Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Giữ Gìn 36 Phố Phường

"Có trách nhiệm với di tích lịch sử mọi mặt ở các nơi đô hội qua các đời là một phong tục đẹp của một dân tộc có văn hóa và truyền thống. Trên thế giới, hầu như bất cứ thủ đô hoặc thành phố lớn nào nhiều tuổi cũng đều được bảo vệ, trân trọng. Cách Tân Đê-li (Đê-li mới) thủ đô Ấn Độ vài ki-lô-mét là Đê-li cũ, thành cổ Đê-li ngày xưa. Tbi-li-xi, thủ đô nước Gruzia, ở kề bên vẫn nguyên thành cổ Tbi-li-xi phố phường và nhà thờ. Bên trong nhà ở các thành phố chính đã được hiện đại hóa cho thích nghi đời sống hôm nay, nhưng bề ngoài vẫn tầng nhà, màu tường và mặt đường đá tảng từ thời Pie đại đế. Thành phố Vacsava, thủ đô Ba Lan bị phát xít Đức hoàn toàn hủy diệt. Khi xây dựng lại Vacsava, các khu cổ được hồi sinh như trước kia. Kể từ màu gạch đến cái trụ đá trước sân nhà thờ để chống bệnh dịch tả – theo mê tín cũ, cũng được làm lại giống thế. Trải hàng nghìn năm, di tích lịch sử ở Hà Nội tập trung nhất ở hai khu: Khu thành cũ mà ta quen gọi là “trong thành”, kinh đô từ thời Lý và triều đại về sau; và vùng dân cư ở bọc ngoài thành, từ phố Nhà Hỏa đến ngõ Phất Lộc, từ Hàng Khoai sang Cầu Gỗ, tuy không có mốc giới hạn bao giờ, nhưng có một cái tên chung là khu 36 phố phường. 36 phố phường vẫn đứng yên thế, nhưng cũng lại luôn chuyển động theo thời gian và lịch sử mỗi thời kỳ. Nó là một bảo tàng ngoài trời, bảo tàng ở giữa sinh hoạt thành phố, không tách khỏi đời sống – một lưu niệm sâu sắc ý nghĩa giáo dục truyền thống... *** ó trách nhiệm với di tích lịch sử mọi mặt ở các nơi đô hội qua các đời là một phong tục đẹp của một dân tộc có văn hóa và truyền thống. Trên thế giới, hầu như bất cứ thủ đô hoặc thành phố lớn nào nhiều tuổi cũng đều được bảo vệ, trân trọng. Cách Tân Đê-li (Đê-li mới) thủ đô Ấn Độ vài ki-lô-mét là Đê-li cũ, thành cổ Đê-li ngày xưa. Tbi-li-xi, thủ đô nước Gruzia, ở kề bên vẫn nguyên thành cổ Tbi-li-xi phố phường và nhà thờ. Bên trong nhà ở các thành phố chính đã được hiện đại hóa cho thích nghi đời sống hôm nay, nhưng bề ngoài vẫn tầng nhà, màu tường và mặt đường đá tảng từ thời Pie đại đế. Thành phố Vacsava, thủ đô Ba Lan bị phát xít Đức hoàn toàn hủy diệt. Khi xây dựng lại Vacsava, các khu cổ được hồi sinh như trước kia. Kể từ màu gạch đến cái trụ đá trước sân nhà thờ để chống bệnh dịch tả – theo mê tín cũ, cũng được làm lại giống thế. Trải hàng nghìn năm, di tích lịch sử ở Hà Nội tập trung nhất ở hai khu: Khu thành cũ mà ta quen gọi là “trong thành”, kinh đô từ thời Lý và triều đại về sau; và vùng dân cư ở bọc ngoài thành, từ phố Nhà Hỏa đến ngõ Phất Lộc, từ Hàng Khoai sang Cầu Gỗ, tuy không có mốc giới hạn bao giờ, nhưng có một cái tên chung là khu 36 phố phường. 36 phố phường vẫn đứng yên thế, nhưng cũng lại luôn chuyển động theo thời gian và lịch sử mỗi thời kỳ. Nó là một bảo tàng ngoài trời, bảo tàng ở giữa sinh hoạt thành phố, không tách khỏi đời sống – một lưu niệm sâu sắc ý nghĩa giáo dục truyền thống. Hà Nội đã phải trải nhiều biến đổi. Khí hậu nhiệt đới tàn phá các công trình, mà các phường phố dân cư thời ấy thường là nhà đất tranh tre. Vua chúa các triều đại triệt hạ nhau. Hà Nội bị tàn phá nặng nề nhất là đến đời Nguyễn. Dời đô vào Phú Xuân, nhà Nguyễn phá hủy Thăng Long để “tiêu diệt thế đất đế vương ở Bắc Hà”. Nhưng trong nghệ thuật gìn giữ và tôn trọng di tích, trên thế giới và trong nước ta đã có nhiều biện pháp và kinh nghiệm tốt. Kho tàng ca dao, tục ngữ, bài vè, bút kí của các nhà văn thế kỉ trước và đầu thế kỉ này. Một số tranh, ảnh và sách, tư liệu của Pháp khi mới chiếm Hà Nội. Nhiều câu, nhiều đoạn, nhiều tranh ảnh có thể khơi gợi lại được hình thù, cảnh cũ. Lại còn những tài liệu cực quý, ấy là chuyện nhớ lại của các cụ ở Hà Nội thọ bảy tám mươi tuổi trở ra. Khi xây dựng lại khu thành Vacsava cổ, những tư liệu gia đình và mắt thấy tai nghe này rất quan trọng với các nhà chuyên môn. Nhà cửa hồi đầu thế kỉ, các khu vực Hàng Gai, Hàng Bài, Hàng Bạc, các ngõ Trung Yên, Nội Miếu bây giờ, cụ Hoàng Đạo Thúy còn nhớ được cái chuôi vồ đầu tường, hòn ngói âm dương, các kiểu cửa lùa, cửa đẳng, cửa ngăn, cửa bức bàn và cái só luồn bậc cửa. Những dãy nhà một tầng gác xép tầng tầng lớp lớp nhấp nhô sóng mái bây giờ vẫn thế. Đó là những nhà dân thường, người buôn bán, thợ thủ công ở tụ hội lại cả họ, cả phường đã thành tên phố: Hàng Đường, Hàng Đào, Hàng Bát Đàn… Bên những dinh thự và công sở người Pháp xây dựng, nhà cửa khoảng 100 năm trở lại đây còn in rõ cảnh sống thành phố, nhìn nhà, biết tuổi nhà – ở vùng bệnh viện Việt – Xô, nhà khách Bộ Quốc phòng và nhiều phố, trên tường nhà còn thấy đắp nổi con số năm khởi công và năm hoàn thành ngôi nhà. Những hiệu buôn và hàng quán của người Pháp ở Hàng Khay, Hàng Trống, của người Ấn Độ ở Hàng Ngang, của người Trung Quốc ở Hàng Buồm, của người Nhật ở Cửa Đông, của những người Việt Nam giàu có như nhà Trấn Hưng Hàng Bạc, nhà Cửu Nghi và Lê Thuận Kho át Hàng Bồ. Chỉ kể một vài tên làm ví dụ. Những nhà hàng cửa hiệu hiện nay còn, chỉ cần biết bảo quản, chứ không đến nỗi phải làm lại theo chuyện kể hay trí nhớ. Mới đây, trung tu cổng tam quan chùa Thiên Trù trong quần thể chùa Hương Phái nghiên cứu, sử dụng những bức ảnh ngày trước còn lưu trữ ở thư viện Phương Đông tại Paris bên Pháp, khi xây dựng. Khu phố cổ thành phố Plopdip (Bungari) tương tự 36 phố phường của ta, còn giữ được quán ăn và ngôi nhà đồ sộ của một người Do Thái buôn bán lớn đã lâu đời ở đấy, nhà này đi buôn đường Ấn Độ trong phòng trang trí lụa là, chiếu thảm, đồ đạc vùng Trung cận Đông và Nam Á. Ở Hà Nội, nhiều di tích chiến đấu và cách mạng đã được xếp hạng như di tích lịch sử và nghệ thuật, nhưng còn thật nhiều di tích phổ biến mà trong khu 36 phố phường rất sẵn những cái nho nhỏ chỗ nào cũng có ấy tạo nên không khí, và quang cảnh. Đi trong thành phố Vacsava, thấy cứ ở nơi nào có một trận đánh dù nhỏ và chớp nhoáng, nơi nào có chiến sĩ hy sinh trong thời kỳ Vacsava bị phát xít Đức chiếm đóng, đều có tượng nhỏ, phù điêu hoặc gắn biển ghi sự tích. Mỗi bước lại gặp cuộc chiến đấu của nhân dân Ba Lan anh hùng. Ở Béc-lin, bên cạnh tòa nhà Quốc hội mà quân đội Liên Xô đã cắm cờ chiến thắng lên nóc, vẫn như trong chiến tranh và có nhiều khu phố, hai bên nhà dân vẫn ở bình thường, nhưng mặt tường nhà để lởm chởm như bị bom phá, và màu tường quét vôi xám nhạt như ám khói, người đi qua vẫn có cảm tưởng về trận đánh khốc liệt ngay giữa dinh lũy sào huyệt của phát xít ngót nửa thế kỉ đã qua. Những sự việc lịch sử và cách mạng đã xảy ra ở Hà Nội rất phong phú, nhiều mặt. Dấu vết viên đạn trái phá quân Pháp xâm lược bắn thủng tường thành Cửa Bắc. Sử sách còn kể tên những pháp trường Pháp dựng quanh Bờ Hồ để giết hại các nhà yêu nước. Năm 1954, thành phố tìm lại và bốc mộ các chiến sĩ chiến đấu ở Liên khu 1 hy sinh và phải chọn ngay ở nơi vừa ngã xuống. Mỗi nơi ấy ngày nay cần có bia tưởng niệm, để cho những người tìm hiểu khu 36 phố phường không phải chỉ thấy sự tích anh hùng ở chợ Đồng Xuân, mà thật ra phố nào cũng có, có nhiều. Cũng như phải gắn bia lưu niệm chi tiết hơn nữa về các cơ sở cách mạng hồi bí mật trước Tổng khởi nghĩa, thời kỳ Hà Nội bị tạm chiếm, để cho người bây giờ thấy được hoạt động cách mạng thời kỳ đất nước còn đen tối đã to lớn, đã dũng cảm đến thế nào mới có được ngày nay. Sân gác thượng một nhà in phố Hàng Bồ, ở đấy tiểu đội của chiến sĩ Bạch Ngọc Liễn đã dùng súng trường bắn rơi một máy bay trinh sát Pháp khi Liên khu 1 đương còn trong vòng vây địch. Đấy là chiếc máy bay đầu tiên của Pháp bị bắn rơi trong cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta. Ở nhiều bức tường nhà hai tầng phố Hàng Gai còn lỗ chỗ vết thủng, vết đạn, khi hai bên phố là phòng tuyến của ta và địch hàng ngày tấn công sang nhau. Ở hầu hết mọi nhà còn vết tường nhà đã bị phá, để cả phố thành giao thông hào luồn nhà này sang nhà khác khắp 36 phố phường ra tận chốt ngoài cùng. Ở ngõ Phất Lộc, điểm tập trung sau cùng của trung đoàn Thủ đô trước khi rút sang bên bờ sông Hồng, luồn khỏi vòng vây của địch. Cây đa cạnh đền Bà Kiệu còn những vết sẹo và cành gãy, đó là cái cây bị thương vì bom bi mấy trận máy bay Mỹ ném xuống quanh Hồ Gươm. Có thể nói, chỗ nào trong khu vực này cũng la liệt dấu vết cuộc chiến đấu cách mạng và lịch sử qua các thời kỳ. Khu vực 36 phố phường còn nhiều đình, chùa, đền miếu rải rác các phố. Chứng tích đô thị một đất nước châu Á gốc nông nghiệp, dẫu đã ra ở đường phố, nhưng tính cách lũy tre làng vẫn được gìn giữ, người ta lập nơi thờ mới hoặc thờ vọng thành hoàng làng ở quê. Cần giữ lại mọi hình ảnh có đặc điểm này, tất nhiên nơi là di tích được xếp hạng (đền Bạch Mã), những nơi khác có thể vẫn ở, vẫn sử dụng bình thường, nhưng phải có quy định không được tự tiện xê dịch, hủy bỏ hoặc tự ý sửa chữa, v.v... Vùng 36 phố phường có nhiều di tích tiêu biểu xứng đáng. Khách trong nước và nước ngoài có dịp được tham quan cái bảo tàng ngoài trời của thành phố ta qua các thời kỳ. Nhưng khu vực này đang có nguy cơ biến dạng. Nếu không sớm bảo vệ nghiêm ngặt, e đến khi ta có điều kiện tôn tạo, sẽ tốn công tốn sức lắm và có những mất mát không thể tìm lại được. Số người, số hộ đến ở khu này đông quá mức. Là khu buôn bán cũ, bây giờ vẫn tiếp tục buôn bán – trong tình hình này sinh hoạt buôn bán càng nhiều. Vì thành phố không trông trước được đây sẽ là vùng di tích nên không có quy định gì về người đến, người ở. Hiện các phường Đồng Xuân, Hàng Buồm, Hàng Bạc là những phường chật chội, đông