Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bẫy-22

Trên một hòn đảo ngoài khơi nước Ý thời Thế chiến II có một liên đoàn không quân Mỹ. Một trong số lãnh đạo của họ là đại tá Cathcart, kẻ khao khát muốn gây ấn tượng với cấp trên bằng cách ép lính đi ném bom mỗi lúc một nhiều hơn. Nhân vật chính của chúng ta, Yossarian, mỗi lần đủ chỉ tiêu giải nhiệm thì lại phải đối mặt với chỉ tiêu mới. Trước sự chết chóc kinh hoàng của cuộc đại chiến, tất cả những gì y mong muốn là toàn mạng trở về. Nhưng mỗi khi chỉ tiêu ra trận tăng lên, xác suất sống sót của y lại giảm xuống. Y không có cách nào thoát ra, bởi ở đó có một cái bẫy. Bẫy-22. Thứ logic vừa giản dị vừa điên rồ của Bẫy-22 chi phối suốt ngót 600 trang sách với hàng chục nhân vật, qua chiến trường qua đạn bom, qua bệnh viện quân y và nhà bếp hậu cần, qua tướng lĩnh và lính tráng, qua cả những số phận tan nát và những kẻ trục lợi từ chiến tranh. Sự điên rồ chảy qua mọi đối thoại, sự ngớ ngẩn thấm đẫm mọi nhân vật, cho tới tận cú nhảy kết cục cuối cùng. Bộ mặt của chiến tranh hiện ra khủng khiếp trong sự nực cười, phi lý. Bẫy-22 hài hước một cách trần trụi, một cách dữ dội, một cách cay đắng, một cách man rợ, nhưng những ai có thể chịu đựng được nó thì hẳn sẽ không thể nào lãng quên. *** Catch-22 là một cuốn tiểu thuyết chiến tranh hài hước rất nổi tiếng, luôn được xếp hạng top trong các danh sách “Những tiểu thuyết hay nhất …….”. Bản thân tác giả cũng đã từng nhập ngũ và phục vụ trong Liên đoàn không quân Mỹ trong thời kì Thế chiến thứ 2 khi mới 19 tuổi. Sau đó hai năm ông được điều đến phục vụ ở chiến trường Ý, nơi mà ông đã thực hiện 60 nhiệm vụ bay như một lính cắt bom của máy bay B-25. Đây cũng là bối cảnh thời gian và không gian chính của tác phẩm. Và nhân vật chính, John Yossarian, cũng là người cắt bom. Catch-22 là một tiêu đề rất khó dịch sang các ngôn ngữ khác. Sau khi tác phẩm này được xuất bản, Catch-22 trở thành một khái niệm mới, được bổ sung vào kho từ vựng tiếng Anh. Với ý nghĩa châm biếm hài hước, Catch-22 trở thành một khái niệm chỉ tình thế lưỡng sự (double bind), trong đó, hai sự việc có bản chất đối nghịch cùng xuất hiện một lúc. Người nào gặp phải tình trạng Catch-22 thường rơi vào cảnh huống tiến thoái lưỡng nan. Ban đầu Joseph Heller đặt tên tác phẩm là Catch-18. Nhưng để tránh trùng tên với những tác phẩm khác, gồm cả phim và sách, tác giả, lúc đó vẫn là một tay viết non trẻ và không tiếng tăm, đã phải lựa những cái tên khác như 14, 11, 20. Sau vài lần thay đổi, bỗng nhiên con số 22 xuất hiện, và sau 2 tuần được thuyết phục, Heller cuối cùng đã đồng ý vì : “22 nghe hay hơn 14”. Cũng thật trùng hợp khi số 2 cũng được cho là con số đại diện cho hiệu ứng Déjà vu, thứ được lặp lại và nhắc lại rất nhiều lần trong sách. Sau khi xuất bản vào năm 1961, Catch-22 trở nên rất phổ biến trong giới thanh thiếu niên vào thời điểm đó. Mặc dù cuốn sách viết về thời kì Thế chiến thứ 2, nhưng với bối cảnh lịch sử lúc đó, Catch-22 dường như thể hiện những cảm xúc mà những người trẻ đã có đối với những điều phi lý của cuộc chiến tranh Việt Nam. Cũng phải dành lời khen và cảm ơn cho dịch giả Lạc Khánh Nguyễn vì những ngôn từ phong phú mà dịch giả đã sử dụng. Tuy chưa được đối chiếu với bản gốc nhưng mình nghĩ tác phẩm đã được truyền tải một cách xuất sắc tuyệt vời. Ngay sau khi đọc xong mình đã phải lên mạng tìm thông tin về người dịch nhưng rốt cuộc không tìm được gì. Ngay từ trang đầu tiên, chính xác là đoạn có chữ ở một nửa trang đầu tiên, Bẫy-22 đã khiến mình liên tưởng đến Biên niên ký chim vặn dây cót. Mùi tài năng ngửi thấy được trên trang giấy và cái cách tác giả đột ngột kéo người đọc vào thế giới riêng của mình. Nếu như ở Biên niên ký là một cái gì đó xa lạ, phức tạp và vô định, thì Bẫy-22 lập tức kéo người đọc đến sự điên rồ : “ĐÓ LÀ TÌNH YÊU TỪ CÁI NHÌN ĐẦU TIÊN. Ngay từ lần đầu gặp mặt Yossarian đã say mê cha tuyên úy đến rồ dại.” Mình thì không kì thị người đồng tính, nhưng đã phải tự hỏi “Đây thực sự là cách người ta bắt đầu một tác phẩm à?”. Ngay từ phút đầu tiên tác giả đã không cho người đọc có cơ hội phản kháng và chuẩn bị, và mọi thứ tiếp theo đó thậm chí còn điên khùng hơn nữa. Và còn hài hước hơn nữa. Sự hài hước và châm biếm lớn nhất có lẽ chính là giọng văn tỉnh queo tưởng chừng như vô cảm của tác giả. Những câu văn dài nhiều vế ngồn ngộn những liên từ đa dạng trải ra liên tục những nghịch lý lặp đi lặp lại không ngớt khiến người đọc tự hỏi hay là tác giả điên mẹ nó rồi. Cách triển khai cốt truyện khá sáng tạo nhưng có thể là điểm trừ với những độc giả thích những món dễ ăn. Thực sự thì sẽ có nhiều người thấy cuốn sách này rất khó đọc. Các sự kiện hiếm khi được trình bày trọn vẹn 1 cách liên tục, mà dần được làm sáng tỏ qua các góc nhìn khác nhau và được nhắc đến hoàn toàn ngẫu nhiên. Người đọc sẽ phải tự mình liên tưởng và sắp xếp các mảnh ghép để có được cái nhìn trọn vẹn nhất về những sự kiện được nhắc đến. Viết về việc này, thì phần tóm tắt ở bìa sau cuốn sách, theo mình là, đã diễn tả lại hoàn hảo, không thể hay hơn được nữa : “Thứ logic vừa giản dị vừa điên rồ của Bẫy-22 chi phối suốt ngót 600 trang sách với hàng chục nhân vật, qua chiến trường qua đạn bom, qua bệnh viện quân y và nhà bếp hậu cần, qua tướng lĩnh và lính tráng, qua cả những số phận tan nát và những kẻ trục lợi từ chiến tranh. Sự điên rồ chảy qua mọi đối thoại, sự ngớ ngẩn thấm đẫm mọi nhân vật, cho tới tận cú nhảy kết cục cuối cùng…..” Chủ đề về chiến tranh nhưng những cảnh chiến đấu chỉ được thả lõm bõm trong một vài chương, và không hề có một cảnh nào miêu tả chân dung kẻ thù, những tên lính Đức quốc xã, theo đúng nghĩa đen. Tuy ít, nhưng những phân đoạn đó chính là giọt tinh dầu tỏa hương, là điểm sáng dẫn đường giúp người đọc xâu chuỗi được cả một tuồng những mảnh ghép rối rắm lộn xộn để có thể nhìn được trọn vẹn những sự kiện trong truyện. Những đoạn mô tả diễn biến tâm lý sống động và chân thực tuyệt vời, đa dạng và uyển chuyển, trần trụi và khô queo nhưng vẫn đầy cảm xúc. Từng nhân vật được xây dựng và đặc tả xuất sắc, ấn tượng và đáng nhớ. Nhờ đó ta có những chân dung sống động trên trang giấy. Mỗi nhân vật đều mang tính đại diện và có chiều sâu. Trải qua 600 trang giấy rồi gập sách lại, ta không thể chỉ đơn giản là chỉ nhớ tới nhân vật chính mà quên họ đi một cách dễ dàng được. Họ vốn chỉ là những hình ảnh đại diện cho những cảm xúc rất đời thường : sợ chết, sợ không được chết đúng kiểu, sợ bị lãng quên, sợ không bị lãng quên, sợ bị thất bại, sợ không được thất bại, sợ bị xa lánh, sợ bị ghét bỏ…..Chỉ có điều những cảm xúc này đã được điểu chỉnh đến mức tối đa, và cái gì quá thì cũng hóa “điên”. Nhưng nhờ thế, các nhân vật điên một cách rất thuần khiết : họ đơn giản chỉ là quá tham lam, quá hèn nhát, quá sợ hãi, quá háo danh, quá lập dị….