ và cha; các con bà người vợ mới của Jason bị chính vợ cũ giết chết… “Cậu không kể được à?” “Mình không kể được” “Mình sẽ là người đầu tiên được như vậy”. Cậu cầm tay tôi úp lên bàn tay cậu…. “Bởi cậu là lí do mình sẽ như vậy”…..” Tôi tin rằng, họ đã hạnh phúc- ở đâu đó- cùng nhau- trên cõi dương và cả cõi âm, trong ánh bình minh rực rỡ và trong những chiều chạng vạng, qua những ngày tháng bình yên hay trong đao gươm trận mạc. Mời các bạn đón đọc Trường Ca Achilles của tác giả Madeline Miller.
Trại Súc Vật
Đối với một số bạn đọc Việt Nam cái tên George Orwell có lẽ khá xa lạ vì sau 1975 hình như không có cuốn nào của tác giả này được xuất bản, tuy nhiên với một lượng người đọc khác, đây là một cái tên cực kì quen thuộc và nổi tiếng, đặc biệt là với các kiệt tác 1984 hay Trại súc vật,v.v… Ở đây tôi sẽ chỉ nói tới Trại súc vật (Animal Farm). Trại súc vật là một tác phẩm hầu như luôn có tên trong nhiều bảng xếp hạng sách từ các trang uy tín trên thế giới, thật ra đó là một cuốn sách nhỏ, tôi đọc nó chỉ trong vòng vài giờ. Câu chuyện bắt đầu ở Điền Trang của ông Jones, một ngày kia con lợn già mang tên Thủ Lĩnh quyết định kể cho mọi loài vật có mặt trong trang trại về một giấc mơ của nó. Giấc mơ ấy kể về một thế giới không có loài người, nơi đó chỉ có các loài gia súc, gia cầm cùng nhau chăm chỉ làm việc và hưởng thụ thành quả lao động của mình trong một sự bình đẳng tuyệt đối. Sau khi con lợn này chết đi, lũ lợn còn lại (được xem là giống loài thông minh) đã cùng các loài thú khác như ngựa Chiến sĩ, ngựa Bà Mập, con dê Muriel, lũ chó, mèo, … soạn ra cương lĩnh họat động, tiến đến khởi nghĩa “vũ trang”, sử dụng bạo lực cách mạng lật đổ ách thống trị của ông chủ. Thời cơ đến, khởi nghĩa thắng lợi vang dội, ông Jones cùng những người làm công bị đánh đuổi khỏi trang trại. Từ đây, những con vật dưới sự dẫn đường của lũ lợn bắt đầu thời kì tự do với Bảy điều răn được dùng làm cương lĩnh hoạt động : BẢY ĐIỀU RĂN 1. Tất cả các loài hai chân đều là kẻ thù. 2. Tất cả các loài bốn chân hoặc có cánh đều là bạn. 3. Không con vật nào được mặc quần áo. 4. Không con vật nào được ngủ trên giường. 5. Không con vật nào được uống rượu. 6. Loài vật không được giết hại lẫn nhau. 7. Mọi con vật sinh ra đều bình đẳng. Với một tư tưởng tiến bộ như vậy, Điền Trang được đổi tên thành Trại súc vật (Animal farm), mọi loài vật đều ra sức làm việc gấp bội lần hơn trước vì từ đây là chúng lao động cho bản thân, cho con cái mình chứ không còn vì loài người tham lam, không biết làm chỉ biết hưởng. Nhưng, tất cả không chỉ dừng ở đó. Thời gian qua đi, nhiều, nhiều chuyển biến diễn ra, tưởng như thảy đều hợp lý, đều vì lý tưởng ban đầu, đều vì lợi ích chung của muôn loài. Cho đến khi hết truyện, người đọc cũng như các con vật “thường dân” trong truyện đều không khỏi ngỡ ngàng khi bảy điều răn năm xưa giờ đây chỉ còn một điều duy nhất : “MỌI CON VẬT SINH RA ĐỀU BÌNH ĐẲNG, NHƯNG CÓ MỘT SỐ CON BÌNH ĐẲNG HƠN