Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Danh Sách Của Schindler

Trong bóng đen khủng khiếp của các trại diệt chủng thời Đệ nhị Thế chiến, có một nhà công nghiệp Đức đã trở thành cứu tinh của người Do Thái. Oskar Schindler, con người ham lạc thú, kẻ còn lâu mới được coi là mẫu mực, cũng đồng thời là kẻ đã mạo hiểm cả mạng sống của mình để bảo vệ những đồng loại khác chủng tộc mà nếu không có ông thì hẳn đã kết thúc cuộc đời trong lò thiêu. Danh sách của Schindler đã kể một câu chuyện có thật khác thường như vậy, một câu chuyện tự nó đã có thể làm người đọc choáng váng mà không cần đến một phương tiện văn chương cầu kỳ nào. Nó có thể làm ta khóc, như bộ phim kinh điển dựng từ chính nó của Steven Spielberg đã làm cho hàng triệu người khóc, nhưng trên hết nó làm ta hiểu hơn về những gì đã xảy ra, những sự kiện, những con số, những chân dung chi tiết hơn của cả nạn nhân, thủ phạm và người cứu nạn. Holocaust là một chương lịch sử kinh hoàng gần như nằm ngoài tưởng tượng của loài người tỉnh táo. Nhưng những câu chuyện như Bản danh sách của Schindler chính là tia hy vọng trấn an, rằng ngay cả trong hố sâu tuyệt vọng nhất của lịch sử vẫn luôn có một cá nhân nào đó nhận ra và dám làm điều đúng đắn, rằng nhân tính sẽ thắng dù cho có bị thử thách khốc liệt ra sao. *** Review Trần Thông:   Trong “Danh sách của Schindler”, Thomas Keneally đã kể chi tiết về cuộc đời của một nhà tài phiệt người Đức tên là Sudeten, người thành lập một nhà máy sản xuất men ở thành phố Krakow của Ba Lan nhưng dường như nó đã bị Đức Quốc xã chiếm đóng. Oskar Schindler là một người đàn ông có uy tín và có khả năng kinh doanh đáng nể trong thời kỳ chiến tranh. Nhưng có một cuộc chiến khác nổ ra ở một nơi toàn cảnh đẹp như tranh vẽ ở Đông Âu -một cuộc chiến sẽ in hằn vết sẹo vào sâu trong lịch sử loài người: cuộc đàn áp người Do Thái. Schindler theo dõi những người Do Thái ở Krakow, mỗi người có câu chuyện của riêng mình, kể về những điều kiện chật chội của khu ổ chuột trong thành phố, bị cắt đứt khỏi cuộc sống và sau đó bị đuổi ra khỏi trại lao động đầy áp bức bóc lột dưới sự cai trị của chỉ huy tàn bạo, Amon Goeth. Nhưng trong cái bóng của sự tham lam kiếm tiền của Schindler, anh ta thể hiện một sự từ bi và lòng nhân hậu đối với các nhân viên Do Thái của mình. Với sự giúp đỡ của một kế toán viên, đồng thời cũng là người bạn lâu năm tên là Itzhak Stern, Schindler đã lập ra một danh sách không bình thường. Bằng cách thêm tên các công nhân vào danh sách, Schindler khiến họ không còn bị hỗn loạn và tàn sát ở Plaszow, mà thay vào đó là thiên đường – nơi nhà máy của anh ta đang hoạt động. Bằng cách mua chuộc các quan chức bằng những đồng tiền đen bạc, Schindler “di chuyển ngầm” bên dưới vòng quay của chế độ chuyên chế gây ra khủng hoảng cho thành phố này và cuối cùng cứu được 1.200 đàn ông, phụ nữ và trẻ em Do Thái khỏi các buồng khí của Auschwitz và Gross-Rosen. Schindler Juden sống ở mọi nơi trên thế giới và đến năm 1993, Schindler đã cứu được 6.000 trẻ em và cháu của mình một cách hiệu quả. Oskar Schindler qua đời năm 1974 và, như Keneally viết, ông được thương tiếc trên toàn thế giới. Việc