Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Nhà Chử

Tái hiện truyền thuyết Chử Đồng Tử - Tiên Dung. Câu chuyện dân gian về chàng trai nghèo Đồng Tử và cuộc gặp gỡ định mệnh trên bãi Tự Nhiên với nàng công chúa con Vua Hùng được kể lại sinh động và nhiều cảm xúc. *** Tô Hoài (tên khai sinh: Nguyễn Sen; 27 tháng 9 năm 1920 – 6 tháng 7 năm 2014) là một nhà văn Việt Nam. Một số tác phẩm đề tài thiếu nhi của ông được dịch ra ngoại ngữ. Ông được nhà nước Việt Nam trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học - Nghệ thuật Đợt 1 (1996) cho các tác phẩm: Xóm giếng, Nhà nghèo, O chuột, Dế mèn phiêu lưu ký, Núi Cứu quốc, Truyện Tây Bắc, Mười năm, Xuống làng, Vỡ tỉnh, Tào lường, Họ Giàng ở Phìn Sa, Miền Tây, Vợ chồng A Phủ, Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ.   Tô Hoài sinh ra tại quê nội ở thôn Cát Động, Thị trấn Kim Bài, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông cũ trong một gia đình thợ thủ công. Tuy nhiên, ông lớn lên ở quê ngoại là làng Nghĩa Đô, huyện Từ Liêm, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông (nay thuộc phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam. Bút danh Tô Hoài gắn với hai địa danh: sông Tô Lịch và phủ Hoài Đức. Bước vào tuổi thanh niên, ông đã phải làm nhiều công việc để kiếm sống như dạy trẻ, bán hàng, kế toán hiệu buôn,… nhưng có những lúc thất nghiệp. Khi đến với văn chương, ông nhanh chóng được người đọc chú ý, nhất là qua truyện Dế Mèn phiêu lưu ký. Năm 1943, Tô Hoài gia nhập Hội Văn hóa cứu quốc. Trong chiến tranh Đông Dương, ông chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực báo chí, nhưng vẫn có một số thành tựu quan trọng như Truyện Tây Bắc. Từ năm 1954 trở đi, ông có điều kiện tập trung vào sáng tác. Tính đến nay, sau hơn sáu mươi năm lao động nghệ thuật, ông đã có hơn 100 tác phẩm thuộc nhiều thể loại khác nhau: truyện ngắn, truyện dài kỳ, hồi ký, kịch bản phim, tiểu luận và kinh nghiệm sáng tác. Ông mất ngày 6 tháng 7 năm 2014 tại Hà Nội, hưởng thọ 94 tuổi. *** Chiếc độc mộc cứ trùi trũi truồi xuôi. Nhập nhoạng tối, về đến một quãng sông êm ả. Chử nằm ngủ, ghếch đầu lên mạn thuyền. Suốt đêm ấy đẫy giấc. Đã qua những vùng lủa tủa đá lẫn với sóng. Không cần phải thấp thỏm đâm vào đá thác. Bỗng nhiên, đương hây hẩy gió may, chuyển ra gió giật. Giữa ban ngày, nổi bão cạn. Trời tạnh mây mà đùng đùng, ù ù như sấm rền. Hai bên sông, gió hung hăng bốc bay từng mảng rừng. Dòng nước đương miên man, chợt nổi từng con sóng úp, sóng ngửa cao bằng đầu, rồi xoáy sâu xuống sâu tròn lông lốc. Thuyền quay veo veo như chiếc lá tre được gió. Chử nhỏm dậy. Lật đật, chân chèo, chân lái, chân đốc, chân mũi. Không lại. Cái độc mộc như cây gỗ lăn xoay chong chóng. Chử đành nằm bám sạp thuyền, mà vẫn lúc lắc, điên đạo. Bụng xoắn lại, nảy đom đóm mắt. Bão cạn ba hôm liền. Rồi lại chui vào một vùng trời nước phẳng lặng như không. Ngày ngày ròng rã, ngẩng mặt lên, chỉ thấy xa xa một khoảng đất lở cách quãng viền cây xanh mờ. Chử đoán đất dễ thường là bến. Chử tạt độc mộc vào. Cái bến vắng chơ vơ không có cả