Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cây Người

Patrick White không chỉ viết về những vấn đề phổ quát của thời đại: sự cô đơn, sự đơn độc của bản thể; văn của ông còn đi sâu vào chủ đề quen thuộc, những khía cạnh trần thế đời thường, ứng xử của con người với thiên nhiên vạn vật. Và Cây Người là đại diện tiêu biểu xuất sắc cho bút pháp ấy, một cuộc phản kháng văn chương, chống lại chủ nghĩa duy vật và nêu bật lên những mâu thuẫn của chủ nghĩa hiện thực… Cây Người còn là một áng văn tuyệt mỹ về nước Úc sơ khai trữ tình, về những con người được tôi luyện trong gió và cát, cũng giống như cái cây nơi hoang dã, con người phải sống bằng chính sức lực của mình, phải chống lại mọi bão giông cuộc sống, giống như cái cây “không hề có phút giây yên tĩnh”… Dù bị đau đớn quằn quại, người ta vẫn tha thiết yêu thương cái mảnh đất ấy. Đến tận cùng, xứ sở cội nguồn của ta mới là điều quan trọng, dù ta có thích hay không… Tất cả những điều đó đã đưa Patrick White thành một tượng đài văn chương, ông cũng là người Úc đầu tiên được trao giải Nobel Văn học, vì “những tác phẩm có nghệ thuật phân tích tâm lý sâu sắc tinh tế và bút pháp sử thi, nhờ đó đã mở ra một châu lục văn chương mới.” *** Quyển sách đã đến tay mình trong một một buổi tối, một cách nhanh nhảu và dễ dàng, theo cách khác lạ mà ít khi mình được trãi nghiệm: không mua, không thuê, mà là mượn. Cái tiêu đề thật cũn cỡn và bí hiểm đã cuốn hút mình đến quả tạ 5 lạng này. Nhưng thật may mắn, nó rớt đúng vào chất văn mình đang theo đuổi, cũ kỹ mà hiện thực. Nên, đến cuối cùng, qua rất nhiều lần lăn lê bò lết, mình cũng hoàn thành một cách thuận lợi. Stan Parker, cả câu truyện đều xoay quanh cuộc đời nhân vật này. Từ lúc cậu còn là một đứa bé, đến khi đi khai hoang, cưới vợ, lập vườn tược, nhà xưởng trên chính mảnh đất mẹ anh di chúc trước lúc qua đời. Có thể xem, anh là lớp người tiên phong trong việc định cư ở vùng này. Biết bao nhiêu gốc cây anh đốn hạ. Thì bấy nhiêu chất “mộc” thẩm thấu vào từng thớ thịt hơi thở. Để rồi không biết từ bao giờ cái tên “Stan” đã thành một “đại thụ” để những người đến ở vùng đất ấy sau này có thể nương tựa vào chính cái tính cách mộc mạc và nhiệt thành của mình. Cũng như cây cao bóng cả. Người đến trước giúp người đến sau. Cái quy luật của cây cỏ ấy cũng đúng với người. Dù có trãi qua qua bao thiên tai hay cám dỗ của bản năng, anh vẫn là một người đáng mến trong mắt người thân và láng giềng. Cốt truyện có vẻ đơn giản, nhưng cách tác giả miêu tả về tình, về cảnh và tâm trạng nhân vật thì lại không. Có chút gì đó vị kỷ, cô độc mâu thuẫn với cái vị tha, khoáng đạt đã làm bật lên nhiều số phận, với những cái kết rõ ràng và đầy tính nhân quả. Qua đó, ta có thêm nhiều gia vị, trong việc chọn lựa và nhận biết nhiều nhân cách khác nhau. Cũng như Stan Parker, cái người ta thấy ở ông là cũ kỹ, khờ khạo. Còn ông thấy ở mình là mạnh mẽ và bình yên như cây, như cỏ. Review Hiếu Phạm *** Cỗ xe ngựa chạy giữa hai cây bạch đàn to và dừng lại. Hai cây đó sừng sững giữa một khoảng rừng cây bụi, chúng cao vượt những cây bao quanh, trông đường bệ mà cũng thật mộc mạc. Chiếc xe dừng lại cho ngựa gặm cỏ phía bên kia cây, còn con ngựa, bờm xờm và bình thản như cái cây, thở phì phì rồi đứng yên. Người đàn ông ngồi trên xe bước xuống. Anh xoa hai tay vào nhau vì trời đã lạnh, mây lạnh tích tụ trên bầu trời nhợt nhạt, còn phía tây ráng màu nâu đỏ như đồng thau. Bầu không khí tỏa ra mùi sương giá. Làn da tê cóng ma sát vào nhau làm không khí lạnh hơn và cảnh yên tĩnh nơi đó càng thêm cô quạnh. Chim ngơ ngác trên cành, còn những con thú giương mắt nhìn xem chuyện gì đang diễn ra. Người đàn ông hạ một bọc xuống khỏi xe. Con chó nhấc chân tè lên một