người nhất, ô nhiễm nặng nhất, và sẽ còn đông nữa, bẩn nữa. Do đòi hỏi của sinh hoạt, người ta phá nhà cũ xây nhà mới, người ta phải cơi nới gác xép và lên tầng. Cả đến hai đầu đao mái đền Bạch Mã đã được xếp hạng cũng phải đâm vào cửa sổ một hiệu ăn sát nách nhà. Từ Hàng Đào lên Hàng Đường có lệnh bắt các nhà nhích ra hè phải lui cửa hàng vào như cũ, xem chừng chỉ đẩy vào một hai tấc cũng không phải dễ. Có thể báo động: Tất cả các nhà trong khu vực này, nếu người ta chưa phá đi làm lại thì nhà nào cũng đã sửa chữa cả rồi. Thành phố phải tổ chức biện pháp giữ gìn, bảo vệ ngay. Trước mắt, chưa có điều kiện tôn tạo, nhưng nhất thiết phải giữ gìn và bắt đầu những công việc sưu tầm nghiên cứu chuẩn bị cho công việc tới. Những vấn đề như số lượng người ở, các nhà xây mới và chữa, chuyện đường sá, cây cối, các đình chùa đền miếu đều liên quan đến công cuộc gìn giữ trước mắt và sau này. Không để tùy tiện buông tuồng như bây giờ. Hà Nội 36 phố phường. Cái 36 phố phường ấy của thành phố đã hình thành từ Thăng Long nghìn đời không chỉ trên quang cảnh trông thấy, mà đã vào tâm hồn tình cảm con người với biết bao tục ngữ, ca dao. Xin nói về việc hôm nay chúng ta bảo vệ “Hà Nội 36 phố phường” quý báu đó cho bộ mặt thủ đô cả nước và tấm lòng mến yêu của mọi người trên thế giới khi đã một lần đến thăm Hà Nội. Có thể tính ra đã hàng chục đề tài nghiên cứu bảo tồn phố cổ với hàng trăm triệu, hàng tỷ đồng đầu tư cho những công tác nghiên cứu này, nhưng vẫn chưa tìm ra một phương án tối ưu được các nhà khoa học, nhà quản lý, nhà kinh tế và giới kiến trúc nhất trí, ủng hộ là thực hiện toàn diện và đồng bộ. Ngoài ra để chuẩn bị bảo vệ khu phố còn có nhiều cuộc bàn bạc khác của các chính quyền về khu phố cổ 36 phố phường. Hội đồng nhân dân thành phố đã họp chuyên đề quyết định cả đặt mốc giới khu phố. Và hiện nay đương bàn soạn và dự thảo những quyết định chi tiết về thể thức cải tạo, xây dựng trong khu vực này. Quan tâm và làm việc cho một khu phố cổ giữ được sắc thái riêng của nó, là cần thiết, bởi khu phố cổ là một trong những hình ảnh Hà Nội xưa làm ăn, sinh sống, mà tinh thần Hà Nội xa xưa liên quan tới con người Hà Nội bây giờ chứ không phải chỉ về mặt di tích và du lịch. Tất cả mọi công việc kể trên đều đương và sẽ thực hiện chứ thực chưa một việc gì đã làm cả. Vấn đề phức tạp và cần đặc biệt lưu ý cấp bách phải giải quyết là ở đây. Bởi vì trong khi đó vùng phố cổ đông đúc, chen chúc đương hằng ngày các nhà dân, nhà thuê của thành phố được sửa chữa, được làm mới như Hà Nội hiện nay ở bất cứ nơi nào, đã mọc lên nhiều nhà cao ba bốn năm tầng, mỏng mảnh, các cửa sắt kéo đóng khép, các mặt tiền ốp đá rửa… Chẳng bao lâu nữa, vẻ riêng 36 phố phường sẽ biến mất, mà lặn vào, hòa vào Hà Nội nói chung. Mới đây, tôi có dịp đi dạo trong vùng 36 phố phường với ông Giắc Beekac, nhà báo Anh, đặc phái viên Đông Nam Á thường trú ở Băng Cốc của đài phát thanh BBC. Ông Giắc nêu câu hỏi với tôi: “Các ông chủ trương bảo vệ khu phố cổ này, giữ bộ mặt Hà Nội khác Băng Cốc, khác Hồng Kông… Nhưng từ nãy, chúng ta mới đi qua hai, ba phố đã thấy nhiều nhà kiểu mới như các khu phố khác, như ở thành phố Hồ Chí Minh, như Hồng Kông thế thì gọi thế nào là bảo vệ, vì như vậy khu phố cổ rồi sẽ không còn nữa”. Câu hỏi cũng là một nhận xét và lời phê bình đúng sự thật, thật chua chát và buồn phiền cho người phải trả lời. Nhưng tôi đã trách ông Giắc lịch lãm và tôi cắt nghĩa với ông ấy rằng: “Ông chưa biết và thông cảm hết được khó khăn của chúng tôi. Vâng, những cái ông trông thấy đương làm đau đầu những người có trách nhiệm và thật sự là điều không vui đối với cả những người yêu vẻ đẹp độc đáo của Hà Nội như ông. Tại sao vậy? Điều trước nhất là nhà ở khu phố cổ này, phần nhà riêng có chủ nhiều hơn nhà do Nhà nước quản lý. Mật độ dân số một cây số vuông ở khu này đông gấp trăm lần các khu khác và vào loại môi trường bị ô nhiễm nặng nhất thành phố. Nhưng di chuyển, tạo thoáng khu vực này đòi hỏi một sự đền bù rất lớn, rất rất lớn và rất phức tạp. Bởi, khu này là trung tâm buôn bán sầm uất nhất thành phố, nhất cả phía Bắc đất nước. Mỗi tấc đất ở đây giá trị một tấc vàng. Ở đây không thiếu những triệu phú, tỷ phú mới nổi, mặc dầu họ chỉ chen chúc ở một căn nhà chật hẹp, cũ kỹ. Tất cả nhà cửa ở khu phố cổ đều được xây dựng từ đầu thế kỉ với cách sinh hoạt thô sơ của thời kỳ thành phố chưa có điện, chưa có hệ thống nước máy. Thêm nữa, nhà cửa trong mưa nắng nhiệt đới, mối mọt và đổ nát nhiều. Vả lại mỗi nhà hiện nay, phần nhiều vì đã mấy thế hệ, tam tứ đại đồng đường, con cháu quá đông đúc mà các nơi bếp núc và nhà vệ sinh đều tồn tại từ ngót trăm năm nay, cho nên, sửa chữa hoặc làm lại, làm mới cũng đương là một đòi hỏi vô cùng khẩn thiết, tất nhiên