đến một đàn le le hay lặn hụp bắt cá măng quanh thuyền quanh lưới ở những quãng thường có người lội. Mấy nhà chài đương co ro đẩy mảng vào trong đồng xa. Chử gọi lại hỏi mới biết từ dạo vỡ nước, cả bến đã chạy vào chân núi. Nhưng cũng hỏi thăm được. - Đã đến bến Tự Nhiên chưa, chư ông ơi? - Ở đây cũng chỉ mang máng nghe có người nói cứ xuôi đến hôm nào gặp vòng trăng tròn, hẵng hỏi thăm nữa. Còn xa. Chử lại lặn lội trên dòng sông quằn quại đỏ xuộm. Có hôm thuyền va phải xoáy trôi vào vùng nước quẩn. Sóng múa lên bốn phía, đánh thuyền lật mai. Chử tuồi xuống nước, ngoi theo thuyền. Rồi tay chân quặp bụng thuyền, như ôm cây gỗ. Mặc cho sóng dìm xuống, nhồi lên. Người và con thuyền chìm nổi quanh những làn sóng bầm đỏ, dài dằng dặc. Chẳng còn thấy bờ phía nào. Không đạp ra khỏi được lớp sóng quẩn. Không nhìn đâu ra có cái ăn. Chợt thấy lao xao, bàng bạc như cá đàn lượn qua. Rồi sóng lại oà đi. Đấy là những cánh sóng chen nhau, không phải cá. Chử buộc chão ngang lưng rồi lặn xuống. Hoạ may đáy sông tĩnh mịch, có con ốc nhồi, ốc tai voi... Nhưng cũng chỉ thấy bóng nước vàng mờ trong mắt. Cánh bãi ngập nước, những dây rợ cây hẹ nước, đám ngổ cạn, búi cói hoa mới chìm xuống, cá không vào đến đây. Mà giả thử có lạc loài bọn cá nào đến tìm ăn, thì những con lềnh đềnh to bằng chiếc thúng úp trắng bạch trên mặt nước, đôi mỏ dài như cặp đũa cả chăm chắm chúc xuống rình khua khoắng, không một nhách cá thoát nổi. Chử lại phải ngoi lên, lật mai, bò vào lòng thuyền, ngồi thở hồng hộc. Một lúc sau mới thuần mắt, nhìn ra. Nước lên đã ngập tận chân núi trước kia. Khác hẳn trên ngược, dòng chảy rúc vào gờ đá, mất hút vào đá, ở đây chỉ thấy mênh mang. Những con nước đuổi nhau, đè lên nhau, như những đàn ngựa, đàn voi đỏ thẫm chồm dựng đứng. Chử định thần nhìn kỹ bờ núi. Nhưng bơi vào, xa quá. Biết đâu chẳng lạc sang dòng khác. Những con nước đã tràn khắp nơi, nhoà hết các ngả sông, cửa sông rồi. Có chắc được phía nước cờn kia là triền sông Cái? Mà phải ra sông Cái, phải bám được sông Cái mới khỏi lạc. Cho đến hôm nào thấy được trăng lên. Chử định thần nhìn kỹ bờ núi. Nhưng bơi vào, xa quá. Biết đâu chẳng lạc sang dòng khác. Những con nước đã tràn khắp nơi, nhoà hết các ngả sông, cửa sông rồi. Có chắc được phía nước cờn kia là triền sông Cái? Mà phải ra sông Cái, phải bám được sông Cái mới khỏi lạc. Cho đến hôm nào thấy được trăng lên. Cái thuyền chỉ còn là cây gỗ trôi sông, thỉnh thoảng Chử thò tay ra đẩy tránh ngọn sóng. Đôi khi, chợt thoáng thấy một con vờ, một con cá lành canh, Chử quơ nắm lấy, đưa lên miệng nhai cho đỡ đói lòng. Chẳng còn biết kén chọn cá mú thế nào. Có lúc vớ nhầm, nuốt vội cả đám bọt rêu rễ cây sam nước. Thình lình, một ngọn sóng ập xuống. Chiếc độc mộc ngược lên ngang lưng sông rồi đổ xuống. Nhưng Chử đã biết quấn chão quanh bụng người, bụng thuyền từ hôm xuống đợt thác đầu tiên. Độc mộc lại úp mai xuống. Sóng phá dữ quá, không lật lên được. Chử đành lại ngâm mình trong nước, toài hai chân ếch, nhào ra. Cả người và chiếc độc mộc hũm xuống, lọt thỏm vào xoáy lũ mới. Có đến mấy ngày đêm