tổ kiến. Con ngựa nhễ nhại mồ hôi môi trề xuống. Sau đó, người đàn ông lấy rìu bổ vào thân cây sợi cốt chỉ để được nghe một âm thanh chứ chẳng vì lý do nào khác. Âm thanh lạnh lẽo và vang vọng. Anh bổ, bổ tiếp cho đến lúc mấy mảnh vỏ cây trắng rơi xuống. Anh nhìn vào vết xước trên thân cây. Im lặng mênh mang. Đây là lần đầu tiên mới có sự việc như vậy xảy ra ở khoảnh rừng này. Chợt như cố tình xua đi một giấc mơ, anh nhanh chóng tháo càng xe, để lại trên lưng ngựa vệt mồ hôi đậm. Anh chằng chặt cặp vó trước của chú ngựa nhỏ chắc mập và đeo túi cỏ vào cái đầu trụi lủi của nó. Anh dùng mấy cái túi và vài cây nhỏ dựng một mái che. Anh nhóm lửa. Cuối cùng, anh thở dài, vì ánh lửa nhỏ đó đã nhen lên trong anh một hơi ấm đầu tiên của niềm thỏa mãn. Của việc được ở một nơi nào đó. Cái mảnh rừng đặc biệt ấy đã trở thành của anh nhờ ánh lửa bập bùng. Nó liếm láp và nuốt trọn nỗi cô đơn. Lúc này, con chó lông đỏ cũng đến ngồi bên đống lửa, gần, nhưng không ngay sát người vốn dĩ chẳng thân thiện gì với vật nuôi. Anh không vuốt ve hay nói chuyện với chúng. Chúng có mặt ở đó - cách xa một quãng - là đủ rồi. Con chó đã ngồi đó. Nó đưa mắt hau háu nhìn, vẻ muốn được ăn vì chủ vẫn chưa chịu lấy hộp đồ ăn ở trên xe xuống. Con chó chăm chú nhìn. Cái đói khiến nó phải xếp chân ngay ngắn. Đôi mắt vàng mòn mỏi dán vào chủ trong khi đợi được ăn thịt. Người đó còn trẻ. Đời chưa để lại dấu ấn trên khuôn mặt anh. Anh trông dễ ưa; bản thân anh hình như cũng là người tốt. Do chẳng có gì để giấu giếm, nên xem ra cái thế mạnh ấy bị kém một chút. Nhưng đấy lại là sự trớ trêu của lòng trung thực. Cây cối ở quanh biến mất dần. Trong ánh chiều tối, dưới bầu trời trắng, màu đen của những cành cây, cùng màu đen kịt của rừng cây bụi nhòa trộn vào nhau. Chỉ có đống lửa vẫn cháy. Và trong vòng ánh lửa, khuôn mặt người đó không lộ chút ưu tư trong khi anh xoa thuốc lá sợi trong lòng bàn tay thô ráp một mảnh giấy vuông nheo lại dính ở môi dưới. Con chó khịt cái mũi. Qua ánh lửa, lông mõm nó sáng lóng lánh. Nó vẫn ngồi theo dõi hành động dằng dai tưởng chừng như không hồi kết. Mọi chuyện vẫn tiếp diễn, và khói thuốc bắt đầu bay lên. Người đó đứng dậy. Anh phủi tay. Anh lấy hộp thức ăn xuống. Con chó lúc ấy mới run rẩy làm sao. Tiếng đĩa, tiếng nước trà rót vào sắt tây, tiếng bột mì nghe bình bịch. Đâu đó có tiếng nước chảy. Chim ríu rít về tổ. Con ngựa non, sáng lên giữa chùm lông trán, cùng con chó đói bụng, cả hai đều đứng chực con người trẻ đó. Ánh mắt và ánh lửa có một sự hòa đồng. Lửa hắt ánh vàng lên dáng người đang ngồi cắt thịt. Thấy vậy con chó điên cuồng nhảy cẫng lên như con ngựa bất kham. Anh ném thịt cho con chó, nhưng do bản chất, anh làm bộ miễn cưỡng phải làm vậy. Con chó ngốn ngấu những tảng thịt béo ngậy, chiếc vòng xích bị đẩy trồi lên phía trên cổ, khiến mắt nó lồi ra. Người đó ăn, miệng nuốt trông đến thô tục do có một mình nên cứ phồng miệng mà nuốt cho trôi, sau đó uống nước trà nóng có pha mùi sắt, cốt để cho trôi hẳn. Hơi ấm dâng lên. Giờ anh thấy tỉnh người. Anh ngửi thấy mùi rơm phảng phất từ cái giỏ thức ăn khi con ngựa đang nhai. Anh ngửi thấy mùi gỗ tươi cháy. Anh gối đầu lên chiếc vòng ẩm ướt tháo ở cổ ngựa. Và cái hang lửa to lớn, như một chốn cung mê, cuốn anh vào. Anh dang chân tay, bừng bừng trong ánh lửa, người mỗi lúc một ấm lên, nhưng đột nhiên lại bị tắt ngấm giữa làn khói nhè nhẹ và giữa dòng suy tư mệt mỏi. Tên người đàn ông này là Stan Parker. Lúc anh chưa ra đời, mẹ anh đã muốn đặt tên con mình là Ebenezer, nhưng rồi anh không phải mang cái tên đó vì ông bố, một con người tục tĩu, có lông bụng, đã cười nhạo. Do đó, bà mẹ không nghĩ đến cái tên ấy nữa. Bà là một phụ nữ không có tính hài hước và hơi sợ sệt. Lúc đẻ anh ra, bà gọi anh là Stanley, vì dẫu sao cái tên đó cũng thuộc loại đáng kính trọng. Bà vẫn nhớ đến tên nhà thám hiểm mà bà đã đọc. Mẹ cậu bé đã đọc khá nhiều qua cặp kính gọng vàng, mỏng mảnh hầu như không ôm được hết cặp mắt xanh ướt át của bà. Bà đọc sách, lúc đầu là để tự vệ trước những nỗi sợ và những chuyện khó chịu. Bà tiếp tục đọc vì, ngoài câu chuyện ra, văn học còn mang lại một vẻ phong nhã mà bà khát khao. Sau đó, bà trở thành nhà giáo. Tất cả những chuyện ấy đã diễn ra trước khi bà lấy chồng. Tên bà là Noakes. Và bà nhớ là mẹ mình đã kể rằng ở quê nhà có một người tên là Noakes đã cưới giáo sĩ của chúa đất. Bản thân bà không làm điều như vậy. Do sai lầm hoặc do bị quyến rũ bà đã lấy Ned Parker, một anh thợ rèn tại khe Willow, một kẻ nát rượu và đã có lần xung phong trả lời bài giảng của cha xứ, nhưng lại là người có thể uốn cong thanh sắt thành nút thắt đồng tâm. Chuyện đó không có gì hào hoa phong nhã, nhưng ít nhất bà còn được sức mạnh cơ bắp bảo vệ. Vì vậy cô Noakes đã trở thành bà Parker, và về mặt nào đó cũng trở nên sợ hãi nhiều hơn trước. - Stan - có lần mẹ anh nói - con phải hứa sẽ yêu Chúa và đừng bao giờ đụng đến một giọt rượu nhé. - Vâng ạ, cậu bé trả lời, vì cậu đâu đã trải qua những cái đó, và mặt trời ánh lên trong đôi mắt cậu. Trong ánh lửa vật vờ mà anh nhóm lên, chàng thanh niên nhớ đến bố mẹ và Chúa của mẹ - một hình ảnh dịu dàng lờ nhờ xanh. Anh đã cố hình dung Chúa của mẹ bằng đường nét có thực, nhưng không sao thấy được. Nào, Chúa ơi, anh đã từng bật kêu lên, nằm mở mắt nhìn vào bóng tối. Đôi lúc anh lại nghe thấy bố chửi bới và văng tục ở phía bên kia cửa. Bố anh không phủ nhận Chúa. Trái lại. Ông là một thợ rèn, chỉ chăm chăm nhìn vào lò lửa. Ông đập đe và những tia lửa bắn tung tóe. Sức khỏe trong ông bốc cháy, tiếng nhạc kim loại đinh tai nhức óc, át đi mùi hôi thối của móng ngựa cháy, nhưng không làm lòng tin của ông mai một. Có lần, lóp ngóp từ dưới mương lên, về nhà sau cơn bí tỉ, ông thậm chí đã trò chuyện với Chúa, rồi chơi vơi bấu lấy cánh của thiên thần đang phẫn nộ, trước khi ông say không biết trời đất gì nữa. Chúa của bố mà cậu bé nhìn thấy, căn bản là một ông Chúa nổi giận, hung hăng, Người xuất hiện giữa những tiếng ợ hơi, ngón tay đầy vết chai vung lên kết tội. Ông là Chúa của những vị Tiên tri. Và đây là vị Chúa mà bản thân cậu bé ngờ vực và sợ hơn là vị Chúa dịu dàng của mẹ mình. Dẫu sao, đấy mới là khởi đầu. Ở khe Willow, Chúa vít những cây tới mức chúng lay phấp phới theo chiều gió như những chùm râu. Chúa đổ mưa xuống những mái nhà lợp tôn, cho đến khi thậm chí những ông già bà cả trở nên trầm tư, nhỏ bé hơn và vàng vọt hơn trước ngọn đèn muội khói, và Chúa đã cắt cổ cụ Joe Skinner, mà nào cụ có tội tình gì, mọi người quen biết đều thấy cụ là ông già tử tế, thích bẻ vỏ bánh mì vãi cho chim ăn. Đấy là một trong những điều, chàng thanh niên nhớ lại, mẹ anh không cố gắng giải thích. “Đó là một trong những sự việc đã xảy ra”, bà bảo. Nói vậy, rồi bà lúng túng quay mặt đi. Có nhiều điều bà không có lời giải đáp. Vì lý do đó, bà không hợp lắm với những người đàn bà khác, đa số gần như biết tuốt, còn những gì họ không biết nghĩa là chẳng đáng để biết. Thế nên mẹ của Stan Parker sống cô độc. Bà vẫn tiếp tục đọc; nào là tập thơ của Tennyson đóng bằng khóa móc đồng, bên trong có ép những bông hoa violet, nào là tuyển tập Shakespeare ố lỗ chỗ vì bị ngập nước, rồi đến những cuốn danh mục sách, niên giám, những sách công thức nấu nướng, một bộ bách khoa toàn thư và cuốn từ điển địa lý, tất cả tạo nên cung cách đọc sách riêng biệt nhằm để che chở cho tâm hồn bà. Bà đọc sách, rồi bà thực hành sự ngăn nắp, tựa như bà có thể sắp xếp mọi thứ trật tự theo cách đó; chỉ có thời gian và mọt sách phá hủy những nỗ lực của bà cùng linh hồn những con người cố bật khỏi bất cứ cảnh ngộ tù túng nào giam hãm họ.   Mời các bạn đón đọc Cây Người của tác giả Patrick White.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Mãi Mãi Tuổi Mười Chín - Grigory Baklanov