không thể cản được vì là nhà của người ta và trong khi những quy định của Nhà nước, của thành phố chỉ mới thấy các điều khoản trên văn bản giấy tờ, chưa đẻ ra điều kiện vật chất và tiền bạc, làm sao ngăn được những chữa chạy hoặc làm mới khá chính đáng của mỗi chủ hộ trong ngôi nhà, trong dãy phố. Ấy là còn chưa kể có thể có những cái bên trong, để được làm ngơ đi, biết đâu. Tôi cũng như nhiều người hằng quan tâm và yêu quý khu phố cổ 36 phố phường, thực sự băn khoăn không yên. Từ bàn cãi đến các tổ chức, các kế hoạch, bảo tồn, tôn tạo, hội nghị, hội thảo và công phu ghi chép với sáng kiến đã nhiều, nếu thủ đô được giải phóng đã ngót 60 năm thì thời giờ bàn và lo cho khu vực này cũng đã dòng dã ngót 60 năm. Vậy mà chưa trông thấy cụ thể một việc gì cả. Bây giờ, bước vào đổi mới, chỉ thấy ngày và đêm, nhất là về đêm, những vôi gạch, xi măng và vật liệu xây dựng được tải vào đây nhà nhà cứ được chữa, được xây lại mốt mới giống hệt như ở bất cứ chỗ nào trong thành phố này và các thành phố khác. Có lẽ chẳng bao lâu nữa 36 phố phường chỉ còn trong ký ức, “Thăng Long thành hoài cổ” đầu bài thơ cũ đã mang sẵn cái điềm buồn thế rồi chăng? Mời các bạn đón đọc Giữ Gìn 36 Phố Phường của tác giả Tô Hoài.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Cơm Thầy Cơm Cô
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) Tập ký sự Cơm Thầy Cơm Cô của tác giả Vũ Trọng Phụng. Cơm Thầy Cơm Cô (đăng báo 1936) cũng là một phóng sự mô tả hiện tượng những người dân thôn quê tìm ra đô thị do hấp lực của “ánh sáng kinh thành” để rồi bị biến thành những vú em, con sen thằng ở, thằng bồi thằng xe, bị bóc lột sức lực, bị lạm dụng tình dục, bị buôn đi bán lại, không ít người biến thành trộm cắp, đĩ điếm, làm gia tăng các tệ nạn xã hội. Ở đây nhà văn đã sớm phát hiện những hậu quả tha hóa, phi nhân hóa, gây ra bởi sự di dân, sự nhập cư, là những hiện tượng mà quy mô sẽ tăng lên hàng chục hàng trăm lần khi xã hội ta bước sang thời công nghiêp hóa, hiện đại hóa, đô thị hóa. Một số truyện khác: Con người điêu trá, cuộc vui ít có, bụng trẻ con, tình là dây oan.... ***   Một thứ “mặt trái đời”. Kết quả chuyến xâm nhập điều tra nghề cơm thầy cơm cô của Vũ Trọng Phụng đã bị nhà báo Lê Tràng Kiều xem là một thứ “mặt trái đời” của thời Hoàng Tích Chu ở một hình thể mới. Kiều cho rằng những điều Phụng tố cáo là những sự thực nên kiêng, bởi có quá nhiều điều đáng kinh sợ trong những mẫu hạng về giới cơm thầy cơm cô: “Có những đứa đầy tớ bị chủ nhà đánh chết. Có những con sen được ông chủ quý hơn vợ. Có những thằng nhỏ bỏ thuốc độc định giết cả nhà chủ nhà. Có những anh bếp nhổ đờm vào nồi cá kho. Có những vú già quyền hành như mẹ “cậu mợ”. Có những thằng nhỏ được kỳ lưng cho các tiểu thư. Có những anh xe được ngủ giường Hồng kông với bà chủ. Có những đứa ở lúc chủ chết khóc như khóc bố mẹ. Có những đứa liều mạng cứu chủ. Có những quân đốt nhà của chủ. Hoặc dắt cướp vào nhà. Hoặc thư đi thư lại, làm nghề ma cô. Có những thằng nhỏ hiếp con gái ông phán. Có những con sen bị ông tham hiếp dâm. Có nhiều!” Có tốt, có xấu, chẳng thể chỉ viết điều tốt không, mà đem tất cả điều xấu ra nói thì khó tránh kiểm duyệt. Trong lúc trù trừ Phụng đã được Nguyễn Công Hoan đề nghị: “Mình cứ việc điều tra ngay ở chính mình!” Và rồi phóng sự “Cơm thầy cơm cô” được xuất bản năm 1936, gồm 9 chương và phần mở đầu, ghi lại hết thảy hiện thực một cách chân thực về chuyến điều tra mà nhà văn là nhân vật “tôi” đi xin việc. Cám dỗ của “ánh sáng kinh thành”. Sau hòa ước Patenôtre 1884 – hòa ước cuối cùng nhà Nguyễn ký với thực dân Pháp – thực dân Pháp chia nước ta làm 3 miền với 3 chế độ cai trị khác nhau. Nam Kỳ với chế độ thuộc địa. Trung Kỳ theo chế độ nửa thuộc địa, nửa bảo hộ. Riêng Bắc Kỳ hoàn toàn theo chế độ bảo hộ. Bắc Kỳ, nơi đất ít, người đông, khí hậu khắc nghiệt nên quan hệ làng xã được duy trì bền vững, thực dân Pháp lợi dụng mối quan hệ này để định ra cách cai trị riêng cho Bắc Kỳ. Chúng giữ nguyên bộ máy cai trị của phong kiến để biến tầng lớp này thành tay sai đắc lực cho chính quyền Pháp ở Đông Dương bằng cách trao cho họ những quyền lợi về kinh tế và chính trị, nhằm mua chuộc người Việt làm tay sai cho thực dân Pháp, chia rẽ sự đoàn kết, đẩy nhanh quá trình phân hoá giàu nghèo, làm tăng mâu thuẫn trong xã hội, làm cho nhiều gia đình nông dân điêu đứng, bần cùng. “Cơm thầy cơm cô” là kết quả cuộc điều tra về nạn buôn người và nghề đi ở của ông vua phóng sự đất Bắc những năm 1930, dưới hậu quả thâm độc trong chính sách cai trị bóc lột của thực dân Pháp, người nông dân nghèo không biết làm gì cho có cái ăn, cái mặc, buộc phải di dân, buộc phải rời làng quê đi đến Hà thành với hy vọng đổi đời. Có lẽ những đêm không trăng không sao, người nhà quê