mới trở ra được dòng cả. Sóng không lôi độc mộc trôi quanh nữa, mà người và thuyền vừa chạm vào mép sóng, đã bị nước xiết cuốn vun vút. Nước vẫn đương lên ào ạt, chẳng trông thấy bờ bến nào hai bên. Suốt đêm, Chử bơi bám thuyền, mắt mở căng. Giữa dòng bao la, có mỗi một con người và một cây gỗ. Nếu như nước thong dong bình thường, Chử chỉ việc làm như mọi khi. Lật cái độc mộc lại, chúm tay tát nước ra, lòng thuyền đã khô ráo cho người ngồi. Nhưng con nước đương hung hăng. Chử và cái độc mộc đành úp sấp, lăn lộn trong dòng nước lớn. Người bám vào cây gỗ rỗng, như con nhái bén, lao lên lao xuống. Trông ra trước mặt, cả sau lưng, cả hai bên mông mênh. Nhưng, như thế, Chử lại vẫn yên tâm. Dòng chảy xiết, cá sấu không thể đuổi theo. Giả thử có đánh hơi được mùi người cũng không làm gì nổi. Nhưng còn con giải, con thuồng luồng - những giống trăn nước ấy không sợ sóng, toài nhanh hơn sóng. Không thể trằm mình dưới nước mãi, để làm mồi cho giải, cho thuồng luồng. Ngồi trong độc mộc, Chử có thể rút dao lưng ra đâm thủng đầu cả thuồng luồng, cả giải. Lội trong nước thế này, vướng víu như chân tay phải trói, không đối phó được. Nhưng mà cơn nước đương triền miên lên, cũng không biết ra sao. Chử trông quanh quất, rồi lôi độc mộc rẽ sóng tạt về một bên. Đến chỗ nước phẳng, sóng lớn chưa xô tới, Chử đội độc mộc lên rồi lật ngược, với tay té ù nước ra, nhảy vào thuyền. Mặt trời lên đóng giữa đỉnh đầu, trông thấy một vệt xanh xanh bên mép nước trước mặt. Chử khoả hai tay, cắm cúi bơi dấn về phía ấy. Nhược lắm rồi. Cứ lên bờ ẩn, đợi cho cơn nước nguôi rồi mới lại tính chuyện đi nữa được. Mà phải kiếm ra cái ăn. Vào nơi ẩm thấp cũng dễ kiếm. Ở bùn, có ếch, có chạch, có ốc hương, có trai. Trong bụi cây niễng có rắn hổ mang, hổ lục, hổ bành - những thứ ấy đều ăn ngon. Chỉ ngại nơi đầm lầy cá sấu thường ra núp rình mồi dưới bùn, khó nhìn ra. Nhưng Chử đã có con dao vẫn giắt trên vành dây khố. Phải, nghỉ cái đã. Hôm nào nước lặng, hẵng đi, đi cho đến hôm nào gặp trăng lên. Ồ mà quên hôm trước không hỏi kỹ người bến trên. Một vòng trăng hay mấy vòng trăng. ° ° ° Bến Tự Nhiên! Bến Tự Nhiên! Bến Tự Nhiên ở đâu? Những ngày còn lên năm, lên bảy, bố mẹ thường kể chuyện về bến quê. Chử mơ màng tưởng cái bến Tự Nhiên ở trên khoảng trời cao xanh, chỗ bóng gốc cây đa giữa mặt trăng. Đến năm mười ba, mười lăm, trong câu chuyện về bến Tự Nhiên của bố mẹ, Chử nhìn thấy một vùng sông bãi, phía nào cũng đông đúc đêm ngày thuyền bè vào bến ra bến, trên bờ đợt đợt nhấp nhô những mô cát vàng lẫn phù sa trắng hồng. Xa nữa, xanh rờn bãi ngô, bãi khoai lang, củ từ, những bãi lúa và những bụi chuối ken khít thành rừng. Vào mùa chuối chín, chim các nơi bay về liền cánh, rợp cả trời bến. Những đàn gấu, đàn voi trong rừng sâu lũ lượt kéo ra bẻ chuối. Rồi Chử lại nghe lời bố mẹ tha thiết: - Con ạ, ông con vẫn ở bến Tự Nhiên dưới kia. Chử hỏi: - Ông ở bến quê với ai? - Ông ở một mình. Chử chưa bao giờ được gặp ông, lại tưởng tượng ra như đã nhìn thấy ông. Tóc ông Chử bạc xoá, lơ thơ trên hai vai lực lưỡng. Mặt ông Chử đỏ bồ quân. Ông Chử