Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Giờ Đức văn

Nước Đức sau Thế chiến II. Siggi Jepsen nhắm mắt, sông Elbe ngoài cửa sổ chảy không ngừng, bồng bềnh băng. Những tàu kéo chầm chậm xô dạt sóng nước, đẩy băng xanh chồm qua bờ cát tới bãi lau sậy, để chúng được lãng quên ở đó. Còn trong phòng biệt giam của cù lao cải tạo trẻ vị thành niên, Siggi đối mặt  trang vở trắng đang chờ bài luận Đức Văn " Niềm vui nghĩa vụ" mà cậu đã không viết nổi chữ nào trong 2 giờ trên lớp. Dòng sông ký ức ngổn ngang của cậu lúc này buộc phải rã băng, ngược về nguồn, để tái hiện câu chuyện khởi sự năm 1943... Xuất bản năm 1968, Giờ Đức văn của Siegfried Lenz, biểu hiện mối xung đột giữa nhiệm vụ với lương tâm, đạo đức dưới hình thức kỳ quái và rối rắm trong câu chuyện đầy sức thuyết phục, được Library Journal đánh giá là một trong những tiểu thuyết sâu sắc nhất, di dỏm, cay đắng, say sưa nhất, khiến người đọc phải suy tư nhiều nhất của văn chương Đức đương đại. Sau một thời gian ngắn, cuốn sách được đưa vào nhà trường phổ thông, trở thành một trong những tác phẩm văn học kinh điển được đọc, mổ xẻ, phân tích rộng và sâu nhất ở CHLB Đức. Từ thập niên 1970, số ấn bản Giờ Đức văn, riêng tại Đức, đã vượt trên 1 triệu bản. *** “Giờ Đức văn”: Giới hạn của nghĩa vụ byZét Nguyễn  28/10/2019 Tháng 4 năm 2019, bà Angela Merkel cho gỡ bỏ hai bức tranh của Emil Nolde, một họa sĩ nổi tiếng người Đức thuộc trường phái biểu hiện khỏi phòng làm việc của mình trong phủ thủ tướng Đức. Cơn cớ cho sự việc mà báo chí đã tốn bút mực mổ xẻ nguyên do nằm ở chỗ: Emil Nolde là một nghệ sĩ huyền thoại dưới thời phát xít Đức, có các tác phẩm từng bị quy là nghệ thuật suy đồi, từng bị nhận lệnh cấm vẽ; song ông cũng chính là một nhân vật tích cực bài Do thái và ủng hộ Hitler. 51 năm trước, vào năm 1968, một tác phẩm mà đến thời điểm này đã đồng loạt độc giả, nhà phê bình lẫn nghiên cứu, coi là kinh điển của văn chương hậu chiến Đức, ra đời: “Giờ Đức văn” của Siegfried Lenz. Kể về một họa sĩ thuộc trường phái biểu hiện bị cấm vẽ, cuốn tiểu thuyết này nhanh chóng trở thành một trong hiện tượng văn chương thành công vang dội nhất ở Đức, được đưa vào đọc và dạy trong nhà trường, đã bán được hàng triệu bản, được dịch ra hàng chục thứ tiếng. Và không lấy gì làm ngạc nhiên, rất nhiều độc giả đã ngộ nhận rằng hình mẫu cho nhân vật người họa sĩ trong “Giờ Đức văn” chính là Nolde. Nhưng đọc “Giờ Đức văn”, với một sự gán ghép thô thiển đến như vậy, là một cách đọc hạn chế vội vàng gạt bỏ hết những chiều sâu tâm lý và hành vi mà người kể chuyện bậc thầy Siegfried Lenz đã đạt được để thực thi nghĩa vụ của mình trong văn chương, cái nghĩa vụ mà như một nhà phê bình đã nhận xét, là giúp người Đức “trả những món nợ khổng lồ mà người Đức cùng với Führer của họ đã đặt lên vai mình.” Hơn tất cả, “Giờ Đức văn” là một chiêm nghiệm nhức nhối đầy nhân văn về đạo đức và triết học, về gia đình và ký ức, về những tổn thương tâm lý để lại những sự méo mó rất khó lý giải. “Giờ Đức văn” do Siggi Jepsen, người kể chuyện ngôi thứ nhất, một chàng trai 21 tuổi ngồi trong phòng biệt giam trên cù lao cải tạo trẻ vị thành niên, thuật lại một quãng đời ngắn ngủi vào năm cậu 10 tuổi. Năm 1943, ở một vùng quê xa xăm, người bố cảnh sát Jens Ole Jepsen của cậu đã được trên giao cho một nhiệm vụ: thực thi lệnh cấm vẽ lên người hàng xóm là ông họa sĩ nổi tiếng thế giới Max Nansen. Vốn là bạn thân với nhau, ông Nansen còn từng cứu mạng ông Jepsen, nhưng giờ đây mệnh lệnh đã ban thì ông Jepsen phải chấp hành. Ông Jepsen, bất chấp gian khổ, mưa sa, gió quất, dèm pha từ hàng xóm, bất chấp cả tình bằng hữu, thực thi và thực thi bằng được cái lệnh cấm vẽ ấy, bởi đơn giản đó là nghĩa vụ. Ông Jepsen tận tụy và mẫn cán, huy động cả con trai là Siggi để làm gián điệp, để giúp tịch thu, thiêu hủy cả tranh đang lẫn đã vẽ của ông Nansen. Dùng ngôn từ tinh xảo để vẽ lại không chỉ các bức tranh mà còn cả một vùng thôn quê hẻo lánh, dùng ký ức để phục dựng lại chi tiết, đối thoại, cảnh huống, hành động, Siggi lần lại từng mẩu hồi ức, để bày ra trong những năm tưởng chừng không lấy gì làm biến động, ở cái vùng đất hẻo lánh ở cực Bắc bang Schleswig-Holstein giáp với Đan Mạch, nơi cái tên Hitler chưa bao giờ được nhắc đến, nơi Thế chiến thứ 2 cơ hồ vắng mặt, nơi người dân sinh hoạt trong cái nếp thường nhật an bình không gì có thể phá vỡ được. Ở nơi ấy, bi kịch đã rơi xuống đầu Siggi, ông họa sĩ, chị gái Siggi, anh trai Siggi, và còn nhiều hơn nữa. Thuật lại một câu chuyện tưởng chừng giản dị, song “Giờ Đức văn” lại đặt ra hàng loạt những câu hỏi nhức nhối. Vậy rốt cục, ông bố cảnh sát của Siggi là người đáng ngợi khen vì đã thực hiện nghĩa vụ của mình một cách nghiêm túc và nghiêm ngặt? Hay ông đáng bị phê phán vì đã mù quáng tuân theo nghĩa vụ mà không một lần chất vấn ý nghĩa của nó? Liệu ông có nhân danh nghĩa vụ mà lao theo cám dỗ của bản thân? Càng đến cuối, “Giờ Đức văn” càng lộ rõ cho độc giả thấy sự yếu đuối không dám phản kháng của ông Jepsen: sự cứng đầu đến ám ảnh để biến những ham muốn cá nhân trở thành nghĩa vụ. Ông Jepsen đã trở thành nạn nhân của chính nghĩa vụ. Trong một cuộc phỏng vấn, Lenz đã tâm sự rằng, với ông, không có hình thức nào phù hợp cho việc truyền tải trải nghiệm của con người bằng tự sự, và rằng, “Gần như mọi nhà văn, ở một nghĩa nào đó, viết để phô bày chính bản thân mình.”  Vậy, Lenz phô bày gì của chính mình, nếu không phải là một cam kết mãnh liệt của văn chương vào tâm thức của con người. Không khoan nhượng, “Giờ Đức văn” mổ xẻ và phơi bày cả một ám ảnh lớn lao về vai trò và trách nhiệm của dân tộc Đức để cho chủ nghĩa phát xít trỗi dậy, thống trị và reo giắc bao tàn khốc. “Giờ Đức văn” có lẽ vì thế thuộc về một dòng văn chương hậu chiến đầy suy tưởng và soi xét, như một sự “xét lại,” như một sự thức tỉnh mà rạch ròi nhìn vào quá khứ tội lỗi của mình. Đúng như nhận xét của Marcel Reich-Ranicki, nhà phê bình xuất sắc được gọi là giáo hoàng văn học Đức, “Giờ Đức Văn” có “cái mà Lenz miêu tả là mục đích của văn chương. Đó chính là nỗ lực để vạch trần thế giới để rồi không một ai còn cảm thấy vô tội hay thản nhiên được nữa. Cả một thế hệ đã nổi lên trong cái bài học vĩ đại về tinh thần Đức và sự ngớ ngẩn của người Đức.”  