NHỮNG CON KHÁC.” Đây là một tác phẩm chứa nhiều tầng nghĩa của George Orwell, với lối văn phong tự nhiên giản dị. Chuyện chỉ xảy ra trong phạm vi một trang trại nước Anh với nhân vật là các thứ lợn, bò, ngựa, chim chóc, cừu, dê… thế nhưng tác phẩm lại phản ánh thực tế một cách sâu sắc. Trong suốt câu chuyện, tác giả không lần nào áp đặt suy nghĩ của mình lên người đọc nhưng tự bản thân Trại súc vật, như bất kì tác phẩm văn học xuất sắc nào khác, tự thân nó đã có thể thể hiện rõ thông điệp của mình. Trại súc vật kết thúc với một câu văn rất thú vị : “Chúng (bọn súc vật) nhìn lợn rồi lại nhìn người, nhìn người rồi lại nhìn lợn, một lúc sau thì chúng chịu, không thể phân biệt được đâu là người, đâu là lợn nữa.” Và một chi tiết khác làm nên giá trị của Trại súc vật chính là tính tiên đoán của nó thể hiện sự tinh tường hiếm có của George Orwell đối với đời sống chính trị xã hội. Đọc cuốn sách này tôi có thể tin chắc rằng những người đọc Việt Nam sẽ cảm thấy vô cùng, vô cùng thú vị, cho dù, nó được viết từ năm 1944, cách đây đã hơn 60 năm. Các bạn có thể tin rằng, không phải tự nhiên mà hàng loạt bảng xếp hạng uy tín về sách lại chọn Trại súc vật là một trong những cuốn sách nên đọc của mọi thời đại. *** Hỡi các đồng chí, đoán xem trong tiếng Việt có bao nhiêu bản dịch cuốn “Animal Farm” của George Orwell? Hôm nay nhà Z xin có một bài tổng hợp liệt kê các bản. Những thông tin và ảnh bìa dùng cho bài viết này, được lấy từ sachxua.net, và được các anh VHT, NTT, NH… cho biết thêm. Xin đội ơn các anh. Hôm nay nhà Z mò lên goodreads mới biết hóa ra “Animal Farm” lại hot đến vậy, gần 2 triệu lượt ratings. Từng và luôn được coi là một ví dụ kinh điển cho thứ nghệ thuật phương Tây chống Cộng, George Orwell bị chính thức cấm ở Việt Nam suốt từ 1975 tới tận hiện nay (hẳn nhiên ông cùng nằm trong danh sách đen của chính phủ cùng với Arthur Koestler và Aleksandr Solzhenitsyn cùng nhiều đồng chí khác nữa). Chỉ một lần duy nhất trong suốt bao năm tháng đằng đẵng ấy, Orwell xuất hiện chớp nhoáng với một bản in chính thức hồi 2013. Còn lại toàn bộ thời thanh xuân của chàng ở Việt Nam nằm ở dạng xuất bản ngầm. Và xin trả lời cho câu hỏi trên, có tổng cộng 6 bản dịch “Animal Farm” trong tiếng Việt. Cuộc cách mạng trong trại súc vật Người dịch: không ghi NXB: không ghi Tít phụ của sách: Trích trong truyện Thần-thoại của George Orwell Bản dịch tác phẩm của Orwell đến Việt Nam sớm hơn chúng ta tưởng rất rất nhiều. Khoảng cách giữa năm xuất bản bản gốc tiếng Anh “Animal Farm” vào năm 1945 và bản dịch đầu tiên ở ta là Bản dịch đầu tiên này xuất hiện vô cùng bí hiểm với các thông tin về người dịch và nhà xuất bản đều bị lược bỏ. Nó xuất hiện vào năm nào cũng không ai hay. Nhưng bên trong sách có một lời đề tặng, Xuân Nhâm Thìn 52, vậy chứng tỏ nó đã được dịch và xuất bản trước năm 1952. Chỉ có một thông tin duy nhất về nhà in cuốn sách này: nhà in I.D.E.O: IMPRIMERIE D’EXTREME-ORIENT, 1 Rudyard-Kipling