Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Lộ Diện

Nếu bạn cần một quyển sách trinh thám, hình sự có thêm chút kinh dị, ở mức độ vừa phải, xem giải trí, hấp dẫn mà không quá hại não thì có lẽ Lộ diện (The cradle will fall) của M.H. Clark sẽ đáp ứng được và không làm bạn thất vọng. Mary Higgins, sinh năm 1929 ở Mỹ, đã làm nhiều công việc khác nhau trước khi đến được với nghề viết văn. Cha mất sớm, hoàn cảnh khó khăn nên ngay khi học xong trung học, Mary phải lo giúp gia đình bằng cách nhanh chóng tìm một công việc. Bà đã làm thư ký rồi làm tiếp viên hàng không trước khi lập gia đình với Warren Clark. Lấy chồng một thời gian sau, Mary mới có thể theo đuổi sự nghiệp văn chương bằng nghề viết báo. Cuộc sống tưởng chừng đang yên ổn thì người chồng đột ngột qua đời trong một cơn đau tim, để lại một mình Mary với năm đứa con nhỏ. Người phụ nữ này không hề nhụt chí mà còn nỗ lực làm việc hơn bao giờ hết. Bà lao vào viết sách và lấy tên là Mary Higgins Clark. Tác phẩm đầu tiên, Tiểu sử George Washington, ra đời khi bà đã 40 tuổi, không đem lại mấy thành công. Mary quyết định chuyển sang thể loại truyện trinh thám. Cuốn tiểu thuyết Where are the children (Con của chúng ta đâu) xuất bản năm 1975, lập tức trở thành sách best-seller. Sau thành công của tác phẩm này, Mary bắt đầu gặt hái những thắng lợi lớn. Những phụ nữ giàu có, quyến rũ, những tội ác bí hiểm và bầu không khí căng thẳng đáng sợ là những đặc điểm nổi bật khiến cho câu chuyện luôn tạo được một hấp lực mạnh mẽ. Một số độc giả sau khi đọc truyện của bà đã phát biểu: “Cảm ơn Mary đã khiến tôi nhiều lần toát mồ hôi trong những đêm thức trắng đọc truyện của bà. Một khi đã bước vào thế giới đó thì bạn không thể rời xa được, chừng nào bạn chưa đọc xong. A Cry in the night (Tiếng thét trong đêm), The cradle will fall (Lộ diện), No place like home (Không đâu bằng ở nhà mình) đều là những tiểu thuyết tuyệt vời”. Một độc giả khác nhận xét: “Điều mà tôi thích ở nhà văn này là bà biết cách tạo ra những tình tiết lôi cuốn gây cảm giác hồi hộp. Thêm vào đó là phong cách viết dễ đọc nên những câu chuyện của bà hết sức gần gũi với đời thường”.   *** Mary Higgins, sinh năm 1927 ở Mỹ, đã làm nhiều công việc khác nhau trước khi đến được với nghề viết văn. Cha mất sớm, hoàn cảnh khó khăn nên ngay khi học xong trung học, Mary phải lo giúp gia đình bằng cách nhanh chóng tìm một công việc. Bà đã làm thư ký rồi làm tiếp viên hàng không trước khi lập gia đình với Warren Clark. Lấy chồng một thời gian sau, Mary mới có thể theo đuổi sự nghiệp văn chương bằng nghề viết báo. Cuộc sống tưởng chừng đang yên ổn thì người chồng đột ngột qua đời trong một cơn đau tim, để lại một mình Mary với năm đứa con nhỏ. Người phụ nữ này không hề nhụt chí mà còn nỗ lực làm việc hơn bao giờ hết. Bà lao vào viết sách và lấy tên là Mary Higgins Clark. Tác phẩm đầu tiên, Tiểu sử George Washington, ra đời khi bà đã 40 tuổi, không đem lại mấy thành công. Mary quyết định chuyển sang thể loại truyện trinh thám. Cuốn tiểu thuyết Where are the children (Con của chúng ta đâu) xuất bản năm 1975, lập tức trở thành sách best-seller. Sau thành công của tác phẩm này, Mary bắt đầu gặt hái những thắng lợi lớn. Những phụ nữ giàu có, quyến rũ, những tội ác bí hiểm và bầu không khí căng thẳng đáng sợ là những đặc điểm nổi bật khiến cho câu chuyện luôn tạo được một hấp lực mạnh mẽ. Một số độc giả sau khi đọc truyện của bà đã phát biểu: “Cảm ơn Mary đã khiến tôi nhiều lần toát mồ hôi trong những đêm thức trắng đọc truyện của bà. Một khi đã bước vào thế giới đó thì bạn không thể rời xa được, chừng nào bạn chưa đọc xong. A Cry in the night (Tiếng thét trong đêm), The cradle will fall (Lộ diện), No place like home (Không đâu bằng ở nhà mình) đều là những tiểu thuyết tuyệt vời”. Một độc giả khác nhận xét: “Điều mà tôi thích ở nhà văn này là bà biết cách tạo ra những tình tiết lôi cuốn