vác cỗ lưới đay. Ông Chử xách chiếc bê chèo, bước xuống thuyền. Con thuyền đánh cá rời bến, thả ra giữa trời nước lồng lộng. Gió bay, râu tóc ông Chử càng trắng phơ. Bố Chử nói: - Ngày trước, cả nhà ta đều ở bến dưới ấy. Đời con người trên sông nước, mặt trời mọc ở một nơi, đến lúc mặt trời lặn đã lại đổi bến khác, lại khi sớm tối chống sào đẩy thuyền đi thì sao đã đổi ánh. Nhọc nhằn thế chỉ vì cả đời đuổi theo con cá, con mú, không lúc nào ở yên, mà vẫn chưa biết đến chỗ nào cùng. Nhưng ông nói: có khó nhọc mới biết bay nhảy, thế mới là đời người, các con ạ. Bố trò chuyện với mẹ: mới sinh ra đã đi đường nước rồi, song vẫn chưa tường dòng chảy này có bao nhiêu ngọn nguồn đổ vào nhau thành sông Cái, con sông Cái từ đâu đến đây. Ờ nhỉ, phải rồi, dẫu cho trong thế gian có nơi nước dữ nước hiền khác nhau, nhưng nơi nào cũng có cá, có tôm, chúng mình hãy đi dò xem cho biết tận gốc con nước này. Mẹ tần ngần nhìn ra cửa bến, rồi nói: vợ chồng ta hãy đi hỏi ông. Mời các bạn đón đọc Nhà Chử của tác giả Tô Hoài.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Lửa Hận - Jessica Hall
Một bi kịch của sự ghen ghét, hận thù, danh vọng đã khiến một người đàn bà trở thành kẻ đánh mất nhân tính, đẩy đưa bao số phận vào chốn hiểm nguy, mạng sống như ngàn cân treo sợi tóc. Với ngòi bút sắc bén, đôi khi có phần cay đắng, trần tục, Jessica Hall đã vén lên một bức màn cuộc sống đầy rẫy tội ác, hận thù và cả sự phân biệt sang hèn, giai cấp... Thế nhưng, ẩn sâu trong đáy trần tục ấy, vẫn lóe lên một tia sáng bất biến chiếu rọi mọi tâm hồn, đó chính là tình yêu thương, lòng bao dung độ lượng và niềm khát khao hạnh phúc. *** M ẹ anh đã có lời mời cả hai người đến dự Lễ hội Trắng Đen, và rất mừng là Sable đã vui lòng đón nhận lời mời thân mật ấy. “Chắc chắn. Ba anh đã hứa sẽ khiêu vũ với em mà, ông ấy nói còn đi bản vanxơ đẹp hơn anh nữa kia”. Nàng cầm tay anh và ngắm nhìn bộ đồ dạ vũ của anh. “Anh đâu thể sở hữu em nguyên cả buổi tối, phải không, ngài điệp viên 007 Jame Bond?” Anh bật cười và đưa nàng ra thang máy. Sau vụ tấn công cố sát cuối cùng của bà Laure, Jean-Del những muốn giữ cho Sable tránh xa báo chí nhưng nàng vẫn một mực muốn đối diện với giới truyền thông để làm rõ ngọn ngành những chuyện vừa qua. Họ hàng nhà Gamble và cộng đồng Cajun lần lượt vây lấy nàng, và giờ đây phần lớn bạn bè của Marc cùng các hội đoàn đều cam kết hỗ trợ cho các dự án cộng đồng Cajun của Sable. Sable vui mừng về sự hỗ trợ đó nhưng không mấy quan tâm đến sự chú ý dành cho nàng. “Em mang trong mình dòng máu của LeClare”. Nàng nói với Jean-Del. “Nhưng không nhập mình vào với xã hội ấy. Em vẫn là một người Cajun và em mãi mãi tự hào về điều đó”. Lễ hội lên đến đỉnh điểm khi họ về đến nhà Gamble và được đích thân bà Elizabet ra đón tận cửa. “Mẹ bắt đầu lo lắng rồi đấy”. Bà nói khi hôn lên má Jean-Del rồi quay sang ngắm Sable. “Xem nào, cháu sắm bộ áo váy này ở đâu vậy?” Nàng nhìn lại mình. “Cháu mua nó ở một quầy hàng mới tại Metairie và nghĩ nó hợp cho buổi tối hôm nay”. ... Mời các bạn đón đọc Lửa Hận của tác giả Jessica Hall.