Người bẻ ghi để những con tàu chở tù nhân đi về phía trại tập trung, người lính bảo vệ khóa chặt cửa để người Do thái không trốn thoát được khỏi phòng hơi ngạt, hay người cảnh sát tuân thủ nghiêm ngặt lệnh cấm vẽ áp lên một ông họa sĩ hàng xóm, là những những chủ đề cứ trở đi trở lại trong văn chương hậu chiến của Đức. Hơn ai hết, Lenz ý thức được vai trò của nghĩa vụ, nguyên tắc của việc phải thực thi nghĩa vụ, niềm vui trong việc hoàn thành nghĩa vụ, vả cả những hạn chế của nghĩa vụ. Đó chính là khi con người sa vào cái bẫy của sự phục tùng đầy phi nhân. Zét Nguyễn (Bài đã đăng trên TTCT *** Tác Giả (17/3/1926 - 7/10/2014) Siegfried Lenz sinh tại Lyck, thành phố nhỏ thuộc Đông Phổ. Ông tốt nghiệp đại học Triết học, Anh văn và Lịch sử văn học Đức tại Hamburg sau Thế chiến II, là biên tập viên báo Thế giới một thời gian ngắn (1950-1951) rồi trở thành nhà văn tự do sống tại Hamburg. Khởi đầu nghiệp văn chương, Siegfried Lenz đã được sánh tầm với các nhà văn lớn của Đức như Heinrich Böll, Günter Grass hay Martin Walser. Lenz đã được trao các giải thưởng: Peace Prize of the German Book Trade (1988), The Goethe Prize of Frankfurt am Main (2000), Italian International Nonino Prize (2010). Trước khi qua đời, ông đã kịp khởi xướng Siegfried Lenz Prize - một trong các giải thưởng văn chương danh giá nhất của Đức cho “các nhà văn quốc tế được ghi nhận trong hoạt động văn chương sáng tạo theo tinh thần Siegfried Lenz”. Siegfried Lenz để lại 14 tiểu thuyết, 120 truyện ngắn, nhiều truyện vừa và kịch bản sân khấu. Số lượng ấn bản sách của ông bằng tiếng Đức và 35 thứ tiếng khác đến nay đã ngót nghét 30 triệu bản và vẫn đang tăng lên. *** BÀI LUẬN Họ phạt tôi, bắt viết bằng xong bài luận. Lão Joswig đích thân dẫn tôi về phòng giam kiên cố, gõ gõ tay lên lớp lưới chăng trước cửa sổ, xoa xoa tấm đệm rơm; sau đó, viên giám thị chúng tôi vẫn có cảm tình nhất ấy ngó nghiêng xem xét kỹ cả chiếc tủ sắt lẫn hốc tường bí mật của tôi lâu nay vẫn nằm khuất sau chiếc gương soi. Chẳng nói, chẳng rằng, hậm hà hậm hực, lão ta xem xét hết cái bàn đến chiếc ghế đẩu chằng chịt vết khía, vết rạch, tò mò soi mói chỗ thoát nước trong chậu rửa, thậm chí, còn gõ gõ ngón tay như dò hỏi bậu cửa sổ, săm soi lò sưởi xem có gì khác thường không, rồi, xong xuôi đâu đấy, lão ta mới đến bên tôi, thong thả sờ nắn người tôi từ vai đến đùi để cầm chắc tôi không mang vật gì có hại trong túi áo túi quần. Sau rốt, với vẻ đầy trách móc, lão đặt quyển vở lên bàn tôi, vở tập làm văn - trên bìa vở có dán miếng nhãn màu xám ghi rõ: vỏ tập làm văn của Siggi Jepsen - rồi không nói không rằng đi ra cửa, với vẻ mặt đầy thất vọng, của một kẻ nhân từ bị xúc phạm; bởi vì lão Joswig - viên giám thị chúng tôi vẫn có cảm tình nhất đó - chịu đựng các hình phạt thỉnh thoảng chúng tôi phải chịu như thế này còn khổ sở hơn, lâu hơn và cũng thấm thía hơn cả chính chúng tôi nữa kia. Lão ta để lộ cho tôi biết nỗi buồn phiền của lão không bằng lời, mà bằng cái cách lão khóa cửa. Lão loay hoay nhét chìa khóa vào ổ, hờ hững, bối rối và lưỡng lự trước khi quay vòng đầu tiên, rồi vặn ngược trở lại, khiến ổ khóa kêu cạch cạch, rồi, như thể đã vượt qua phút do dự, lão ta hằm hằm quay luôn hai vòng liên tiếp. Vâng, không phải ai khác, mà chính lão Karl Joswig, người đàn ông có vẻ ẻo lả và nhút nhát ấy, đã khóa tôi trong phòng giam để viết cho xong bài luận. Ngồi thế này đã gần hết ngày mà tôi vẫn không sao bắt đầu viết cho được: nhìn qua cửa sổ ra ngoài, thấy sông Elbe đang chảy, dòng sông chảy xuyên qua bóng gương mặt tôi mờ mờ phản chiếu trên kính cửa sổ; tôi cố nhắm mắt lại, nước sông vẫn không ngừng chảy, mặt sông phủ đầy các tảng băng phơn phớt màu xanh da trời đang bồng bềnh trôi. Tôi cứ phải dõi theo mãi những chiếc tàu kéo; chúng từ từ chạy, mũi tàu xắn lên mặt băng những đường ngoằn ngoèo xám ngoét, cứ phải nhìn dòng nước mang theo các tảng băng trôi lổn nhổn, dồn những khối băng chồm lên bãi cát của chúng tôi, ken két xô đẩy chúng lên đến bãi lau sậy khô rồi để quên chúng ở đấy. Tôi miễn cưỡng dõi theo đám quạ đen; bọn chúng như thể hẹn hò nhau ở đây trước khi tạt về Stade không bằng. Chúng bay lẻ tẻ từ Wedel sang, từ Finkenwerder hay Hahnöfer-Sand tới, nhóm thành bầy đông nghịt trên đảo chúng tôi, rủ nhau cất cánh vút lên cao rồi lượn đi lượn lại, chờ ngọn gió thuận chiều sẽ hất chúng về phía Stade. Rặng liễu khẳng khiu, phủ lớp băng mỏng và đầy sương muối làm tôi để ý; hàng rào dây thép sơn trắng, khu xưởng, các biển cảnh báo cắm ở bãi cát, những luống đất đông cứng trong vườn rau mà ra năm chúng tôi sẽ phải tự gieo trồng và chăm bón theo hướng dẫn của giám thị: tất tật những thứ ấy, thậm chí cả mặt trời, ánh nắng như đang chiếu qua một lớp kính mờ, hắt bóng dài nghiêng nghiêng, đều làm tôi sao nhãng. Thỉnh thoảng tôi cứ vừa định bắt tay vào chuyện viết lách thì ánh mắt tôi như thể lại vô tình bắt vào bệ cầu tàu nổi méo mó, xây xước, neo bằng dây xích, cùng chiếc xuồng gắn máy rộng bè bè và sáng loáng đồng thau từ Hamburg vừa đến neo vào đó - chiếc xuồng mỗi tuần, thì cứ nói ang áng thế, thả chừng một ngàn hai trăm nhà tâm lý học xuống đảo, đám chuyên viên tâm lý học quan tâm đến mức bệnh hoạn tới đám vị thành niên khó dạy bảo như chúng tôi. Tôi không rời mắt nhìn theo họ lần bước trên lối đi gồ ghề qua bãi cát, trước khi họ được đưa vào ngôi nhà màu xanh của Ban Giám đốc, cử hành lễ nghi chào hỏi như thường lệ; ở đó chắc thể nào họ cũng được nhắc nhở phải thận trọng và kín đáo khi tiến hành nghiên cứu, trước khi họ hối hả chen nhau ra ngoài, tràn ra khắp đảo chúng tôi, rồi làm bộ rất vô tình, theo nhau sán vào bắt chuyện với bọn bạn bè tôi: thằng Pelle Kastner, thằng Eddi Sillus hay thằng Kurtchen Nickel nóng tính chẳng hạn. Có lẽ, họ quan tâm đến bọn chúng tôi như thế là vì, theo số liệu Ban Giám đốc đã thống kê, gần tám chục phần trăm những ai từng qua cải huấn trên đảo đây đều không tái phạm nữa. Nếu lão Joswig không khóa trái tôi vào phòng giam đây để viết cho bằng xong bài luận, thì bây giờ hẳn họ cũng đang bám theo tôi, dùng kính lúp khoa học của họ soi xét cuộc đời tôi và sẽ bóp đầu, xoa trán, cố vẽ cho bằng được một bức tranh về tôi. Nhưng tôi phải viết bù hai giờ Đức văn, phải nộp bài luận mà cả lão Tiến sĩ Korbjuhn gầy gò và rụt rè lẫn ông giám đốc Himpel của chúng tôi đang trông ngóng. Trên cù lao Hahnöfer-Sand