Đơn giản là thế. Chúng ta có 2 vị Thiếu tướng tính cách hoàn toàn trái ngược nhau luôn đấu đá quyền lực. Có 1 vị đại tá hám quyền và háo danh đến độ ám ảnh và mù quáng, và dĩ nhiên không thể thiếu được tính cách đặc trưng cho những kẻ hám quyền và háo danh đến độ ám ảnh và mù quáng trong một tác phẩm châm biếm : đần độn và bất tài. Rồi còn có thêm 1 sĩ quan hậu cần, người mà thực chất có quyền lực vô biên thậm chí có thể tác động đến và điều chỉnh cuộc chiến. Và còn rất nhiều nhân vật đặc sắc khác nữa. Nhưng dù là nhân vật nào, thì ngoài những nét rất riêng, tất cả bọn họ đều có một nét tương đồng đến đáng ngạc nhiên : Không ai trong số họ nghĩ mình bị điên và cùng lúc họ nghĩ những người khác điên mẹ nó hết rồi. Nhưng thậm chí ngay cả những nhân vật “ngầm”, những người chưa bao giờ được nhắc đến cũng bị điên mẹ nó rồi. Làm thế nào mà một anh lính trơn chỉ qua một đêm đã được thăng lên tận hàm Thiếu tá? Ồ, đơn giản là vì anh ta có một cái tên quá độc đáo thể hiện sự hài hước vô bờ của người cha của anh. Xin bật mí cho các bạn nhân vật đó chính là Thiếu tá Major Major Major. Hẳn những nhân vật chóp bu quyền lực của quân đội Mỹ đã nghĩ rằng có một Thiếu tá tên là Major Major Major thì sẽ giúp họ thắng được cuộc chiến, hoặc đơn giản là vì họ thấy nó vui vãi chầy. (Thiếu tá trong tiếng Anh nghĩa là Major) Và thậm chí có một “trò đùa” nữa đã được gài gắm trước tận 200 trang, để rồi bung nở ra và “kết thúc” cuộc đời của một nhân vật. Phần còn lại của lời bạt trên bìa sau một lần nữa lại hoàn thành xuất sắc vai trò của mình : “…..Bộ mặt của chiến tranh hiện ra khủng khiếp trong sự nực cười, phi lý. Bẫy-22 hài hước một cách trần trụi, một cách dữ dội, một cách cay đắng, một cách man rợ, nhưng những ai có thể chịu đựng được nó thì hẳn sẽ không thể nào lãng quên.” Suốt nửa đầu cuốn sách, gần như trang nào cũng khiến mình cười nắc nẻ không ngớt.Nhưng qua đến nửa sau, những lời đả kích và châm biếm đột ngột rẽ theo hướng khác chỉ trong một chương. Sự điên rồ và hệ quả của nó đã tới. Các bạn sẽ được giới thiệu tới 1 cái tên, mà có lẽ với nhiều người là lần đầu tiên được nghe thấy, xanh đi ca (Syndicate) và độ bao phủ rộng lớn không tưởng của nó. Bạn sẽ nhận thấy rằng, thực chất chiến tranh cũng chỉ là một thương vụ làm ăn lớn, một cuộc đầu tư cỡ bự của một nhóm nhỏ những nhà tài phiệt, những chủ nhân đích thực của nước Mỹ. Những kẻ chi phối mọi thứ, thao túng chính trị, điều tiết cung cầu, dựng lên những mạng lưới kinh doanh khổng lồ bám rễ khắp nơi. Những chính trị gia chỉ là những con rối trong tay họ, và truyền thông chính là công cụ đắc lực nhất để tẩy não người dân như một con chó săn dẫn dắt đàn cừu. Tác giả còn không ngần ngại ném vào độc giả những tàn bạo, bất công và vô nhân đạo. Những thứ quá phi lý tới mức nó trở thành hợp lý, hợp lý trong một thực tế đang diễn ra chính xác như những gì trong cuốn sách : tàn bạo, bất công và vô nhân đạo. Những giá trị nhân văn và đạo đức làm người bị bóp méo đến teo tóp vặn vẹo. Những câu hỏi day dứt và ám ảnh cùng với một chuỗi dài những đau đớn và thống khổ, những oan ức và trái ngang như một thỏi nam châm nặng nề kéo chùng cục sắt ám ảnh trong tâm trí người đọc khiến họ không sao dứt mắt ra được. Chiến tranh thì điên rồ, nhưng con người mới là thứ điên loạn nhất. Điều kinh khủng nhất xảy ra khi người ta không hiểu lẫn nhau, họ sẽ không thể có cái nhìn thấu cảm và lòng trắc ẩn. Sự thờ ơ đôi khi là tội ác. Và do vậy, điều tuyệt vời nhất cũng là khi người với người hiểu được lẫn nhau, biết đồng cảm và vị tha. Sau tất cả, vẫn luôn có những điều tốt đẹp đáng để ta chiến đấu, mà thứ trước nhất đó chính là quyền được sống, được tự chủ của mỗi con người. Cảm ơn tác giả vì sau những đằng đẵng điên cuồng mà ông đưa ra, mình vẫn cảm thấy rất bất ngờ và hài lòng với cái kết. Tuyệt vời. Bẫy-22 hấp dẫn đến độ trong quá trình đọc, mình đã phải đột nhiên tạm dừng rất nhiều lần để soạn cho xong một câu cảm nhận vừa lóe lên trong đầu. Đây là kiểu sách mà, ngay khi đọc xong, bạn muốn lập tức chia sẻ cảm xúc của mình với ai đó. Thực ra, khi ấy cái cảm xúc đó không phải là vấn đề chính, mà quan trọng là ai đó kìa. Mỗi một suy nghĩ của chúng ta lúc đó là một thông điệp, là một lá thư một chiều không có hồi âm gửi đến chính ta ở tương lai. Một cuốn sách hay là khi đọc xong nó, ta để lại một phần của chính mình lại và dùng một phần của nó để tạo lên chính ta, của tương lai. Không hẳn đọc sách là chỉ để hiểu được điều tác giả muốn truyền đạt, mà mỗi cuốn sách chính là một lời truyền đạt của ta đến chính mình. Tại sao lại là cuốn sách này? Tại sao bạn chọn nó? Tại sao bạn đọc nó? Không hiểu sao, đọc một tác phẩm về chiến tranh, mình bỗng nhớ đến, hay “nhận được”, “lá thư” mà mình ở trong quá khứ đã gửi : “Tình yêu, đôi khi với một số người, giống như những lá thư thất lạc mà mãi tận 10 năm sau mới đến được tay người nhận….” Vậy, nếu như bạn sẽ đọc Bẫy-22, hoặc bất kỳ cuốn sách hay nào khác, sau khi đọc xong, hãy tự hỏi mình : Bạn muốn gửi gắm điều gì cho chính mình ở tương lai? Người review: Giao Bùi *** “Bất cứ ai muốn ngừng ra trận đều không thực sự điên.” Bẫy-22, của Joseph Heller, hoàn toàn không phải là một cuốn tiểu thuyết thành công… “Theo chuẩn mực thông thường thôi nó chẳng bén mảng được tới cái gọi là hay.”[1]Bài điểm cuốn Bẫy-22 đăng trên New York Times bắt đầu như vậy, dẫu tác giả của nó sau đó phải công nhận đây là một tác phẩm kỳ lạ bậc nhất. Kỳ lạ là một từ nói giảm nói tránh, với hệ thống nhân vật dày đặc, với các sự kiện sắp xếp không theo trật tự tuyến tính, với chất hài hước đen kịt và bạo lực đầy rẫy, với sự phi lý lấp đầy mọi đối thoại và cảnh huống, Bẫy-22 là một cuốn tiểu thuyết lớn, còn hơn cả vĩ đại, nó là một đại danh tác, không chỉ về Đại chiến thế giới thứ 2, không chỉ về chiến tranh, mà là về con người, và hành vi con người.   “Đó là tình yêu từ cái nhìn đầu tiên. Ngay lần đầu gặp mặt Yossarian đã si mê cha tuyên úy đến rồ dại”: như mọi câu đầu trong tác phẩm của Heller, câu đầu của Bẫy-22 mò đến với tác giả, trọn vẹn, và chỉ trong vòng một tiếng rưỡi, gần như toàn bộ câu chuyện đã nằm trong đầu ông, với tuyến nhân vật, tình tiết, dẫu cái tên Yossarian thì chưa xuất hiện. Ấy vậy mà, khởi thảo viết từ 1953, đến 8 năm sau, Heller mới xuất bản cuốn tiểu thuyết đầu tay, và để luôn ở đời một Bẫy-22.   Bẫy-22 bắt đầu một cách không thông thường như vậy, ở giữa bệnh viện, ở giữa cái gọi là trật tự thời gian truyện kể, ở giữa mọi tuyệt vọng và nỗ lực quẫn bách của Yossarian để sống sót. Bẫy-22, với tâm điểm là nhân vật đại úy John Yossarian, kể về một liên đoàn không quân Mỹ trong Thế chiến thứ 2, đóng quân trên đảo Pianosa ngoài khơi của Ý. Thay vì phải bay một số lần nhất định, những chuyến bay thả bom xuống quân địch, đến khi hoàn thành thì được giải ngũ, nếu vẫn còn tính mạng, lính của liên đoàn dưới sự lãnh đạo của đại tá Cathcart, liên tục bị nâng số chuyến bay, từ 25, lên 30, 35, 40, 45, 50, 55, 60, 65, 70, 80. Hậu quả đi liền, đầy nghiêm trọng, của việc tăng số lần bay để gây ấn tượng với cấp trên, để có những tấm ảnh chụp từ trên cao xuống mặt đất cảnh bom nổ tan tác thật đẹp, chính là những người lính đó, dần nướng sống chính mình.   