Lễ Diễu Hành Phục Sinh - Richard Yates
Ai cũng có thể là một phóng viên hào nhoáng và vô trách nhiệm hoặc đơn thuần là một người sửa bài cần mẫn, nhưng đây lại là một người viết tiêu đề, biên tập bản thảo! Người mà phải đọc tất cả những tin tức phức tạp hàng ngày để lựa chọn ra những ý chính và tóm tắt lại bằng những từ đắt ý, khéo léo sắp xếp vừa vặn trong một chỗ trống có giới hạn - ông là một nhà báo tuyệt vời và là một người cha xứng đáng với danh tiếng của mình. Và người phụ nữ ấy: nhỏ bé, năng động, có một cuộc sống dường như gắn liền với giá trị không tưởng mà bà cho là “nhạy bén”. Bà mải mê với tạp chí thời trang, với việc ăn mặc có thẩm mỹ và đã nhiều lần cố gắng chỉnh lại mái tóc của mình, nhưng không thể giấu nổi đôi mắt hoang mang và thật sự, chưa bao giờ bà biết cách tô son trên môi của mình - một đôi môi luôn thể hiện dáng vẻ của sự thiếu kiên định đến mức độ đáng kinh ngạc và đầy yếu đuối. Hai người, đã từng yêu nhau say đắm, và hơn thế, họ từng là vợ chồng. Họ có hai cô con gái vô cùng xinh xắn, đáng yêu: Sarah và Emily. Tuy nhiên, không một ai trong hai chị em đó có được cuộc sống hạnh phúc, và nhìn lại thì dường như mọi bất hạnh đều bắt đầu từ việc ly dị của cha mẹ họ. Là nạn nhân của một cuộc hôn nhân tan vỡ, Sarah và Emily như hai cây non phải nương tựa, che chở cho nhau qua giông bão cuộc đời. Hai cô gái sớm bước vào thế giới tình yêu, như một người dạn dày, từng trải. Chính Sarah là người cho Emily biết kiến thức đầu đời về tình dục, khi chúng đang ăn kem que và đùa cợt với nhau quanh cái võng bị đứt ở sân sau nhà chúng ở Larchmont, New York. Emily lắng nghe đầu óc cô bé đầy những suy nghĩ băn khoăn và xáo trộn. Sẽ thế nào, khi mà Sarah được giao nhiệm vụ tham gia diễu hành trong ngày lễ Phục sinh, để một nhiếp ảnh gia chụp từ văn phòng quan hệ cộng đồng. Trông cô thật đáng yêu, có thể nói, chưa khi nào trông cô lại đáng yêu đến thế, khi vận chiếc váy đắt tiền bằng lụa dày - mốt dành cho những quý bà Trung Quốc trước chiến tranh, và đội một chiếc mũ rộng vành dệt bằng rơm. Cô sánh bước cùng Tony - chàng “hoàng tử” luôn đem đến những điều “tuyệt vời”. Cả hai cười với nhau rất lãng mạn trong cái nắng tháng Tư, tạo nên một bức ảnh ấn tượng đăng trên bản tin Chủ nhật của tờ Thời báo New York. Bức ảnh ấy còn được đóng khung treo trên tường và có giá trị mãi mãi. “Lễ diễu hành Phục sinh” là sự hồi sinh của nhà văn Mỹ Richard Yates và ông được đánh giá là một nhà văn lớn. Đây là một tác phẩm văn xuôi duyên dáng và thể hiện được chiều sâu của bi kịch. *** Đọc tiểu thuyết “Cuộc diễu hành phục sinh” của nhà văn Richard Yates, tôi cứ thấy có một đôi mắt u buồn, đau đáu, đắng đót đằng sau mỗi thân phận con người.  Ngập tràn trong cuốn tiểu thuyết là những cuộc làm tình chớp nhoáng, nóng bỏng nhưng phía sau ấy vẫn cháy lên những khao khát nào lớn hơn nhu cầu xác thịt. Richard Yates đã tung ra hai cuộc đời tương phản. Một bên là cuộc đời tự do của Emily với những cuộc làm tình, với rượu mạnh và những kì nghỉ dài bất tận. Một bên là cuộc đời nhạt nhẽo, buồn tẻ của người chị Sarah gắn liền với hôn nhân, với bạo lực, với cô độc và những vùng vẫy khao khát trong sự bất lực đến tuyệt vọng. Những thân phận con người trong tiểu thuyết “Cuộc diễu hành phục sinh” được nhà văn Richard Yates móc nối với nhau bằng hôn nhân, sex, rượu mạnh và nỗi cô đơn bất hạnh triền miên của con người.  