SAIGON. Nhà in Viễn Đông đặt trụ ở đường Nguyễn Siêu Sài Gòn khi đó, có trụ sở chính ở Hà Nội, tọa lạc ngay chính tòa nhà 6 tầng từng là trụ sở của báo Nhân Dân mà nay là Trung tâm văn hóa Pháp L’escape ở Tràng Tiền. Nào, thế ai đã tiến hình dịch và in cuốn sách này? Hẳn nhiên là ai mà biết được, và nếu có thì chỉ là giả thuyết, không thể chứng minh. Tuy nhiên, càng đọc bản dịch “Cuộc cách mạng trong trại súc vật,” càng có cảm giác nó được dịch ra với một mục đích hẳn hòi: tuyên truyền chống phá ???? Phải nói ngay và luôn, đây là một bản dịch tuyệt vời: mình đã đọc tổng cộng 3 bản dịch “Animal Farm” thì đây là bản uyển chuyển, tự nhiên, đâu ra đấy nhất. Dịch giả đã kể lại câu chuyện “thần thoại” của Orwell bằng thứ tiếng Việt giàu có, và rất phù hợp với những năm 1950 của thế kỷ trước, nhưng rất nhiều chi tiết đã bị lược bỏ, nhằm tạo ra hiệu ứng: một câu chuyện thần thoại gắn liền với dân tộc và đất nước Việt Nam. Cụ thể như sau: nếu ai đọc các bản dịch của Phạm Nguyên Trường và An Lý, đều biết câu chuyện này xảy ra ở Nông trang ở nước Anh. Từ tên các địa danh, các nhân vật, các lời kêu gọi, đều là hướng tới “Súc vật Anh” và các chi tiết liên quan tới toàn cõi Anh. Bản dịch đầu tiên đều lần lượt lược bỏ các từ chỉ định ấy, và Việt hóa hoàn toàn các tên riêng sang tiếng Việt, cũng như những thứ cần thiết khác. Chẳng hạn: Thay vì có chủ trại Jones ở Nông trang thì ta có ông chủ Dương Lâm ở trại Mai Nương, thay vì có Thủ Lĩnh hay Trưỡng Lão (Old Major) con lợn già đầu tiên kể về giấc mơ của mình, ta có cụ Mạc Niên, thay vì Tuyết Cầu và Nã Phá Luân (Snowball- Tuyết Tròn và Napoleon) ta có Minh Chư và Xích Chư… Quan trọng hơn, không một chi tiết nào trong bản dịch khiến người đọc có thể thấy được đây là nước Anh mà toàn bộ chỉ là đất nước, là toàn quốc: thay vì vào làng Willingdon, ông chủ đi ra TỈNH LỴ. Không gian địa lý được thay đổi hoàn toàn, câu chuyện thần thuộc ấy xảy ra ở một nông trang được tạo ấn tượng như ở Việt Nam, và các không gian ngoài kia đều được coi là đi ra ngoài tỉnh. Chính vì thế, bài hát đầu tiên các con vật hát không phải là “Cầm thú Anh Quốc” mà là “Súc vật Toàn Quốc”, và lời hiệu triệu các con vật là lời hiệu triệu “Toàn Quốc”, nước Anh trở thành “đất nước chúng ta”. Những chi tiết nhỏ nhặt được thay đổi như vậy, là một cách Việt hóa tương đối quen thuộc, được thực hiện một cách hệ thống trên toàn bản dịch. Thay vì xây cối xay gió, toàn bộ súc vật ở trại xay nhà máy xay lúa chạy bằng sức gió, huân chương trao cho các con vật tên là “Anh hùng súc vật thượng đẳng BỘI TINH”, và cái ngày khởi nghĩa của trại được cho vào luôn Tết Đoan Ngọ, thay vì uýt ki thì các anh lợn uống rượu trắng, và nấu rượu nếp… Ngoài những chỗ thuần Việt về văn hóa khi chuyển dịch như vậy thì bản 1952 là một bản dịch bám sát, và những bài hát của Trại Súc Vật được dịch vô cùng nhịp nhàng bằng thể lục bát trứ danh. Và chính ở bản đầu tiên này, khi đổi tên trại, dịch giả đã