Nhà văn Nga Grigory Baklanov sinh ngày 11-9-1923. Khi ông đến tuổi nhập ngũ, trong nước tiếng súng chiến tranh đã vang lên được hơn hai tháng, cuốn theo gần như cả thế hệ của ông. Baklanov xung phong ra mặt trận, lúc đầu là một người lính, và sau khi tốt nghiệp trường quân sự là một trung đội trưởng pháo cao xạ. Mười hai năm sau chiến tranh ông in truyện vừa đầu tiên “Hướng nam mũi đột kích chính”, tiếp theo là “Tấc đất” đã được độc giả đón nhận nhiệt liệt. Ngay lập tức giới phê bình chính thống xếp chúng vào loại “sự thật chiến hào”. Hoạt động văn học của Baklanov, tác giả các truyện vừa, tiểu thuyết, kịch bản phim, hồi ký chiến tranh, vẫn gặt hái được nhiều kết quả cho đến ngày hôm nay. *** T rận chiến đấu đã diễn ra nhiều giờ trong đám khói bụi che khuất cả mặt trời. Những chiếc xe tăng sa lầy trước hào chống tăng, chúng cố vượt qua hào, và một chiếc bốc cháy giữa cánh đồng. Nghe đâu bên cánh trái, bộ binh đang tiến, họ được trang bị áo giáp, mũ sắt, lưng che mộc sắt, ngực có áo giáp, dường như họ vượt qua hào chống tăng trước cả những chiếc xe tăng. Suốt cuộc chiến tranh Trêchiakov chưa trông thấy bộ bình ta như vậy, nhưng anh nghe nói cánh bộ binh ấy ở bên trái.   Chiếc xe tăng ba mươi tư tấn nằm bên miệng hào chống tăng bị phá hủy, bị đạn pháo cày rộng toác ra, và xác lính bộ binh nằm la liệt khắp chiến trường. Tất cả họ hòa vào cánh đồng vàng nục, ngưòi thì đội mũ ca-lô, người thì tóc húi cao gối đầu trên cỏ khô cứng, nhưng đều mặc những chiếc áo varơi cháy xém, cuộn lại vắt vai. Và không có tiếng nói của bất cứ ai — dù của trung đội trưởng, đại đội trưởng, người chỉ huy — có thể dựng họ dậy. Từ nay trở đi họ không phụ thuộc vào ai nữa, họ nằm trong cỏ trước hào chống tăng, dường như vẫn đang tiếp tục bò lên. Nghe tiếng nổ, Trêchiakov lao xuống, suýt nữa thi xéo phải một người lính bị đất sét phủ nửa người phía dưới. Cuộn dây điện màu xanh của ai đó nằm vắt ngang qua người anh ta.   Khi Trêchiakov cùng với Kưchin bò ra khỏi hào, vừa chạy trên trận địa, vừa rải dây theo, đạn réo gần đến nỗi lúc chạy đầu Trêchiakov lắc lư, như muốn dứt ra khỏi người. Một loạt pháo bất ngờ dội vào cả hai ngưòi. Trong khoảnh khắc nào đó, ngóc đầu khỏi mặt đất, anh trông thấy ở phía trước một đám tuyết đen xém giữa ngày nóng nực. Nó dựng thành bức tường dông bão cuồn cuộn và trên bức tường ấy, đàn bồ câu trắng đang bay lượn, và bỗng nhiên anh nhìn thấy một con chim trúng đạn. Lần đầu tiên trong đời Trêchiakov nhìn thấy điều đó. Chú bồ câu bay tung lên cao hơn đàn chim, quay tròn rồi rơi xuống, trên không trung chỉ còn những chiếc lông rụng từ đôi cánh giang rộng. Thế là cái lạnh tràn qua khắp tim anh: «Hôm nay nó sẽ giết mình!» — Anh chợt nghĩ và tự thấy hoảng sợ, vì đã nghĩ vậy. Và lát sau, anh chồm dậy chạy trên trận địa, tay giữ khẩu tiểu liên. Lính bộ bình khoác áo varơi đang khom người chạy phía trước, bỗng trở nên sáng trắng trước bức thành mây đen ngòm, giống như trên phim ảnh âm bản.   Trêchiakov hụp đầu trong khói súng, khi ngã xuống anh vẫn nghe thấy tiếng đạn cối đang bay xuống thấp. Và cả tiếng rên rỉ của ai đó ở ngav bên cạnh, nghẹn ngào, rên rỉ: «Ôi! Ối Ối! Ối giời ơi! ». Đạn cối nổ dữ đội hơn, Tiếng rên rỉ càng đau đớn hơn. Và còn nghe thấy hai giọng nói gầm lên vội vã: «Này, đã bảo...Đứa đây!». «Đưa cho ngay đấy... đưa ngay đấy….   Mời các bạn đón đọc Mãi Mãi Tuổi Mười Chín của tác giả Grigory Baklanov.