vùng Nam Định, Hải Dương, Bắc Ninh, Sơn Tây, Hòa Bình mỗi khi ra sân, quay về một phía trời, đã thấy có một vùng hào quang sáng rực. Đó là ánh sáng của kinh đô Hà Nội! Nơi nghìn năm văn vật, dân giàu, nhiều tiền lắm của, dễ kiếm sinh nhai… Ánh sáng kinh thành cám dỗ người dân quê. Khi ra đi, có lẽ họ chắc mẩm trong bụng về công việc vẻ vang. Họ như con thiêu thân bay vào đống lửa, cho nên mới bị quáng mắt bởi những ánh sáng của kinh thành. Trong khi chờ cho có việc, họ có mấy đồng xu cứ ăn hết dần. “Đến cái ngày mà túi cạn mà việc chưa có, mà không ai thí cho đồng chinh hay bát cháo, tất là họ phải sinh ra liều mạng, có những lá gan to. Đàn bà sẽ đi đến Dục tình. Đàn ông sẽ đi đến Hình phạt.” Hiện tượng những người dân thôn quê bỏ nhà bỏ cửa ồ ạt nối đuôi nhau ra đô thị, một mặt do điêu đứng bần cùng bởi sưu cao thuế nặng nơi làng quê, một mặt do hấp lực của “ánh sáng kinh thành” để rồi bị biến thành những vú em, những con sen thằng ở, những thằng bồi thằng xe… Họ bị bóc lột sức lao động, bị lạm dụng tình dục, bị buôn đi bán lại, không ít người biến thành trộm cắp, đĩ điếm, làm gia tăng các tệ nạn xã hội. Bằng phong cách của người làm báo, Vũ Trọng Phụng nói thẳng, nói thực, tả chân. Ông đi sâu vào điều tra xã hội con sen thời bấy giờ. Khi giá trị con người có lúc không bằng lũ súc vật. Đám dân hạ lưu chia nhau ra khắp các phố, như dòng nước len lỏi qua các cống ngầm, thành thử những người lịch sự tưởng Hà thành lịch sự, mà các nhà xã hội học cũng tưởng là Hà thành không có chuyện gì bi thương. Nhưng thực ra, nó rất là thương tâm. “Nó đã cất tiếng gọi dân quê bỏ những nơi đồng khô cỏ héo đến đây để chết đói một lần thứ hai sau khi bỏ cửa bỏ nhà. Nó đã làm cho giá con người phải ngang hàng với giá loài vật: Nó đã làm cho một bọn trẻ đực vào nhà Hoả Lò và một bọn trẻ cái làm nghề mãi dâm!” Cái cách dùng từ “bọn trẻ đực” và “bọn trẻ cái” sao mà đắt giá! Bởi giá trị con người có khi không bằng giá súc vật. Người dân quê đi đến được đất Hà thành, để kiếm việc làm phải nhờ vào mụ làm nghề đưa người ở, mụ tập trung họ đến chợ buôn người, họ ngồi giơ mặt cho ruồi bâu, chờ được mua. Mỗi người chỉ cầu như một con chó, nhiều khi kém một con chó. Vì con chó có khi còn được chủ mua thịt bò cho ăn, vì con chó có khi mỗi tháng còn khiến chủ tốn kém hơn nuôi một đứa tôi tớ trong nhà. Còn phận tôi đòi đem chân tay ra làm nhiều việc có ích, rất nặng nhọc, ăn đói làm no, mà vẫn không kiếm được việc, không có khách nào muốn mua. Rõ ràng không phải ra giá cao nên ế, chính là bán rẻ mà vẫn ế! Vũ Trọng Phụng phơi bày một sự thật trần trụi đến đau lòng, khi phận con người khát khao đời sống của một con chó còn không được. “Nước mẹ đại Pháp” đã làm gì nhân dân Việt Nam thế này? Vũ Trọng Phụng đã viết ra hiện thực mà nhiều người không dám viết, không phải ông nhìn đời bằng con mắt đen, mà thực tế xã hội Việt Nam dưới chính sách bảo hộ đầy thâm độc của thực dân Pháp đã mục nát như vậy rồi. Từ việc mua bán người, ra giá, trả giá như đồ vật, đến những sự việc diễn ra khi đi ở, bị bạo hành, bị hãm hiếp, trả thù… quan hệ nhân quả và sự tha hóa bản chất con người quả thật đã khiến độc giả phải rùng mình ghê sợ. Với một thái độ trung dung, Vũ Trọng Phụng không đứng về phía quân chủ nhà, cũng không bênh vực đám đầy tớ, ông chỉ đơn giản là trần thuật nguyên nhân, quá trình, hậu quả, hệ lụy… Tất cả là cái phông nền bộc lộ rõ bản chất xã hội đất Hà thành dưới thời Pháp thuộc.  “Nghệ thuật thì dài mà cuộc đời thì ngắn.” Danh ngôn của Hippocrates – cha đẻ Y học, người thầy thuốc vĩ đại nhất lịch sử Hy Lạp cổ đại – như ứng vào cuộc đời Vũ Trọng Phụng. Chỉ với 27 năm kiếp người và vỏn vẹn 9 năm cầm bút, ông đã để lại những đứa con tinh thần mang gen trội với sức sống dồi dào theo thời gian. Vũ Trọng Phụng không sợ cũng không ngại đào sâu vào những u uất của xã hội đương thời, những cái điều mà nhà văn khác e ngại nói ra. Với “Cơm thầy cơm cô”, nhà văn đã phát hiện những hệ lụy tha hóa, phi nhân hóa gây ra bởi di dân và nhập cư, cùng hậu quả ghê rợn của nó dưới thời Pháp thuộc. Ngày nay, khi đất nước ta bước sang thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đô thị hóa, thì ảnh hưởng bởi hiện tượng này vẫn còn, tuy nhiên dưới sự quan tâm và quản lý của nhà nước Việt Nam, dù là di cư thì cuộc sống nhân dân vẫn có nhiều ổn định. Vũ Trọng Phụng đã chứng minh cái tài của người cầm bút được tôn vinh là “ông vua phóng sự đất Bắc”, mang đôi mắt tỏ tường trước xã hội dù nơi ánh đèn soi rực rỡ hay nơi tối tăm hôi hám, mang lòng can đảm dám viết thực theo lối tả chân. Bởi vậy mà văn Vũ Trọng Phụng vẫn sống và đang sống căng tràn trên diễn đàn văn học cả trong và ngoài nước. Mời các bạn mượn đọc sách Cơm Thầy Cơm Cô của tác giả Vũ Trọng Phụng.