chuyển thành “Trại Súc Vật”. Đây cũng chính là bản dịch có những minh họa tuyệt đẹp cho vài phân cảnh quan trọng trong truyện. Nhà Z đoán là đã nhà in đã sử dụng lại bản minh họa của sách nước ngoài, nhưng không biết từ bản nào. Nông trại Súc Vật Người dịch Đỗ Khánh Hoan Xuất bản: 1975 Bản dịch thứ 2 của “Animal Farm” do Đỗ Khánh Hoan dịch, theo như chính dịch giả cho biết thì đã được in 3000 bản hồi đầu 1975, chưa kịp phát hành thì 30-4 xảy ra. Dễ đoán biết số phận của những bản in ấy sau 1975, phần đa đã bị thiêu rụi. Đỗ Khánh Hoan có mang theo bản dịch khi sang nước ngoài và sau đó có tự tổ chức in lại, cụ thể là cuốn bìa màu xanh (hoặc có khi bìa màu tím) ở trên, in ở Canada, NXB Nắng Mới Books hồi 1989. Rất tiếc nhà Z chưa có cơ hội để đọc bản dịch này. Trại Súc Vật Bản dịch thứ 3, do Đỗ Cẩm Sơn chuyển ngữ in ở Mỹ, có bìa con lợn leo thang như trên. Trại Súc Vật Người dịch: Phạm Nguyên Trường, NXB Giấy Vụn. Theo blog của dịch giả Phạm Nguyên Trường thì bản dịch của ông đã được thực hiện lần đầu tháng 12 năm 2003, nhân dịp kỷ niệm 100 năm sinh của Orwell. Rất nhanh chóng, chỉ vài tháng sau, bản dịch được đăng trên talawas làm 5 kỳ vào năm 2004, và được phổ biến rộng rãi tới độc giả Việt Nam nhờ internet. Có thể nói đây là bản dịch tới được tay độc giả ở ta nhiều nhất cho đến thời điểm này. Thay vì dấm dúi chuyền tay nhau bản in lậu samizdat như ở Nga và Đông Âu ngày xưa, độc giả những năm 2000 trở về sau đã có thể thoải mái đọc Orwell và bàn luận. Dịch giả Phạm Nguyên Trường cũng là người đã dịch 1984 (với bút danh Phạm Minh Ngọc) sang tiếng Việt. Hẳn nhiên đây là một bản dịch chất lượng, không cắt xén, đầy đủ và bám sát. Đến năm 2010, NXB ngầm, Giấy Vụn, đã in cuốn “Trại Súc Vật” của Phạm Nguyên Trường, và đến 2016, bản này lại được một NXB ngầm khác là Vô Danh in lại có kèm cả bản gốc tiếng Anh. NXB Vô Danh cũng chính là nơi in lại bản 1984. Chuyện ở Nông Trại Người dịch: An Lý Nhã Nam và NXB Hội Nhà Văn xuất bản. Một bản dịch âm thầm ra đời vào năm 2013 khiến cả đất nước ngỡ ngàng, là bản dịch thứ 5 trong tiếng Việt. Không ai biết từ đâu nhờ ai vào lúc nào một ngày “Câu chuyện nông trang” lừng lững xuất hiện ở quầy sách khắp nơi trong cả nước, và chỉ trong một thời gian ngắn tạo ra một cơn bão (trong tách trà ????), khi đến cả báo quân đội cũng đưa tin về nó. Nhìn lại những ngày tháng ấy nhà Z vẫn còn chút ngỡ ngàng vì không khí sục sôi bạo liệt của đồng bào, và mọi thứ nhanh chóng rơi vào im lặng khi bản in chính thức một lần và mãi mãi ấy ngừng ấn bản. Bản dịch An Lý là một bản dịch tốt, bám sát. Và khi so với bản dịch đầu tiên và bản của Phạm Nguyên Trường, có một đặc điểm rõ ràng dễ nhận thấy, chính là ngôn ngữ ở những thuật ngữ đặc biệt, được điều chỉnh để mang tính ám chỉ rõ rệt hơn cả, những thuật ngữ cực quen thuộc với những người đã sống trong xã hội chủ nghĩa hơn nửa thế kỷ, chứ không phải chỉ vừa mới mấy chục năm như hồi đồng bào đọc bản dịch đầu tiên