Trong cái cảnh huống tưởng chừng bị coi là điên rồ thuần túy ấy, có ai nhận ra rằng đây là trò điên của một kẻ điên, lợi dụng cái gọi là lòng yêu nước, cái gọi là sự trung thành, để tận diệt chính hạ cấp của mình hay không? Người đọc rơi ngay vào một thảm cảnh: một trại điên tập thể. Như chính người kể chuyện tường thuật bằng một giọng tỉnh bơ, “Khắp nơi trên thế giới, các gã trai ở cả hai bên chiến tuyến đang ngã xuống cho thứ mà người ta bảo họ là tổ quốc, và dường như chẳng ai thèm bận tâm, ít nhất là chẳng ai trong số những gã trai đang ngã xuống ấy.”   Bẫy-22 là một trại điên vui nhộn nơi không ai tự nhận mình điên và tất cả đều nghĩ người khác điên và lần lượt các nhân vật đều bị các nhân vật khác gọi là điên, mà trùm cuối của điên chính là Yossarian. Với 228 từ điên, với nhân vật liên tục kết cho nhau là điên, nào “các anh điên rồi,” “bọn họ toàn những kẻ điên,” nào “bệnh điên rất dễ lây lan,” nào “Clevinger nghĩ Yossarian điên,” “McWatt bị điên,” “Nately cũng điên không kém,” “Orr cũng là một trong mấy gã điên,” “Hungry Joe bị điên,” “Dubar bị điên,” “thượng sĩ White Halfoat nghĩ bác sĩ Daneeka bị điên.” Họ lần lượt vu cho nhau điên, thuyết phục nhau rằng mày điên, tao không điên. Nhưng họ vẫn lần lượt bay, hoàn thành 25 chuyến, bị đẩy lên 30, bay luôn 30 chuyến, đẩy lên 40, bay 40 chuyến. Một sự phục tùng không phản đối bí hiểm đến khó hiểu.   Vậy vấn đề nằm ở đâu, khi không ai nhận ra mình cần phải thoát khỏi những mệnh lệnh quái quỷ đó, phải thoát khỏi hệ thống quan liêu áp đặt đó, giữa ngần ấy điên khùng và chết chóc? Đó chính là thứ mà Heller chỉ ra trong cái tình huống tắc tị này, nơi Yossarian và đồng đội của mình bị kẹt cứng trong cái gọi là Bẫy-22. Nếu anh bị điên thì anh có thể được nghỉ bay, chỉ cần anh đưa ra yêu cầu, và chính thời điểm anh đưa ra yêu cầu được nghỉ bay thì chính là lúc anh cho thấy rằng mình không bị điên và tiếp tục phải ra trận. Trong cái bộ luật quân sự quan liêu ấy, không có chỗ tồn tại cho sự bảo vệ an toàn của bản thân. Heller đã trải qua rất nhiều cái tên, Bẫy-11, Bẫy 18, Bẫy-14, để rồi đậu lại ở Bẫy-22: một cái tên vô nghĩa, đầy tính chất võ đoán, phi logic. Yossarian là người duy nhất cố gắng thoát ra khỏi hệ thống, anh càng nỗ lực ra khỏi hệ thống thì càng bị cho là kẻ điên, nhưng chỉ có thoát khỏi hệ thống, anh mới bảo toàn được tính mạng của mình.   Bẫy-22 chính vì thế là một trò đùa dai đầy chết chóc và phi lý, với một loạt nhân vật sắc nét, điên rồ, với những đối thoại luẩn quẩn, phi logic mà lại đầy có lý. Bẫy-22 là một cú tấn công vào sự quan liêu, vào bộ máy thiết chế, vào những phi lý thường trực trong chiến tranh cũng như trong đời sống con người. Ở một khía cạnh nào đó, việc nâng số lần bay lên ở Bẫy-22 mang đầy không khí thần thoại. Nó khắc họa thật tỉ mỉ sự quẫn bách của Yossarian, khi gần đạt tới được số lần bay quy định để được về nhà, thì lại ngay lập tức bị lưu đày tiếp tục. Nó như một công cuộc đẩy hòn đá lên đỉnh núi của Sisyphus. Yossarian và đồng đội y hệt như vị vua Tantalus bị các vị thần trừng phạt bằng cách cho đứng ở một hồ nước ngập đến cằm nhưng mỗi lần khát định uống thì nước rút đi, trên đầu là hoa quả trĩu cành mỗi lần đói định ăn thì mọi thứ biến mất. Nó là một trạng thái trêu ngươi kéo dài, là một sự trừng phạt không lối thoát, mà trong quá trình trừng phạt đó, hẳn nhiên là tan xác trong lúc bay ra trận. Yossarian không chịu đợi tới chuông nguyện hồn mình, như Groden, McWatt, Nately, Clevinger…   Trong thời gian ngắn ngủi từ đầu 1944 đến cuối năm, 12 tháng, Yossarian lần lượt tìm mọi cách để chống trả lại thiết chế, bằng cách trốn vào bệnh viện, giả đau gan, giả vàng da, trần truồng từ chối không chịu bay, cầu xin được tuyên bố là điên nhưng chính vào lúc cầu xin là lúc cho thấy anh tỉnh táo hơn hết thảy và ngay lập tức phải bay tiếp. Dẫu có trốn đi Rome, có yêu gái điếm, có lạy bốn phương giời, lạy mười phương phật, thì cái thiết chế phải bay ấy, Yossarian cũng không thoát nổi. Chính vì thế, có thể nói Bẫy-22 là một tiểu thuyết trào lộng về cảnh huống bi kịch đầy những nan đề của con người. Trong một bài trả lời lại một tấn công vào cuốn tiểu thuyết của mình, Heller tuyên bố, khi nhà phê bình chê Bẫy-22 dám chế giễu chiến tranh: Thực tế thì chuyện “chế giễu” chiến tranh là việc bất khả, cũng giống như không thể nào chế giễu mùa đông hay cơn đói. Tôi rất xấu hổ phải chỉ ra rằng đối tượng của chế giễu, trong gần như mọi tiểu thuyết và kịch, theo lẽ thường là con người và hành vi con người, và một trong những ý tưởng mà tôi muốn phát triển là hành vi của một số người và nhóm xã hội nhất định trong thời bình chẳng khác gì với hành vi của cũng những con người và nhóm xã hội đó trong thời chiến.[2] Với hàng loạt đối thoại như thể lệch kênh giao tiếp, với các sự kiện và chết chóc trùng trùng điệp điệp xáo xào trộn lẫn vào nhau, với một hệ thống các nhân vật với những câu nói và đặc điểm riêng được nhào nặn cực đặc biệt, Bẫy-22 tạo ra một thế giới bi đát mà đẫm hài hước, nơi điên loạn ngự trị, nơi một cá nhân, bằng những nỗ lực phi thường, liên tục tấn công vào hệ thống và các thiết chế, bởi chúng chính là một sự đè ép đến ngạt thở cái gọi là lương thức thông thường. Zét Nguyễn Mời các bạn đón đọc Bẫy-22 của tác giả Joseph Heller.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Màu Của Nước
Màu Của Nước là cuốn tự truyện của nhà văn Mỹ James McBride viết để tưởng nhớ người mẹ của mình, một phụ nữ gốc Do Thái da trắng kết hôn với những người đàn ông da đen. Vượt lên bi kịch cá nhân, sự thiếu thốn về vật chất, sự ngược đãi về tinh thần và mọi sự phân biệt đối xử, bà đã nuôi dạy mười hai đứa con trở thành các bác sĩ, giáo sư, giáo viên, nhà khoa học. Đó cũng là câu chuyện về hành trình đi tìm cội nguồn, cái tôi, sự tự tin và ý nghĩa cuộc sống của một đứa con lai da đen, đại diện cho hàng triệu người da đen ở Mỹ. Màu Của Nước ra mắt bạn đọc lần đầu vào năm 1995, trở thành một hiện tượng xuất bản với kỷ lục nằm trong danh sách Sách bán chạy nhất của New York Times trong 100 tuần (hơn 2 năm) , được coi là tác phẩm văn học kinh điển của Mỹ, từng được trao các giải thưởng Anisfield-Wolf Book Award năm 1997 cho tác phẩm văn học xuất sắc, và là cuốn sách về người mẹ mà Amazon khuyên mọi độc giả nên đọc. - Trích từ bài giới thiệu của dịch giả Nguyễn Bích Lan. *** 'Màu của nước' - sách về nạn phân biệt chủng tộc Tự truyện của nhà văn Mỹ James McBride do dịch giả Bích Lan chuyển ngữ vừa ra mắt bạn đọc trong nước.  