cạnh đây - cũng nằm trên sông Elbe, hơi chếch về phía Twielenfleth Wischhafen, và cũng là nơi giam giữ và cải tạo tụi vị thành niên khó dạy giống như trên cù lao chúng tôi - chắc chuyện sẽ không thể như thế này. Mặc dù hai cù lao này rất giống nhau, mặc dù cả hai đều bị bao quanh bởi thứ nước loang váng dầu như nhau, mặc dù cả hai cù lao cùng chứng kiến những con tàu như nhau chạy qua, được cùng một đám hải âu ghé đậu, song trên cù lao Hahnöfer-Sand không có lão Tiến sĩ Korbjuhn, không có giờ Đức văn, không có những đề luận ghê gớm đến mức, tôi thề không nói ngoa chút nào, làm đa số bọn chúng tôi phải đau đớn về thể xác như thế này. Bởi vậy, nhiều đứa trong bọn chúng tôi mong được cải tạo trên cù lao Hahnöfer-Sand hơn, nơi tàu viễn dương trên đường ra biển chạy qua trước và cũng là nơi ngọn lửa phần phật ồn ào trên ống khói nhà máy lọc dầu luôn luôn vẫy chào từng người một ấy. Mời các bạn đón đọc Giờ Đức văn của tác giả Siegfried Lenz & Hoàng Đăng Lãnh (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Con Trai
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tiểu thuyết Con Trai của tác giả Lois Lowry & Mèo Xanh Biển (dịch). Họ gọi cô là Claire Thủy Triều. Khi cô trôi dạt vào bờ biển của họ, chẳng ai biết rằng cô vừa trốn chạy khỏi một xã hội không sắc màu, không cảm xúc. Rằng cô đã trở thành Tàu mẹ ở tuổi mười ba. Rằng cô mang trong mình một Sản phẩm ở tuổi mười bốn. Rằng nó đã bị tước mất khỏi cơ thể cô. Claire có một đứa con trai. Nhưng số phận nó ra sao cô không hề hay biết. Tên nó là gì? Thậm chí nó có còn sống không? Cô phải quên nó đi, nhưng đó là điều bất khả. Không gì có thể ngăn Claire đi tìm con trai mình, kể cả khi điều đó đồng nghĩa với những hy sinh không tưởng. Phần thứ tư và cũng là cuốn cuối cùng của bộ truyện một lần nữa quăng người đọc trở lại thế giới lạnh lùng khủng khiếp của phần một Người truyền ký ức. Hồi kết hằng mong mỏi cho thiên truyện của Lois Lowry lên đến cao trào trong một trận đụng độ cuối cùng giữa cái thiện và cái ác. Nhưng rốt cuộc, còn đọng lại trong ta chẳng phải điều gì gay cấn hay sử thi như thế, mà mạnh mẽ và thấm thía: đó là tình yêu, sự bền bỉ và niềm hy vọng.   Lois Lowry sinh năm 1937 ở Hawaii, Mỹ. Bà xuất bản tiểu thuyết đầu tiên, Mùa hè để chết, năm 40 tuổi, và đến nay đã cho ra đời gần 50 đầu sách, trong đó có những bộ sách thiếu nhi được yêu thích như Người truyền ký ức, Anastasia, Sam Krupnik và Gooney Bird. *** Bộ sách Người Truyền Ký Ức gồm có: Người Truyền Ký Ức Tìm Lại Màu Xanh Người Truyền Tin Con Trai *** Tóm tắt: Claire Thủy Triều, một người phụ nữ trốn chạy khỏi một xã hội không sắc màu, không cảm xúc, đang tìm kiếm đứa con trai bị tước đoạt từ cô. Cuốn sách đưa người đọc trở lại thế giới lạnh lùng trong phần một Người Truyền Ký Ức. Hành trình tìm con của Claire là một cuộc chiến giữa cái thiện và cái ác, và cuối cùng, tình yêu, sự bền bỉ và niềm hy vọng chiến thắng. Review: Ưu điểm: Câu chuyện cảm động và đầy hy vọng: Cuốn sách ca ngợi tình mẫu tử thiêng liêng và sức mạnh của lòng tin. Nhân vật được xây dựng độc đáo: Claire là một người phụ nữ mạnh mẽ và đầy nghị lực. Kết thúc viên mãn: Cuốn sách mang đến một kết thúc đẹp cho bộ truyện Người Truyền Ký Ức. Nhược điểm: Cốt truyện có thể hơi chậm với một số người đọc: Cuốn sách tập trung vào nội tâm nhân vật và diễn biến tâm lý. Giải thích về xã hội không sắc màu chưa đầy đủ: Cuốn sách tập trung vào câu chuyện của Claire, ít giải thích về xã hội dystopian. Đánh giá chung: Con Trai là một cuốn sách hay và ý nghĩa, là phần kết hoàn hảo cho bộ truyện Người Truyền Ký Ức. Cuốn sách ca ngợi những giá trị tốt đẹp của con người và khẳng định sức mạnh của tình yêu thương có thể vượt qua mọi khó khăn. Điểm đánh giá: 4/5 Đối tượng phù hợp: Mọi lứa tuổi Người yêu thích văn học thiếu nhi Người quan tâm đến các vấn đề xã hội Lời khuyên: Nên đọc sách với tâm hồn cởi mở và sẵn sàng đón nhận những thông tin mới. Nên suy ngẫm về những thông điệp mà tác giả muốn truyền tải. Nên chia sẻ cảm nhận về cuốn sách với người khác. Trích dẫn: "Tình yêu là sức mạnh mạnh mẽ nhất trên thế giới." - Lois Lowry "Hy vọng là điều luôn tồn tại, dù trong hoàn cảnh nào." - Claire Thủy Triều Tóm tắt nội dung chính: Cuốn sách kể về hành trình tìm con của Claire Thủy Triều, một người phụ nữ mạnh mẽ và đầy nghị lực. Cuốn sách ca ngợi tình mẫu tử thiêng liêng và sức mạnh của lòng tin. Liên hệ bản thân: Cuốn sách giúp tôi nhận ra tầm quan trọng của tình yêu thương trong cuộc sống. Cuốn sách cũng giúp tôi hiểu được rằng dù trong hoàn cảnh nào, hy vọng luôn là điều tồn tại. Tôi sẽ luôn trân trọng những người thân yêu của mình và không bao giờ từ bỏ hy vọng. *** Tóm tắt: "Con Trai" là phần cuối cùng trong bộ tứ "Người Truyền Ký Ức" của Lois Lowry, được dịch bởi Mèo Xanh Biển. Câu chuyện xoay quanh nhân vật Claire Thủy Triều, một phụ nữ trẻ sống trong một xã hội không có màu sắc và cảm xúc. Claire mang trong mình một đứa con trai, nhưng số phận của đứa bé là một bí mật và cô quyết định tìm kiếm nó. Claire trở thành Tàu mẹ ở tuổi mười ba và có một Sản phẩm khi cô mười bốn tuổi, nhưng đứa trẻ này đã bị tước mất khỏi cơ thể cô. Cô không biết tên của đứa con và càng không biết liệu nó còn sống hay không. Tuy nhiên, niềm khao khát tìm kiếm con trai của Claire không thể ngăn cản được. Cuốn sách đưa độc giả vào cuộc hành trình của Claire, một hành trình đầy hi sinh và khó khăn để tìm kiếm đứa con bị mất. Truyện kết thúc với một trận đụng độ cuối cùng giữa cái thiện và cái ác, nhưng điều cuối cùng còn đọng lại trong tâm hồn là tình yêu, sự bền bỉ và niềm hy vọng. Review (Đánh giá): "Con Trai" là một kết thúc hoàn hảo cho bộ tứ "Người Truyền Ký Ức". Lois Lowry một lần nữa chứng minh tài năng của mình trong việc xây dựng một thế giới tưởng tượng phức tạp và những nhân vật đầy tính cách. Cuộc phiêu lưu của Claire không chỉ là hành trình vượt qua những thử thách vật lý mà còn là một cuộc chiến tranh tinh thần và trái tim. Câu chuyện tập trung vào tình mẫu tử và lòng hy sinh, tạo nên một câu chuyện đầy cảm xúc và sâu sắc. Bộ sách "Người Truyền Ký Ức" toàn diện và là một hành trình đáng nhớ với độc giả, với những thông điệp về tình yêu, đạo đức và ý nghĩa của cuộc sống. Mời các bạn mượn đọc sách Con Trai của tác giả Lois Lowry & Mèo Xanh Biển (dịch).