những năm 1950. Chẳng hạn, ta có thể tìm thấy cụm: độc tài cai trị, có thể tìm thấy từ “Đại hội” để chỉ những buổi họp của các con vật ở trong kho, có thể tìm thấy từ “nghị quyết” để chỉ những quyết định đầu tiên từ ngày khởi nghĩa của toàn trại, những “làm theo năng lực,” “phần tử nguy hiểm gây tác động xấu”, “Cha già”. Đặc biệt bài thơ ca ngợi Nã Phá Luân thì chắc ai cũng thấy là nhại rõ rệt bài Khóc Stalin của Tố Hữu và đặc biệt có âm hưởng giống hệt bài thơ lục bát của bản 1950 đầu tiên. 6. Nhờ comment của bạn Trang Nguyen, bản dịch này tên là “Muông cầm trại”, do Hà Minh Thọ dịch, xuất bản ở Đông Âu Tiệp Khắc từ hồi những năm 1990. Độc giả chắc đã biết đến sự tồn tại của bộ phim hoạt hình “Animal Farm” do chính CIA tài trợ, và nếu đọc sâu hơn nữa, chẳng hạn về sự ra đời của cuốn Bác sĩ Zhivago ở Nga (có cả một cuốn sách về câu chuyện này), nhờ sự tài trợ và xúc tiến của CIA, khi in bản tiếng Nga Bác sĩ Zhivago để tìm mọi cách tuồn vào nước Nga trong thời Chiến tranh lạnh, khi mà cuốn sách bị cấm xuất bản, và thậm chí có cả lời đồn thổi Ủy ban trao đổi Nobel đã trao cho Boris Pasternak dưới sự tác động của CIA, thì việc ra đời của bản dịch “Animal Farm” ở Việt Nam, trở thành cực kỳ hấp dẫn. Dĩ nhiên tất cả chỉ là giả thuyết. Mời các bạn đón đọc Trại Súc Vật của tác giả George Orwell & Phạm Minh Ngọc (dịch).
Vương Quốc Của Những Người Khùng
VƯƠNG QUỐC CỦA NHỮNG NGƯỜI KHÙNG Đây là một câu chuyện của nhà văn Leo TOLSTOY do Yên Chi dịch - Lá Bối xuất bản lần thứ nhất 2-1977, Paris. Chuyện kể rằng: ngày xưa, tại một nước kia, có một người dân quê giàu có. Ông ta có ba người con trai và một người con gái. Người con gái tên là Mai Liên, bị câm. Người con trai lớn tên là Xa Mạnh, đi lính. Người con trai kế tên là Ta La, có cái bụng bự, thường được người ta gọi là anh chàng Ta La Bụng Bự. Người con trai út tên là Y Văn, tính tình hơi gàn dở, người ta hay gọi là Y Văn khùng. Xa Mạnh đi lính cho Vua. Ta La bụng bự đi học buôn bán với một thương gia ngoài tỉnh. Còn anh chàng Y Văn khùng thì ở nhà với cô em gái và làm lụng rất khó nhọc. Dù làm lụng vất vả nhưng Y Văn hoan hỷ chia của cải cho các anh khi các anh gặp khó khăn. Thấy anh em nhà Y Văn đã không cải vã đánh lộn nhau vì gia sản làm cho Ma Vương, vua của các loài ma, lấy làm bực tức. Ma Vương tức giận tìm mọi cách làm hại 3 anh em, làm sao cho ba anh em tranh dành giận dữ với nhau đến phải choảng nhau vỡ đầu, như thế Ma Vương với hài lòng. Sau nhiều chuyện xảy ra, Ba anh em là ba ông Vua, trị ba quốc gia khác nhau. Người anh cả là Xa Mạnh, tổ chức quân đội rất kỹ lưỡng. Hễ ưa thích cái gì là Xa Mạnh gởi quân lính đi chiếm cho kỳ được. Người anh thứ là Ta La chú trọng nhiều hơn kinh tế thương mại. Vua cũng thiết lập trật tự trong nước. Vua cất chứa tiền bạc trong kho, và còn thu thuế của dân để chất chứa thêm. Vua đánh thuế tất cả mọi người dân, đánh thuế rượu, đánh thuế lúa, đánh thuế áo quần, đánh thuế mọi thứ. Thích gì