Nhà văn Mỹ James McBride mất 14 năm để "khai quật chuyện đời lạ lùng của mẹ" - con gái một giáo sĩ Do Thái chính thống kết hôn với một người đàn ông da đen vào năm 1942 ở Mỹ. Vượt lên thiếu thốn về vật chất, sự ngược đãi về tinh thần và mọi phân biệt đối xử, bà đã nuôi dạy 12 người con trở thành các bác sĩ, giáo sư, giáo viên, nhà khoa học. Cuốn sách là câu chuyện về hành trình đi tìm cội nguồn, sự tự tin và ý nghĩa cuộc sống của một đứa con lai - đại diện cho hàng triệu người da đen ở Mỹ.  Màu của nước được kể với giọng tự sự chân thực, hóm hỉnh, giản dị và không kém phần sâu sắc. Qua đó, tác giả gửi gắm ước mơ xóa nhòa ranh giới phân biệt chủng tộc. Theo James McBride, mỗi con người dù có màu da và xuất thân khác nhau đều cần được đối xử công bằng. Mọi phân biệt, kỳ thị không thể ngăn cản nhân loại chia sẻ tình yêu thương, lòng trắc ẩn. Theo tờ Wall Street Journal, "cuốn sách nói cho chúng ta về sự yếu kém liên quan đến vấn đề chủng tộc của quốc gia và về những khả năng vượt lên sự yếu kém đó". Trang Publisher Weekly đánh giá tác phẩm là tiểu thuyết có cốt truyện hấp dẫn, "bất cứ ai mang màu da nào, theo tôn giáo nào cũng nên đọc cuốn tự truyện cảm động và khó quên này".                          Màu của nước ra mắt bạn đọc năm 1995. Tác phẩm nằm trong danh sách "Sách bán chạy nhất" của tờ New York Times suốt 100 tuần, từng được trao giải thưởng Anisfield-Wolf Book Award năm 1997 cho tác phẩm văn học xuất sắc. Đến nay, tác phẩm bán được 2,5 triệu bản trên toàn thế giới, cuốn sách được dịch ra 16 thứ tiếng và xuất bản ở 20 nước. James McBride sinh năm 1957 tại New York, Mỹ. Ông là nhà báo, nhạc sĩ, nhà văn nổi tiếng. James từng đoạt giải National Book Award (Giải thưởng sách Quốc gia Mỹ năm 2013 với tác phẩm The Good Lord Bird (Con chim đầu đàn).  Vĩ Thanh *** Khi còn nhỏ tôi không biết gì về xuất thân của mẹ mình - Tôi không biết mẹ sinh ra ở đâu, ông bà ngoại của tôi là ai. Khi tôi hỏi về gốc gác của mẹ, mẹ nói: Chúa sinh ra mẹ. Khi tôi hỏi mẹ có phải là người da trắng không, mẹ nói: “Da mẹ sáng màu, rồi lập tức chuyển chủ đề. Mẹ nuôi mười hai đứa con da đen của mẹ, cho tất cả học đại học và hầu như tất cả đều tốt nghiệp đàng hoàng. Các con của mẹ trở thành bác sĩ, giáo sư, nhà hóa học, giáo viên - Tuy nhiên cả mười hai anh chị em chúng tôi không ai biết họ tên thời con gái của mẹ cho đến khi chúng tôi trở thành người lớn. Tôi phải mất tới mười bốn năm khai quật chuyện đời lạ lùng của mẹ - chuyện về con gái của một giáo sĩ Do Thái chính thống kết hôn với một người đàn ông da đen vào năm 1912 - và mẹ tiết lộ chuyện đời mình như một đặc ân dành cho tôi hơn là muốn ngược dòng thời gian trở về quá khứ. Đây là câu chuyện cuộc đời mà mẹ kể cho tôi nghe, và xen kẽ giữa những trang viết về cuộc đời của mẹ, các bạn cũng sẽ tìm thấy những trang kể về cuộc đời tôi. *** Chết Con muốn mẹ kể về gia đình của mẹ, mà đối với cái gia đình ấy mẹ đã chết từ năm mươi năm trước rồi. Hãy để mẹ yên. Đừng làm phiền mẹ. Gia đình mẹ không muốn có mẹ chút nào và mẹ cũng chẳng hề muốn có họ. Có hỏi thì hỏi nhanh lên rồi kết thúc mau đi. Mẹ muốn ngắm Dallas. Mà này, nếu con là một phần của gia đình ấy, con sẽ không có thời gian dành cho điều vớ vẩn này đâu, không có thì giờ để nghĩ về gốc gác của con đâu. Thà con đi xem phim “Ba Chàng Ngốc” còn hơn là hỏi họ, hỏi cha đẻ của mẹ chẳng hạn, quên chuyện đó đi. Nếu ông ngoại của con gặp con, ông sẽ lên cơn đau tim. Dẫu sao ông cũng chết rồi, nếu không thì bây giờ ông đã một trăm năm mươi tuổi rồi. Mẹ sinh ra là một người Do Thái chính thống vào ngày 1 tháng 4 năm 1921, đúng vào ngày Cá tháng Tư ở Ba Lan đấy con ạ. Mẹ không nhớ tên của cái thị trấn nơi mẹ chào đời, nhưng mẹ còn nhớ tên Do Thái của mình: Ruchel Dwajra Zylska. Ông bà ngoại của con đã xóa cái tên đó khi họ đến Mỹ và đổi tên mẹ thành Rachel Deborah Shilsky, và chính mẹ đã tống khứ cái tên ấy ra khỏi cuộc đời mình khi mẹ mười chín tuổi, không bao giờ sử dụng nó nữa sau khi mẹ đi khỏi Virgina năm 1941 mà không bao giờ quay trở lại. Đối với mẹ, Rachel Shilsky đã chết. Cô ta chết để mẹ, phần còn lại của mẹ, được sống. Khi mẹ lấy cha của con, gia đình mẹ than khóc vật vã. Họ đọc Kinh kaddish và ngồi shiva[1]. Đó là cách người Do Thái chính thống khóc người thân qua đời. Họ cầu nguyện, úp các tấm gương xuống, ngồi trên những cái hộp trong bảy ngày và dùng khăn trùm đầu. Nó có tác dụng thật đấy và có lẽ đó là lý do tại sao giờ đây mẹ không còn là một người Do Thái nữa. Có quá nhiều luật lệ phải tuân theo, quá nhiều điều cấm kỵ và quá nhiều những điều “Mày không thể làm” và “Mày không được phép làm”, nhưng có ai nói họ yêu thương mẹ không nhỉ? Không, trong gia đình của mẹ không ai nói thế với ai. Gia đình mẹ không nói thế. Mọi người nói với nhau những lời đại loại như “Liệu hồn đấy,” hoặc ông ngoại con sẽ nói, “Hãy im miệng trong lúc tao ngủ.” Tên ông ngoại của con là Fishel Shilsky và ông là một giáo sĩ Do Thái chính thống. Ông đã trốn khỏi trại của quân Nga, lẩn sang biên giới Ba Lan và cưới bà ngoại của con trong một cuộc hôn nhân sắp đặt. Ông thường nói rằng khi ông chạy trốn ông phải chạy dưới những làn đạn và khả năng lẩn trốn những gì không tốt cho bản thân tồn tại cùng ông từ khi mẹ biết ông. Bọn mẹ gọi ông là Tateh. Trong tiếng Do Thái “Tateh” có nghĩa là cha. Ông là một con cáo, nhất là trong chuyện tiền bạc. Ông có dáng người thấp, nước da sẫm màu, râu tóc rậm và là người cộc cằn, lỗ mãng. Ông mặc sơ mi trắng, quần đen, quấn một chiếc tallis[2], và những thứ đó giống như đồng phục của ông. Ông mặc cái quần đen đó hoài cho tới khi nó nhẵn bóng và cứng queo đủ để tự đứng được bằng chính hai ống của nó mà không cần xỏ chân, nhưng chỉ Chúa Trời mới có thể cứu con nếu như con đụng phải cái quần đó trong lúc vội, bởi ông ngoại của con không phải là người để đùa giỡn. Ông khó tính lắm. Bà ngoại của con tên là Hudis và bà trái ngược hoàn toàn với ông, rất dịu dàng và nhu mì. Bà sinh năm 1896 ở thị trấn Dobryzn, Ba Lan, nhưng nếu bây giờ con hỏi thông tin thì không ai còn nhớ gia đình bà nữa bởi vì bất cứ người Do Thái nào không rời khỏi đó trước khi quân Hitler tràn vào Ba Lan cũng đều bị giết hại trong cuộc tàn sát người Do Thái rồi. Bà có khuôn mặt xinh xắn, mái tóc đen, gò má cao nhưng bà bị bại liệt. Chứng bệnh đó làm bà bị liệt nửa người bên trái và khiến sức khỏe của bà không được tốt. Tay trái của bà không sử dụng được. Nó bị khòng khèo ở cổ tay và nó cong lên gần đến ngực. Mắt trái của bà gần như bị mù và bà đi cà nhắc, kéo lê cái chân trái bị liệt. Bà là một người phụ nữ ít nói, Mameh yêu quý của mẹ. Đó là lý do tại sao bọn mẹ gọi bà là Mameh. Bà là người mà trong cõi đời này mẹ đã đối xử không tốt khi… Mời các bạn mượn đọc sách Màu Của Nước của tác giả James McBride & Nguyễn Bích Lan (dịch).