Con Lắc Của Foucault - Umberto Eco
Casaubon, một chuyên gia về các hiệp sĩ dòng Đền thời trung cổ, cùng với Diotalevi và Belbo, hai biên tập viên một nhà xuất bản ở Milan, Ý, nghe kể về một thông điệp được mã hóa nói về một âm mưu bí mật của các hiệp sĩ dòng Đền. Hứng thú bởi câu chuyện, họ liền bịa ra cái họ gọi là “Kế hoạch”, một thứ mà họ nghĩ là hoang đường, một mưu đồ vĩ đại kết nối các hiệp sĩ dòng Đền với nhiều nhóm bí truyền khác ở nhiều quốc gia xuyên qua nhiều thế kỷ với mục tiêu chiếm lĩnh Thế giới! Nhưng rồi, cái âm mưu mà họ nghĩ là sản phẩm hoàn toàn do họ tưởng tượng ra ấy rốt cuộc lại dẫn tới một kết cục đáng sợ trong thế giới thực, một kết cục mà họ không ngờ nổi và không người đọc nào ngờ nổi. Nếu đã say mê Tên của đóa hồng của Umberto Eco bởi sức hấp dẫn lạ kỳ của nó, bạn sẽ khó mà cưỡng được Con lắc Foucault, một cuốn thriller khác cũng “chẳng giống ai” của ông. Có lẽ, Umberto Eco muốn trao cho độc giả một cuốn sách để họ có thể thốt lên sau khi đọc xong: “Tôi đã đi cùng khắp, kiếm sự an bình, rốt cuộc chỉ tìm thấy nó khi ngồi ở một góc phòng với một quyển sách mà thôi.” Lồng trong một cốt truyện trinh thám hấp dẫn về những tội ác khủng khiếp đầy ám ảnh diễn ra trong bóng tối nhà thờ, được dẫn dắt bằng tài kể chuyện siêu việt, trên nền cuốn tiểu thuyết lịch sử uyên bác, đồ sộ và đầy tính biểu tượng, chứa đựng những kiến thức văn hóa, triết học, nghệ thuật và tôn giáo sâu rộng,  Ngay từ khi xuất bản lần đầu vào năm 1980, tiểu thuyết đầu tay của triết gia mỹ học hàn lâm, nhà bác học, nhà lý luận lừng danh thế giới Umberto Eco đã lập tức thành công vang dội, trở thành “cú sốc của tiểu thuyết đương đại”, một “siêu tiểu thuyết” được cả độc giả của văn chương bình dân lẫn bác học đón nhận nồng nhiệt khắp năm châu. *** Nhận định: “Cũng kiệt xuất và khó lường như Tên của đóa hồng, cũng ma mãnh và thông kim bác cổ y như thế… Một màn trình diễn của bậc cao thủ.” - San Francisco Chronicle Chính là để cho các người, những đứa con của học thuyết và tri thức, mà bọn ta viết ra cuốn sách này. Hãy nghiên cứu nó, nghiền ngẫm ý nghĩa mà bọn ta đã gieo ở nhiều chỗ khác nhau rồi tập hợp lại: thứ bọn ta phong kín ở nơi này thì bọn ta lại hé lộ ở nơi khác, để trí tuệ của các người thấu tỏ. − Heinrich Cornelius Agrippa von Nettesheim, De occulta philosophia, 3.65 Dị đoan mang tới vận xui. − Raymond Smullyan, 5000 TCN, 1.3.8 “Lôi cuốn... Câu chuyện công phu của Eco thật tuyệt vời. Ngày giờ trôi đi theo dòng tưởng tượng.” - New York Times “Cuốn truyện của Eco như được hợp lực tạo nên bởi chính Arthur Conan Doyle và Thomas Mann. Một khi đã lật trang thứ nhất, thì nhất định không thể dừng đọc.” - Greensboro News “Tác phẩm tuyệt vời của một học giả biết cách dẫn dắt câu chuyện... Kinh ngạc ... mê đắm ... siêu việt.” - Houston Chronicle “Một loại tiểu thuyết làm đổi thay đầu óc người đọc... dẫn dắt chúng ta bước vào một thế giới kinh viện vừa thiêng liêng vừa đen tối với nhiều Giáo hoàng và những tên phản Chúa...” - Los Angeles Times “Câu chuyện đạo lý sống động về lòng cuồng tín, kinh sách và cuộc truy tầm chân lý...” -  Newsday *** Umberto Eco sinh ngày 5 tháng 1 năm 1932 tại Alessandria, Ý, hiện sống ở Milan. Thiên hướng đã thôi thúc ông làm trái ý cha, từ bỏ khoa Luật, chuyển sang nghiên cứu triết học và văn học Trung Cổ tại Đại học Turin. Trong thời gian này Umberto Eco trải qua một cuộc khủng hoảng đức tin, trở thành người vô thần và từ bỏ Giáo hội Công giáo. Năm 1954, ông bảo vệ luận văn về Thomas xứ Aquino (Nhà thần học Công giáo nổi tiếng nhất thời Trung Cổ), đạt học vị tiến sĩ triết học. Umberto Eco là nhà văn, nhà lý luận, triết gia, nhà ký hiệu học lừng danh – người từng là biên tập viên các chương trình văn hóa của Đài truyền hình quốc gia Ý (RAI), là người viết bình luận của tờ báo lớn nhất nước Ý L’Espresso, là giáo sư ký hiệu học của Đại học Bologne, dạy mỹ học và văn hóa học tại các trường đại học Milan, Florence, Turin, tiến sĩ danh dự của nhiều trường đại học nước ngoài. Tờ Los Angeles Times đánh giá ông là "một trong những nhà tư tưởng có ảnh hưởng lớn nhất trong thời đại của chúng ta." Những tiểu thuyết đã vinh danh cho tên tuổi của ông: Tên của đóa hồng (Il nome della rosa-1980); Quả lắc của Foucault (Il pendolo di Foucault - 1988); Hòn đảo ngày xưa (L'isola del giorno prima - 1994); Baudolino(2000); Ngọn lửa bí ẩn của nữ hoàng Loana (La misteriosa fiamma della regina Loana - 2004); Nghĩa địa Praha (Il cimitero di Praga - 2010); ...   Mời các bạn đón đọc Con Lắc Của Foucault của tác giả Umberto Eco.