là tung tiền ra mua. Còn Y Văn khùng thì lại làm ruộng. Cách Y Văn khùng cai quản đất nước cũng rất lạ lùng, làm cho những nhà tri thức trong vương quốc thấy thế bỏ sang một nước khác sinh sống. Chỉ có những người khùng là chịu ở lại. Họ làm việc chân tay, sản xuất cơm ăn áo mặc, nuôi mình và nuôi người. Ma Vương tiếp tục hại 3 anh em, hai người anh đã bị Ma Vương hạ gục. Chỉ còn lại Y Văn. Mời Quý thiện hữu đọc truyện để xem Y Văn đã làm cách nào mà Ma Vương không làm gì được mình- cách của người khùng, và cùng suy ngẫm về cuộc sống của chúng ta: *** Yên Chi dịch - Lá Bối xuất bản lần thứ nhất 2-1977, Paris VƯƠNG QUỐC CỦA NHỮNG NGƯỜI KHÙNG Ngày xưa, tại một nước kia, có một người dân quê giàu có. Ông ta có ba người con trai và một người con gái. Người con gái tên là Mai Liên, bị câm. Người con trai lớn tên là Xa Mạnh, đi lính. Người con trai kế tên là Ta La, có cái bụng bự, thường được người ta gọi là anh chàng Ta La Bụng Bự. Người con trai út tên là Y Văn, tính tình hơi gàn dở, người ta hay gọi là Y Văn khùng. Xa Mạnh đi lính cho Vua. Ta La bụng bự đi học buôn bán với một thương gia ngoài tỉnh. Còn anh chàng Y Văn khùng thì ở nhà với cô em gái và làm lụng rất khó nhọc. Xa Mạnh làm tới cấp tá trong quân đội và tạo được nhà cửa to rộng. Anh cưới con gái của một người thuộc hạng quyền quý. Lương tiền thì lớn, ruộng vườn thì rộng, nhưng Xa Mạng không giàu lên được, bởi vì hể anh ta kiếm được bao nhiêu tiền thì cô vợ lại đem xài phí hết bấy nhiêu. Một hôm Xa Mạnh đi thăm ruộng và thâu tiền lúa. Người quản lý của anh ta nói: “Làm gì mà có tiền lúa? Bây giờ trâu bò cũng không còn, cày bừa cũng đã bán hết, lấy gì để mà làm ruộng để mà có lúa?  Phải đi tậu lại trâu bò và cày bừa mới mong mùa sau có lúa bán.” Vì vậy, Xa Mạnh phải tìm về nhà cha mẹ để cầu cưú. Anh ta thưa với cha: “Thưa ba, ba là một nông dân giàu có, nhưng ba chưa cho con một phần nhỏ nào trong tài sản của nhà ta. Xin cha chia gia sản ra làm ba phần, và cho con xin một phần để gây dựng lại ruộng vườn của con.” Người cha trả lời: “Mày đã không đem được gì về nhà thì chớ, lại còn đòi chia. Như thế thì tội nghiệp cho thằng Y Văn và con Mai Liên quá. Xa Mạnh nói: “Như Y Văn là một thằng khùng, còn Mai Liên là một con câm. Chúng nó thì cần gì nhiều đến gia sản?” Người cha nói: “Thôi để cho Y Văn định đoạt. Hễ nó muốn chia cho mày thì tao chia, còn không thì thôi.” Y Văn nói: “Sao lại không? Cứ để anh ấy chia một phần ba gia sản đi ba.” Thế là Xa Mạnh lảnh một phần gia sản của mình và chở về ruộng vườn mình. Rồi anh ta lại trở lại quân ngũ để phục vụ nhà Vua. Bây giờ nói chuyện anh chàng Ta La Bụng Bự. Ta La cũng làm ăn rất khá và cưới con gái của một thương gia. Nhưng anh chàng vẫn muốn có thêm vốn, cho nên một hôm anh trở về nhà cha mẹ và nói: “Con cũng muốn nhận một phần ba gia tài.” Người cha cũng không muốn chia gì cho Ta La. Ông ta trả lời: “Mày không đem gì về nhà thì chớ, lại còn đòi chia. Những gì trong nhà