gây cảm giác hồi hộp. Thêm vào đó là phong cách viết dễ đọc nên những câu chuyện của bà hết sức gần gũi với đời thường”. Một con người không mệt mỏi Ba mươi năm viết truyện với 40 tiểu thuyết, trong đó nhiều tác phẩm đã được dựng phim, Mary Higgins Clark đã tạo cho mình một sự nghiệp đáng tự hào với nhiều giải thưởng và vinh quang. Bà đã nhận được nhiều giải của các cơ quan văn hóa, lịch sử xã hội, giáo dục Mỹ, Pháp, Ireland; đã từng làm Chủ tịch Hội các nhà văn trinh thám Mỹ năm 1987; Chủ trì Hội nghị Tội ác quốc tế tại New York năm 1988 và vinh dự đón nhận tước hiệu Hiệp sĩ Văn học và Nghệ thuật của Pháp vào năm 2000. Nhưng giải thưởng có ý nghĩa hơn cả có lẽ vẫn là sự mến mộ mà độc giả dành cho bà. Hầu hết các tác phẩm của Mary đều trở thành sách best-seller. Đối với nhiều người, truyện trinh thám chỉ được đọc để giết thời gian tại các bến xe nên đa phần được in khổ nhỏ bỏ túi, nhưng tại Mỹ, trên 50 triệu cuốn sách khổ lớn của bà đã được bán ra. Còn tại Pháp, con số này trên 20 triệu. Ở VN, độc giả có thể dễ dàng tìm được các tác phẩm của bà tại bất kỳ nhà sách nào trên toàn quốc. Những cuốn sách Chiếc nhẫn oan gia, Xác chết ngoài biển khơi, Rình rập, Lộ diện, Tiếng thét trong đêm đều đã trở nên quen thuộc đối với những người thích thể loại trinh thám. Năm 1999, một cuộc thăm dò đã đưa Mary Higgins Clark lên vị trí thứ hai thế giới trong số các nhà văn được nhiều độc giả trên 18 tuổi ưa thích. Một tâm hồn trẻ trung, hiện đại Đã 77 tuổi nhưng Mary vẫn không ngừng tạo ra những món ăn tinh thần hợp khẩu vị bạn đọc trẻ và chúng vẫn luôn mới mẻ, cuốn hút. Cuốn tiểu thuyết mới đây nhất Two little girls in blue, 2006 (Hai cô bé trong đại dương) đã chứng tỏ điều đó. Câu chuyện kể về gia đình Frawley, trong buổi tối sinh nhật của hai con gái sinh đôi 3 tuổi là Kelly và Kathy, ông bà Frawley đã bị cảnh sát hỏi thăm, chị giữ trẻ bị ngất đi, còn hai cô bé mất tích. Sau khi giao 8 triệu USD tiền chuộc theo yêu cầu của bọn bắt cóc, ông bà Flawley chỉ nhận lại được Kelly trong một chiếc xe hơi bỏ không. Còn số phận Kathy thế nào? Mọi người dường như tuyệt vọng, nhưng Kelly bằng linh cảm vẫn biết người chị song sinh của mình còn sống. Tình huống gay cấn trong câu chuyện khiến người đọc bị cuốn vào số phận các nhân vật cho đến trang cuối cùng. Năm 2007, Mary sẽ cho ra đời tác phẩm mới mang tên Santa Cruise mà bà viết chung với con gái mình là Carol Higgins Clark. Với sự nghiệp thành công và con cái thành đạt, Mary tự nhận mình là người hạnh phúc. Hiện nay, bà đang sống cùng với người chồng thứ hai, John Coheeney, tại Manhattan, New York. Bất chấp tuổi tác, những ý tưởng trong bà vẫn rất dồi dào và bà vẫn tiếp tục viết những câu chuyện ly kỳ, bí hiểm, khiến người đọc luôn phải trông ngóng, mong đợi những điều bất ngờ bà mang tới. Với 200 triệu cuốn sách bán ra trên thị trường, bà là một trong những nhà văn có số lượng độc giả nhiều nhất hiện nay. Với một sự nghiệp sáng tác đồ sộ, bà đã chứng tỏ vị trí số một thế giới trong thể loại truyện trinh thám. Các tác phẩm đã được xuất bản ở Việt Nam:   1. Where Are The Children? (1975) có 3 bản dịch + Ngôi nhà cạm bẫy + Rình rập + Truy tìm nhân chứng 2. A Stranger Is Watching (1977) / Cáo sa mạc 3. The cradle will fall (1980) / Lộ diện 4. A Cry in the Night (1982) / Tiếng hét trong đêm khuya 5. All around the town (1992) có 3 bản dịch + Một quá khứ kinh hoàng + Thành phố buồn + Vĩnh biệt thơ ngây 6. Remember Me (1994) có 2 bản dịch + Bí ẩn trong tòa nhà cổ + Xác chết ngoài biển khơi 7. Let Me Call You Sweetheart (1995) / Xin cho tôi gọi cô là em yêu 8. The Lottery Winner (1996) / Chuộc chồng 9. Pretend You Don't See Her (1997) có 2 bản dịch + Trang nhật ký đẫm máu + Nhân chứng bị săn đuổi 10. You belong to me (1998) / Chiếc nhẫn oan gia 11. Where Are You Now? (2008) / Giờ này anh ở đâu? *** Nếu tâm trí không bị cuốn hút bởi vụ kiện mà nàng vừa