Và Thế Là Chúng Ta Tiêu - Joshua Ferris
Tại sao, tại sao nhắc đến dân văn phòng lại có người tưởng tượng đến một chàng trai hay cô gái có khuôn mặt rạng ngời, ngày tám tiếng trong phòng điều hoà mát rượi, sếp quý đồng nghiệp yêu, tháng tháng nhận lương bảy số không, đời lúc nào cũng rặt một màu hồng? Ảo tưởng, quá ảo tưởng ! Không biết ngồi lê đôi mách, không biết làm việc riêng trong giờ? Không vài lần bị sếp đập bàn mắng mỏ? Không bao giờ thấp thỏm lương bị trừ, phụ cấp giảm? Chưa từng lo lắng bị đồng nghiệp cười trước mặt đá sau lưng? Chẳng biết thế nào là nỗi hoang mang trong thời khủng hoảng kinh tế? Thế thì sao dám vỗ ngực tự xưng ta là dân văn phòng? Thôi thôi, nhìn thử vào Và thế là chúng ta tiêu đi, đời sống bi hài thăng trầm khúc khuỷu của dân văn phòng đấy. *** Joshua Ferris sinh năm 1974, tốt nghiệp cử nhân Văn chương và Triết học tại Đại học Iowa. Anh từng theo học khóa Viết Sáng tạo tại Đại học California ở Irvine. Và thế là chúng ta tiêu là tiểu thuyết đầu tay của anh. Cuốn sách đã được dịch ra 24 thứ tiếng đồng thời giành nhiều giải thưởng văn học trong đó có giải PEN/Hemingway. Hiện Ferris đang sống tại New York, Mỹ.   Cuốn sách Và Thế Là Chúng Ta Tiêu đã mang lại cho Joshua Ferris giải PEN/Hemingway, khiến anh được so sánh với Joseph Heller của Catch 22, đưa anh trở thành tác giả bestseller quốc tế, và trên hết thảy, lấy cho dân văn phòng một chỗ đứng nữa trong tiểu thuyết đương thời. *** Nhận định về tác phẩm: “Cái nhìn thoáng qua tưởng như một tiểu thuyết châm biếm về văn hóa chốn công sở, khi nhìn kỹ hơn, hóa ra lại là một tiểu thuyết rất nghiêm túc về chính nước Mỹ. Thậm chí, theo cách khiêm nhường của nó, một tiểu thuyết Mỹ vĩ đại.”  - Los Angeles Times       “Một tiểu thuyết xúc động đích thực về công việc, niềm tin, tình yêu và nỗi cô đơn.”  - Michael Upchurch, Seattle Times       “Ferris đã nắm bắt được, một cách xuất sắc, cái tù túng của cuộc sống văn phòng đương đại.”  - The New Yorker   Mời các bạn đón đọc Và Thế Là Chúng Ta Tiêu của tác giả Joshua Ferris.