Richard Yates không cần tạo ra sức hấp dẫn trong tiểu thuyết của mình bằng cách khai thác những sự kiện xã hội, những biến cố lịch sử vĩ đại. Thực tế cho thấy, ngay từ thiên tiểu thuyết đầu tiên danh tiếng “Con đường Cách mạng” của mình cho đến thiên tiểu thuyết “Cuộc diễu hành phục sinh”, ông là nhà văn có biệt tài đào sâu vào tận cùng nỗi đau thân phận. Cả cuốn tiểu thuyết chỉ xoay quanh cuộc đời của ba nhân vật chính, ba mẹ con nhà Grimes: Pookie, Emily và Sarah.  Những con người bình thường nhất, thậm chí là thấp kém nhất trong xã hội Mỹ qua ngòi bút của nhà văn Richard Yates đã trở thành biểu tượng đời sống tinh thần với nỗi tuyệt vọng triền miên kéo dài trong lịch sử nước Mỹ.  Richard Yates đã quăng nhân vật của mình vào cơn bão khốc liệt và rồi dang tay đón những “đứa con” mang trên thân thể mình đầy những thương tích bầm giập ở bên kia. Nhà văn chấp nhận hiện thực xã hội nghiệt ngã của nước Mỹ, chính vì thế, chỉ bằng thân phận ba người phụ nữ bất hạnh, ông đã khái quát cả một bức tranh rộng lớn về lịch sử đời sống nước Mỹ.  Độc giả Việt Nam sẽ có cơ hội để nhìn khác hơn về xã hội Mỹ những năm chiến tranh Việt Nam qua thiên tiểu thuyết này. Ở đó là một cuộc sống lặng lẽ, buồn tẻ và nhạt nhẽo. Bao người vùng vẫy trong một cuộc sống không lý tưởng với những nỗi cô đơn, bế tắc và tuyệt vọng. Chúng ta sẽ cảm nhận được sự ngây thơ của nhiều thanh niên Mỹ về chiến tranh ở những cuộc làm tình chớp nhoáng trước khi lên đường.  Chúng ta sẽ thấy khao khát được sống một cuộc sống hoà bình, an phận của những người tìm mọi cách trốn lính. Nỗi đau của nước Mỹ qua ngòi bút nhà văn Richard Yates là nỗi đau về những thế hệ thanh niên bị o bế tâm hồn. Đọc “Cuộc diễu hành phục sinh”, người đọc sẽ thực sự bất ngờ bởi trực diện bức tranh xã hội tình dục ở nước Mỹ. Nhà văn Richard Yates xây dựng số phận hai nhân vật chính là hai chị em nhà Grimes: Sarah và Emily với hai sự lựa chọn cuộc sống đối nghịch nhau. Sarah muốn có một gia đình ổn định với một người đàn ông mà cô yêu và tôn thờ như tất cả những người phụ nữ khác và như chính niềm ao ước của mẹ cô, Pookie.  Emily kịch liệt phản đối hôn nhân, đặc biệt là khi cô biết sự thật về những bạo hành mà người chị của mình phải chịu từ người chồng vũ phu. Dường như nhà văn Richard Yates xây dựng Emily trở thành một biểu tượng của cuộc sống tự do để cổ xuý cho khao khát tìm hạnh phúc qua cách sống ấy. Nhưng có lẽ là không phải như vậy. Những cuộc làm tình của Emily với bao nhiêu người đàn ông mà chính cô cũng không nhớ nổi được Richard Yates miêu tả vô cùng nóng bỏng. Emily chưa bao giờ yêu những người đàn ông đưa cô lên giường. Thế nhưng, cô vẫn lao vào những cuộc làm tình ấy không mệt mỏi để khao khát kiếm tìm một thứ vô hình. Hạnh phúc chăng? Không có ai trả lời cho cô điều ấy cả. Để rồi cuối cùng, có lẽ cô yêu Howard và mệt mỏi muốn dừng cuộc đời mình ở đó. Nhưng Howard đã ra đi. Thiên tiểu thuyết kết thúc ở sự cô độc của Emily, không gia đình, không người thân, không bạn bè, không tình yêu. Cô gục ngã trong những ký ức về người chị gái Sarah, người chị gái yêu quý của cô đã bị người chồng giết chết trong một lần say rượu.  