Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bà Chúa Hòn

Cuốn tiểu thuyết Bà Chúa Hòn mang màu sắc lịch sử và không khí miệt vườn Lối dẫn dắt tự nhiên, ngôn ngữ mộc mạc đậm chất Nam Bộ Không chỉ mang giá trị nghệ thuật, tác phẩm còn là những bài học sâu sắc về tình người *** Buổi chiều đầu mùa mưa, cảnh vật buồn bã làm sao! Ếch nhái kêu vang bên chòi, trong bóng tối chập chờn, xa lắm qua rặng cây tràm mới thấy vài ánh đèn. Ở trên hòn là đói, khó cày cấy trồng tỉa. Bởi vậy Tư Thính đến tận vùng sình lầy mà chịu đựng muỗi mòng. - Ngày mai cho con ra ruộng nghe ba! Tư Thính day lại. Đứa con gái vừa lên tám tuổi bưng chén cơm đến gần. Chú vuốt tóc con, bùi ngùi thương xót. Mẹ nó mất hồi năm ngoái. Ngày nào cũng vậy, trước khi ra ruộng, chú bới sẵn chén cơm, gắp khứa cá để trong cái đĩa nhỏ. Khi thức dậy, đứa con ăn cơm một mình rồi ra ngồi ở góc sân, trông ra ruộng. Cuốn tiểu thuyết  "Bà chúa hòn"  bắt đầu như thế với nhân vật cô bé tên Huôi. Số phận đã sắp đặt cho cô, khi lớn lên, sẽ trở thành bà chúa Hòn. Hòn Chông là dãy đồi thấy, sát mé biển vịnh Xiêm La. Dân chúng sống bằng nghề chái lưới ở mé biển nhưng nguồn lợi lớn nhất vẫn là nghề trồng hồ tiêu. Ông Xìn Phóc là người Triều Châu lai Cao Miên, trở thành ông Chúa Hòn đầu tiên, sau khi ông chết, người kế vị là con trai ông, Hai Minh. Bá Vạn là người nắm giữ sổ sách thu chi cho Hai Minh. Ông này là người Triều Châu lai Việt Nam, tuổi chừng 60, lắm mưu nhiều kế, có ý định giết ông Chúa Hòn, lật con bà cả để dành tất cả tài sản về tay mình. Mười mấy năm trôi qua, nay Huôi đã trở thành hoa khôi trong vùng, xinh đẹp tuyệt trần, vóc dáng cao ráo, nước da trắng mịn, trán cao, môi đỏ như thoa son... Bá Vạn muốn mượn sắc đẹp của Huôi để lung lạc ông Chúa Hòn... *** Sơn Nam  (1926 - 2008) là một nhà văn, nhà báo, nhà nghiên cứu văn hóa Việt Nam nổi tiếng với nhiều tác phẩm có giá trị. Với khối lượng tác phẩm đồ sộ, ông là người thành công ở nhiều lĩnh vực: lĩnh vực nghiên cứu, ông có nhiều biên khảo công phu, khoa học, khoảng 20 tác phẩm. Có những tác phẩm rất có giá trị cho việc tìm hiểu về vùng đất Nam Bộ, như: “Ấn tượng 300 năm, Bến Nghé xưa, Cá tính miền Nam, Danh thắng miền Nam, Đất Gia Định xưa, Đồng bằng sông Cửu Long - Nét sinh hoạt xưa, Giới thiệu Sài Gòn xưa, Lịch sử An Giang, Lịch sự khẩn hoang miền Nam, Người Sài Gòn... “Sơn Nam là một trong số những nhà văn từng sống ở đô thị miền Nam nhưng tác phẩm vẫn được in liền mạch sau giải phóng, điều đó không phải dễ. Trước hết, tác phẩm của Sơn Nam không thuộc dạng a dua. Sống dưới chế độ ấy mà tránh được lối viết ấy quả là rất cao tay. Có lần người viết bài này hỏi vậy, Sơn Nam cười nhẹ, cũng chẳng giỏi giang gì đâu mà tôi chủ yếu viết về phong tục, về lịch sử khai khẩn đất đai Nam Bộ, và nếu là truyện thì đi vào tầng lớp nông dân, dân nghèo thành thị. Hơn nửa thế kỷ gắn bó với nghiệp sáng tác, những trang viết của ông không đơn thuần