Người Truyền Tin
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tiểu thuyết Người Truyền Tin của tác giả Lois Lowry & Thiên Thanh (dịch). Lại là Trái Đất trong tương lai. Lại một thế giới hoàn toàn khác. Không phải xã hội công nghệ phát triển vượt bậc và quy củ đến lạnh người. Cũng chẳng phải thị trấn lạc hậu nơi kẻ yếu thế bị ruồng bỏ man rợ. Rốt cuộc, trong phần thứ ba của bộ tứ Người truyền ký ức, ta cũng gặp một cộng đồng tốt lành, nơi người người đối xử với nhau thương yêu và trân trọng… … cho đến khi Chợ Buôn xuất hiện. Và người ta bắt đầu trao đổi. Khó mà tưởng tượng họ sẵn sàng đánh đổi những gì để lấy chút tiện nghi hay đôi trò giải trí xuẩn ngốc. Thế giới bắt đầu trở nên xấu xí, và đó là khi chúng ta cần một anh hùng. Không ai xa lạ, ta từng gặp người anh hùng ấy trong phần hai, Tìm lại màu xanh. Từ một thằng nhóc hoang dã bất trị, Matty giờ đã lớn thành một cậu thiếu niên chững chạc và tràn đầy thấu cảm. Cậu nghĩ mình cũng khá đặc biệt, bởi cậu là người duy nhất có thể băng qua khu rừng thâm u bao quanh Làng để truyền tin đến những cộng đồng xung quanh. Nhưng Matty đặc biệt hơn cậu tưởng rất nhiều, vì trong cậu ẩn chứa một sức mạnh lớn lao mà cậu không bao giờ ngờ tới. Cuốn ta đi trong thế giới tưởng tượng choáng ngợp rồi neo giữ ta lại bằng những thông điệp sâu sắc về nhân tính, Lowry vẫn luôn kỳ diệu như thế. *** Bộ sách Người Truyền Ký Ức gồm có: Người Truyền Ký Ức Tìm Lại Màu Xanh Người Truyền Tin Con Trai *** Tóm tắt: Matty, một thiếu niên sống trong một cộng đồng tốt đẹp, là người duy nhất có thể băng qua khu rừng để truyền tin. Khi Chợ Buôn xuất hiện, người dân bắt đầu trao đổi những thứ quý giá để lấy tiện nghi và giải trí, khiến thế giới trở nên xấu xí. Matty nhận ra mình có sức mạnh đặc biệt và sử dụng nó để chống lại Chợ Buôn và bảo vệ cộng đồng. Review: Ưu điểm: Câu chuyện hấp dẫn và ly kỳ: Cuốn sách đưa người đọc vào một hành trình đầy mạo hiểm cùng Matty. Nhân vật được xây dựng độc đáo: Matty là một anh hùng dũng cảm và đầy lòng nhân ái. Thông điệp sâu sắc: Cuốn sách ca ngợi những giá trị tốt đẹp của con người và lên án sự tham lam, ích kỷ. Nhược điểm: Cốt truyện có thể hơi dễ đoán với một số người đọc: Cuốn sách đi theo mô típ anh hùng quen thuộc. Kết thúc có thể gây tranh cãi: Cuốn sách kết thúc một cách mở, có thể khiến một số người đọc cảm thấy hụt hẫng. Đánh giá chung: Người Truyền Tin là một cuốn sách hay và ý nghĩa, phù hợp với mọi lứa tuổi. Cuốn sách ca ngợi những giá trị tốt đẹp của con người và khẳng định sức mạnh của lòng dũng cảm và tình yêu thương. Điểm đánh giá: 4/5 Đối tượng phù hợp: Mọi lứa tuổi Người yêu thích văn học thiếu nhi Người quan tâm đến các vấn đề xã hội Lời khuyên: Nên đọc sách với tâm hồn cởi mở và sẵn sàng đón nhận những thông tin mới. Nên suy ngẫm về những thông điệp mà tác giả muốn truyền tải. Nên chia sẻ cảm nhận về cuốn sách với người khác. Trích dẫn: "Lòng dũng cảm không phải là không sợ hãi. Nó là hành động bất chấp sợ hãi." - Matty "Tình yêu thương là sức mạnh mạnh mẽ nhất trên thế giới." - Lois Lowry   Tóm tắt nội dung chính: Cuốn sách kể về câu chuyện của Matty, một thiếu niên dũng cảm sử dụng sức mạnh của mình để chống lại Chợ Buôn và bảo vệ cộng đồng. Cuốn sách ca ngợi những giá trị tốt đẹp của con người và lên án sự tham lam, ích kỷ. Liên hệ bản thân: Cuốn sách giúp tôi nhận ra rằng mỗi người đều có thể trở thành anh hùng trong cuộc sống của chính mình. Cuốn sách cũng giúp tôi hiểu được tầm quan trọng của lòng dũng cảm và tình yêu thương. Tôi sẽ cố gắng sử dụng lòng dũng cảm và tình yêu thương của mình để giúp đỡ mọi người và làm cho thế giới trở nên tốt đẹp hơn. *** Tóm tắt: "Người Truyền Tin" là phần thứ ba trong bộ tứ "Người Truyền Ký Ức" của Lois Lowry, được dịch bởi Thiên Thanh. Câu chuyện diễn ra trong một thế giới tương lai đầy sáng tạo và kỳ bí. Trái ngược với những xã hội công nghệ cao hay những thị trấn hoang dã bị bỏ rơi, cộng đồng trong "Người Truyền Tin" được mô tả như một nơi tốt lành, nơi mọi người đối xử với nhau với lòng trân trọng và tình yêu thương. Tuy nhiên, sự yên bình của cộng đồng bắt đầu bị đảo lộn khi Chợ Buôn xuất hiện và việc trao đổi bắt đầu. Thế giới trở nên xấu xí hơn, và cả cộng đồng cần một người anh hùng để đối mặt với những thách thức. Matty, một nhân vật quen thuộc từ "Tìm Lại Màu Xanh", nay đã trở thành một cậu thiếu niên trưởng thành và thấu hiểu. Với khả năng đặc biệt là có thể băng qua khu rừng nguy hiểm, cậu được giao trách nhiệm truyền tin đến các cộng đồng lân cận. Tuy nhiên, Matty còn giữ một sức mạnh to lớn mà cậu không hề hay biết. Cuốn sách đưa độc giả đến với một thế giới tưởng tượng đầy phức tạp, với những thông điệp sâu sắc về nhân tính. Review (Đánh giá): "Người Truyền Tin" tiếp tục kể câu chuyện hấp dẫn và đầy sáng tạo trong thế giới của Lois Lowry. Tác giả không chỉ làm cho độc giả mê mẩn bởi cốt truyện hấp dẫn mà còn bởi những thông điệp sâu sắc về tình cảm, đạo đức và sự hi sinh cho cộng đồng. Matty, với sức mạnh bí ẩn, trở thành nguồn động viên và hi vọng cho cộng đồng trong bối cảnh khó khăn. Câu chuyện chứng minh sức mạnh của lòng nhân ái và khả năng của con người khi đối mặt với thử thách. "Người Truyền Tin" không chỉ là một tiểu thuyết tưởng tượng, mà còn là một tác phẩm nghệ thuật với những điểm nhấn tinh tế về con người và xã hội. Mời các bạn mượn đọc sách Người Truyền Tin của tác giả Lois Lowry & Thiên Thanh (dịch).