Chỉ với hơn ba trăm trang tiểu thuyết, nhà văn Richard Yates đã xây dựng trọn vẹn ba cuộc đời bất hạnh nhà Grimes. Thành công xuất sắc ở khả năng miêu tả tâm lý và xây dựng một thế giới nội tâm sâu thẳm đầy bí hiểm, nhà văn đã đẩy nhân vật của mình vào tận cùng nỗi tuyệt vọng của thân phận con người để phản ánh một cách chân thực nhất đời sống nước Mỹ thế kỷ XX và khao khát đi tìm một lối thoát cho người Mỹ.  Đọc “Cuộc diễu hành phục sinh”, chúng ta sẽ bị chìm đắm trong ma trận của những cuộc làm tình, những ly rượu mạnh, những cơn khủng hoảng tinh thần, những nỗi xót xa và cuối cùng cay đắng nhận ra nỗi đau về thân phận con người không phải là của riêng Richard Yates nói về người Mỹ mà nó còn mãi là nỗi đau chung của toàn nhân loại. Vân Hà *** Richard Yates sinh năm 03/02/1926 và mất ngày 17/11/1992 là nhà văn Mỹ. Ông đã viết rất nhiều truyện ngắn và tiểu thuyết về cuộc sống của người dân Mỹ giữa thế kỷ 20. Ông được coi là người đã chép lại hoàn hảo biên niên ký về đời sống sâu sắc và vô cùng phức tạp của nước Mỹ giữa thế kỷ 20 trong những tác phẩm kinh điển của mình - những khúc bi ca về sự cô độc của con người đã vạch trúng tâm thức của thời đại, phản ánh một cách khốc liệt đời sống hiện thực Mỹ. Cuốn tiểu thuyết đầu tay của ông, Revolutionary Road (Con đường cách mạng) đã đoạt giải thưởng Sách Quốc gia vào năm 1962. Rất nhiều tiểu thuyết của ông được dựng thành phim, Revolutionary Road (Con đường Cách mạng), The Easter Parada (Lễ diễu hành Phục sinh). Mời các bạn đón đọc Lễ Diễu Hành Phục Sinh của tác giả Richard Yates.
Lâu Đài Sói - Hilary Mantel
Lâu đài sói của Hilary Mantel viết về Nước Anh thế kỷ 16 đang đứng trên bờ vực một thảm họa. Nếu nhà vua chết mà không có người thừa kế nam, đất nước có thể sẽ bị hủy diệt bởi nội chiến. Chưa hết, Henry VIII còn muốn chấm dứt cuộc hôn nhân hai mươi năm với hoàng hậu để lấy Anne Boleyn, một mối tình chống lại cả Giáo hoàng lẫn châu Âu kính Chúa. Giữa bối cảnh ấy xuất hiện Thomas Cromwell, một nhân vật cơ trí và tham vọng, vừa tràn đầy lý tưởng vừa cơ hội chủ nghĩa, kẻ đã giúp nhà vua thực hiện được một việc vô tiền khoáng hậu: ly hôn với hoàng hậu, dần ly khai khỏi giáo hội La Mã, và sẵn sàng cho cái giá phải trả để làm được điều ấy. Tác phẩm mang đến cho nhà văn Hilary Mantel giải thưởng Man Booker danh giá năm 2009. *** Hilary Mantel Mary sinh ngày 06 tháng 7 năm 1952), nhũ danh Thompson, là một tiểu thuyết gia, nhà văn truyện ngắn, nhà tiểu luận và nhà phê bình người Anh. Các tác phẩm của bà gồm các chủ đề từ hồi ký cá nhân đến tiểu thuyết lịch sử, đã được đưa vào danh sách ngắn đề cử các giải thưởng văn học lớn. Năm 2009, bà đoạt giải Man Booker cho cuốn tiểu thuyết Wolf Hall. Cuốn tiểu thuyết gần nhất của bà, Bring Up the Bodies, là cuốn thứ hai của bộ ba tiểu thuyết Thomas Cromwell đã đoạt giải Man Booker 2012. Bộ tiểu thuyết lịch sử nói về vị cố vấn Thomas Cromwell của Vua nước Anh Henry VIII. Bà là nhà văn người Anh đầu tiên và người phụ nữ đầu tiên nhận giải thưởng hai lần, theo bước chân của J. M. Coetzee, Peter Carey và J. G. Farrell—thắng giải Lost Man Booker   Mời các bạn đón đọc Lâu Đài Sói của tác giả Hilary Mantel.