là sự giải trí cho độc giả mà còn là những khảo cứu, khám phá về mảnh đất phương Nam. Là người Nam Bộ chính gốc nên nhà văn Sơn Nam là người am hiểu quá trình hình thành dải đất này. Những sáng tác của ông mang hơi thở của thiên nhiên, của văn hóa và con người Nam Bộ được thể hiện qua giọng văn giản dị, mộc mạc...” *** HÀ TIÊN LÀ TỈNH XA XUÔI NHỨT của miền Nam thời xưa cũng như thời nay nếu ta lấy Huế hoặc Saigon làm tiêu chuẩn. Khác với vùng sình lầy mũi Cà Mau, Hà Tiên có khung cảnh khá ngoạn mục, trong đất liền là đồi núi trùng điệp, ngoài biển là năm bảy chu4c hải đảo lớn nhỏ, Hà Tiên còn là nơi ‘‘ba biên giới’’ :Việt Nam, Cao Miên và vượt qua eo biển là đến Thái Lan . Mỗi ngọn đồi, mỗi hải đảo đều có một ông Chúa hay bà Chúa thống trị, khi chết, các ông bà này được tôn thờ trong miếu nhỏ, giống như trường hợp mấy ông Thành Hoàng. Lẽ dĩ nhiên các ông bà đều là người phàm mắt thịt, nhờ mưu mô, nhờ tài kinh doanh mà gây được thế lực với đám dân chúng ở xung quanh. Vài ông bà Chúa nếu còn sống đến năm nay chỉ độ non trăm tuổi, bởi vậy thành tích của họ còn được nhắc nhở tỉ mỉ với bao nhiêu tánh tốt và thói xấu. Chúng tôi xin thuật lại những giai đoạn gay cấn và thơ mộng nhứt của bà chúa hòn Me, một ngọn đồi nhỏ dính vào đất liền sát mé biển phía Bắc chợ Rạch Giá. Trước kia, bà là con gái một nông dân nghèo tên là Tư Thính, có lẽ họ Huỳnh ; Tư Thính cất căn nhà nhỏ ở chân đồi, giữa tư bề rừng rậm. Như đã nói, hòn Me xưa kia là hải đảo, đất phù sa lấn ra biển, nối hòn vào đất liền. Vùng chung quanh hòn quá ẩm thấp chịu ảnh hưởng nước mặn ngoài biển tràn vào nên cây cối mọc xơ rơ. Hằng năm, Tư Thính cày chừng một mẫu ruộng, kiếm chút ít lúa gạo đủ ăn trong gia đình. Buổi chiều đầu mùa mưa, cảnh vật buồn bã làm sao! Ếch nhái kêu vang bên chòi, trong bóng tối chập chờn, xa lắm qua rặng cây tràm mới thấy vài ánh đèn. Ở trên hòn là đói, khó cày cấy trồng tỉa. Bởi vậy Tư Thính đến tận vùng sình lầy mà chịu đựng muỗi mòng. – Ngày mai, cho con ra ruộng nghe ba! Tư Thính day lại. Đứa con gái vừa lên tám tuổi bưng chén cơm đến gần. Chú vuốt tóc con, bùi ngùi thương xót. Mẹ nó mất hồi năm ngoái. Ngày nào cũng, vậy, trước khi ra ruộng, chú bới sẵn chén cơm, gắp khứa cá để trong cái dĩa nhỏ. Khi thức dậy, đứa con ăn cơm một mình rồi ra ngồi ở góc sân, trông ra ruộng. Chú từ chối khéo léo: – Con ở nhà, ra ruộng nắng lắm. Nhưng bé Huôi vịn vai chú, nói thật nhanh: – Ngoài ruộng có cây thị, bóng mát. Nghe qua, chú Tư Thính giựt mình. Đành rằng đến tám chín tuổi thì đứa bé có chút ít trí khôn, ghi nhớ những gì mà người lớn thường nói nhiều lần. Tại sao bé Huôi biết ở ngoài ruộng có một cây thị, cây ấy to lắm, ở xa nhà, bé Huôi chưa ra tới đó lần nào? Hồi năm ngoái trái thị sai quằn, chú với tay hái năm sáu trái đem về nhà cho bé Huôi, trái thị mầu vàng da láng tỏa ra mùi thơm kỳ diệu mà nhiều người cho rằng có thể quyến rủ ma quỉ hoặc thần thánh. Chú Tư Thính