thắng thì hẳn Katie không ôm cua nhanh đến thế. Nhưng lúc đó, nàng đang trong tâm trạng thích thú với phán quyết của tòa. Phải gay go lắm nàng mới thắng kiện. Điều đó càng khẳng định Roy O’Connor là một trong những luật sư sáng giá nhất của New Jersey. Trong khi xét xử, tòa đã không kể đến những lời thú tội của bị cáo và điều đó khiến sự buộc tội càng trở nên khó khăn. Nhưng cuối cùng Katie đã thành công trong việc làm cho ban hội thẩm hiểu rằng Teddy Cppeland là người đã sát hại đã man cô Abigail Rawling trong một vụ cướp có vũ trang. Có mặt tại phiên tòa, Margaret - chị của Rawling, đã bước đến bên Katie - sau khi tòa tuyên án và nói: "Thưa cô Katie De Maio, thật không thể ngờ nổi. Trông cô có dáng vẻ của một sinh viên, tôi đã nghĩ rằng cô chẳng thể làm gì được, vậy mà mỗi lần lên tiếng là cô mang lại cho phiên tòa những chứng cứ hữu ích. Cô đã giải thích cho mọi người biết về những gì mà người đàn ông đó đã làm hại Abby. Nhưng cuối cùng sự việc sẽ ra sao ?" Katie đáp: "Với tư pháp lý lịch đó, hẳn hắn ta sẽ phải sống phần đời còn lại trong tù thôi". "Cầu Trời lắng nghe lời cô" - Mrgaret Rawling nói. Bà kín đáo thấm những giọt lệ trên đôi mắt nhạt màu vì tuổi tác rồi nói tiếp: "Tôi rất buồn khi phải mất Abby. Chúng tôi chỉ có hai chị em. Tôi bị dằn vặt bởi cái ý nghĩ rằng, hẳn em tôi đã phải khiếp sợ lắm. Thật là tồi tệ nếu thủ phạm thoát khỏi bị trừng phạt". "Và hắn đã không thoát khỏi", - Katie thầm nghĩ. Mãi nhớ lại những lời nói của người chị nạn nhân nên nàng không để ý đến con đường phía trước và nhấn thêm ga. Chiếc xe đột nhiên lao nhanh khi rẽ ở khúc quanh. Và trượt dài trên mặt đường đóng băng. "Ồ !... không". - Katie thốt lên và bám lấy vô lăng. Con đường nhỏ thật âm u. Chiếc xe trượt nhanh ra khỏi lộ và quay ngược đầu. Katie trông thấy những ánh đèn xe từ xa đang tiến đến. Nàng cố hướng xe theo chiều trượt, nhưng không thể làm chủ được chiếc xe đang lao lên lề đường phủ băng, tựa một vận động viên trượt tuyết chuẩn bị nhảy. Bốn bánh chỏng chơ, chiếc xe nằm trên lề đường một lúc mới rơi xuống sườn dốc, về phía cánh đồng có trồng nhiều cây. Có cái bóng âm u sừng sững phía trước, đó là một cây xanh cổ thụ. Chiếc xe va chạm vào thân cây cùng với sự rung chuyển thật mạnh. Katie bị đẩy mạnh vào vô lăng rồi hất ngược ra sau. Nàng đưa hai cánh tay ra phía trước, cố che khuôn mặt khỏi những mảnh kính xe đang tung tóe. Nàng thấy đau buốt nơi hai cổ tay và đầu gối. Đèn xe và những đèn hiệu nơi biển kiểm soát đều tắt ngúm. Tất cả tăm tối tựa như những tấm màn nhung phủ xuống. Nàng nghe có tiếng còi hụ vọng đến từ nơi xa. Rồi có tiếng cửa xe mở ra, một làn không khí lạnh ập vào, và nàng nghe có tiếng: "Chúa tôi, Katie De Maio đây mà !" Nàng thấy cái giọng nói đó khá quen. Chắc là Tom Goughlin, một nhân viên hình sự còn trẻ. Tuần qua, anh đã tham dự phiên tòa với tư cách là nhân chứng. Cũng lại giọng nói đó: "Cô Katie đã bất tỉnh". Katie muốn phủ nhận điều đó, nhưng nàng không thốt được nên lời. Nàng cũng không thể mở mắt. Lại giọng nói cất lên: "Cánh tay cô ấy đẫm máu. Hình như một động mạch đã bị đứt". Có ai đó nắm lấy cánh tay nàng và dùng một cái gì đó để siết chặt nó. Một giọng nói khác cất lên: "Tom à, có lẽ cô ấy bị chấn thương. Bệnh viện Westlake gần đây. Cậu hãy ở đó với cô ấy, để tôi đi gọi xe cứu thương". Katie thấy mình bềnh bồng, bềnh bồng. Nàng thầm nghĩ, "Tôi vẫn khỏe, chỉ có điều tôi không thể đến bên các bạn được". Có những bàn tay nâng nàng lên và đặt xuống trên cái cáng. Rồi một cái chăn được phủ lên mình nàng. Tuyết tan làm cho nàng cảm thấy ran rát ở mặt. Nàng được khiêng đi. Có tiếng xe khởi động. Xe cứu thương. Những cánh cửa xe mở ra, đóng lại. Katie thầm nghĩ, phải chi mình có thể nói cho họ hiểu. Nàng muốn nói, "Tôi đang nghe các bạn nói đây. Tôi nào có bất tỉnh". Tom đọc lớn tên nàng: "Kathleen De Maio, trú tại Abbington. Cô ấy là phó biện lý. Không, cô