Nhà Tiểu Họa - Jessie Burton
Nhà tiểu họa xoay quanh cô gái Nella Oortman mười tám tuổi đến Amsterdam để bắt đầu cuộc sống làm vợ của thương gia nổi tiếng Johannes Brandt. Ngôi nhà mới của nàng dù đẹp lộng lẫy nhưng không hề ấm áp. Johannes đối xử tử tế với vợ nhưng luôn xa cách. Thế giới của Nella thay đổi khi Johannes tặng nàng món quà cưới vô cùng đặc biệt: một phiên bản thu nhỏ ngôi nhà của họ với kích thước chỉ bằng chiếc tủ có ngăn kéo. Nhiệm vụ của Nella là trang trí cho ngôi nhà thu nhỏ đó. Nàng liên lạc với một nhà tiểu họa trên phố Kalverstraat. Đó là một nghệ sĩ bí ẩn và sống ẩn dật, những sản phẩm nhỏ bé, tinh xảo của người nghệ sĩ này mô tả người và vật trong cuộc sống thật theo những cách thức kỳ lạ, khó hiểu và đầy bất ngờ. Món quà của Johannes giúp Nella nhìn sâu vào thế giới khép kín của gia đình nhà Brandt. Nàng dần khám phá ra nhiều điều bí mật được che giấu và sợ hãi khi biết rằng nguy hiểm đang treo lơ lửng trên đầu họ. Trong xã hội bị cai trị bởi những điều luật tôn giáo hà khắc đó, tỏ ra khác biệt đồng nghĩa với đe dọa những giá trị đạo đức chung, một người giàu có như Johannes cũng không thể bình an vô sự nếu khác biệt với mọi người. Chỉ một người duy nhất dường như thấy trước số phận đang chờ đợi họ. Nhà tiểu họa giải cứu… hay gây ra sự hủy diệt đối với những con người đó? Và liệu những con người ấy sẽ phải làm gì để tồn tại giữa xã hội nơi số phận con người chỉ là những mô hình tiểu họa.? Lật đến trang cuối cuốn sách, có lẽ bạn sẽ không biết mình nên thương xót hay lấy làm mừng cho Nella, liệu những cái chết có phải là cái giá phải trả cho sự tự do mà bấy lâu nay nàng mong mỏi? Viết về Hà Lan cuối thế kỷ 17, nhưng Nhà tiểu hoạ vẫn xuất sắc chiếm được trái tim độc giả khắp thế giới khi được dịch ra hơn ba mươi thứ tiếng với hàng triệu bản doanh thu. Nhà tiểu họa của Jessie Burton đã được The Observer và Waterstones bình chọn là cuốn sách của năm vào năm 2014 và nằm trong Top 7 sách best-sellers của Amazon vào năm 2015. *** Jessica Kathryn Burton là một tác giả và nữ diễn viên người Anh. Tính đến năm 2018, cô đã xuất bản ba cuốn tiểu thuyết, The Miniaturist, The Muse và The Restless Girls. Muse đã được xuất bản trong 38 ngôn ngữ.   Mời các bạn đón đọc Nhà Tiểu Họa của tác giả Jessie Burton.