hơi e ngại: – Mùa nầy thị chưa có trái. Ra đó, làm sao con ngủ trưa? Bé Huôi nói rành rọt như người lớn. – Con đội nón, ngồi dựa vô gốc cây. Vì không muốn quở mắng vô lý đứa con thân yêu, Tư Thính tìm cách từ chối: – Bữa nào rảnh, ba cho con ra ruộng. Ngoài đó muỗi mòng, đủ thứ kiến lửa, kiến vàng. Lâu lâu, vài con rắn bò ra… Bé Huôi cười dòn: – Con đâu sợ rắn. Ba hứa lâu rồi. Ngày mai, con ra ruộng mới được. Ba không bồng con thì con đi một mình. Gương mặt bé Huôi lúc bấy giờ trông thật dễ thương, mà cũng dễ sợ. Mắt nó sáng lên, hai tròng mắt đen lánh, hàm răng đều đặn, chói màu trắng ngà. Tư Thính ngỡ rằng người khuất mặt đã thúc giục bé Huôi nói những câu quá khôn ngoan, dành riêng cho mấy đứa bé ít lắm là mười bốn, mười lăm tuổi. Chú đốt đèn lên. Bé Huôi nghiêm nét mặt, đôi môi ửng đỏ như tô son. Chú Tư Thính nhìn kỹ đứa con gái rồi tự trấn an: “Lớn lên, nó xinh đẹp nhứt làng nầy. Con nít khôn trước tuổi là sự thường”. Bé Huôi ngáp dài: – Con muốn đi ngủ, sáng mai con ra ngoài gốc cây thị để coi ba cày ruộng. Ngoài đó vui lắm. Hôm sau, Tư Thính cố ý thức thật trể. Chú vác cày trên vai, cho đôi trâu đi trước, bé Huôi lững thững theo sau, đến gốc cây thị, nó ngồi xuống. Mặt trời lên cao, chưa chi, chú đã đổ mồ hôi lưng, bao nhiêu ý nghĩ đen tối hồi chiều hôm qua đều tan biến. Chú được yên tâm vì bé Huôi đã dựa lưng vào gốc cây thị. Nó nằm yên, như đã ngủ. Đôi trâu đi tới rồi đi lui, được ba rồi đến bốn, năm, sáu, bảy luống cày. Trong khi đó, từ dưới hang sâu bên gốc cây thị, một con rắn hổ to tướng bò lên. Rắn quấn mình chung quanh bụng bé Huôi, quấn một vòng, hai vòng, ba vòng rồi đến bốn vòng. Sau rốt, rắn ngẫng cổ lên, cao khỏi đầu bé Huôi. Rắn quơ đầu, hất mạnh cái nón lá trên đầu con bé rồi nghiêng cổ tới, im lìm. Đột nhiên Tư Thính giựt mình. Đôi trâu đứng lại, không chịu bước tới. Chú quơ roi quất mạnh: – Xe! Pháo! Hai con trâu Xe và Pháo rống lên quậy chân sau xuống bùn. Cả hai day mặt về phía Tư Thính, mắt trợn tròn như giận dữ. Tư Thính hỏi: – Điên rồi sao chớ? Cái gì? Nhưng đôi trâu dường như nhìn xéo về gốc cây thị. Tư Thính chợt nhớ tới bé Huôi. Chú trố mắt: – Trời ơi! Rắn quấn con tôi! Rồi bỏ đôi trâu, chú cố gắng chạy đến gò đất. Chú lê lết như có sức mạnh nào níu đôi chân trở lại. Bé Huôi vẫn ngồi yên, con rắn hổ quá to, nào kém gì con trăn. Kỳ dị nhứt là cái đầu rắn, cái đầu vươn lên nghiêng tới như cố ý che nắng cho bé Huôi. Vì sợ con rắn nọ siết chặt khiến bé Huôi nghẹt thở hoặc gãy xương ngực, chú đành liều bước đến gần với dụng ý xua đuổi con rắn, nếu cần, chú sẵn sàng chịu chết thay con. Con rắn nọ day mỏ về phía Tư Thính. Dưới ánh nắng tỏ rõ buổi trưa, chú thấy nó trợn mắt, mớ vảy lấp lánh như hàng trăm miếng kiếng màu xanh đậm. Nó hạ cái đầu xuống rồi từ từ tháo ra. Trong lúc ấy, Bé Huôi vẫn ngồi xếp bằng, xuôi tay. Khi rắn tháo mình đến vòng chót, Tư Thính chẳng còn kiên nhẫn được nữa. Chú la lớn: – Con ơi, chạy