câu chuyện này là có thật đã cho tôi rất nhiều niềm tin vào nhân loại. Tôi phải thừa nhận rằng cuốn sách này là tuyệt vời về mọi phương diện. Chủ đề được tiếp cận với sự nhạy cảm của tác giả khiến cho mọi câu văn trở nên cực kỳ dễ đọc. Câu chuyện không chỉ lướt qua sự tàn bạo của các sự kiện, như nhiều cuốn sách khác đã làm mà “Danh sách của Schindler” chính xác là một tiểu sử được tạo ra với cùng một kiểu tinh tế của một tác phẩm văn học. Oskar Schindler là một con người lang thang, một người nghiện rượu. Và mặc dù anh ta không bao giờ là một người chồng tốt với người vợ thẳng thắn của mình nhưng anh ta đã cứu sống 1.200 người. Thật đáng khâm phục. *** Oskar Schindler sinh ra ở Sudetenland nói tiếng Đức. Khi còn trẻ, ông là một thành viên của Đảng Quốc xã và khi chiến tranh bắt đầu, ông đã thành lập một nhà máy ở Cracow để sản xuất hàng hóa cho Quân đội Đức. Ông nhanh chóng trở nên rất giàu có với tư cách là một trong những tầng lớp tinh hoa của Đức Quốc xã. Tuy nhiên, ông và vợ Emilie trở nên kinh hoàng trước cách đối xử với người Do Thái và nhanh chóng bắt đầu thu xếp để bảo vệ những người lao động Do Thái của họ, chủ yếu bằng tiền của họ. Vào cuối cuộc chiến, họ đã cứu khoảng 1200 người Do Thái. Trong bóng đen khủng khiếp của các trại diệt chủng thời Đệ nhị Thế chiến, có một nhà công nghiệp Đức đã trở thành cứu tinh của người Do Thái. Oskar Schindler, con người ham lạc thú, kẻ còn lâu mới được coi là mẫu mực, cũng đồng thời là kẻ đã mạo hiểm cả mạng sống của mình để bảo vệ những đồng loại khác chủng tộc mà nếu không có ông thì hẳn đã kết thúc cuộc đời trong lò thiêu. Danh sách của Schindler đã kể một câu chuyện có thật khác thường như vậy, một câu chuyện tự nó đã có thể làm người đọc choáng váng mà không cần đến một phương tiện văn chương cầu kỳ nào. Nó có thể làm ta khóc, như bộ phim kinh điển dựng từ chính nó của Steven Spielberg đã làm cho hàng triệu người khóc, nhưng trên hết nó làm ta hiểu hơn về những gì đã xảy ra, những sự kiện, những con số, những chân dung chi tiết hơn của cả nạn nhân, thủ phạm và người cứu nạn. Holocaust là một chương lịch sử kinh hoàng gần như nằm ngoài tưởng tượng của loài người tỉnh táo. Nhưng những câu chuyện như Danh sách của Schindler chính là tia hy vọng trấn an, rằng ngay cả trong hố sâu tuyệt vọng nhất của lịch sử vẫn luôn có một cá nhân nào đó nhận ra và dám làm điều đúng đắn, rằng nhân tính sẽ thắng dù cho có bị thử thách khốc liệt ra sao. ​*** Năm 1980 tôi vào một tiệm bán vali ở Beverly Hills, California hỏi giá cặp tài liệu. Chủ tiệm là Leopold Pfefferberg, một cựu tù sống sót của Schindler. Chính tại đây, dưới những giá đồ da nhập khẩu từ Ý của Pfefferberg, lần đầu tiên tôi được nghe về Oskar Schindler, gã lãng tử phong lưu người Đức, nhà đầu cơ, kẻ mê hoặc, biểu tượng của sự đối lập, và về nỗ lực của Oskar nhằm giải cứu một bộ phận của một chủng tộc bị tru di, trong những năm tháng về sau được biết tới qua cái tên chung là Holocaust. Cuốn sách về cuộc đời oanh liệt của Oskar này trước hết dựa trên nội dung phỏng vấn năm mươi cựu tù ở bảy quốc gia - Australia, Israel, Tây Đức, Áo, Mỹ, Argentina và Brazil. Nó được