ấy chưa tái giá. Cô là vợ của cố thẩm phán Demaio". "Vợ của cố thẩm phán John De Maio". Katie cảm thấy cô đơn tột cùng. Nàng mở to mắt và sau đó là tiếng nói: "Cô Katie đã hồi tỉnh. Thưa cô Katie, cô bao nhiêu tuổi ?" Một câu hỏi khá bài bản. Cuối cùng, nàng có thể nói: "Hai mươi tám tuổi" Một ai đó tháo cái garô mà Tom đã buộc quanh cánh tay nàng. Nàng cố nén cơn đau để khỏi cau mặt khi nhân viên cấp cứu khâu vết thương. "Phải chụp X quang". - Bác sĩ trực phòng cấp cứu nói "Cô may mắn đấy, cô Katie à. Chỉ bị bầm một vài nơi chứ không gãy xương. Cô không nên lo sợ. Mọi việc sẽ ổn thôi". "Chỉ là..." Katie cắn môi. Nàng từ từ định thần và cố trấn tỉnh để không bị rơi vào nỗi sợ hãi vì phải nhập viện. Tom hỏi: "'Cô có muốn tôi báo tin cho chị cô không ? Như vậy tối nay sẽ có người trực bên cô". "Thôi, đừng. Molly vừa bị cảm cúm. Cả nhà đều bị cả". - Giọng nàng thật nhỏ khiến Tom phải cúi người để có thể nghe được. Tom nói: "Cô hãy yên tâm, mọi chuyện rồi sẽ qua. Tôi sẽ đưa xe cô vào trạm sửa chữa". Chiếc giường lăn được đẩy vào góc phòng, ngăn cách bởi một tấm màn. Máu nhỏ từng giọt theo cái ống nhỏ gắn nơi cánh tay phải của nàng. Đầu óc nàng dịu dần. Nàng thấy đau buốt ở cánh tay trái và hai đầu gối. Nàng thấy đau toàn thân. Nàng đang trong bệnh viện chỉ một mình thôi. Cô y tá vuốt tóc và sờ trán nàng rồi nói: "Thưa cô Katie, mọi việc đều ổn cả rồi. Rồi cô sẽ chóng bình phục thôi. Tại sao cô khóc chứ ?" "Tôi đâu có khóc". - Tuy nói vậy nhưng Katie không thể ngăn được nước mắt. Giường của nàng được đẩy vào một căn phòng. Cô y tá trao cho nàng một viên thuốc và cốc nước rồi nói: "Thuốc này sẽ giúp cô được yên ổn". Katie biết chắc đó là thuốc ngủ. Nàng chẳng muốn uống chút nào bởi thứ thuốc đó luôn làm nàng gặp phải cũng chỉ những cơn ác mộng đó. Nhưng nàng thấy tốt hơn là không nên nói ra làm gì. Cô y tá tắt đèn. Đôi chân cô di động thật êm khi cô rời phòng. Căn phòng lạnh ngắt. Khăn trải giường lạnh và ráp. Katie thầm nghĩ, phải chăng những khăn trải giường ở bệnh viện đều lạnh như thế này ? Rồi nàng chìm vào giấc ngủ dẫu biết rằng mình sẽ không thoát khỏi mộng dữ. Nhưng lần này cơn ác mộng lại có một vẻ khác hẳn. Katie thấy mình đang chơi trò tụt dốc. Xe trượt càng lúc càng lên cao và sườn dốc càng lúc càng thẳng đứng. Rồi nàng không còn điều khiển được nữa. Nàng cố lèo lái nhưng xe vẫn cứ lệch hướng, trật bánh và rơi xuống. Trước khi thấy mình bị bẹp dí trên mặt đất, Katie đã giật mình thức giấc, run lẩy bẩy. Tuyết tan rơi lã chã trên ô kính. Katie mệt mỏi gượng dậy. Cánh cửa sổ chưa được kéo xuống hẳn nên tấm sáo lay động và gió lùa vào phòng. Katie quyết định sập hẳn cửa và kéo tấm sáo lên như thế có thể nàng sẽ dễ ngủ hơn. Sáng mai, nàng sẽ về nhà. Nàng quá sợ bệnh viện rồi. Nàng lảo đảo đi về phía cửa sổ. Bộ áo ngủ của bệnh viện ngắn củn cởn khiến đôi chân nàng lạnh run. Đã vậy, tuyết tan càng làm cho cái lạnh dữ dội hơn. Giờ đây, chẳng còn tuyết nữa mà là mưa. Katie tựa người vào mép cửa và nhìn ra ngoài. Mời các bạn đón đọc Lộ Diện của tác giả Mary Higgins Clark & Lê Thành (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tiền 3: Sòng Bạc - Paul Loup Sulitzer
Cimballi, chàng triệu phú 26 tuổi, góa vợ, một con trai, tốt bụng và ham chơi, một hôm bỗng điên rồ nảy ra ý định "tậu" một sòng bạc ở Mỹ để cuộc đời được có thêm phần vui vẻ, bởi vì cái sòng bạc này "...có thể tiếp đón cùng lúc Ba mươi ngàn khách chơi, tổng vốn đầu tư là Năm trăm triệu đô la và ...lãi đồng niên trông rõ được là Một trăm triệu đô la". Vậy thì vui quá rồi. Song, cả tiền lẫn niềm tin đều chưa tìm thấy thì đã thấy chàng Cimballi; nào lồng lên như ngựa vía khắp các châu lục trên trái đất, từ Mỹ sang Âu, Á, Phi rồi lại ngược từ Phi, Á, Âu về Mỹ; nào suýt phá sản; nào hơn thế, suýt bỏ mạng cùng hai đứa con - một đẻ một nuôi, trong đường hầm bên dưới sòng bạc của chính chàng. Bạn đọc sẽ ngạc nhiên