cho mau! Nhưng Tư Thính không đủ can đảm và không còn đường nào để chạy. Nhanh như cơn gió lốc, con rắn to tướng nó phóng ngang mặt chú, như để chận đường. Chú té quị xuống bùn rồi lồm cồm đứng dậy, vuốt mặt. Bé Huôi từ từ cựa quậy: – Ba! Sao ba té? Chú mừng quýnh vì đứa con thân yêu vẫn mạnh khỏe và tỉnh táo. Để vững bụng hơn, chú hỏi đôi ba lượt: – Con! Biết ba đây là ai không? Tay chú véo mạnh vào lưng bé Huôi, miệng nói lia lia: – Con có đau không? Con thức hay ngủ? Bé từ từ đứng dậy, đôi môi đỏ thắm hé nụ cười: – Ba nói, con tức cười quá… Nhưng Tư Thính cứ tiếp tục mở nút áo đứa con gái, xem kỹ làn da. Bấy lâu chú nghe đồn đãi rằng rắn hổ có hơi độc từ trong miệng phun ra. Bé Huôi nói: – Đói bụng rồi, về nhà ba nấu cơm cho con ăn nghe ba. Lập lức chú cõng đứa bé sau lưng, bước nhanh về căn chòi, hai con trâu rống lên, kéo mạnh cái cày vô chủ. Mâm cơm dọn ra, chú ăn sơ sài vài miếng rồi tháo ách cho đôi trâu vào chuồng. Con rắn to tướng ấy là điềm lạ, chưa biết lành dữ thế nào. Chú muốn gặp ông đạo Đất ở trong cốc phía Đông hòn Me để nhờ giải đáp. Bé Huôi lại đòi ngủ. Chú khuyên lơn: – Con đi xóm với ba, nghe con? – Con muốn ở nhà. – Rủi con rắn tới đây thì ai cứu con? Ba cõng trên vai, con cứ ngủ. Phải con ở nhà thì nãy giờ ba cày xong công ruộng rồi. Từ rày về sau, con đừng đòi ra gốc cây thị nữa. Bé Huôi trả lời: – Hồi nãy đâu phải con rắn! Cốc của ông đạo Đất hiện ra. Đó là cái chòi nhỏ bé lợp bằng tranh. Theo chữ nho, cốc là hang đá. Vùng Hòn Me thiếu những hang đá thiên nhiên. Đá xanh mọc nhô ra từng tảng lớn chỉ vừa cho đôi người ngồi núp mưa nắng mà thôi. Mùa mưa đến, nước chảy tuôn tràn, thỉnh thoảng mấy tảng đá sụp xuống, mang theo mấy giề đất sỏi. Mấy ông lên non tầm đạo vì không tìm được cái hang thiên tạo nên cất tạm căn chòi nhỏ bằng cây. Gọi cốc cho có vẻ huyền bí của một đạo sĩ tu tiên. Ông đạo Đất gây được khá nhiều uy tín nhờ tài trị bịnh. Bất cứ bịnh nhân nào đến, ông cũng hốt cho một mớ đất để làm thuốc: bỏ cục đất trong một cái túi nhỏ, đeo dưới ngực để trị bịnh tà ma, đem cục đất nướng cho dòn rồi tán nhỏ, uống với nước nóng để trị bịnh ăn uống khó tiêu, đau bao tử. Gặp trường hợp trặc chân gãy tay, ông đạo vẫn dùng đất sét mà bó rịt vết thương. Tư Thính giữ thái độ im lặng kính cẩn khi đến cốc. Ông đạo nằm dài trên nền đất, không trải chiếu đắp mền gì cả. Khi Tư Thính lên tiếng: – Kinh chào thầy…. Ông đạo vẫn lim dim, hồi lâu mới chịu gật đầu. Bé Huôi nói khá to, phá rối sư yên tĩnh: – Ở đây buồn quá, ba ơi! Con muốn về nhà. Ông đạo Đất lồm cồm ngồi dậy, nhìn bé Huôi. Tư Thính bèn lên tiếng như để biện hộ cho đứa con: – Nó còn nhỏ, thầy tha thứ cho. Mấy ngày rày nó nói bậy bạ, lại xảy ra vài điều lạ. Bởi vậy tôi tới đây nhờ thầy giúp giùm. Sau khi sờ tay lên trán bé Huôi, ông Đạo nói: – Cháu nó vui chơi nhưng mà cặp mắt hơi khác thường. Không đợi Tư Thính trả lời, ông Đạo nói giọng bí mật: – Chắc là vừa xẩy ra