này đều do mồ hôi nước mắt của Y Văn mà có. Với lại mày đòi chia như thế thì tội nghiệp cho anh em nó.” Nhưng Ta La nói: “Nó là một thằng khùng, cần gì đến của cải! Còn con Mai Liên cũng thế, nó câm, nó cũng không cần. Này Y Văn, bây giờ mầy chia cho tao một số nữa lúa còn lại, tao không đòi trâu bò và cày bừa đâu. Tao chỉ lấy lúa và con trâu mộng thôi. Con trâu cái kia cũng đủ cày bừa được rồi. Mày chiụ không? Y Văn cười và nói: “Sao lại không? Em sẽ làm việc nhiều thêm chút nữa và nhà sẽ có thêm luá gạo.” Như vậy là Ta La cũng nhận được phần mình. Anh ta chở lúa lên tỉnh và dắt con trâu mộng màu xám đi theo.Y Văn chỉ còn có một con trâu cái để cày bừa. Anh ta ở lại nhà làm việc nặng nhọc tối ngày để nuôi cha mẹ già và đứa em gái câm. Lúc bấy giờ Ma Vương, vua của các loài ma, lấy làm bực tức mà thấy anh em nhà Y Văn đã không cải vã đánh lộn nhau vì gia sản mà trái lại còn chia nhau của cải một cách hoan hỷ nữa. Nó cho gọi ba tên tiểu quỷ lại và ra lệnh: “Tụi bây nghe đây. Nhà kia có ba đứa con trai: Xa Mạnh thằng Lính, Ta La thằng Bụng Bự và Y Văn thằng Khùng. Đáng lý chúng phải đánh nhau vỡ đầu, nhưng trái lại chúng còn sống rất êm thấm trong tình anh em. Mà sở dĩ chúng được như thế là do thằng khùng nhường nhịn. Ba đứa bây phải chia nhau, mỗi đứa tìm tới một thằng, và làm sao cho ba đứa tranh dành giận dữ với nhau đến nước chúng phải choảng nhau vỡ đầu. Tụi bây làm được điều đó hay không?” Bọn tiểu quỷ trả lời: “Thưa Đại Vương, chúng tôi làm được.” - Chúng bây sẽ làm thế nào? - “Trước hết, chúng tôi sẽ làm cho ba anh em nghèo xơ nghèo xác. Đến khi cả ba thằng không có thằng nào còn một miếng xương để gặm thì chúng tôi làm cho chúng gặp nhau, ở chung với nhau một đống. Thế nào chúng cũng choảng nhau.” - “Được lắm! Tụi bây như vậy là biết chuyện lắm đó. Thôi bây giờ tụi bây đi đi. Làm sao cho đến khi cả ba đứa đập đầu sưng trán thì mới được trở về đây. Nếu không xong chuyện, ta sẽ lột da chúng mày.” Ba con tiểu yêu ra họp ngoài đám ruộng để bàn tính kế hoạch. Chúng nó bàn cãi mãi, đứa nào cũng muốn dành công việc dễ dàng. Cuối cùng ba đứa bắt thăm xem đứa nào phải phụ trách người nào trong số ba anh em nhà kia. Chúng hẹn với nhau là đứa nào làm xong phận sự thì phải tới giúp đứa khác. Và cuối cùng chúng hẹn nhau ngày giờ họp để cho nhau biết ai đã làm xong phận sự và ai cần được giúp đỡ. Đến ngày giờ hẹn, ba con tiểu yêu trở lại đám ruộng để họp. Con tiểu yêu thứ nhất có báo cáo như sau: - “Công việc của tớ ngon lành lắm. Ngày mai Xa Mạnh sẽ về nhà cha mẹ mà ở.” Hai con tiểu quỷ kia bắt đấu hỏi thăm xem con tiểu quỷ này đã thành công như thế nào? - Trước hết tớ làm cho Xa Mạnh nổi hứng lên, tới trước nhà Vua và hứa rằng nó sẽ chinh phục được cả thế giới và đặt thế giới dưới quyền cai trị của nhà Vua. Cho nên nhà Vua đã cử nó thống lãnh quân đội và đem binh đi chinh phục nước bạn Ấn Độ. Hai bên giao chiến. Ban đêm lúc hai bên đã rút về căn cứ nghỉ ngơi, tớ mới đi lấy