và có thể, kinh hoàng, khi đi tới tận cùng của "Sòng Bạc". Sòng Bạc là tập thứ 3 của series tiểu thuyết Tiền của tác giả Paul Loup Sulitzer. Bộ Tiền gồm có: - Tiền! Niềm Vui Sướng - Tiền! Tiền Mặt Trả Ngay - Sóng Bạc *** Tác giả Paul L. Sulitzer trước khi trở thành nhà văn đã là một chuyên gia kinh tế, tham vấn cho nhiều công ty lớn. Nhờ thế ông đã có thể đi sâu vào gan ruột “giới làm ăn”, nắm được tối đa những lắt léo, những bí mật mà chỉ người trong cuộc mới biết. Có lẽ đó là lý do chủ yếu khiến "Tiền!..." có sức hấp dẫn lạ lùng của một cuốn truyện trinh thám. Nhưng khác với loại truyện ấy, vẫn là một cuốn tiểu thuyết tâm lý xã hội, một bức tranh thu nhỏ của thời hiện đại, với sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật, của tốc độ chuyển dịch, sức mạnh ma quái của đồng tiền, với lý tưởng, tình yêu, hạnh phúc, và khổ đau của con người... *** Vào quãng giữa tháng 7 năm 1976, ngày 18, cách đây hơn ba tháng tôi đã lao vào việc mua và xây dựng một khách sạn - sòng bạc khổng lồ trên đất Mỹ. Một sòng bạc đáng gọi là một sòng bạc: Sau khi xây dựng xong, nó sẽ có thể tiếp đón được trong cùng một lúc từ 29 đến 30 ngàn khách chơi. Không phải là nhỏ rồi! Dù sao nó cũng đủ để cạnh tranh với những sòng bạc Caesars hay Saudz của Las Vegas. Quy mô thì y chang như nhau hay cũng gần như thế. Nhưng về tầm quan trọng của công chuyện kinh doanh mà tôi đã dấn thân vào thì chỉ cần ba con số là đủ để biểu hiện nó: Tổng số vốn đầu tư là năm trăm triệu dolars, nếu không có gì bất thường thì số vốn này sẽ được khấu hao xong trong ba năm rưỡi, lãi đồng niên trông thấy được sẽ là một trăm triệu dolars nghĩa là 500 triệu francs mỗi tháng[1]. Trừ tiền thuế và các lệ phí. Ngày 18 tháng 7 năm 1976, một chiếc taxi đưa tôi đến một cao ốc ở Phố 65 Đông, tại Manhattan, New York, lúc đó là tám giờ tối, hơn kém khoảng một hay hai phút gì đó. - Tôi tên là Franz Cimballi. Ông Olliphan chờ tôi. Người bảo vệ có mang súng, tra một bảng danh sách để trên bàn làm việc nhìn chòng chọc vào mặt tôi, rồi gật đầu. Tôi đi về phía thang máy, anh ta gọi giật tôi lại, nói: - Tầng lầu của ông Olliphan có thang máy riêng. Anh ta đến gần tôi, đưa tôi đến trước mặt cái cửa bằng gỗ sồi đánh si, kỳ lạ là không có một quả đấm cửa hay bất cứ một thiết bị mở nào. - Xin mời ông nhìn vào chiếc camera này. Tôi phải ngẩng đầu và con mắt độc nhỡn của chiếc ống kính nhìn xuống tôi. Tôi gửi cho nó một nụ cười quyến rũ mà tôi có bí quyết. Mười giây, cái cửa không có khóa lặng lẽ quay, mở vào một thứ phòng khách của phụ nữ, căng bằng lụa mộc, có kê ở hai bên một chiếc tủ đứng kiểu Louis XVI, hai chiếc ghế fauteuil kiểu Adam, lưng ghế có phù hiệu. Tôi bước vào, cánh cửa đóng lại sau lưng tôi. Tôi không hề cảm thấy chiếc cabin khởi động, và cũng chẳng cảm thấy chấn động nhẹ nào báo hiệu đã lên đến nơi. Một cánh cửa mở ra, gác lầu thứ 64 trên cao, một người quản gia người Porto Rico thản nhiên đỡ chiếc áo choàng của tôi. - Xin mời ông đi lối này, thưa ông Cimballi. Nếu cứ xét theo cái thang, bằng gỗ mun rất hẹp đưa tôi lên một căn phòng có lẽ là căn gác cuối cùng của cao ốc này, thì tầng lầu này phải là song lập. Người mời tôi dùng bữa tối đang chờ tôi ở đầu một dãy hành lang hoàn toàn ốp gỗ, dẫn vào một phòng đọc sách cũng hoàn toàn ốp gỗ như vậy. Khi tôi bước vào, ông cất chiếc vĩ cầm vào hộp, và tôi có thể đoán chắc rằng chỉ riêng một cây đàn này thôi, ít nhất cũng bằng giá của cả tầng lầu song lập này và những gì nó chứa bên trong. Đó là một người đàn ông trạc năm mươi tuổi, cao lớn, mảnh mai, rất đẹp, rất lịch sự! Hai thái dương tóc điểm bạc, da mặt rám nắng, đôi mắt xanh cháy bỏng thông minh. Tên ông ta là James Montague Olliphan. Chính ông là người đứng làm trung gian để bán cho tôi khách sạn “Con Voi Trắng”. - Ông dùng một chút rượu thưa ông Cimballi? ... Mời các bạn đón đọc Tiền 3: Sòng Bạc của tác giả Paul Loup Sulitzer.