làm phong phú thêm bằng một chuyến đi, được sự đồng hành của Leopold Pfefferberg, đến các địa điểm xuất hiện nổi bật trong sách: Cracow, nơi Oskar chọn làm quê hương; Płaszów, nơi đặt trại lao động khủng khiếp của Amon Goeth; phố Lipowa, Zablocie, nơi ngày nay nhà máy của Oskar còn đứng đó; Auschwitz-Birkenau, từ đây Oskar đã giải cứu đoàn tù nữ. Những câu chuyện còn căn cứ vào hồ sơ tư liệu và những thông tin khác từ một vài cộng sự thời chiến của Oskar mà tác giả còn có thể tiếp cận, cũng như đông đảo bạn bè thời bình của ông. Nhiều lời chứng chi tiết về Oskar, do các cựu tù Do Thái gửi tới Yad Vashem, Cơ quan Tưởng niệm các Anh hùng và bậc Tử vì đạo, giúp câu chuyện thêm phong phú hơn nữa. Bên cạnh đó là lời chứng bằng văn bản từ các nguồn riêng và bộ sưu tập giấy tờ, thư tín của Schindler, một số của Yad Vashem, số khác do bạn bè Oskar cung cấp. Sử dụng chất liệu cùng thủ pháp tiểu thuyết để kể một câu chuyện có thật là lối đi quen thuộc của văn chương hiện đại. Đó cũng là con đường tôi lựa chọn ở đây - vì viết tiểu thuyết là kỹ năng duy nhất tôi nắm chắc, và các kỹ thuật tiểu thuyết có vẻ phù hợp với một nhân vật mơ hồ và có tầm vóc như Oskar. Dù vậy tôi vẫn cố gắng hạn chế hư cấu hoàn toàn, vì hư cấu sẽ xói mòn giá trị của câu chuyện, và cố gắng phân biệt hiện thực và những huyền thoại thường gắn liền với một con người tầm cỡ Oskar. Đôi khi tôi buộc phải tái tạo một cách hợp lý những đối thoại mà Oskar và các bên tham gia chỉ để lại ký lục hết sức vắn tắt. Song phần lớn các trao đổi và đối thoại, cùng mọi sự kiện, đều căn cứ theo hồi ức chi tiết của các Schindlerjuden (người Do Thái của Schindler), của bản thân Schindler, và nhiều người khác có cơ hội chứng kiến nghĩa cử phi thường của Oskar. Trước tiên, tôi xin cảm ơn ba cựu tù sống sót của Schindler - Leopold Pfefferberg, Thẩm phán Moshe Bejski tại Tòa án tối cao Israel, và Mieczyslaw Pemper - những người không chỉ gửi gắm cho tác giả ký ức của mình về Oskar, và cung cấp tài liệu góp phần vào sự chính xác của câu chuyện, mà còn đọc bản thảo đầu tiên và góp ý những điểm cần sửa chữa. Nhiều người khác, từ các cựu tù cho đến đồng sự của Oskar thời hậu chiến, đã trả lời phỏng vấn và nhiệt tình đóng góp thông tin qua thư tín và tài liệu. Trong số đó có Frau(1) Emilie Schindler, bà Ludmila Pfefferberg, tiến sĩ Sophia Stern, bà Helen Horowitz, tiến sĩ Jonas Dresner, ông bà Henry và Mariana Rosner, ông Leopold Rosner, tiến sĩ Alex Rosner, tiến sĩ Idek Schindel, tiến sĩ Danuta Schindel, bà Regina Horowitz, bà Bronislawa Karakulska, ông Richard Horowitz, ông Shmuel Springmann, ông Jakob Sternberg quá cố, ông Jerzy Sternberg, ông bà Lewis Fagen, ông Henry Kinstlinger, bà Rebecca Bau, ông Edward Heuberger, ông bà M. Hirschfeld, ông bà Irving Glovin, và còn nhiều nữa. Tại thành phố quê tôi, ông bà E. Korn không chỉ chia sẻ hồi ức về Oskar mà còn là nguồn động viên thường trực. Tại Yad Vashem, tiến sĩ Josef Kermisz, tiến sĩ Shmuel Krakowski, Vera Prausnitz, Chana Abells, và Hadassah Mödlinger đã tạo điều kiện rộng rãi cho tôi tiếp cận hồ sơ nhân chứng về Schindler và các tư liệu phim, ảnh liên quan. Sau cùng, tôi muốn tôn vinh nỗ lực của ông Martin Gosch nhằm đưa cái tên Oskar Schindler đến với thế giới, và bày tỏ lòng cảm ơn bà quả phụ Lucille Gaynes, về sự hợp tác với dự án này. Nhờ sự hỗ trợ của tất cả mọi người, câu chuyện phi thường của Oskar Schindler đã lần đầu tiên xuất hiện một cách trọn vẹn. TOM KENEALLY (1) Tiếng Đức: cô, bà, dùng cho người phụ nữ đã kết hôn. ​ Mời các bạn đón đọc Danh Sách Của Schindler của tác giả Thomas Keneally.