Tình Yêu Vị Kem Ý
"Ai đó đã nói người ta đến Ý để nếm mật ngọt tình yêu và vị kem gelato, nhưng đôi khi họ còn tìm thấy nhiều điều hơn thế." Năm mười sáu tuổi, sau khi mẹ qua đời, Lina một mình đến Ý để sống cùng một người được giới thiệu là bố của mình. Nhưng người bố nào lại vắng mặt trong suốt mười sáu năm cuộc đời của con gái mình cơ chứ? Và hơn thế, khi đến nơi Lina mới biết ông ấy đang sống trong một nghĩa trang. Những nỗi buồn mất mát vẫn đeo bám Lina, cùng lúc cô bé phải học cách hòa nhập với cuộc sống mới, tại một nơi hoàn toàn xa lạ, giữa nghĩa trang vắng lặng nơi nước Ý xa xôi. Tình cờ nhận được cuốn nhật kí của mẹ kể về quãng thời gian sống ở Ý trước đây, Lina bị cuốn vào một hành trình đặc biệt. Cô đã đi theo những nẻo đường mẹ cô từng đi, khám phá những vẻ đẹp ẩn giấu lãng mạn và cổ tích của nước Ý, đồng thời cũng hé mở một bí mật đã bị chôn vùi bấy lâu. Bí mật đó sẽ thay đổi tất cả những gì Lina từng biết về cuộc đời mình. Một cuốn sách ra mắt vào mùa hè này, sẽ đưa bạn đến với nước Ý - của tình yêu, tuổi trẻ và những sự lựa chọn trong đời... *** Review Nhi Nguyễn:   “Cháu biết đấy, người ta đến Ý vì nhiều nguyên do, nhưng khi họ ở lại thì chỉ vì hai điều.” “Là gì ạ?” “Tình yêu và kem gelato.” “Tình yêu vị kem Ý” là cuốn tiểu thuyết Young Adult cực kỳ hợp để đọc trong mùa hè, không chỉ bởi vì khoảng thời gian diễn ra câu chuyện là vào mùa hè ngập nắng tại Florence - một trong những thành phố đẹp tuyệt của nước Ý, với kem gelato cùng những công trình kiến trúc cổ kính, đặc trưng cho cả một thời kỳ của lịch sử nghệ thuật Phục hưng. Cuốn sách này hoàn hảo cho mùa hè của bạn, còn bởi vì nó ẩn chứa một câu chuyện tình yêu bí mật, được kể qua những trang nhật ký của một người đã khuất, dẫn dụ nhân vật chính cùng người bạn của mình đến với một chuyến phiêu lưu tìm ra sự thật cuối cùng, mà mùa hè là mùa của những chuyến phiêu lưu, du lịch, khám phá mà ^^ Khi mẹ của Lina - một cô bé 16 tuổi không biết cha mình là ai - qua đời vì căn bệnh ung thư tuyến tụy, bà đã gửi gắm Lina đến sống với chú Howard - một người bạn cũ của bà thời bà còn học đại học tại Florence. Bà ngoại của Lina ngỡ rằng điều này có nghĩa Howard chính là cha ruột của Lina, và hết sức khuyên nhủ cháu gái mình hãy lên đường đến với miền Trung Ý để đón nhận cha của mình. Lina miễn cưỡng ra đi, đến sống với người đàn ông đã từng có thời thân thiết với mẹ của cô, nhưng đối với cô là hoàn toàn xa lạ, ngay tại nghĩa trang dành cho lính Mỹ đã hy sinh tại Ý trong Chiến tranh thế giới thứ hai - nơi chú Howard là người quản lý. Trước đó, mẹ của Lina đã gửi đến Florence cuốn nhật ký chứa trọn những bí mật về mối tình thuở sinh viên của bà - câu chuyện mà bà chưa bao giờ tiết lộ cho Lina. Lật giở từng trang cuốn nhật ký của người mẹ thân yêu đã mất, Lina khám phá ra một người phụ nữ mạnh mẽ, sống vì đam mê của bản thân, sẵn sàng cãi lời cha mẹ, bỏ học ngành y tá ở quê nhà để thân chinh đến Florence - thành phố của nghệ thuật - theo tiếng gọi của trái tim để học ngành nhiếp ảnh tại Đại học Nghệ thuật Florence. Trên những trang nhật ký ấy, Lina cũng khám phá ra mối tình đắm say giữa mẹ cô và một người đàn ông bà gọi là X, thể hiện qua từng câu từ lãng mạn, ngập tràn yêu đương của một sinh viên 22 tuổi khi đứng trước sự choáng ngợp và những cảm xúc say mê của tình yêu. Liệu X và Howard có phải là cùng một người? Hay còn điều gì ẩn khuất đằng sau những trang nhật ký đó, đằng sau sự nghiễm nhiên cho rằng Howard chính là bố ruột của Lina. Cùng với cậu bạn Ren (tên thật là Lorenzo) mới quen nhưng mau chóng trở thành tình yêu đầu đời của Lina, cô bé đã dấn bước trên một hành trình phiêu lưu vô tiền khoáng hậu để đi đến tận cùng sự thật về danh tính cha ruột của mình, cùng sự thật về mối tình giữa mẹ cô và X. Tất cả đã diễn ra từ Florence đến Rome, giữa những từ ngữ, địa danh, công trình kiến trúc đậm chất Ý, mang đến một bầu không khí vừa nghệ thuật vừa cổ kính cho một chuyến phiêu lưu tìm hiểu về một câu chuyện tình.  Nếu ai biết mình đủ lâu thì sẽ rõ, mình yêu mến, tôn thờ và mê mệt nước Ý, văn hóa Ý, kiến trúc Ý, nghệ thuật Ý đến như thế nào. Và đọc cuốn tiểu thuyết này, đối với mình, giống như thể mình đang thực sự được chu du đến Florence vậy. Từ Ponte Vecchio (nghĩa là “cây cầu cổ”) - nơi ngắm hoàng hôn đẹp muốn rụng tim, vườn Boboli, kem gelato hương vị stracciatella (cái này là kem có vụn chocolate trong đó hay sao đấy các bạn ạ, google thử xem ^^) hay hương bacio (hương chocolate hạt phỉ - hazelnut), palazzo (quảng trường vây quanh bốn cạnh là các tòa kiến trúc) và Piazzale Michelangelo (piazzale cũng là quảng trường, nhưng phải có ít nhất một cạnh có cửa thông ra ngoài. Google bảo thế :D), cho đến bức tượng “The Abduction of the Sabine Women”, tất cả chỉ khiến mình muốn xách ba lô lên và đi ngay đến thành phố Florence nói riêng và vùng Tuscany miền Trung Ý nói chung để được tận mắt ngắm nhìn những công trình, cảnh vật tuyệt đẹp ở đó thôi!!! Đoạn kết của “Tình yêu vị kem Ý” - đúng như tên gọi của câu chuyện - ngọt ngào và rất có hậu, nhưng không phải là không có những trường đoạn gây đau lòng nức nở trước đó để mang đến những cung bậc cảm xúc khác nhau cho độc giả. Các bạn sẽ hồi hộp theo dõi mối tình đầu của Lina và cậu bạn Ren liệu có thành sự thật hay không, khi mà như bao mối tình tuổi mới lớn khác, tình yêu của họ cũng đã trải qua những ngượng ngùng, hiểu lầm và cãi vã. Nhưng trên tất cả, các bạn chắc hẳn sẽ rơi nước mắt vì sự thật về mối tình giữa mẹ Lina và X, cùng quyết định của một người phụ nữ, vì con mình mà phải đành đoạn cắt đứt với người đàn ông mình thực sự yêu. Đó cũng là người phụ nữ, vì tôn trọng mong muốn của người đàn ông mình thực sự yêu ấy mà phải rời xa ông, ôm ấp một mình cái bí mật về bào thai đang lớn dần trong bụng… Thật sự rất tội nghiệp mẹ của Lina, và nếu như bà không mang thai Lina, sự thể có lẽ đã khác đi rất nhiều, bà đã có cơ hội được đến với người đàn ông bà yêu… (view spoiler) Nhưng nếu được lựa chọn lại, mình chắc chắn bà vẫn sẽ lựa chọn có Lina trong đời, và mọi thứ sẽ diễn ra như nó đã diễn ra một lần nữa, để giờ đây một cô bé 16 tuổi như Lina có cơ hội tìm được cho mình một gia đình mới, và cả một tình yêu đầu đời