Tương Lai Văn Hóa Việt Nam
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) sách Tương Lai Văn Hóa Việt Nam của tác giả Thích Nhất Hạnh. Tương lai văn hóa Việt Nam (Viết cho thằng Cu và con Hĩm) Mới ngày nào đây hai đứa còn trát bùn lên mặt, đùa giỡn với nhau bên bờ ao, vậy mà bây giờ các con đã lớn và đã bắt đầu lo nghĩ tới chuyện đời rồi. Cuộc đời nhiều chuyện lắm, ta ngại các con sẽ ít có cơ hội để ngồi lại cùng nhau mà xét nghĩ cho chín chắn về việc tương lai. Tuổi ta đã cao mà câu chuyện ta muốn nói với hai con lại là một câu chuyện cần được nói trong tĩnh lặng, vì vậy ta đã lấy giấy bút để viết những dòng này cho các con. Tập sách gồm có: Cây đào và Con Ong Bùa Mê và Thuốc Lú Nhận diện Sự sống là một Hạt lúa và Miếng Thịt Ưu Điểm và Nhược Điểm Hãy đưa bàn tay lên mà nhìn ngắm Giải tỏa tiềm năng sáng tạo Đồng sinh cộng tử Tự do là sức mạnh của Văn Hóa Vận dụng ý thức Màng lưới ngôn từ Tinh thần khoa học, tinh thần cởi mở Sự thực đến gõ cửa tìm ta Tinh thần bao dung hòa hợp Tính dân tộc tìm ở đâu? Tại sao hàng triệu người bỏ nước ra đi? Anh không chấp nhận chân lý tôi thì anh phải chết Chống Quan Liêu, Phong Kiến và Tham Nhũng ngay trong huyết quản của mỗi người chúng ta Nhân dân là ai? Và ở đâu? Bình tâm mà nhận xét Đức hiếu sinh Tước đoạt sự sống của kẻ khác là tước đoạt sự sống của chính ta Đống xương vô định đã cao Không có ý thức hệ nào quý bằng sự sống Sứ mạng mà giống nòi phú thác Đồng minh của chúng ta Hiện tượng mất chân đứng văn hóa Những phương châm chỉ đạo văn hóa Khơi nối được chất liệu văn hóa Tôi và Ông Định nghĩa Văn Hóa *** Tóm tắt Tương Lai Văn Hóa Việt Nam là một cuốn sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh, được viết vào năm 1992. Cuốn sách được viết cho hai đứa con của ông, Thiện Tâm và Thiện Trí, nhưng cũng có thể được coi là một bức thư gửi tới tất cả những người quan tâm đến tương lai của văn hóa Việt Nam. Trong cuốn sách, Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã phân tích những ưu điểm và nhược điểm của văn hóa Việt Nam, đồng thời đưa ra những định hướng cho sự phát triển của văn hóa Việt Nam trong tương lai. Review Tương Lai Văn Hóa Việt Nam là một cuốn sách giàu ý nghĩa, mang đến cho người đọc những suy nghĩ sâu sắc về văn hóa Việt Nam. Cuốn sách được viết với văn phong giản dị, dễ hiểu, có nhiều ví dụ thực tế để minh họa. Một số điểm nổi bật của cuốn sách: Thể hiện rõ tinh thần dân tộc và tinh thần hòa hợp của văn hóa Việt Nam. Đưa ra những định hướng cho sự phát triển của văn hóa Việt Nam trong tương lai, dựa trên những giá trị truyền thống của dân tộc. Được viết với văn phong giản dị, dễ hiểu, có nhiều ví dụ thực tế để minh họa. Cuốn sách phù hợp với những người quan tâm đến văn hóa Việt Nam, những người muốn tìm hiểu về những giá trị truyền thống của dân tộc và những định hướng cho sự phát triển của văn hóa Việt Nam trong tương lai. Một số trích dẫn đáng chú ý trong cuốn sách: "Văn hóa là gì? Văn hóa là tất cả những gì mà con người đã sáng tạo ra trong quá trình sinh sống và phát triển của mình. Văn hóa bao gồm vật chất và tinh thần, bao gồm những gì hữu hình và vô hình. Văn hóa là sản phẩm của quá trình lao động, sáng tạo của con người. Nó là kết quả của sự giao lưu, tiếp biến giữa con người với con người, giữa dân tộc với dân tộc." "Văn hóa Việt Nam là một nền văn hóa phong phú và đa dạng. Nó có nguồn gốc từ nền văn minh lúa nước, được hình thành và phát triển qua hàng nghìn năm lịch sử. Văn hóa Việt Nam là sự kết hợp hài hòa giữa bản sắc dân tộc và tinh hoa của nhân loại." "Văn hóa Việt Nam có những ưu điểm nổi bật, như: Tính dân tộc: Văn hóa Việt Nam mang đậm bản sắc dân tộc, thể hiện qua những giá trị truyền thống như: lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng,... Tính nhân văn: Văn hóa Việt Nam đề cao giá trị nhân văn, thể hiện qua những giá trị đạo đức như: yêu thương, nhân ái, vị tha,... Tính hòa hợp: Văn hóa Việt Nam đề cao tinh thần hòa hợp, thể hiện qua sự giao lưu, tiếp biến giữa các nền văn hóa khác nhau." "Tuy nhiên, văn hóa Việt Nam cũng còn có những hạn chế, như: Tính cục bộ: Văn hóa Việt Nam còn mang tính cục bộ, chưa có sự giao lưu, tiếp biến rộng rãi với các nền văn hóa khác. Tính thụ động: Văn hóa Việt Nam còn mang tính thụ động, chưa có sự sáng tạo, đổi mới. Tính nông nghiệp: Văn hóa Việt Nam còn mang tính nông nghiệp, chưa có sự phát triển mạnh mẽ ở các lĩnh vực đô thị, công nghiệp." Tương Lai Văn Hóa Việt Nam là một cuốn sách hay và ý nghĩa, có thể mang lại cho người đọc nhiều lợi ích trong việc tìm hiểu về văn hóa Việt Nam. Mời các bạn mượn đọc sách Tương Lai Văn Hóa Việt Nam của tác giả Thích Nhất Hạnh.