Tiền! Niềm Vui Sướng - Paul Loup Sulitzer
"Tiền!..." vào lúc này, chúng tôi hy vọng có thể giúp bạn đọc tiếp cận với "thế giới kinh doanh", với "nghệ thuật làm giàu", và còn hơn thế nữa, có một cái nhìn đầy đủ, xác thực về thời đại mình đang sống. Cậu chàng Frank Cimballi, 19 tuổi, con nhà tỉ phú chỉ biết ăn chơi, bỗng rơi tõm vào một cảnh ngộ bi đát: Bố, mẹ chết, người yêu tự sát, gia tài khổng lồ được thừa kế bị cưỡng đoạt sạch sành sanh. Bị đẩy đến xứ Kenya Châu Phi xa lạ với hai bàn tay trắng - theo đúng nghĩa đen, cậu chàng bắt buộc phải sống, phải làm lại cuộc đời mình. Thế mà chỉ năm năm sau, Cimballi đã trở thành triệu phú, lần luợt đánh bại tất cả những kẻ độc ác đã “gây nên cuộc lừa đảo có tầm cỡ thế kỷ”, kể cả tên trùm tư bản tài chính Martin Yahl. Đánh bại, không phải bằng vũ lực mà bằng chính sức mạnh của đồng tiền, bằng các mánh lới, các thủ đoạn kinh doanh. Và rồi chính Cimballi, đang ngất ngưởng trên đỉnh cao chót vót thắng lợi huy hoàng, lại một lần nữa bị lôi tuột xuống vực cũng bằng những cái “bẫy” nghề nghiệp... Sòng Bạc là tập thứ 3 của series tiểu thuyết Tiền của tác giả Paul Loup Sulitzer. Bộ Tiền gồm có: - Tiền! Niềm Vui Sướng - Tiền! Tiền Mặt Trả Ngay - Sóng Bạc *** Tác giả Paul L. Sulitzer trước khi trở thành nhà văn đã là một chuyên gia kinh tế, tham vấn cho nhiều công ty lớn. Nhờ thế ông đã có thể đi sâu vào gan ruột “giới làm ăn”, nắm được tối đa những lắt léo, những bí mật mà chỉ người trong cuộc mới biết. Có lẽ đó là lý do chủ yếu khiến "Tiền!..." có sức hấp dẫn lạ lùng của một cuốn truyện trinh thám. Nhưng khác với loại truyện ấy, vẫn là một cuốn tiểu thuyết tâm lý xã hội, một bức tranh thu nhỏ của thời hiện đại, với sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật, của tốc độ chuyển dịch, sức mạnh ma quái của đồng tiền, với lý tưởng, tình yêu, hạnh phúc, và khổ đau của con người... *** Tôi nghĩ rằng, ta có thể bắt đầu câu chuyện từ sáng 23 tháng mười một, vào lúc mười một giờ ba mươi phút, trong ngôi nhà ở đường Old Queen bên rìa công viên St. James thành phố London. Sao lại không? Chính vào lúc đó cuộc chơi bắt đầu. Có lẽ không thật đúng vào lúc mười một giờ ba mươi, mà là mười một giờ ba mươi rồi kéo dài trong năm sáu tiếng đồng hồ sau đó. Viên cảnh sát từ công viên Scotland tới ngồi trước mặt tôi. Đến bây giờ trong mắt tôi vẫn còn lưu lại đường nét chiếc veston bằng vải tuýt anh ta mặc hôm đó. Anh ta trạc độ bốn mươi, có khuôn mặt người xứ Scotland hung hung, mái tóc dày và xoắn có đường ngôi bên trái kéo dài sang phải bởi một làn sóng có hai chỗ duỗi, tên là Ogilvie hoặc Watts. Anh ta theo dõi những người dọn nhà thuê đang khuân vác đồ đạc. - Anh rời bỏ căn nhà này? - Chính nó rời bỏ tôi. Người ta đang lấy lại những thứ tôi chưa trả hết tiền. Tôi chưa trả hết tiền một thứ nào. Điện thoại, tôi nhấc máy, lại ngân hàng gọi tới: Tấm séc thứ hai đã tới nơi, họ không chịu đựng nổi tình thế này, tôi định làm gì, mấy giờ tôi mới đến gặp họ, không biết rằng càng sớm càng tốt hay sao? Tôi có biết chứng thư kháng nghị là cái gì không? “Tôi sẽ cố đến thật sớm! Bao giờ? - Một giờ nữa!” Tôi gác máy, thấy cặp mắt màu hạt dẻ đăm chiêu của viên cảnh sát vẫn dán vào tôi. Chắc chắn gã đã nghe hết, đã biết rõ ai gọi tôi, gọi để làm gì, nhưng cứ giả ngây giả điếc như chẳng hay biết gì. Gã bảo: - Hay, tôi vừa nảy ra một ý: Có lẽ tốt nhất là anh nên làm lại từng bước một những cái gì anh đã làm đêm hôm đó. Không bắt buộc đâu. Nhưng tranh thủ được thời gian. Và tôi có thể để anh dược tự do sớm hơn. Tôi đứng lên, chân nặng trịch. - Nào, đi! Các người dọn nhà thuê đã và đang làm