tại một trong những thành phố đẹp nhất và lãng mạn nhất thế giới. Bên cạnh một số lỗi dịch thuật về từ ngữ xưng hô, ngôi thứ, cùng một số lỗi chính tả mà nếu độc giả nào dễ tính thì hoàn hoàn có thể bỏ qua được, “Tình yêu vị kem Ý” vẫn là một cuốn sách tuyệt vời, gây xúc động và cực kỳ lôi cuốn. Mình chỉ tốn có trọn một ngày, từ đêm hôm trước cho đến đêm hôm sau, để đọc xong cuốn sách thôi đó, thể là đủ hiểu nó hấp dẫn đến thế nào rồi ha? Chuyến du hành cùng Lina và Ren qua gần một tuần để giải mã sự thật đằng sau câu chuyện tình của mẹ Lina tại Florence, cùng lý do thực sự bà gửi cuốn nhật ký của mình đến chỗ chú Howard, đồng thời đắm mình trong bầu không khí thấm đẫm chất nghệ thuật và lịch sử nước Ý, thực sự là một trải nghiệm khó quên. Bạn nào yêu thích thể loại tình cảm lãng mạn phiêu lưu tìm hiểu khám phá dành cho Young Adult thì tậu ngay cuốn này đi thôi, đảm bảo sẽ ưng lắm đó :)))) P.S.: Một lần nữa xin được trân trọng cảm ơn Wings Books đã gửi tặng mình cuốn sách này để đọc, review và giới thiệu cho nhiều người khác cùng thưởng thức. *** [#BOOK_REVIEW] ----
Bà Nội Găngxtơ
Bà nội của Ben là một bà nội chuẩn không cần chỉnh - bà có tóc bạc, răng giả, và giấy ăn giắt đầy tay áo. Bà chỉ thích ăn mỗi món bắp cải và chơi trò xếp chữ. Theo Ben thì bà chán kinh khủng. Cho đến khi cậu phát hiện ra bí mật vĩ đại của bà: Bà là một tên trộm nữ trang quốc tế! Hết sảy nhất là bà còn đang lên kế hoạch cho vụ trộm nữ trang đỉnh nhất từ trước đến giờ - trộm bộ Báu vật Hoàng gia từ Tháp London! Đã thế Ben còn có thể tham gia! Thế là tối thứ Sáu ở nhà bà nội bỗng trở thành ngày hào hứng nhất tuần! Và vụ trộm đã kết thúc theo một cách không ai ngờ tới nhất... "Trong tuyệt phẩm này, Walliams đã cân bằng giữa hài kịch đỉnh cao với một thông điệp đầy xúc động." *** Review sách “Bà nội Găngxtơ” – David Walliams Bài review này dành cho những bạn đã và đang tò mò về cuốn sách mà phân vân không biết có nên rước em nó về không? Thì câu trả lời là có nha. Rước lẹ ạ Cuốn truyện vẫn lôi cuốn mình như lần đầu mình đọc nó. Bạn nghĩ nó là một câu chuyện hài hước ư, chỉ một phần thôi. Bởi sâu trong nó là rất nhiều ý nghĩa về gia đình, đời sống xã hội và cả những ẩn khuất của cuộc sống hiện đại, nơi mà những người như bà nội của Ben không tìm được ý nghĩa cho những ngày còn lại ngắn ngủi của bà. Bà nội của Ben là hình mẫu điển hình y hệt như những bà nội khác. Tóc bạc xoăn tít, kính đít chai, răng giả, máy trợ thính đeo trên tai. Bà luôn có khăn giấy dùng rồi trong túi áo khoác và người bà lúc nào cũng sặc mùi bắp cải. Đối với Ben bà nội chán thôi rồi. Thế nhưng rồi trong một ngày chán phải biết khi ở với bà nội, Ben phát hiện ra một chuyện kinh thiên động địa. Bà nội của cậu là một Găng x tơ chính hiệu, một tên trộm nữ trang quốc tế. Khỏi phải nói Ben bàng hoàng cỡ nào, cậu không thể ngờ rằng bà nội của mình lại ngầu bá cháy con bọ chét như thế. Thế rồi cái nhìn của Ben về bà nội quanh ngoắt 180 độ. Cậu hâm mộ bà ghê gớm. Rồi câu chuyện tiếp diễn, mang theo những tình tiết dở khóc dở cười dành cho Ben, mang đến cho cậu biết bao nhiêu là rắc rối. Thế nhưng chính những điều ấy khiến Ben nhận ra một sự thật đến đau lòng, bà nội của cậu cô đơn đến mức nào, và bà yêu cậu tới mức nào. Khoảnh khắc khi Ben chuẩn bị rời khỏi phòng bệnh của bà, cậu ngập ngừng quay lại và nói với bà nội: “Cháu yêu bà, bà nội ạ.” đã thực sự chạm đến trái tim mình. Đó không phải là lời nói an ủi, cũng không phải là sự bồng bột. Mà đơn giản nó là điều đã tồn tại trong trái tim bé nhỏ của cậu nhóc từ lâu rồi, chỉ là bây giờ cậu mới nhận ra nó. Câu chuyện còn có một điểm rất thú vị đối với mình nữa đó là việc Ben có một đam mê mãnh liệt với việc trở thành một thợ sửa ống nước. Eo ôi! Có lẽ là điều đầu tiên mà người lớn nghĩ ngay khi biết được ước mơ của cậu, ngay cả cha mẹ của Ben cũng phải vô cùng thất vọng về cái ước mơ của con trai mình. Trong khi những đứa trẻ cùng trang lứa mơ ước những điều lớn lao, nào là trở thành ngôi sao, trở thành bác sĩ này nọ, thì Ben lại chỉ thích làm một thợ sửa ống nước. Thế thì sao chứ, đó là giấc mơ của một cậu bé và người lớn chúng ta hoàn toàn không có quyền để phán xét nó. Ai cũng có một ước mơ, và chúng ta làm tất cả mọi việc để theo đuổi nó, bằng chính sức lực của mình. Đó vốn đã là một điều tuyệt vời rồi đấy thôi. Mà còn tuyệt vời và lạ lùng hơn nữa là chính cái ước mơ tưởng chừng như dở hơi và quái đản ấy đã giúp cho Ben có một kế hoạch để đời cùng với bà nội ngầu bá cháy của mình. Liệu một cậu nhóc mê sửa ống nước và tay trộm nữ trang quốc tế đã rụng gần hết răng có thực hiện được phi vụ lớn nhất quả đất, mà theo lời Ben là sẽ gây chấn động đến toàn cầu này không. Hai bà cháu sẽ trót lọt chứ? Nếu bạn thực sự tò mò, hãy đọc nó nhé. Câu chuyện không quá dài này sẽ đem đến cho bạn trọn vẹn những cung bậc cảm xúc từ thú vị, hài hước đến những phút chạm nhẹ và sự cảm động tới tận trái tim. Review của độc giả Nguyễn Châu – Nhã Nam reading club *** Cảm ơn mọi người:   Tôi muốn gửi lời cảm ơn đến một vài người đã giúp tôi hoàn thành cuốn sách này. Đầu tiên là Tony Ross siêu tài năng với những bức tranh minh họa kỳ diệu. Tiếp theo là Ann-Janine Murtagh, người đứng đầu sáng suốt bộ phận sách thiếu nhi của HarperCollins. Nick Lake, người bạn và biên tập viên mẫn cán của tôi. Hai nhà thiết kế tuyệt vời James Stevens - thiết kế bìa và Elorine Grant - xử lý văn bản. Người dàn trang vô cùng tỉ mỉ của tôi, Lizzie Ryley. Samantha White và những nỗ lực giúp sách của tôi được phát hành. Tanya Brennand-Roper đáng mến, người sản xuất phiên bản audio của cuốn sách này. Và tất nhiên là người đại diện văn học luôn thấu hiểu của tôi, Paul Stevens từ công ty Independent. Trên hết, chú muốn cảm ơn các bạn đọc nhí đã đọc sách của chú. Chú chân thành biết ơn vì các cháu đã đến gặp chú ở buổi ký tặng, viết thư rồi gửi cho chú tranh vẽ của các cháu. Chú thực sự thích kể chuyện cho các cháu nghe. Chú cũng mong mình có thể nghĩ ra nhiều câu chuyện hơn nữa. Cứ tiếp tục đọc sách đi nhé, rất tốt cho các cháu đấy! *** “Nhưng mà bà nội chán lắmmmm,” Ben nói. Đó là một tối thứ Sáu giá lạnh của tháng Mười một, và như mọi khi, cậu nhóc ngồi thõng người ở hàng ghế sau