Tìm Lại Màu Xanh
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tiểu thuyết Tìm Lại Màu Xanh của tác giả Lois Lowry & Phạm Quốc Hưng (dịch). Kira đáng ra đã chết lâu rồi. Từ ngày cô sinh ra, với bên chân bị tật, ngay sau khi cha cô bị thú rừng giết hại. Luật của làng là vậy. Nhưng tình yêu của mẹ đã giữ gìn bảo bọc cô trong túp nhà nhỏ bên bếp lửa hồng. Cho đến khi một cơn bạo bệnh cướp mẹ đi, để cô lần nữa đối mặt với những hòn đá, lời rủa mắng và xua đuổi của dân làng. Quyền ở lại làng, và ngay cả mạng sống của cô, đang bị đe dọa. Nhưng Kira có một bí mật, một điều kỳ diệu: điều kỳ diệu nằm trong những ngón tay cô, những ngón tay biết vẽ nên những bức tranh muôn màu trên khung thêu của mẹ. Hội đồng Giám hộ của làng biết điều ấy. Và họ cần một người biết vẽ tương lai. Tương lai nào dành cho Kira, cũng như cả ngôi làng? Là phần thứ hai trong bộ tứ Người truyền ký ức, Tìm lại màu xanh đưa bạn đọc tới một thế giới khắc nghiệt và cằn cỗi để cùng khám phá ra trong đó vẫn có những mảnh đất để ươm trồng những vườn hoa màu sắc, vẫn có người khao khát màu xanh của thanh bình. *** Bộ sách Người Truyền Ký Ức gồm có: Người Truyền Ký Ức Tìm Lại Màu Xanh Người Truyền Tin Con Trai *** Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tiểu thuyết Tìm Lại Màu Xanh của tác giả Lois Lowry & Phạm Quốc Hưng (dịch) Tóm tắt: Kira, một cô bé với tật chân bẩm sinh, sống trong một ngôi làng có luật lệ hà khắc. Cha cô bị thú rừng giết hại, theo luật làng, Kira cũng phải chết. Mẹ cô che chở cho Kira và dạy cô vẽ tranh. Sau khi mẹ qua đời, Kira phải đối mặt với sự thù hận của dân làng. Hội đồng Giám hộ phát hiện ra khả năng vẽ tranh của Kira và yêu cầu cô vẽ tương lai. Kira vẽ một tương lai tươi sáng với màu xanh hy vọng. Nhờ có Kira, dân làng bắt đầu thay đổi và hướng đến hòa bình. Review: Ưu điểm: Câu chuyện cảm động và đầy ý nghĩa: Cuốn sách ca ngợi tình yêu thương, lòng dũng cảm và sức mạnh của nghệ thuật. Nhân vật được xây dựng độc đáo: Kira là một nhân vật truyền cảm hứng với nghị lực phi thường. Lối viết nhẹ nhàng và sâu lắng: Cuốn sách dẫn dắt người đọc vào một thế giới tưởng tượng đầy màu sắc. Nhược điểm: Cốt truyện có thể hơi chậm với một số người đọc: Cuốn sách tập trung vào nội tâm nhân vật và diễn biến tâm lý. Kết thúc có thể gây tranh cãi: Cuốn sách kết thúc một cách mở, có thể khiến một số người đọc cảm thấy hụt hẫng. Đánh giá chung: Tìm Lại Màu Xanh là một cuốn sách hay và ý nghĩa, phù hợp với mọi lứa tuổi. Cuốn sách ca ngợi những giá trị tốt đẹp của con người và khẳng định sức mạnh của nghệ thuật có thể thay đổi thế giới. Điểm đánh giá: 4/5 Đối tượng phù hợp: Mọi lứa tuổi Người yêu thích văn học thiếu nhi Người quan tâm đến các vấn đề xã hội Lời khuyên: Nên đọc sách với tâm hồn cởi mở và sẵn sàng đón nhận những thông tin mới. Nên suy ngẫm về những thông điệp mà tác giả muốn truyền tải. Nên chia sẻ cảm nhận về cuốn sách với người khác. Trích dẫn: "Màu xanh là màu của hy vọng. Nó là màu của sự sống. Nó là màu của tương lai." - Kira "Nghệ thuật có thể thay đổi thế giới. Nó có thể mang lại niềm vui, hy vọng và tình yêu." - Lois Lowry Tóm tắt nội dung chính: Cuốn sách kể về câu chuyện của Kira, một cô bé với tật chân bẩm sinh sống trong một ngôi làng có luật lệ hà khắc. Kira có khả năng vẽ tranh đặc biệt, có thể vẽ được tương lai. Nhờ có Kira, dân làng bắt đầu thay đổi và hướng đến hòa bình. Cuốn sách ca ngợi tình yêu thương, lòng dũng cảm và sức mạnh của nghệ thuật. Liên hệ bản thân: Cuốn sách giúp tôi nhận ra rằng mỗi người đều có khả năng riêng của mình, dù là người khuyết tật. Cuốn sách cũng giúp tôi hiểu được sức mạnh của nghệ thuật có thể thay đổi thế giới. Tôi sẽ cố gắng sử dụng khả năng của mình để giúp đỡ mọi người và làm cho thế giới trở nên tốt đẹp hơn. *** Tóm tắt: "Tìm Lại Màu Xanh" là phần thứ hai trong bộ tứ "Người Truyền Ký Ức" của tác giả Lois Lowry, được dịch bởi Phạm Quốc Hưng. Câu chuyện xoay quanh nhân vật chính là Kira, một cô gái bị tật chân, sống trong một làng nơi những người yếu đuối thường bị loại bỏ để giữ gìn sức khỏe của cộng đồng. Kira sống sót nhờ tình yêu thương của mẹ và khả năng vẽ tranh tuyệt vời của mình. Sau cái chết của mẹ, cô đối mặt với sự khắc nghiệt và đe dọa từ cộng đồng. Tuy nhiên, Kira giữ một bí mật - khả năng vẽ tranh kỳ diệu của mình. Hội đồng Giám hộ của làng phát hiện ra tài năng này và quyết định sử dụng nó cho mục đích lợi ích của cộng đồng. Cuộc phiêu lưu của Kira đưa độc giả đến với một thế giới đầy thách thức và khó khăn, nơi cô phải tìm lại "màu xanh" của thanh bình giữa những khó khăn và đau thương. Review (Đánh giá): "Tìm Lại Màu Xanh" tiếp tục mang đến cho độc giả những trải nghiệm đầy cảm xúc và sâu sắc. Lois Lowry tạo nên một thế giới phức tạp, nơi những khía cạnh đen tối của xã hội được thể hiện qua mắt những nhân vật đầy sức sống. Tác giả không chỉ khám phá những khía cạnh đen tối của xã hội mà còn tôn vinh những giá trị nhân văn và sức mạnh của nghệ thuật. Khả năng vẽ tranh của Kira không chỉ là một kỹ năng, mà là sự giải thoát và hy sinh cho một tương lai tốt đẹp hơn. Người đọc sẽ cảm nhận được sự sáng tạo, tình cảm, và sự lôi cuốn từ câu chuyện, khiến "Tìm Lại Màu Xanh" trở thành một phần quan trọng trong bộ tứ "Người Truyền Ký Ức". Mời các bạn mượn đọc sách Tìm Lại Màu Xanh của tác giả Lois Lowry & Phạm Quốc Hưng (dịch).