việc rất tốt: Họ bắt đầu từ lầu hai, đã dọn sạch mọi thứ trên đó, lầu một cũng trống trơn, chẳng sót thứ gì. Bây giờ họ đang tấn công vào tầng trệt, mang đi hết, nhẵn nhụi, có mảnh giấy vẽ ngôi nhà ở St. Tropez bằng bút mực. - Anh bao nhiêu tuổi? - Hăm mốt. Hai mươi mốt năm, hai tháng và mười bốn ngày. - Anh thuê căn nhà này từ bao giờ? - Cách đây hai tháng mười bốn ngày. - Buổi tối hôm kia là lần đầu tiên? Tôi nhìn theo bức tranh trong tay một người dọn nhà thuê. - Không phải lần đầu. Giữa lầu một và tầng trệt có vài bậc tam cấp. Chúng tôi trèo lên. Tôi ngoái nhìn lại lần cuối cùng mong trông thấy bức vẽ, nhưng người mang nó đi đã ra tới ngoài phố, tới xe tải. - Không phải lần đầu, nhưng chắc chắn là lần cuối cùng. - Đêm ấy anh ăn mừng cái gì là chính? - Sự phá sản của tôi. - Chúng tôi lên thang gác lầu một. - Tôi nói - Tôi ở dưới kia, trong phòng khách bên phải. Trông rõ cô ta trèo lên cầu thang này. Cô dừng lại đứng chỗ này, quay đầu nhìn xuống. Nhìn tôi, giơ tay làm dấu rồi tiếp tục lên gác. - Có tỏ vẻ gì đặc biệt? ... Mời các bạn đón đọc tập 1 bộ Tiền: Tiền! Niềm Vui Sướng của tác giả Paul Loup Sulitzer.
Vịnh Nhật Thực - Jayne Ann Krentz
Một vụ án mạng vừa xảy ra tại vịnh Nhật thực nổi tiếng yên bình. Rafe Madison - gã “trai hư’’ của thị trấn - bị nghi ngờ giết chết cô bạn gái lẳng lơ của mình. Nhưng thật khó tin làm sao, bất chấp mối thâm thù truyền đời giữa hai nhà Madison và Harte, anh ta lại được làm chứng vô tội bởi Hannah Harte, một cô gái hết mực ngoan hiền. Thoát khỏi tù tội trong gang tấc, Rafe rời khỏi thị trấn, anh không bao giờ quên sự dũng cảm của Hannah khi vứt bỏ danh dự, đối chọi với dư luận để cứu giúp mình. Tám năm sau, họ quay về vịnh Nhật thực và đối mặt với nhau trong cuộc chiến tranh giành quyền sở hữu Mộng Tưởng, tòa nhà được bà cố của Hannah di chúc lại cho hai người, với mong muốn kết thúc mối thâm thù giữa hai dòng họ. Cùng lúc đó, những sự kiện kì lạ và bí ẩn về vụ án năm xưa liên tiếp xuất hiện, kéo theo nhiều mối nguy hiểm lại đưa họ gần nhau hơn. Liệu kẻ thủ ác có thành công trong việc bịt đầu mối nhằm chôn vùi những bí mật năm xưa? Liệu lần này Romeo và Juliet sẽ có được kết cục hạnh phúc?Với văn phong hóm hỉnh và đặc biệt là lời thoại hết sức hấp dẫn giữa các nhân vật, tác giả Jayne Ann Krentz dẫn dắt bạn đến thế giới của Romeo và Juliet thời hiện đại, và câu chuyện này sẽ lôi cuốn bạn đến những trang cuối cùng. *** Vịnh Nhật Thực, Bang Oregon   Nửa đêm, tám năm về trước…   “Đường về nhà sẽ dài đấy.”   Giọng nói trầm, khàn, vẻ nam tính không thể nhầm lẫn. Kiểu giọng khiến phụ nữ phải rùng mình. Giọng nói phát ra từ trong bóng tối mênh mông gần chân Vòm Nhật Thực, tảng đá nguyên khối cao nổi bật nơi đoạn đường hẻo lánh thuộc bãi biển đầy đá này.   Hannah Harte rời mắt khỏi ánh đèn hậu trên xe của Perry Decatur đang mờ dần và xoay người. Nhịp tim cô vốn đã đập dồn sau cuộc ẩu đả không lấy gì làm dễ chịu trên ghế trước vừa xong, giờ đây lại tăng tốc nhanh hơn.   Có lẽ rời khỏi xe không phải là một ý tưởng thông minh. Vào tầm khuya như vậy, đoạn đường Cảnh Vịnh này rất vắng vẻ. Hay đấy, Hannah, cô tự nhủ. Đúng là tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa mà, trong khi mày cũng được xem là đứa biết nghĩ và thận trọng. Người không bao giờ mạo hiểm. Người không bao giờ dính vào rắc rối.   “Ai đó?” Cô lui lại một bước, sẵn sàng chạy.   Người đàn ông trên bãi biển thong dong bước khỏi vùng tối dày đặc của vòm đá vào miền ánh sáng của mặt trăng đêm cuối hè dịu nhẹ. Hắn cách cô khoảng sáu mét. ... Mời các bạn đón đọc Vịnh Nhật Thực của tác giả Jayne Ann Krentz.