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Bác sĩ Jekyll và ông Hyde - Robert Louis Stevenson
Ra đời năm 1886, đến nay, Bác sĩ Jekyll và ông Hyde (tựa tiếng Anh: Strange case of Dr Jekyll and Mr Hyde) đã tròn 130 tuổi. Ít ai biết cuốn tiểu thuyết này có số phận lênh đênh, chìm nổi trước khi được thừa nhận là một kiệt tác văn chương.   Mặc dù, nhiều tờ báo về văn chương uy tín trên thế giới đã xếp Bác sĩ Jekyll và ông Hyde vào danh sách “100 cuốn tiểu thuyết hay nhất mọi thời đại”. Nhưng ở thời điểm mới ra đời, tác phẩm chỉ được xem như một cuốn tiểu thuyết kỳ dị, ma quái, thuộc hàng “tác phẩm hạng nhì”. Gần 100 năm sau, giá trị của nó mới được nhìn nhận một cách đúng đắn. Bác sĩ Jekyll và ông Hyde là câu chuyện về một bác sĩ có tính cách khác thường. Sau khi nghiên cứu được phương pháp làm thay đổi gương mặt tiến sĩ Jekyll trở thành một con người khác, có tên là Hyde. Từ đó, phần thú tính trong con người của tiến sĩ Jekyll cũng được bộc lộ dưới nhân dạng của ông Hyde. Hyde đã gây ra hàng loạt vụ giết người dã man. Lần đầu tiên, Robert Louis Stevenson đưa ra những hình dung về hội chứng đa nhân cách của con người, trước khi y học ghi nhận về nó. Vì vậy, Jekyll và Hyde từ lâu không chỉ là tên của hai nhân vật mà đã trở thành thuật ngữ được dùng trong tâm lý học. Bác sĩ Jekyll và ông Hyde nhiều lần được đưa lên sân khấu kịch. Năm 1931, lần đầu tiên đạo diễn Rouben Mamoulian đã chuyển thể cuốn tiểu thuyết này thành phim. Bác sĩ Jekyll và ông Hyde  là bộ phim kinh dị đầu tiên dành được tượng vàng Oscar cho hạng mục Nam chính xuất sắc nhất với diễn xuất của tài tử Fredirc March. Phiên bản điện ảnh năm 1945 với sự tham gia diễn xuất của nữ minh tinh người Thụy Điển - Ingrid Bergman cũng được đánh giá cao. Trong 130 năm qua, tác phẩm này đã được chuyển thể tất cả 100 lần. Hãng Universal dự kiến sẽ thực hiện một phiên bản mới về cuốn tiểu thuyết này trong thời gian tới. Không chỉ vậy, Robert Louis Stevenson cũng là nhà văn có tác phẩm được chuyển thể nhiều nhất trên thế giới. Các tác phẩm của ông đã được chuyển thể hơn 200 lần. Ngoài Bác sĩ Jekyll & ông Hyde,  Robert Louis Stevenson còn một tác phẩm nổi tiếng khác khá quen thuộc với độc giả Việt Nam là Đảo giấu vàng (Treasure Island). *** Robert Louis Balfour Stevenson (13.11.1850 – 3.12.1894) là tiểu thuyết gia, nhà thơ, nhà tiểu luận và nhà văn du ký người Scotland. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là Đảo châu báu (Treasure Island) và Bác sĩ Jekyll và ông Hyde (Strange case of Dr Jekyll and Mr Hyde). Hầu như suốt thế kỷ 20 ông bị giới nghiên cứu hàn lâm chối bỏ, cho ông chỉ là nhà văn hạng nhì chuyên viết truyện thiếu nhi và truyện ly kỳ rùng rợn, song từ cuối thế kỷ 20 ông đã được đánh giá lại một cách công bằng, được coi như ngang hàng với những tác gia như Joseph Conrad và Henry James. Nhiều nhà văn lớn như Jorge Luis Borges, Bertolt Brecht, Marcel Proust, Arthur Conan Doyle, Cesare Pavese, Ernest Hemingway, Rudyard Kipling, Vladimir Nabokov tỏ lòng khâm phục ông.    