Truyện Kể Genji - Murasaki Shikibu
Truyện kể Genji (源氏物語), là một trường thiên tiểu thuyết của nữ sĩ cung đình Nhật Bản có biệt danh là Murasaki Shikibu sống dưới trướng của thứ phi Akiko trong cung Fujitsubo, triều đại Thiên hoàng Nhất Điều (986-1011), không rõ tên thật của bà là gì. Truyện được sáng tác vào khoảng những năm 1010 thời đại Heian bằng chữ viết kana, theo thể loại monogatari (truyện) cổ điển đã có lịch sử phát triển từ 200 năm trước đó của Nhật Bản. Xoay quanh hình tượng nhân vật hoàng tử Genji trong phần chính và Kaoru, người con trai trên danh nghĩa của Genji trong phần thập thiếp cùng mối quan hệ của họ với những người phụ nữ, tác phẩm gồm 54 chương, thuộc một trong những truyện rất lớn về dung lượng, rất phức tạp về nội dung và rất quyến rũ về mặt hình thức trong lịch sử văn học thế giới. Trở thành một hiện tượng có một không hai đối với văn học nhân loại vào thời kỳ trung cổ tiền Phục Hưng: về mặt lịch sử truyện được đánh giá là tiểu thuyết theo nghĩa hiện đại đầu tiên của nhân loại, sớm hơn rất nhiều so với sự ra đời của tiểu thuyết ở châu Âu với tác phẩm Đôn Kihôtê của Miguel de Cervantes vào thế kỷ 16 *** Murasaki Shikibu (Kana: むらさきしきぶ; Kanji: 紫式部, Hán Việt: Tử Thức Bộ; 978 - 1016) là biệt hiệu của một nữ văn sĩ cung đình thời Heian Nhật Bản, tác giả của cuốn tiểu thuyết theo nghĩa hiện đại đầu tiên của nhân loại, kiệt tác Truyện kể Genji, được viết bằng tiếng Nhật vào khoảng năm 1000 đến 1012. Cái tên Murasaki Shikibu chỉ là biệt hiệu của bà, không ai biết rõ tên thật của bà là gì và bà sinh ra ở đâu, chỉ biết bà thuộc dòng dõi dòng họ Fujiwara và mất tại Tokyo, tuy một địa điểm tham quan phía Bắc Kyoto hiện nay được coi như mộ của bà. Murasaki Shikibu thuộc cành thứ của dòng họ lớn đang trị vì đất nước là họ Fujiwara. Thành viên của gia tộc này làm chức nhiếp chính thay cho các Thiên hoàng trong suốt phần lớn thời Heian, cùng tổ phụ về phía họ nội 6 thế hệ trước đó với Fujiwara Michinaga, quan đại chưởng ấn điều khiển việc nước trong buổi đầu thế kỷ 11. Tuy nhiên khi Murasaki Shikibu mới ra đời chi họ của bà bị tụt xuống hạng thứ trong giới quý tộc cung đình. Cha bà, ông Fujiwara no Tametoki (藤原為時) chỉ là một nhà thơ, người có địa vị khiêm nhường ở thủ đô và đã 2 lần làm tỉnh trưởng tỉnh Echizen. Không ai biết gì nhiều về thời thơ ấu của Murasaki Shikibu ngoài những điều bà tự nói với chúng ta. Trong lời mào đầu nổi tiếng của cuốn Nhật ký Murasaki Shikibu (Murasaki Shikibu nikki) mô tả các biến cố triều đình từ cuối 1008 đến đầu 1010 cho chúng ta biết cha bà, thấy con gái có khả năng trong việc học hành, đã than phiền bà không sinh ra là con trai. Cha bà trở thành tỉnh trưởng Echizen ở duyên hải Biển Nhật Bản, phía bắc Tokyo, vào năm 990 và bà đã đi theo cha đến nơi nhậm chức cho đến khi lấy chồng thì trở về. Murasaki vào triều hầu hạ thứ phi Akiko, con gái của Michinaga, trong cung điện Fujitsubo thời Thiên hoàng Ichijō (986-1011) trong khoảng giữa thập niên đầu của thế kỷ 11. Cuốn Nhật ký Murasaki Shikibu của Murasaki có nhắc đến sự ra đời của hai người con trai hoàng hậu và cả hai hoàng tử sau đó đều trở thành vua. Trong nhật ký của mình Murasaki cho biết bà vào triều ngày 29 tháng 12 âm lịch nhưng không cho biết năm, có thể là năm âm lịch 1005 và/hoặc 1006. Hoàng hậu Akiko góa chồng năm 1011, khi Thiên hoàng Ichijo băng hà, và Murasaki Shikibu còn ở lại trong cung phục vụ hai năm tiếp theo. Chịu sự giáo dục chu đáo, tỉ mỉ của một phụ nữ trẻ cùng tầng lớp trong cung, và mặc dầu có một trí tuệ khác thường, Murasaki Shikibu đã phải tiếp thu một cách chậm chạp nhưng chắc chắn tất cả những kiến thức văn hóa rộng lớn đương thời mà người thiếu phụ này truyền cho, từ lịch sử Trung Hoa, thơ ca trữ tình Trung Hoa và Nhật Bản cho đến các trước tác triết học Khổng giáo và Phật giáo. Về truyện hư cấu bằng văn xuôi, bà cũng chỉ biết không nhiều hơn là những trước tác buổi đầu của chính người Nhật Bản vào thế kỷ 10 và ngay cả văn xuôi trong văn học Trung Hoa đương thời, vốn không phải là loại hình được người Trung Hoa ca ngợi hay thành thạo vào thời đó. Murasaki Shikibu lấy chồng khoảng năm 998 hoặc năm 999, chồng là một người bà con xa với bà. Có lý do để tin