Trong Khi Chờ Bojangles
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tiểu thuyết Trong Khi Chờ Bojangles của tác giả Olivier Bourdeaut & Trần Thị Khánh Vân (dịch). “Một câu chuyện cổ tích kỳ lạ.” – The New York Times Trước ánh mắt ngạc nhiên đầy ngưỡng mộ của cậu con trai, họ khiêu vũ trên nền nhạc lãng mạn của Nina Simone, Mr. Bojangles. Tình yêu của họ giống như một phép mầu, một bữa tiệc vui kéo dài mãi không dứt. Nơi họ chỉ có chỗ cho niềm vui, sự phóng túng, cuồng ngông và bạn bè. Trong những điều đẹp đẽ và ngay cả trong những biến cố bất hạnh xảy ra, chỉ có tình yêu là điều lớn lao hơn cả. Và, “tình điên” chưa bao giờ đúng với tên gọi của nó đến thế. Gặt hái thành công lớn ngay từ những tuần đầu tiên sau khi phát hành (tháng Một năm 2016), Trong khi chờ Bojangles tiếp tục giành được nhiều giải thưởng văn chương, trong đó có giải Tiểu thuyết France Télévisions, Giải thưởng lớn của RTL-Lire, giải Emmanuel-Roblès, giải tiểu thuyết dành cho sinh viên của France Culture-Télérama và giải thưởng của Viện Hàn lâm Văn học vùng Bretagne và Pays de la Loire. Năm 2019, Trong khi chờ Bojangles được đạo diễn sân khấu Victoire Berger-Perrin dàn dựng thành vở kịch cùng tên, giành được nhiều lời khen ngợi từ giới phê bình và báo chí. Trước đó, năm 2017, tác phẩm của Olivier Bourdeaut cũng đã được hai tác giả Ingrid Chabbert và Carole Maurel chuyển thể thành truyện tranh. ĐÔI ĐIỀU VỀ TÁC GIẢ: Olivier Bourdeaut sinh năm 1980 tại Nantes, Pháp. Từ một nhân viên môi giới bất động sản, ở tuổi 30 anh quyết định rẽ hướng sang lĩnh vực văn chương. Anh dành ra hai năm để viết cuốn tiểu thuyết đầu tiên song không tìm được sự đồng ý từ bất cứ nhà xuất bản nào. Sau đó anh tới sống ở nhà bố mẹ mình tại Tây Ban Nha, tập trung viết tiểu thuyết thứ hai, Trong khi chờ Bojangles, và hoàn thành nó trong vòng bảy tuần lễ. Lần này, câu chuyện nhẹ nhàng và điên rồ mà Olivier Bourdeaut kể lập tức gặt hái được thành công vang dội ngay sau khi được phát hành. *** Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tiểu thuyết Trong Khi Chờ Bojangles của tác giả Olivier Bourdeaut & Trần Thị Khánh Vân (dịch) Tóm tắt: Cuốn sách xoay quanh câu chuyện tình yêu kỳ lạ và đầy màu sắc của cặp vợ chồng Georges và Camille. Họ sống trong thế giới tưởng tượng của riêng mình, nơi tràn ngập niềm vui, sự phóng túng và tình bạn. Cậu con trai của họ, Gary, chứng kiến ​​tình yêu đặc biệt của cha mẹ và dần bị cuốn vào thế giới tưởng tượng ấy. Tuy nhiên, cuộc sống của họ gặp biến động khi Camille mắc bệnh Alzheimer. Georges phải đối mặt với thử thách lớn khi chăm sóc vợ và giữ gìn thế giới tưởng tượng của họ. Review: Ưu điểm: Câu chuyện tình yêu độc đáo và đầy cảm xúc: Cuốn sách mang đến một góc nhìn mới về tình yêu, không chỉ là sự lãng mạn mà còn là sự đồng hành và hy sinh. Lối viết nhẹ nhàng, tinh tế và đầy ẩn dụ: Tác giả sử dụng những hình ảnh ẩn dụ để miêu tả thế giới tưởng tượng của các nhân vật, khiến cho câu chuyện thêm phần huyền ảo và lãng mạn. Khắc họa chân thực những khó khăn khi đối mặt với bệnh Alzheimer: Cuốn sách giúp người đọc hiểu rõ hơn về những ảnh hưởng của bệnh Alzheimer đối với người bệnh và gia đình họ. Nhược điểm: Cái kết gây tranh cãi: Cái kết của câu chuyện có thể khiến một số người đọc cảm thấy hụt hẫng hoặc khó hiểu. Một số chi tiết trong câu chuyện có thể khó hiểu: Cuốn sách sử dụng nhiều ẩn dụ và biểu tượng, có thể khiến người đọc khó nắm bắt được ý nghĩa của câu chuyện. Đánh giá chung: Trong Khi Chờ Bojangles là một cuốn sách đẹp và buồn về tình yêu, mất mát và trí nhớ. Cuốn sách là lời nhắc nhở quý giá về việc trân trọng những khoảnh khắc hiện tại và yêu thương những người xung quanh. Điểm đánh giá: 4/5 Đối tượng phù hợp: Người yêu thích tiểu thuyết lãng mạn. Người quan tâm đến những câu chuyện về tình yêu và mất mát. Người muốn tìm hiểu về bệnh Alzheimer. Lời khuyên: Nên đọc sách với tâm hồn cởi mở và sẵn sàng đón nhận những cảm xúc khác nhau. Nên tìm hiểu thêm về bệnh Alzheimer để hiểu rõ hơn về những khó khăn mà người bệnh và gia đình họ phải đối mặt. Trích dẫn: "Tình yêu là thứ duy nhất còn lại khi chúng ta đã mất tất cả." - Olivier Bourdeaut "Trí nhớ là một thứ mỏng manh, nó có thể tan biến bất cứ lúc nào." - Olivier Bourdeaut "Cuộc sống là một hành trình đầy những điều bất ngờ, hãy trân trọng từng khoảnh khắc hiện tại." - Olivier Bourdeaut *** Trong khi chờ Bojangles: Một vùng La La Land Sự thật thường rẻ mạt, trừ phi nó nực cười như một lời nói dối, tôi chua xót nhận ra. Những cuốn sách Pháp luôn gợi một cảm giác nào đó vô cùng lạ lùng, như thể những nhát cắn trên chiếc bánh gato nhiều tầng mà mỗi tầng lại chứa những cảm xúc khác nhau. Nhưng điểm chung là chúng hài hòa, đầy đủ hương vị, không cô đọng hay duy ý chí. Những nụ hôn điện ảnh từng mang đến cái đẹp của góc nhìn phía sau màn trập trong những gì hối tiếc đã qua; Hẹn gặp lại trên kia xuyên suốt là nỗi buồn thương, nhưng song song cũng là cái bất cần đời, là cái ngạo nghễ ngao du theo mọi phương hướng. Và Trong khi chờ Bojangles cũng không ngoại lệ. Nhẹ nhàng như một lời thủ thỉ, Olivier Bourdeaut xắn tay áo pha trộn cho độc giả một ly cocktail với đầy đủ hương vị thoang thoảng: một nỗi buồn vui, kích động, trầm lắng, xót xa trong một bút pháp tinh tế đến mức điêu tàn; và còn gì khác ngoài chờ người đọc đến thưởng? Lý do đầu tiên chọn đọc Trong khi chờ Bojangles không gì hơn ấn tượng ban đầu với bìa sách theo chủ nghĩa tối giản mô tả cặp đôi đang khiêu vũ, phía sau là máy quay