Stevenson nằm trong số 26 tác giả được dịch nhiều nhất trên thế giới. *** Luật sư Utterson là người có nét mặt thô kệch không bao giờ ánh lên một nụ cười, nói năng phớt lạnh, kiệm lời và lúng túng, khí chất rụt rè, dáng cao thon, khô khan, ảm đạm, nhưng lại có vẻ dễ thương khó tả. Trong những buổi gặp gỡ thân mật, và khi có rượu vang hợp với khẩu vị, mắt ông rạng ngời một tình cảm nồng nàn nhân hậu, một điều quả thật chẳng bao giờ tìm thấy trong lời nói của ông, nhưng tình cảm ấy không chỉ lặng lẽ biểu hiện qua nét mặt sau bữa ăn, mà thường bộc lộ rõ rệt qua hành động trong đời sống hằng ngày của ông. Bản thân ông sống khổ hạnh; khi một mình ông chỉ uống gin để tiết chế sở thích thưởng thức rượu ngon; và tuy thích kịch nghệ nhưng trong hai mươi năm ông chưa một lần nào bước chân vào cửa rạp hát. Tuy nhiên ông sẵn lòng khoan dung đối với người khác; đôi khi băn khoăn gần như tới mức ganh tị trước những thôi thúc mạnh mẽ muốn dính dấp vào các hành vi sai trái của họ. Và trong bất kỳ hoàn cảnh túng quẫn cùng cực nào ông cũng thường có khuynh hướng giúp đỡ hơn là trách cứ. Ông vẫn hay nói một cách ý nhị: “Tôi có xu hướng xa rời giáo điều chính thống giống như Cain[1]. Tôi để anh em mình đi với ma quỷ theo cách riêng của họ”. Vì cá tính này, ông thường ngẫu nhiên là người quen biết được tin cẩn cuối cùng và có ảnh hưởng tốt cuối cùng trong cuộc đời của những kẻ thất cơ lỡ vận. Và đối với những người như thế, khi họ tìm đến văn phòng ông, ông vẫn cư xử như bình thường, không hề tỏ ra một chút thay đổi nào. Hẳn nhiên thái độ đáng nể này là chuyện dễ dàng đối với ông Utterson, vì ông tuyệt đối không khoa trương, và thậm chí hình như tình bạn của ông đối với mọi người đều đôn hậu như nhau. Nó là biểu hiện của một người khiêm tốn đón nhận vòng thân hữu do bàn tay của số phận dọn sẵn cho mình, và đó là kiểu của ông luật sư. Bạn bè ông là những người cùng huyết thống, hay những người ông đã biết từ lâu. Lòng quý mến của ông, như cây trường xuân lớn lên theo thời gian, không đòi hỏi đối tượng phải xứng hợp. Vì thế, chẳng có gì để ngờ vực sự gắn bó của ông với ông Richard Enfield, một người bà con xa nổi tiếng khắp thành phố. Thiên hạ thấy khó mà hiểu được hai người này có thể thấy gì ở nhau, hay họ có thể tìm được đề tài chung nào. Những người tình cờ gặp họ trong những lần đi dạo với nhau vào ngày Chủ nhật kể rằng họ chẳng nói năng gì, nom thẫn thờ một cách lạ lùng, và họ sẽ vồn vã thở phào nhẹ nhõm thấy rõ khi có một người bạn xuất hiện. Dù thế, hai người dành mọi nỗ lực để có các cuộc du ngoạn này, xem đó là lúc quý giá nhất trong tuần, và họ không những gác lại mọi dịp vui khác mà thậm chí còn hoãn cả những việc cần làm, để có thể hưởng các buổi đi dạo này mà không bị ai ngăn trở. ... Mời các bạn đón đọc Bác sĩ Jekyll và ông Hyde của tác giả Robert Louis Stevenson.