xe bố mẹ. Và một lần nữa, cậu lại đang trên đường đến ngủ ở căn nhà khủng khiếp của bà nội. “Người già ai cũng thế.” “Đừng có nói về bà nội con như thế,” bố nói yếu ớt, cái bụng bia tì lên tay lái chiếc xe màu nâu bé tẹo của gia đình. “Con ghét ở với bà,” Ben phản đối. “Ti vi nhà bà không bật được, lúc nào bà cũng muốn chơi xếp chữ và bà còn bốc mùi bắp cải nữa!” “Công bằng mà nói, bà bốc mùi bắp cải thật,” mẹ đồng tình trong khi cố tô nốt son viền lên môi. “Nói thế chẳng giúp được gì đâu vợ,” bố lẩm bẩm. “Cùng lắm mẹ anh chỉ hơi có mùi rau luộc thôi.” “Con đi với bố mẹ được không ạ?” Ben nài nỉ. “Con thích trò khiêu khích,” cậu nói phét. “Người ta gọi đó là khiêu vũ,” bố chữa lại. “Và con không hề thích môn đó. Con đã nói, để bố nhắc lại nhé, ‘Con thà ăn gỉ mũi còn hơn xem thứ nhảm nhí đó’.” Bố mẹ Ben đều rất thích khiêu vũ. Đôi khi Ben nghĩ bố mẹ còn yêu môn đó hơn cả yêu cậu. Có một chương trình truyền hình vào tối thứ Bảy mà bố mẹ không bao giờ bỏ lỡ tên là Bước nhảy hoàn vũ hoàn hảo, nơi các ngôi sao sẽ nhảy cặp cùng vũ công chuyên nghiệp. Thực ra, nếu có một đám cháy ở nhà Ben và mẹ chỉ có thể cứu được hoặc là chiếc giày bịt mũi màu vàng lấp lánh từng được Flavio Flavioli sử dụng (gã vũ công đào hoa người Ý với làn da rám nắng lấp lánh bóng loáng xuất hiện trong mọi kỳ của chương trình truyền hình tiếng tăm kia) hoặc đứa con trai duy nhất của mình, Ben nghĩ mẹ có lẽ sẽ cứu chiếc giày. Tối nay, bố mẹ cậu sẽ đến tận trường quay để xem trực tiếp chương trình Bước nhảy hoàn vũ hoàn hảo. “Mẹ không hiểu sao con không chịu từ bỏ cái giấc mơ viển vông muốn trở thành thợ sửa ống nước để nghĩ về khiêu vũ chuyên nghiệp đi Ben ạ,” mẹ nói và đường son môi ngoác hẳn lên tận má khi chiếc xe nẩy tưng trên một con lươn giảm tốc mấp mô. Mẹ có thói quen trang điểm trên xe, khiến cho lúc đến được nơi cần tới, trông mẹ chẳng khác gì một tên hề. “Biết đâu, chỉ là biết đâu thôi nhé, cuối cùng con lại được lên Bước nhảy hoàn vũ hoàn hảo!” mẹ hào hứng nói thêm. “Vì nhảy chồm chồm như vậy thật là ngốc nghếch,” Ben nói. Mẹ hơi thút thít rồi với tay lấy giấy ăn. “Con làm mẹ buồn đấy. Giờ thì yên lặng và ngoan ngoãn đi Ben,” bố trả lời kiên quyết trong khi bật to loa trên xe. Hiển nhiên, đó là một đĩa Bước nhảy hoàn vũ hoàn hảo. 50 tuyệt phẩm vàng của chương trình truyền hình đình đám được in rõ nét trên bìa đĩa. Ben ghét cái đĩa này, không phải chỉ vì cậu đã nghe nó đến cả tỷ lần. Thực tế thì cậu đã nghe quá nhiều lần đến nỗi việc này giờ chẳng khác gì tra tấn. Mẹ Ben làm việc trong một tiệm làm móng trong vùng, “Tiệm sửa móng Gail”. Vì chả có mấy khách nên mẹ và một cô nữa làm việc tại đây (chẳng có gì bất ngờ khi cô đó tên là Gail) gần như cả ngày chỉ toàn ngồi sửa móng cho nhau. Đánh bóng, làm sạch, tỉa móng, giữ ẩm, sơn phủ, gắn móng, sơn bóng, giũa móng, sơn móng, nối dài và vẽ móng. Hai người cứ làm mấy thứ đó cho nhau suốt cả ngày (trừ lúc Flavio Flavioli xuất hiện trên ti vi). Thế nên mẹ sẽ luôn về nhà với bộ móng giả đủ màu dài hết cỡ. Trong khi đó, bố Ben làm bảo vệ trong siêu thị địa phương. Điểm sáng trong hai mươi năm sự nghiệp của bố chỉ là chặn được một ông già đã giấu hai ống bơ thực vật trong quần. Mặc dù bây giờ đã quá béo để đuổi trộm, bố chắc chắn vẫn có thể chặn đường chúng. Bố gặp mẹ khi tưởng nhầm mẹ định thó một túi bim bim của cửa hàng, và chỉ một năm sau hai người lấy nhau. Mời các bạn mượn đọc sách Bà Nội Găngxtơ của tác giả David Walliams & Snorlax (dịch).
Mười Ba Lý Do
Ở thời điểm hiện tại, có 3 cuốn sách tôi chưa “can đảm” đọc lại lần nữa trong tương lai, 3 cuốn đó, là: Mắt Biếc (Nguyễn Nhật Ánh), Tình nhỏ làm sao quên (Đoàn Thạch Biền) và Mười ba lý do (Jay Asher). Tôi chạm đến những trang gây “ám ảnh” với chính mình vào ngày “thất tịch” (mồng 7-7), buổi trưa trời đương nắng bỗng mưa ào xuống, rồi thôi… Rạng sáng, trời mưa lớn, kéo dài, như đã thấm bao ẩn ức chất chứa bấy lâu và chực vỡ òa sau thời khắc gặp nhau ấy; tôi giật mình bởi tiếng động, hồi tưởng về nhân vật trong câu chuyện, tôi nặng lòng lắm! Ngưu Lang – Chức Nữ dẫu mỗi năm chỉ gặp được một lần, ít ra họ còn được nhìn thấy nhau; nhưng hai nhân vật chính trong “MƯỜI BA LÝ DO” mãi mãi chẳng thể nghe giọng nhau, cùng trò chuyện hay thấy nhau nữa… Tôi chợt nhớ dòng trạng thái người quen đăng trên mạng xã hội: “Cuộc đời này vô thường lắm, có lỡ thương ai, nhớ ai thì cứ nói đi, biết còn được gặp nhau bao nhiêu lần nữa đâu… Ngại ngùng không nói, thờ ơ không nói, vô tâm không nói… Để rồi, muốn nói thì chẳng còn ai nghe nữa rồi!” Và, chúng ta sẽ chẳng thể biết rằng, phút giây bất chợt, có khi ta là điểm tựa, là “phao cứu sinh” tinh thần mà đối phương trông ngóng để trút hết những tâm sự thầm kín nhất đời mình. Một ánh mắt, một lời ủi an đúng lúc là liều thuốc tinh thần kịp thời vực dậy ý chí lịm dần giữa đại dương tuyệt vọng chỉ chực nhấn chìm người nặng mang ý nghĩ tiêu cực… * 13 mặt, 7 cuộn băng – 13 lý do như lời trăn trối của Hannah Baker trước khi tự sát. Cô đã thu âm số băng này gửi những nhân vật có liên quan và “yêu cầu” họ chuyển tiếp số băng trên đến những đối tượng khác là một phần của 13 lý do trên. Nếu ai đó làm trái luật, một bộ băng khác sẽ được phát hành ra công chúng. Nhân vật tôi “Clay” ngoài nghe hết 13 mặt băng, cậu còn đi đến những địa điểm được Hannah đánh dấu trên bản đồ, như một cách tưởng niệm người bạn quá cố, như một cách hình dung câu chuyện Hannah kể lại. * Cuốn sách gợi cho tôi khá nhiều suy tư: Về phía Hannah Baker: Thứ 1, cô có quá “ích kỷ” và “tàn nhẫn” lắm không khi nêu tên 13 người trong cuộn băng cùng lý do khiến cô tự sát, như ngầm đeo quả tạ nặng lên vai đảo lộn cuộc sống họ mà họ không được một lần đính chính và xác tín từng chi tiết xuất hiện trong câu chuyện. Thứ 2, cô bất công lắm không khi “quy kết” toàn bộ việc mình tự vẫn cho thầy tâm lý (tôi lờ mờ phán đoán thế). . Về phía Clay Jensen: Giá như anh “lì lợm”, chịu “chai mặt” một chút, không “nghe lời” Hannah bỏ về mà nán lại, rồi ôm cô vào lòng mặc cô đẩy anh ra xa thì có thể anh sẽ không phải nghe cuộn băng nói về mình trong nước mắt, dẫu Hannah nói về anh chỉ những điều tốt đẹp. Giá như Clay cứng rắn hơn, quyết đoán hơn tìm hiểu tin đồn thay vì im lặng, chết