nước lạnh tưới ướt cả thuốc súng của binh đội Xa Mạnh; rồi tớ lại đi sang phía Vua Ấn Độ và lấy cọng rơm làm ra vô khối binh lính để tăng cường cho quân lực bên đó. Sáng mai, khi thấy quân lính rơm từ bốn phía ập tới, quân lính của Xa Mạnh mất hết tinh thần. Xa Mạnh ra lệnh bắn: nhưng pháo và thần công không nổ bởi vì thuốc súng đã ướt. Quân lính của Xa Mạnh hoảng kinh chạy tứ tán như một đàn cừu và bị quân địch giết chết như rạ. Bây giờ đây Xa Mạnh bị cất chức, ruộng vườn của hắn ta cũng bị nhà Vua tịch thâu, và sáng mai này hắn ta sẽ bị xử bắn. Tớ chỉ cần giúp để cho hắn vượt ngục để hắn trốn về nhà. Như vậy ngày mai là công việc của tớ sẽ hoàn tất. Nào, bây giờ cậu nào cần tớ giúp, cứ nói lên.” Tên tiểu quỷ thứ hai bắt đầu kể laị những gì nó đã làm để hại Ta La: “Tớ không cần ai giúp hết, công việc của tớ có kết quả khả quan lắm. Ta La Bụng Bự sẽ không thể nào chịu đựng được quá một tuần lễ nữa đâu. Trước hết tớ đã tới làm cho cái bụng bự của hắn bự thêm, và cái bụng bự này đã làm cho hắn cũng trở thành ham hố thêm lên. Hắn ham hố đến nỗi thấy cái gì cũng muốn mua. Hắn xài hết tiền để mua sắm đủ thứ, và còn tiếp tục mua sắm nữa. Bây giờ hắn đang đi vay tiền của bè bạn để mà mua sắm nữa. Bây giờ hắn ta đã bị sa lầy và nợ nần như chúa chổm, không có cách nào ngóc đầu lên được. Trong một tuần lễ nữa, hắn ta sẽ đến lúc phải trả nợ. Lúc đó tớ sẽ làm cho tất cả những gì hắn mua sắm lâu nay trở thành giẻ rách hết. Không có gì để bán mà trả nợ hết, hắn sẽ phải trốn về nhà cha mẹ.” Hai tên tiểu quỷ kể xong, đắc ý nhìn tên tiểu quỷ thứ ba và hỏi về thành tích mà tên này đã thu lượm được đối với Y Văn thằng khùng. Tên tiểu quỷ này trả lời: “Công việc của tớ thất bại. Khi tớ tới tìm gặp Y Văn, tớ nhổ nước bọt của tớ vào trong ấm nước chè của hắn. Hắn uống và bị đau bụng. Xong rồi tớ đi ra ruộng dẫm đất ruộng xuống cho đến khi ruộng đất của hắn cứng như là đá để hắn không cày bừa cách nào được. Tớ tưởng rằng hắn sẽ bỏ ruộng không thèm cày nữa; ai ngờ cái thằng khùng ấy nhất quyết cày cho bằng được. Hắn ta đau bụng gần xỉu, nhưng hắn ta và con trâu của hắn cố quyết cày tiếp. Tớ làm cho bắp cày của hắn gảy đôi. Nhưng thằng khùng lại về nhà mang ra một bắp cày mới và tiếp tục cày. Tớ chun xuống đất lấy ta níu lưỡi cày lại. Nhưng mà tớ không níu nỗi bởi thằng Khùng và con trâu của hắn quyết chí cày cho được. Lưỡi cày lại bén quá khiến cho hai bàn tay của tớ bị cắt đứt chảy máu nhiều chỗ. Hắn ta cày gần xong các thửa ruộng, chỉ còn một giải đất nhỏ nữa thôi thì công việc của hắn sẽ hoàn tất. Mau lên hai bạn, tới giúp tớ mỗi người một tay. Bởi nếu chúng ta không thắng được hắn thì bao nhiêu công trình của các bạn sẽ ra tro. Nếu hắn thành công trong vụ lúa này thì hắn sẽ nuôi ăn hai thằng anh của hắn.” Tên tiểu quỷ phụ trách về Xa Mạnh hứa ngày mai sẽ đến giúp. Bọn tiểu quỷ họp xong giải tán, ai đi về nẻo ấy. Mời các bạn đón đọc Vương Quốc Của Những Người Khùng của tác giả Leo Tolstoy.