Vòng Tay Người Khác - Đào Hiếu
Ð ôi khi nhìn ra đường phố, thấy xe cộ dập dìu, tôi nghĩ: những người đi đường kia, thoạt nhìn có vẻ như là những cái bóng thoáng qua nhưng thực sự bên trong mỗi con người ấy là cả một thế giới bí ẩn mà ngoài người ấy ra không ai có thể hiểu nổi. Nếu không có một biến cố gì đặc biệt chẳng hạn như một tai nạn giao thông thì người ta làm sao có thể biết dưới đáy hộp đựng son phấn kia có một bức thư hẹn hò, làm sao người ta có thể biết trong ngăn tủ khóa kín kia có những phác thảo chân dung khỏa thân. Ðó chỉ là một vài thứ mà tôi có thể biết được. Còn biết bao nhiêu thứ khác đã được tiêu hủy đi, bao nhiêu thứ khác không để lại dấu vết. Hai người đã làm gì trong những cuộc hẹn hò kéo dài suốt hai năm trời? Thế thì mấy cô gái đang đi ngoài đường kia, trong túi xách của họ đựng những gì? Trong ngăn tủ của họ chứa những gì? Và trong tâm hồn họ, trong ký ức họ? Cả những người đàn ông nữa. Trước đây tôi vẫn nhìn con người một cách đơn giản theo đúng cái lối đánh giá nhân viên, lính lác của mình. Chẳng hạn như về ưu điểm có gì, khuyết điểm có gì, mặt mạnh của người đó là gì, mặt yếu là gì… Và suốt mấy năm làm giám đốc tôi đã không hiểu gì về tâm hồn của một con người. Tôi đã không hiểu gì về vợ tôi. Và tôi cũng chẳng hiểu gì về tay họa sĩ ấy. Bởi vì xưa nay tôi vẫn coi thường hắn. Người mà tôi nghi ngờ có quan hệ với vợ tôi lại là Ðặng Tài. Tôi thấy hắn theo tán tỉnh vợ tôi, mời vợ tôi đi nhảy đầm, đi ăn nhà hàng… Vậy mà hắn chỉ là gã nhân tình hạng nhì của Huệ. *** Đào Hiếu (sinh năm 1946), tên khai sinh: Đào Chí Hiếu. Các bút danh khác: Biển Hồ, Đào Duy. Hiện ông là hội viên Hội nhà văn Việt Nam. Đào Hiếu, sinh ngày 10 tháng 2 năm 1946 tại Tây Sơn, tỉnh Bình Định. Ông sớm gia nhập phong trào sinh viên cách mạng tại Quy Nhơn. Năm 1968 ông gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam. Năm 1970 ông bị bắt quân dịch và trở thành binh nhì sư đoàn 22 Quân lực Việt Nam Cộng hoà. Sau sáu tháng, ông trốn vào Sài Gòn bắt liên lạc với Tổng hội sinh viên hoc sinh để tiếp tục hoạt động chống Mỹ đến ngày 30 tháng 4 năm 1975. Ông tốt nghiệp cử nhân văn chương trước 1975 tại Sài Gòn. Từng làm phóng viên báo Tuổi Trẻ và Nhà xuất bản Trẻ. Hiện Đào Hiếu sống và viết tại TP. Hồ Chí Minh. Truyện dài Giữa cơn lốc, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 1978. Một chuyến đi xa, Nhà xuất bản Măng Non, 1984, nxb Trẻ 1994. Qua sông, Nhà xuất bản Văn Nghệ, 1986. Vùng biển mất tích, Nhà xuất bản Đồng Nai 1987. Vượt biển, Nhà xuất bản Trẻ 1988, 1995. Vua Mèo, Nhà xuất bản Trẻ 1989. Người tình cũ, Nhà xuất bản Văn Nghệ 1989. Kẻ tử đạo cuối cùng, Nhà xuất bản Trẻ 1989. Thung lũng ảo vọng, Nhà xuất bản Trẻ 1989. Hoa dại lang thang, Nhà xuất bản Văn Học 1990. Trong vòng tay người khác, Nhà xuất bản Tác phẩm Mới 1990. Kỷ niệm đàn bà, Nhà xuất bản Văn Nghệ 1990. Nổi loạn, Nhà xuất bản Hội Nhà Văn 1993. Lạc Đường (tự truyện), Nhà xuất bản Giấy Vụn 2008, Nhà xuất bản Kim Thư Production USA 2008. Tuyển tập Đào Hiếu (tập 1 và tập 2) Nhà xuất bản Kim Thư Production USA 12. 2009. Mạt lộ, Nhà xuất bản Lề Bên Trái (tự xuất bản)[1], 03. 2009. Truyện ngắn và tạp văn Bầy chim sẻ, Nhà xuất bản Văn Nghệ 1982. Những bông hồng muộn, Nhà xuất bản Trẻ 1999. Tình địch, Nhà xuất bản Trẻ 2003. Thơ Đường phố và thềm nhà, Nhà xuất bản Trẻ 2004. Mời các bạn đón đọc Vòng Tay Người Khác của tác giả Đào Hiếu.
Tiếng Gọi Từ Vì Sao Xa - Shinkai Makoto & Ooba Waku
“Noboru hai tư tuổi ơi,  Mikako mười lăm tuổi đây. Này, cho đến giờ, mình vẫn cực kỳ, cực kỳ thích Noboru đấy…” Bằng giọng văn tự sự, cam chịu mà đau thấu tim, Tiếng Gọi Từ Vì Sao Xa đẩy khoảng cách vật lý trong tình yêu tới cực hạn. Câu chuyện khởi đầu bằng cách đưa cô bé lên vũ trụ, còn cậu bé ở địa cầu. Không điện thoại, không tin nhắn, càng không thể gặp mặt, chỉ có những dòng email bay qua bay lại nhờ các trạm trung chuyển không gian. Những rung động đầu đời non thơ, ngây ngô nhưng đã vấp phải thử thách ghê gớm nhất về thời gian, không gian, lẫn biến đổi sinh học. Một ngày trên trời bằng cả năm dưới hạ giới… Câu miêu tả tưởng chừng hoang đường thường gặp trong truyện cổ bỗng trở thành hiện thực đối với họ, thậm chí còn khắc nghiệt hơn, vì một email gửi đi có thể tám năm sau mới nhận được, làm lỡ làng bao nhiêu tháng ngày tuổi trẻ tươi đẹp lẽ ra đã được dùng để vun đắp cho những rung động kia nảy nở tròn vẹn thành tình yêu. Đọc xong, ta sẽ nhận ra rằng, khoảng cách trái đất tới thiên hà có khi chẳng đến nỗi đáng sợ bằng khoảng cách giữa hai con tim. Không rõ tiếng lòng mình có được người thương đón nhận hay không, đó mới là điều đáng buồn nhất trong một mối tình. *** Tuy mới nhập ngũ, lại vừa qua Tuần lễ Vàng nhưng tôi vẫn muốn xin nghỉ phép thử xem sao. Có điều, việc bỏ tiền ra mua vé tàu con thoi về Trái đất bằng tháng lương đầu còm cõi mới khiến tôi đau đầu hơn cả. Tôi gần như đã quen với công việc của hạm đội, tuy vậy, từ sau chiến dịch cứu trợ Lysithea, tôi vẫn chưa được leo lên chiến hạm liên sao đời mới thêm lần nào, thay vào đó phải tiếp tục khóa huấn