Căn Phòng Rực Lửa - J. Dickson Carr
Tác phẩm của ông hoàng mật thất. Ông Miles Despard bị đầu độc chết trong một căn phòng khóa kín. Người ta tìm thấy trong tay có một sợi dây thừng chín gút. Bà phục vụ bếp khai rằng trong đêm ông chết, bà nhìn vào khe cửa thấy trong phòng ông có một người phụ nữ ăn mặc theo lối cổ điển đưa cho ông một cái tách và sau đó biến mất qua... tường.  Sau khi chôn cất, người cháu là Mark Despard nghi ngờ ông bác mình bị đầu độc nên tiến hành mở quan tài để kiểm tra. Sau khi hầm mộ đóng kín được cạy lên, quan tài mở nắp mới biết bên trong rỗng không và lại có thêm một sợi dây chín gút.. Vậy là cả 2 sự kiện liên quan đến vụ án đều xảy ra trong phòng kín. Hung thủ là ai khi mà tất cả những người trong nhà đều có chứng cớ ngoại phạm rõ ràng ?  Huyền thoại kể rằng có những phù thủy chuyên đầu độc người khác để mua vui, họ dù có bị giết chết nhưng sau đó vẫn sống lại. Và một sợi thừng thắt chín gút sẽ khiến cho nạn nhân hoàn toàn tuân theo sự sai khiến của phù thủy. Án mạng lần này, cũng từ bàn tay của một phù thủy tái sinh ư ?  *** Ngày xưa, có một người đàn ông sống cạnh nghĩa trang... Là phần mở đầu thích hợp cho một câu chuyện. Điều này kể ra cũng phù hợp với Edward Stevens. Dẫu sao, ở kế cận nhà anh ta cũng có một nghĩa trang nho nhỏ và Despard Park thì luôn bị người ta xì xầm về những chuyện ma quái rùng rợn, nhưng điều này chỉ là một khía cạnh không đáng kể của câu chuyện. Trên chuyến tàu sẽ ghé lại ga Broad Street vào lúc 18 giờ 48, Edward Stevens đang ngồi trong toa dành cho những người hút thuốc. Anh ba mươi hai tuổi và giữ một chức vụ khá quan trọng trong công ty Herald and Son, những nhà xuất bản nổi tiếng. Anh mướn một căn hộ ở thành phố và đồng thời là chủ một biệt thự nhỏ ở Crispen, ngưỡng cửa của thành phố Philadelphia, nơi anh về sống hầu hết những ngày nghỉ cuối tuần vì vợ chồng anh rất thích vùng thôn dã. Chính vì thế mà chiều thứ sáu hôm nay, anh đã trở về đó để gặp Marie và mang theo trong chiếc cặp da của anh tập bản thảo mới nhất của Gaudan Cross viết về những vụ án mạng nổi tiếng. Đây là những sự kiện trung thực nhất của chúng. Chẳng một hiện tượng bất thường nào xảy ra trong ngày và Stevens chỉ đơn giản là đang trên đường về nhà, như bất cứ một người hạnh phúc nào, có nghề nghiệp, một người vợ và một lối sống thích hợp. Chuyến xe lửa dừng lại thật đúng giờ ở Broad Street và Stevens chợt nhớ ra rằng mình phải đánh một bức điện khi tàu dừng lại ở Crispen trong bảy phút nữa. Chẳng ai có thể hiểu tại sao Crispen lại không được sáp nhập vào Haverford hay Bryn Mawr, hai thị trấn kề cận với nó. Crispen gồm khoảng nửa chục nóc gia rải rác trên một sườn đồi, nhưng dẫu sao chăng nữa, trong một nghĩa nào đó, đấy cũng là một cộng đồng nho nhỏ. Thật vậy, ở đây có một bưu điện, một hiệu thuốc và có cả một phòng trà - tiệm bánh ngọt, lấp ló sau đám cây phong hùng vĩ, nơi đại lộ King chạy dọc theo Despard Park. Nơi đây cũng còn có một cửa hàng phục vụ mai táng nữa. ... Mời các bạn đón đọc Căn Phòng Rực Lửa của tác giả J. Dickson Carr.