Quyền Lực Đích Thực
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) sách Quyền Lực Đích Thực của tác giả Thích Nhất Hạnh. Đối với chúng ta quyền lực có ý nghĩa gì? Tại sao ai cũng tìm mọi cách để đạt cho được quyền lực? Cho dù có thể không để ý, nhưng phần đông chúng ta luôn luôn cố đạt cho được một địa vị có quyền lực bởi vì ta tin rằng quyền lực giúp ta làm chủ được đời sống, đem lại cho chúng ta tự do và hạnh phúc - những gì ta mong muốn nhất. Xã hội chúng ta được xây dựng trên một khái niệm rất hạn hẹp về quyền lực, đó là giàu có, sung túc, thành công nghề nghiệp, danh tiếng, sức khỏe, sức mạnh quân sự và quyền năng chính trị. Tôi xin đề nghị với bạn một thứ quyền lực khác, một thứ quyền lực vượt bậc: quyền lực giúp ta thoát khỏi sự ám ảnh của mê đắm, sợ hãi, tuyệt vọng, sự trấn ngự của kỳ thị, sân hận, ngu dốt; quyền lực giúp ta đạt được hạnh phúc ngay trong giờ phút hiện tại. Đây là một thứ quyền lực mà bất cứ ai sinh ra cũng đều có quyền hưởng, không phân biệt sang hèn, giàu nghèo, mạnh yếu. Xin mời bạn cùng tôi tìm hiểu thứ quyền lực đặc biệt này. Tất cả chúng ta ai cũng muốn có quyền lực và thành công. Nhưng nếu vì cố sức tranh đấu để có được quyền lực, rồi lại cố sức tranh đấu bảo vệ quyền lực mà bị hao mòn, mệt mỏi, bị chia cách tình nghĩa thì đâu còn có thể vui hưởng quyền lực và thành công? Quyền lực và thành công như vậy thật chẳng có ý nghĩa gì. Sống một cuộc sống sâu sắc và hạnh phúc, có thì giờ chăm sóc người thương là một thành công khác, một quyền lực khác, một thứ thành công và quyền lực quan trọng hơn nhiều. Chỉ có một thành công đáng kể đó là thành công khi chuyển hóa tự thân, vượt thắng phiền não, sợ hãi và sân hận. Đây là thứ thành công, thứ quyền lực đem lợi lạc cho chính ta và cho những người khác mà không gây ra một tác hại nào. Muốn có quyền lực, muốn được danh tiếng hay giàu sang không phải là điều xấu. Nhưng phải nhớ rằng chúng ta theo đuổi quyền lực, danh tiếng hay tiền tài là để được hạnh phúc. Nếu giàu có và quyền thế mà không hạnh phúc thì giàu có và quyền thế để làm gì? Tập sách này sẽ cống hiến những thực tập đơn giản, thiết thực và hữu hiệu để tạo một thứ quyền lực đích thực, đó là tự do, an ninh và hạnh phúc mà tất cả chúng ta đều mong muốn, nơi đây, ngay bây giờ, cho chính chúng ta, cho gia đình, cộng đồng, xã hội và cho cả hành tinh. Ước vọng vun trồng hiểu biết, thương yêu, ước vọng giúp đời là một năng lượng mầu nhiệm khiến cho cuộc sống có mục tiêu chân thực. Nhiều bậc thầy vĩ đại trước chúng ta – Jesus, Bụt, Mohamed và Moses – đã từng có ước vọng như thế. Ngày nay chúng ta cũng có ước vọng sâu sắc như các vị: thực hiện hòa bình, vượt thắng khổ đau và giúp đỡ người khác. Chúng ta đã chứng kiến những người chỉ một mình mà có thể giải thoát, chữa lành cho hàng ngàn, có khi hàng triệu người. Mỗi chúng ta - chính trị gia, thương gia, công nhân, nhân viên nhà hàng, hay nghệ sĩ… - đều cùng chung ước vọng như thế. Nhưng cần phải nhớ rằng, muốn thực hiện ước vọng đó, trước hết ta phải chăm sóc ta. Muốn đem lại hạnh phúc cho người khác thì chính ta phải tỏa chiếu hạnh phúc. Và đây là lý do vì sao phải thực tập để chăm sóc thân tâm của ta trước. Chỉ khi thân tâm vững chãi ta mới đủ khả năng chăm sóc người ta thương. Sống thiếu tỉnh thức, thiếu khả năng nhìn rõ thực trạng chung quanh thì chẳng khác gì một chuyến xe lửa tốc hành không người lái. Điều này lại càng đúng hơn trong đời sống nghề nghiệp, nếu quá chú tâm đến nghề nghiệp thì cứ mãi quay cuồng. Đau khổ trong đời tư ảnh hưởng tới nghề nghiệp và ngược lại, đau khổ trong nghề nghiệp ảnh hưởng tới đời tư. Ôm đồm quá nhiều việc, hoạch định thiếu thực tiễn, môi trường làm việc không thoải mái, luôn bị căng thẳng, luôn lo sợ bị sa thải – đó là những nguyên nhân gây đau khổ trong nghề nghiệp. Những đau khổ đó sẽ ảnh hưởng tới cả đời sống. Và hình như chẳng có ai giúp ta được. Nhưng mà đâu đến nỗi phải như vậy. Nếu biết tu tập vun trồng quyền lực đích thực, một thứ quyền lực chứa đựng tính chất tâm linh, nếu biết chánh niệm trong mọi liên hệ hằng ngày thì chúng ta có thể thay đổi hoàn toàn phẩm chất công việc cũng như phẩm chất cuộc sống của chúng ta. Chánh niệm là thực sự có mặt trong giây phút hiện tại, là tiếp xúc với những gì đang xảy ra trong ta và chung quanh ta. Sử dụng những cách thực tập đơn giản trong tập sách này để rèn luyện tâm trí và tập trung tâm ý, không những chúng ta sẽ làm việc có năng suất và hữu hiệu