nhát để rồi giờ đây tự dày vò mình. . Và, về phía chúng ta; những người làm công tác giáo dục, những bạn học sinh – sinh viên, những con người bình thường trong cuộc sống: Có bao giờ chúng ta từng “kết tội” người tự sát chưa? Có bao giờ mọi người to nhỏ hoặc nhìn đối phương với ánh mắt khinh rẻ thông qua tin đồn mình nghe được về họ chưa? Có bao giờ chúng ta hứng chí lập một danh sách trêu đùa cá nhân bởi vẻ bề ngoài họ có phần “nổi bật” (như thừa cân, số đo 3 vòng…) chưa? Có bao giờ chúng ta tự bào chữa cho hành động đùa quá trớn vô thưởng vô phạt của mình bằng câu chống chế “Vui mà, sao căng vậy…” chưa? Có bao giờ chúng ta lên tiếng tố cáo những việc làm vi phạm pháp luật để bảo vệ chính mình và bảo vệ người khác chưa? Có bao giờ chúng ta bàng quan chuyện ấy không liên quan đến mình và tốt nhất không nên dây vào tránh rắc rối chưa? … Câu chuyện đặt ra rất nhiều vấn đề trong môi trường giáo dục quá cởi mở như nước Mỹ, từ đó dẫn đến các vấn nạn, như: sử dụng chất kích thích và gây tai nạn khi lái xe, hiếp dâm,… * Tôi vẫn thường nói, thời chúng ta đang sống là “thế kỷ cô đơn.” Nhịp sống mỗi ngày thúc hối, công nghệ chi phối con người,… mỗi cá thể tự dựng xây ốc đảo giam hãm mình, sẽ đến một ngày, cá thể không thể tiếp tục chịu đựng và tự kết liễu đời mình. Mãi đến phút cuối, Clay mới thực sự vượt qua bức tường thỏ đế bản thân tạo nên, tiếp cận đối tượng mà anh sợ sẽ rơi vào hoàn cảnh như Hannah Baker, cứ để quả cầu tuyết lăn mãi và đến lúc buông xuôi cho chúng cuốn mình… Cảm ơn Jay Asher đã viết “MƯỜI BA LÝ DO” – cuốn sách đầu tay đầy tinh thế, xoáy vào chủ đề quen thuộc dẫu tồn tại quanh chúng ta nhưng ít tác giả đề cập. Qua “MƯỜI BA LÝ DO”, tôi mong mọi người quan tâm và hiểu nhau hơn, để không còn trường hợp đau lòng nào như Hannah Baker nữa… *** “Anh?” cô nhân viên nhắc lại. “Anh muốn chừng nào nó đến nơi?” Tôi lấy hai ngón tay gãi mạnh lông mày mắt trái. Đầu tôi càng ngày càng nhức. “Sao cũng được,” tôi bảo. Người nhân viên nhận gói bưu kiện. Cái hộp giày đó cũng chính là cái hộp giày đã nằm trước thềm cửa nhà tôi hai mươi bốn tiếng trước; nó đã được tôi gói lại trong một cái túi giấy màu nâu và dán kín bằng băng keo trong, y như lúc tôi nhận được. Nhưng giờ thì địa chỉ nó sắp đến lại là một cái tên khác. Cái tên tiếp theo trong danh sách của Hannah Baker. “Một tá của thợ bánh,(*)” tôi lẩm bẩm. Rồi lại thấy tởm vì như vậy cũng nghĩ ra được. “Anh nói gì cơ?” Tôi lắc đầu. “Hết bao nhiêu vậy?” Cô ta đặt chiếc hộp lên một tấm đệm cao su, sau đó gõ liên tục trên bàn phím. Tôi đặt cốc cà phê mua ở cây xăng lên thành quầy và ngó vào màn hình. Tôi móc vài tờ tiền từ trong ví ra, lục vài xu trong túi, rồi đặt chúng lên quầy. “Tôi nghĩ cốc cà phê đó chưa ép phê đâu,” cô nhân viên nói. “Anh đưa thiếu một đô la.” Tôi đưa thêm một đô la, rồi dụi mắt cho tỉnh ngủ. Cà phê còn âm ấm khi tôi làm một ngụm, nên lại càng khó uống hơn. Nhưng dù thế nào tôi cũng phải tỉnh. Hoặc có lẽ không. Có lẽ tốt nhất tôi nên nửa tỉnh nửa mơ cho đến hết ngày. Có lẽ đó là cách duy nhất để tôi trụ qua hết ngày hôm nay. “Đúng lịch thì ngày mai cái hộp đến nơi,” cô ta nói. “Hoặc mốt.” Rồi thả cái hộp vào chiếc xe đẩy đằng sau. Đáng lẽ tôi nên chờ tới sau giờ học. Tôi nên để Jenny tận hưởng ngày yên bình cuối cùng của cậu ta mới phải. Dù cậu ta chẳng đáng để tôi làm vậy. Khi về tới nhà ngày mai, hoặc mốt, cậu ta sẽ thấy một bưu kiện trước thềm cửa nhà mình. Hoặc nếu bố, mẹ hay ai đó nhận thư trước thì có thể cậu ta sẽ thấy chiếc hộp nằm trên giường mình. Và cậu ta sẽ phấn khích. Tôi cũng đã phấn khích đấy. Một bưu kiện không đề tên người gửi à? Họ quên đề tên, hay là cố ý? Có thể từ một người hâm mộ bí mật chăng? “Anh có muốn lấy hóa đơn không?” cô nhân viên hỏi. Tôi lắc đầu. Dù vậy, cái máy cũng in ra một tờ hóa đơn. Tôi nhìn cô nhân viên xé dọc rìa răng cưa nhựa của máy in rồi quăng tờ giấy vào thùng rác. Trong thị trấn có độc một bưu điện. Không biết có phải chính cô nhân viên này cũng là người nhận cái hộp giày này từ những người khác trong danh sách không, những người nhận được nó trước tôi. Rồi bọn họ có giữ hóa đơn như vật lưu niệm bệnh hoạn không? Giấu chúng vào ngăn đồ lót? Ghim chúng lên một tấm bảng? Suýt nữa tôi đã xin lại tờ hóa đơn rồi. Suýt nữa tôi nói, “Em xin lỗi, cho em xin lại hóa đơn được không?” Để về sau có thứ nhắc tôi nhớ chuyện này. Nhưng nếu muốn có thứ nhắc nhớ mình thì tôi đã đi sao lại số băng cát sét hoặc giữ lại tấm bản đồ rồi. Nhưng tôi không bao giờ muốn nghe lại đống băng đó nữa, dù giọng cậu ấy sẽ còn vang mãi trong đầu tôi. Và những ngôi nhà đó, những con phố đó, và ngôi trường cấp ba đó sẽ luôn luôn còn đó để nhắc tôi nhớ về chuyện này. Giờ thì hết làm gì được nữa rồi. Bưu kiện đã trên đường gửi đi. Tôi ra khỏi bưu điện mà không lấy hóa đơn. Sâu bên trong chân mày mắt trái, đầu tôi vẫn nhức. Mỗi ngụm nước bọt tôi nuốt đều có vị chua, và càng gần đến trường, tôi càng thấy mình sắp ngã gục. Tôi muốn gục ngã. Tôi muốn ngã xuống ngay vỉa hè đằng kia rồi lết thân mình vào trong đám thường xuân đó. Vì ngay bên kia bụi thường xuân, vỉa hè uốn cong, men theo rìa ngoài bãi đỗ xe của trường. Rồi nó cắt xuyên qua bãi cỏ trước, tiến vào tòa nhà chính. Nó đi xuyên qua cửa chính và nhập vào hành lang, ngoằn ngoèo giữa những dãy tủ đồ và lớp học ở hai bên, rồi cuối cùng dẫn vào cánh cửa luôn để mở của tiết học thứ nhất. Phía trước lớp, đối diện với học sinh, sẽ là bàn của thầy Porter. Thầy ấy sẽ là người cuối cùng nhận được gói bưu kiện không có tên người gửi. Và ở giữa phòng, dịch qua bên trái một bàn, sẽ là bàn của Hannah Baker. Không người ngồi. (*) Một tá của thợ bánh, hay Baker’s dozen, có nghĩa là 13 chứ không phải 12 như nghĩa thường của một tá. Cụm từ này được cho là có nguồn gốc từ thời Trung cổ ở Anh. Thời đó, giá bán bánh mì được quy định phải dựa theo giá của bột mì, thợ bánh nào bán thiếu cân sẽ bị trừng phạt. Và vì bánh mì được tính theo cân bột chứ không phải số lượng nên để tránh thiếu cân, các thợ bánh thường cho thêm vào một hoặc hai ổ bánh giống hệt mỗi khi bán ra một tá bánh. Họ Baker của Hannah cũng có nghĩa là thợ làm bánh. Mời các bạn mượn đọc sách Mười Ba Lý Do của tác giả Jay Asher & Tuấn Phúc (dịch).