luyện trên căn cứ Mặt trăng. Theo lịch trình, tháng Sáu tới, tôi có thể bắt đầu làm việc trên tàu. Tương tự như các thành viên được tuyển chọn khác của hạm đội, Nagamine đã giải ngũ. Trước mắt, cô có thể ở nhà nghỉ ngơi suy ngẫm về những chuyện đã qua. Tuy vẫn muốn tiếp tục phục vụ hạm đội nhưng chỉ ngồi trên Tracer, cô mới thấy thỏa mái. Tổng tư lệnh đánh giá rất cao khả năng của Nagamine nên ông vẫn đang nỗ lực để giữ cô ở lại. Lúc gặp nhau. cô đang mặc đồng phục y tá. Cô từng nói với tôi, nếu có thể ở trong cùng một hạm đội thì cô làm y tá cũng tốt. Từ Agartha trở về, tuy chẳng có bằng cấp gì nhưng cô đã cố gắng giúp đỡ đội ngũ y bác sĩ và trên thực tế đã trải qua công việc này suốt bốn năm trời. Có lẽ cô nên đi học ngành Y để lấy bằng. Đó là một ý tưởng không tồi. ... Mời các bạn đón đọc Tiếng Gọi Từ Vì Sao Xa của tác giả Shinkai Makoto & Ooba Waku.
Nhân Ngư Công Chúa - Thẩm Thệ Hà
Thủy Tinh cung hôm nay tưng bừng, rực rỡ. Toàn dân rộn ràng tấp nập dự hội Mùa Xuân vừa là ngày lễ mừng Nhân Ngư công chúa vừa đến tuổi cập kê, theo tục lệ triều đình Thủy quốc. Xứ Thủy Tinh là một xứ của giống Nhân ngư một giống dân đầu người, mình người, đuôi cá, ở tận dưới đáy đại dương. Hoàng đế và Hoàng hậu vô cùng phúc hậu. Công chúa Nhân ngư được vua ban danh hiệu là Thủy Tinh công chúa. Nàng là một trang quốc sắc, không một mỹ nhân nào ở trần gian có thể so sánh được với nàng. Dân cư vui vẻ sống trong cảnh thái hòa. Tiếng trúc, tiếng tơ hòa với giọng hát mê hồn ngày ngày vang lên khắp nơi... Hôm nay là ngày Đại hội nên Công chúa trang điểm cực kỳ diễm lệ. Mái tóc huyền óng ả được điểm thêm những cánh hoa li ti đủ màu. Gương mặt xinh tươi, duyên dáng lạ thường, sáng rỡ như một viên ngọc trân châu, dịu hiền như một đài hoa còn phong kín nhụy. Đôi mắt long lanh tỏa ra một hấp lực huyền diệu, lại phảng phất vẻ tình tứ qua làm mi chớp chớp mơ màng. Nụ cười tươi thắm thỉnh thoảng điểm trên làn môi mọng đỏ. Theo phong tục của loài Nhân ngư, mặc dầu là Công chúa, nàng không vận xiêm y kín đáo như người trần, cho nên nhan sắc của nàng càng mơn mởn tuyệt vời trong dáng dấp yểu điệu, ngây thơ. Hoàng đế ngự trên một cái ngai bằng san hô, mã não. Bên cạnh ngài, Hoàng hậu uy nghiêm ngồi trên một chiếc ghế bằng vàng. Công chúa khép nép đứng bên, tựa mình bên tay ghế của Mẫu hậu. Trước sân rồng, các hàng văn ban võ bá phân ngôi thứ ngồi hai bên, chờ đợi thưởng thức cuộc trình diễn nghệ thuật của đoàn vũ nhạc hoàng gia. ... Mời các bạn đón đọc Nhân Ngư Công Chúa của tác giả Thẩm Thệ Hà.