hơn, mà còn thoải mái và hăng say hơn. Chúng ta có đủ thì giờ để chăm sóc những người thương và những việc quan trọng nhất của chúng ta. Chúng ta có thể sống trọn vẹn từng giây phút, ý thức rằng đây là giây phút tuyệt vời, giây phút duy nhất mà ta thực sự có được. Khi chú trọng vào quyền lực tâm linh, lòng từ bi cũng sẽ trở thành mục đích của ta bên cạnh mục đích tối hậu là cầu lợi. Chúng ta không cần khước từ tài lợi, nhưng lòng từ bi sẽ giúp chúng ta thành công hơn về kinh tế hay chính trị. Tôi tin rằng nếu bổ sung ý thức về ảnh hưởng tích cực của chúng ta tới người khác và trên thế giới vào những mục đích chính của doanh thương thì chỉ tốt cho doanh thương mà thôi. Một doanh nghiệp biết phối hợp thông minh mục đích thu lợi với đức tính thanh liêm và ý thức quan tâm tới thế giới thì nhân viên dưới quyền luôn được vui vẻ, khách hàng luôn được vừa ý, đồng thời sẽ thu lợi gấp bội. Hằng năm tạp chí Fortune có đăng danh sách một trăm công ty lý tưởng để xin vào làm. Những công ty đó luôn luôn thành công trên mọi mặt. Hàng năm, những công ty đó đều nêu rõ chính sách chú trọng bảo hiểm sức khỏe, chăm sóc thiếu nhi, chế độ ngày nghỉ, ý thức bảo vệ môi trường và chia sẻ lợi tức. Những công ty rất đáng khâm phục đó biết rõ rằng đầu tư tiền bạc, thì giờ và năng lực vào việc chăm sóc sức khỏe và an lạc của nhân viên, của cộng đồng là việc làm thiết yếu cho sự phát triển vững mạnh của công ty mình. Hầu hết các nhà chính trị và doanh thương – từ kỹ nghệ dược phẩm cho đến kỹ thuật truyền thông – luôn luôn bắt đầu bằng một ý hướng giúp giảm bớt khổ đau. Ý hướng đó cần phải được nuôi dưỡng, vì khi tâm cầu lợi lấn át ý hướng cao đẹp ấy thì chúng ta sẽ tự hủy diệt. Bài học của bao nhiêu doanh nghiệp như Enron, Tyco, Worldcom sụp đổ vì gian lận nhắc nhở ta điều đó. Vì vậy kinh doanh với tâm từ bi, lân mẫn là điều rất quan trọng. Nếu không có tâm từ bi thì dù cho giàu có cách mấy cũng không hạnh phúc được. Bạn sẽ cô đơn, sẽ bị giam hãm trong thế giới của riêng mình, và không có cơ hội để liên hệ hay hiểu biết ai. Chỉ mưu cầu tài lợi mà bỏ quên tâm từ bi sẽ làm cho bạn đau khổ cũng như làm cho người khác đau khổ. Nhìn cho sâu sắc bạn sẽ thấy khổ đau chung quanh bạn và bạn sẽ phát tâm muốn làm vơi đi những khổ đau đó. Bạn cũng sẽ khám phá ra rằng đem niềm vui đến cho người khác là một nguồn vui lớn nhất, là một thành công vượt bậc. Tạo dựng quyền lực chân thực đâu cần phải khước từ một cuộc sống cao sang. Bạn sẽ sống thỏa mãn hơn, sẽ cảm thấy thảnh thơi, hạnh phúc khi đem niềm vui tới cho người và giúp người bớt khổ. *** Tóm tắt Cuốn sách Quyền Lực Đích Thực của Thích Nhất Hạnh đề cập đến một khái niệm về quyền lực khác với khái niệm quyền lực thông thường trong xã hội. Quyền lực đích thực không phải là quyền lực về vật chất, danh vọng, hay địa vị, mà là quyền lực của sự hiểu biết, tỉnh thức, và từ bi. Theo Thích Nhất Hạnh, quyền lực đích thực giúp chúng ta thoát khỏi sự ám ảnh của mê đắm, sợ hãi, tuyệt vọng, sự trấn ngự của kỳ thị, sân hận, ngu dốt; giúp ta đạt được hạnh phúc ngay trong giờ phút hiện tại. Quyền lực đích thực là thứ quyền lực mà tất cả chúng ta đều có quyền hưởng, không phân biệt sang hèn, giàu nghèo, mạnh yếu. Tác giả đã đưa ra những thực tập đơn giản, thiết thực và hữu hiệu để giúp chúng ta vun trồng quyền lực đích thực trong cuộc sống. Những thực tập này bao gồm: Thực tập chánh niệm trong từng giây phút hiện tại Thực tập yêu thương và tha thứ Thực tập chia sẻ và giúp đỡ người khác Đánh giá Cuốn sách Quyền Lực Đích Thực là một tác phẩm giàu giá trị, mang lại nhiều điều bổ ích cho người đọc. Cuốn sách đã giúp người đọc nhận thức được một khái niệm mới về quyền lực, một khái niệm giúp chúng ta sống hạnh phúc và có ý nghĩa hơn. Cuốn sách được viết với lối văn nhẹ nhàng, gần gũi, dễ hiểu. Những lời chia sẻ của Thích Nhất Hạnh thấm sâu vào lòng người đọc, khơi gợi những suy nghĩ và hành động tích cực. Một số điểm nổi bật của cuốn sách Cuốn sách đề cập đến một khái niệm mới về quyền lực, một khái niệm giúp chúng ta sống hạnh phúc và có ý nghĩa hơn. Cuốn sách cung cấp những thực tập đơn giản, thiết thực và hữu hiệu để giúp chúng ta vun trồng quyền lực đích thực trong cuộc sống. Cuốn sách được viết với lối văn nhẹ nhàng, gần gũi, dễ hiểu. Những lời chia sẻ của Thích Nhất Hạnh thấm sâu vào lòng người đọc, khơi gợi những suy nghĩ và hành động tích cực. Mời các bạn mượn đọc sách Quyền Lực Đích Thực của tác giả Thích Nhất Hạnh.