rằng, so với thời bấy giờ bà lấy chồng khá muộn, có lẽ vào tuổi 20. Bà sinh được một con gái vào năm 999 và góa bụa vào năm 1001. Chịu nhiều đau khổ sâu sắc trong đời tư nên Murasaki Shikibu đã sớm rút lui khỏi thế giới trần tục và dồn sinh lực của đời mình vào việc học tập cũng như sáng tạo nghệ thuật. Bà đã đạt được những thành tích xuất sắc trong âm nhạc, thơ, hội họa, và đặc biệt là cuốn tiểu thuyết nổi tiếng Truyện kể Genji 54 chương, viết xong vào khoảng năm 1004, một kiệt tác đứng vào hàng lớn nhất của văn xuôi cổ điển Nhật Bản cũng như văn xuôi nhân loại. *** KIRITSUBO Dưới triều của một vị vua không rõ thời nào, trong số rất nhiều thứ phi và cung nữ, có một người tuy không thuộc dòng dõi quý tộc có đẳng cấp cao nhưng lại được nhà vua hết mực yêu chiều. Ngay từ đầu, nàng đã bị những người có địa vị cao và tự đắc về thân thế của mình ganh ghét, cho là vô lễ. Những người ngang bằng hoặc thấp hơn nàng về địa vị thậm chí còn khó chịu với nàng hơn. Ngày ngày, khi phụng sự nhà vua trong cung, nàng đã làm cho những người khác bực mình vì ghen tỵ. Và có lẽ vì những hờn giận ấy chồng chất quá nhiều nên sức khỏe của nàng cứ yếu dần. Nàng cảm thấy buồn phiền, cô đơn và hay trở về quê. Nhà vua lại càng thấy tội nghiệp cho nàng, không để tâm đến những lời đàm tiếu xung quanh. Tình cảm của nhà vua dành cho nàng trở thành một đề tài đàm tiếu quen thuộc của người đời. Tình yêu ấy khiến cho cả các vị quan lớn trong triều cũng cảm thấy bất ổn và cứ ngoảnh đi không muốn nhìn trực tiếp. Ở Trung Quốc thời Đường cũng xảy ra một chuyện như thế đã làm cho tình hình xã hội xấu đi dẫn đến loạn lạc. Dần dà, người đời cũng cho rằng đây là chuyện không hay và đem ví với chuyện nàng Dương Quý Phi với vua nhà Đường. Nàng cung phi ấy rất đau khổ nhưng vẫn sống nhờ vào tình cảm cao quý hiếm có mà nhà vua dành riêng cho nàng. Bố nàng là quan Dainagon nhưng đã qua đời. Mẹ nàng - được gọi là phu nhân sống ở cung phía Bắc - là một người nệ cổ và có hiểu biết. Nàng được bố mẹ dạy dỗ để có thể đảm đương mọi chuyện lễ nghĩa trong cung đình không kém gì những người được xã hội đương thời trọng vọng nhưng nếu có chuyện gì thì vẫn thiếu người hậu thuẫn, nên không khỏi cảm thấy cô đơn vì thiếu nơi nương tựa mỗi khi có chuyện bất ngờ. Có lẽ vì duyên nợ sâu nặng từ tiền kiếp, nàng cung phi Kiritsubo đã sinh hạ một hoàng nam có vẻ đẹp rực rỡ lạ thường và trong sáng như một viên ngọc quý. Nhà vua rất nóng lòng mong được gặp con nên khi vừa hết thời gian ở cữ là ngài vội vã mời cung phi và hoàng tử về cung. Trông thấy hoàng tử lúc ấy mới là một đứa trẻ sơ sinh, nhà vua đã nhận thấy con mình có khí sắc phi thường. Hoàng tử thứ nhất của nhà vua là con của hoàng phi con gái quan Hữu đại thần, có thế lực hậu thuẫn rất tốt tại triều đình và theo sự ngưỡng vọng của dân tình lúc đó thì "chuyện chàng được kế thừa ngôi vua không còn gì có thể nghi ngờ nữa". Nhưng hoàng tử mới ra đời lại có vẻ đẹp không ai sánh bằng. Vì thế nhà vua vẫn hết lòng yêu quý hoàng tử thứ nhất như một người con bình thường, còn với hoàng tử mới sinh thì ngài dành cho một tình yêu vô hạn và nâng niu như một báu vật của riêng mình. Mẹ của chàng hoàng tử vốn không phải thuộc loại cung nữ tầm thường chỉ chuyên làm công việc hầu hạ. Mọi người đều biết rằng nàng được nhà vua hết mực yêu thương và cũng có địa vị khá cao trong cung đình. Nhà vua lúc nào cũng muốn giữ nàng bên cạnh. Bất cứ cuộc vui tao nhã nào trong cung, nhà vua cũng cho gọi nàng trước hết. Cũng có lúc nhà vua qua đêm với nàng, và hôm sau lại tiếp tục giữ nàng ở lại không cho về, nên tất nhiên nàng bị những người khác coi thường, cho là loại người thiếu ý tứ và hời hợt. Sau khi nàng sinh hạ hoàng nam thì tình yêu thương của nhà vua đối với nàng càng sâu đậm hơn bao giờ hết. Vì vậy mẹ của hoàng tử thứ nhất cũng lo lắng nghĩ rằng "biết đâu hoàng tử nhỏ này chiếm được vị trí đông cung". Hoàng phi này vào cung sớm nhất và cũng được nhà vua rất yêu thương, quý trọng. Nàng cũng đã sinh cho nhà vua hoàng tử và các công chúa nhưng đôi khi những điều nàng hay phàn nàn không khỏi làm cho nhà vua cảm thấy "phiền toái, buồn lòng". ... Mời các bạn đón đọc Truyện Kể Genji của tác giả Murasaki Shikibu.