đĩa than thời đệ nhị Thế chiến và những khuôn nhạc lẻ tẻ tách dòng. Hơn thế nữa, tựa đề cuốn sách nhắc nhớ đến một bài ca của Nina Simone, Mr. Bojangles trong đĩa Here Comes The Sun. Quay lại quá khứ vào năm 1965, khi bị tống vào nhà tù bang New Orleans vì một vụ ám sát trên đường phố, ca sĩ nhạc đồng quê Jeff Walker đã làm quen với một người đàn ông vô gia cư cùng ngồi trong khám. Ở đó, khi người ta kể lại câu chuyện cuộc đời cho nhau nghe, người đàn ông này đã làm bầu không khí trầm xuống khi kể về chú chó đã chết của mình. Lập tức một ai đó muốn mọi thứ vui tươi trở lại, thế là họ nài nỉ người đàn ông nọ, Mr. Bojangles – đứng lên và nhảy một điệu tap dance. Sau này Bojangles trở thành một danh từ chung ý chỉ những nghệ sĩ đường phố nhảy tap dance thường thấy trong văn hóa Mỹ, bước chân vào Hollywood và phủ rộng các làn sóng văn hóa. Điều cuốn hút hơn nữa còn là màu sắc mà bìa sách sử dụng. Như một cuốn phim âm bản giữa hai màu đen trắng được giản lược đến mức tối đa, cuốn sách như một mồi nhử khiêu khích người đọc – không cần màu mè hoa lá nhưng vẫn cuốn lấy người khác bằng vẻ huyễn hoặc. Và với Trong khi chờ Bojangles, người đọc phần nào cũng có thể phân định nó theo ba màu cơ bản: giữa trắng ngông cuồng, vui tươi; đen trầm uất, xót xa và đỏ của những vết thù hằn lại khi đến tận cùng cuốn sách. Sau khi trang cuối khép lại, chắc hẳn sẽ có ai đó nói đây là một nồi lẩu của tả pí lù mọi chuyện trên đời; nhưng chắc hẳn cũng có những người lật mở được điều gì đó giữa những tầng lớp ấy, để thấy được một tia sáng dù nhỏ mọn soi chiếu nội tâm nhẹ nhàng và thoảng hoặc như một cơn gió. * Cuốn sách kể về câu chuyện của một gia đình Pháp điển hình trong hai ngôi kể đan xen giữa bố và cậu con trai nhưng cùng hướng chung về nhân vật người mẹ. Nếu độc giả dễ dàng nhận ra tình cảm trìu mến trong những phân đoạn của bố, về những trò đùa tuổi trẻ, về tình yêu ngông cuồng; thì cậu con trai là góc nhìn vô cùng hồn nhiên, của những hờn giận, ghen tuông, của những thứ rất dễ chấp nhận khi bi kịch xảy đến. Nút thắt xoay chuyển mọi thứ có lẽ là vào ngày viên thanh tra thuế đến, và mọi thứ sụp đổ, kéo theo cơn điên của người mẹ như cơn bão chạm bờ. Tiếp sau đó là những tháng ngày chống chọi với buồn thương, của kiềm hãm cảm xúc, của tuyệt vọng đôi khi vô vọng. Như đã nói trên, Trong khi chờ Bojangles là cuốn sách tổng hòa của những hương vị, nên dẫu là ai, cuốn sách cũng khép mình đứng đó như chúng ta tự soi chiếu mình. TRẮNG Ngay câu mở đầu cuốn sách, Olivier Bourdeaut đã rào đón người đọc bước vào mảnh đất hài hước của mình bằng cách lựa chọn nhân vật độc đáo, giữa những cá nhân đầy rực rỡ tình yêu tuổi trẻ. Nếu người bố tự nhận mình như một tên hề tràn ngập hạnh phúc, với lối sống phóng túng và bất cần đời của những trò đùa với giới tư bản giàu có, dễ gợi nhắc đến Jack của Titanic; thì vợ anh, người mẹ luôn luôn chuyển động và không có một cái tên chính thức nào, sinh ra như để dành cho nhau. Gặp nhau trong một bữa tiệc vô tình, họ choáng ngợp bởi cái nhìn chếnh choáng say rượu, và ngay sau đó trở thành tình nhân sau chuyến chạy thoát thực tại trong ánh đèn đường. Mối quan hệ không đầu không đuôi ấy mang cho người đọc những tràng cười mê mải, với những chi tiết khôi hài những tưởng chỉ David Williams mới nghĩ ra được, về việc mỗi ngày đặt một cái tên, và sử dụng cái tên ấy không quá hai ngày cho người mẹ; về việc nuôi con sếu mà sau này được gán biệt danh “Quý cô thừa thãi”, về những trận cãi nhau chí chóe giữa bà mẹ và cô giáo cậu con trai… Tất cả làm nên một bầu không khí dễ chịu, vui tươi của những nhân vật kỳ lạ, đôi lúc lạ lẫm đến phi logic. Nhưng người đọc có nề hà gì. Với họ, niềm vui đọng lại đằng sau các nhân vật này mới là trên hết. Sự lãng mạn đậm chất Pháp cũng được Olivier mang vào cuốn sách này với nhạc jazz tụ hội tiệc tùng, với Nina Simone, với slow dance chậm rãi. Ở đó, vào những tối trong ngày, hai vợ chồng họ tổ chức tiệc cocktail cho đầy đủ mọi người, từ người quen thân cho đến chỉ mới gặp lần đầu. Không khí đậm chất hoài cổ mà vương giả ấy cho người đọc một sự ấm cúng giữa những cái chạm, ánh mắt, bờ môi; những cái lắc hông, chạm má tình tứ. Ngoài những nhân vật vui vẻ tràn ngập niềm vui ấy, Trong khi chờ Bojangles cũng đồng thời chứa đựng cái tinh tế mà đẹp đẽ của sự lãng mạn, rất Pháp, rất Âu châu. Nhưng gia đình nhỏ hạnh phúc ấy, những tiệc tùng nhảy múa đến đêm ấy, những chuyến đi đến thiên đường – pháo đài Tây Ban Nha ấy kéo dài không lâu, mà hồi chuông cảnh tỉnh là thời khắc cái bấm chuông của ông thanh tra thuế vang lên. Hàng tá thư dồn đống trong góc mà họ chẳng buồn mở ra, hóa ra là nguồn cơn cho sự sụp đổ manh nha này. Người bố bất ngờ trước tài sản vật chất từng thứ trôi tuột qua tay, trong khi người mẹ suy sụp đến mức cơn điên tìm đến. Cốt truyện từ khoảnh khắc này trở đi hóa thành một màu đen nhẻm, của tuyệt vọng bi thiết. Olivier như một họa sĩ lành nghề của lĩnh vực sắc độ. Ông chuyển mạch truyện êm ả như cú cua gấp trong màn đêm chuyển màu ombre đầy thời trang. Và cũng từ đây, một mùi hương khác lại được thêm vào, nghe chừng ra mùi kết thúc. ĐEN Từ bi kịch ấy, chứng rối loạn lưỡng cực như đến xâm chiếm người mẹ. Bà bị phân thân giữa những tràng cười điên dại bất tận và những trò lố của người mất trí. Bà quên sạch mọi bước khiêu vũ, cứ thể khỏa thân đi mua thức ăn, cố gắng viết sách, sơn phủ lại nhà, rồi cuối cùng đốt chính ngôi đền Pantheon thiêng liêng của cuộc hôn nhân mình. Em đã đốt tất cả các kỷ niệm của chúng ta, chỉ có cách đó họ mới không tìm ra chúng, như câu nói một hôm khi căn hộ của họ bốc cháy, còn bà mụ mị thiếp đi khi tay vẫn ôm chiếc máy quay đĩa phát bài Mr. Bojangles và con sếu mang danh “Quý cô thừa thãi”. Kể từ đó, người bố sống trong việc nhận thức rõ người mình yêu thương nhất đã không hoàn toàn như trước. Anh bình tâm an ủi cậu con trai bằng những câu sáo rỗng, rằng mọi thứ rồi sẽ ổn, rằng cả sự điên rồ này cũng thuộc về bố con ạ, rằng giờ thì đã qua hết rồi. Anh khóc ngay cả bữa sáng hay những bữa xem phim, khóc khi nhìn tấm hình cả gia đình nhỏ bé còn sót lại, khóc vào ban ngày thực sự khác lắm, vì đó là một mức độ đau buồn khác. Anh bất lực đứng nhìn người đàn bà mình yêu bị chuyển vào viện, ở tầng ba dành cho người chưa mất hẳn trí nhớ nhưng được chỉ định là không bình thường. Kể từ nay, ngày nào chúng tôi cũng phải chứng kiến cảnh mẹ nó mê sảng tại một phòng bệnh, rằng mẹ nó là một bệnh nhân tâm thần và nó phải ngoan ngoãn chờ mẹ khuất dần.  Nhưng cặp vợ chồng hoàn hảo ấy dĩ nhiên không dừng chân tại đó. Họ nuôi một kế hoạch khác để làm phong phú cuộc đời như họ vốn đã từng. Bằng cách nào? Cướp ngục bắt cóc bệnh nhân ra khỏi bệnh viện bằng lối cửa chính. Hẳn nhiên bạn không nghe nhầm, thế mới nói, Olivier là một tác gia kì lạ, ông thách thức mọi thứ logic chặt chẽ nhất, dễ thấy nhất; nhưng lạ thay, độc giả dễ dàng chấp nhận cho chính điều này. Tưởng như Catharina Ingelman-Sundberg của bộ Bà già phá luật, hai bố con họ đến giải cứu người mẹ trong viện tâm thần như cuốn phim Ba chàng ngốc. Họ rời khỏi đó, đến tòa lâu đài thiên đường của họ và sống cuộc đời như bao người muốn. Nhưng cơn điên không vì thế mà tha thứ cho họ. Người mẹ và những cơn bùng phát nhất thời, giận dữ và đập phá liên tục sau đó, dẫn đến yêu cầu tối hậu được nhốt riêng trên căn áp mái của tòa pháo đài. Người bố vì tình yêu vô bờ bến cam chịu đồng ý. Ông xoa dịu bà mỗi khi cơn điên ập đến, rồi đến một lúc, ông bế bà lên những bậc thang, lên chốn ẩn nấp dành cho cơn điên quần tụ. Cậu bé thì bịt chặt tai, chạy ra hồ nước tránh xa tiếng hét. Cơn điên như loài gặm nhấm, ăn mòn ăn dần từ trong gốc rễ, từ trong gia đình. Không ai đứng đủ gần để quan sát, mà chỉ còn đó cây thông u linh đứng riêng một mình. ĐỎ Có hai chi tiết ẩn mình khiến người đọc trăn trở mãi trong câu chuyện của Olivier. Dẹp sang đằng sau những hài hước bề ngoài, những phi logic của cuộc giải cứu; thì hình ảnh người mẹ và nước mắt lăn dài khi pháo hoa rơi mang đến một chút gì đó như nhận thức về vẻ đẹp tự hủy. Khi sự sung túc vẫn còn mới chớm, những ngày sinh nhật của bà luôn được đánh dấu bằng những tối liên hoan âm nhạc, với cocktail, rượu vang, với slow dance, đầy đủ mọi thứ. Thế nhưng khi pháo hoa tàn, bà vẫn rơi nước mắt. Có thể là bởi vẻ đẹp tàn lụi nhanh chóng hay có thể đó là khi bà đã nhận ra điều sẽ đến? Không ai biết được. Chỉ biết cũng hình ảnh ấy, trong buổi tiệc địa phương của người Tây Ban Nha khi mọi thứ lụn bại, cuộc sống sắp kết thúc; câu hát của Nina Simone lại cất lên vang vọng, giữa những đỉnh cực trị lên xuống hình sin, của ảo ảnh chòng chành, của khoảnh khắc kết thúc quá sớm. Thời khắc ấy được kéo dãn ra như thời gian nhảy lên hẫng xuống của điệu tap dance, như thời khắc tan biến của tia lửa, như cuộc đời đã đến hồi kết. He jumps so high and then he lightly touches down. Hình tượng thứ hai, cây thông ở trước hồ nước. Đối với người mẹ, trong những tháng ngày ảo ảnh vần chuyển của cơn điên loạn, đây là một trong những thứ khiến bà điên tiết đến mức đòi chặt nó đi. Không ai hiểu rõ được nguyên nhân hơn người trong cơn cuồng nộ ấy, nhưng liệu có phải vì nó đứng đơn độc trơ trụi một mình, thân phận của bà và nó như gần giống nhau? Bà muốn giải thoát nó, muốn nó phiêu diêu trên những con thuyền xuôi ngược đại dương, làm thứ có ích hơn là chỉ đứng yên đó. Còn với người bố đâm mình chán nản vào rượu mỗi tối, việc tưới rượu xuống cây thông ấy như đang mời rượu hay còn dụng ý nào khác? Liệu có âm mưu muốn phá hủy nó, biến nó thành chứng nhân cho tình yêu của ông với bà, chứng nhân cho sự hy sinh đến một đỉnh điểm vô bờ bến? Và cuối cùng khi mọi chuyện đã soi tỏ, rừng thông cũng là nơi ông trở lại, sống với bà, mặc kệ thế thái sau khi mọi thứ đã được nói rõ, mọi câu chuyện đã được kể xong. Cây thông đứng đó như sợi dây liên kết, như nỗi cô độc, như chứng nhân, như sự tan biến. * Trong khi chờ Bojangles không thiếu những điều vô lý, nhưng nếu hỏi độc giả có thể tha thứ cho nó không, e rằng câu trả lời là có. Olivier dựng lên một chuyện tình đẹp đẽ đến siêu thực, và những thứ vô lý ấy, nếu có thêm vào, chẳng qua cũng để sống trong giấc mơ tuyệt vời. Cuộc tình điên dại đầy hoang vu này đôi lúc gợi nhớ đến Mia và Sebastian trong La La Land và vẻ đẹp của sự tự hủy. Có chăng mối tương quan giữa những cuộc tình đẹp và sự kết thúc đầy trái ngoe? Không ai biết được. Nhưng với Trong khi chờ Bojangles, giọng văn kể cả của những trò đùa vỡ bụng và nỗi đau thầm kín đã hòa trộn vào nhau, làm nên tình yêu đẹp đến nghẹt thở. Với giọng văn nhẹ nhàng và sự thấu hiểu nhiều lớp cảm xúc, Olivier Bourdeaut đã viết nên một câu chuyện vô cùng đẹp đẽ, câu chuyện từ rất lâu rồi, từ sau La La Land, từ sau Bọt tháng ngày, từ sau Những nụ hôn điện ảnh độc giả mới một lần nữa lại được trải nghiệm, đắm chìm và dành một phút nhìn lại mọi thứ xung quanh.  Hết. Ngô Thuận Phát Mời các bạn mượn đọc sách Trong Khi Chờ Bojangles của tác giả Olivier Bourdeaut & Trần Thị Khánh Vân (dịch).