chuyện gì xúc phạm tới…đất! ‘‘ Xúc phạm tới đất’’ là lời nói mà ông Đạo thốt ra trước tiên, khi gặp bất cứ bệnh nhân nào. Vì quá tin tưởng nên ai nấy đều nhìn nhận rằng ông nói đúng: đau bụng, trúng thực đều do sự ăn uống, thức ăn vẫn là cơm gạo, thịt cá, những món từ đất mọc lên, hoặc đứng trên đất, cảm mạo là do hơi đất ẩm ướt gây ra… Tư Thính nói: – Thầy ở trong cốc mà nói chuyện ngoài đời quá đúng. Vậy thì điềm lúc nãy tốt hay xấu đối với gia đình tôi? Con gái tôi sau nầy ra sao? – Điềm gì? Cứ nói đầu đuôi tự sự. Tôi thấy nó… ngồi trên đất, thiệt là lạ lùng, chú nói trước, tôi nói sau. – Dạ, nó ngồi trên mô đất cao, ỏ gốc cây thị ngoài ruộng. Tôi lo cày nên không chú ý, dè đâu… Thế là Tư Thính thuật lại tất cả chi tiết với sự tưởng tượng khá dồi dào của chú. Chú cho rằng con rắn nọ to bằng cây cột nhà, vảy lấp lánh ngũ sắc, khi biến mất thì gió thổi rung chuyển mấy gốc cây cổ thụ. Lúc rắn quấn vào bé Huôi, gió như ngừng thổi, chim trên trời như ngừng bay và hai con trâu như chết đứng trên mặt đất. Ông đạo Đất chắp tay xá bốn phía Đông, Tây, Nam, Bắc rồi nói: – Mô Phật! Cháu bé ngồi trên đất gặp con rắn hổ đất. Tất cả đều là đất. Nhưng con rắn hổ đất to lớn ấy là thuộc vào loại phi thường, tên nó là gì chú biết không? Tư Thính chắp tay thưa: – Dạ… chắc là mãng xà vương! Ông đạo lắc đầu: – Đó là con rồng đất! Trên mặt đất nầy nó là vua. Vua của đất phù hộ, chầu chực cháu bé chẳng khác nào con rồng vàng chầu chực ông vua ở chốn đế đô. Rồng đất là vua của đất. Rồng đến tìm cháu bé, đó là điềm mai sau có ông vua ông chúa nào đó đến ra mắt. Rồng quấn chung quanh cháu bé để che chở phò hộ, đó là sau nầy cháu bé trở thành một bà hoàng, bà chúa. Chú nên vui mừng đi, ráng chịu cực chừng năm bảy năm nữa. Tư Thính chắp tay lạy ông đạo Đất: – Thiệt vậy hả ông? Trời Phật giúp tôi, làm sao tôi tạ ơn? Dè đâu con tôi tốt phước như vậy? Ông vua nào, ông chúa nào tới đây cưới con tôi? – Ông chúa hòn hoặc ông chúa đảo, hoặc ông chúa tàu, tàu buôn Hải Nam. Tôi chưa biết rõ. Mai chiều, chú đưa cháu bé trở lại. Nghĩ một lát, ông đạo hỏi: – Cháu tên gì, năm nay mấy tuổi? Bé Huôi cất tiếng sỗ sàng: – Tên Huôi. Hỏi bao nhiêu tuổi để làm gì? Bộ tôi ngu dại phải không? Nãy giờ, tôi đâu làm điều gì sai quấy với thầy. Ông đạo càng tin tưởng nơi tài đoán điềm giải mộng của mình. Lập tức ông khều Tư Thính ra sân mà nói khẽ: – Thấy chưa? Nó là đứa khôn trước tuổi, ăn nói lanh lợi đâu thua gì người hai ba chục tuổi. Chú nên nuôi dưỡng tử tế. Nó có trí khôn, có nhan sắc. Tôi xem không lầm đâu. Năm bảy chục năm, con Rồng đất mới xuất hiện một lần. Rồng đất mà phò hộ che nắng che mưa cho con Huôi thì phải biết. Tư Thính chắp tay xá ông đạo; – Cám ơn ông, về sau nầy nếu may ra con tôi nên danh nên phận thì tôi chẳng bao giờ dám quên ơn lớn. – Kìa! Ngón tay ông đạo Đất chỉ ra ngoài sân. Lần nầy chú Tư Thính không khỏi kinh ngạc vì bé Huôi đứng xớ rớ bên bụi cây quỳnh hoa. Nó nâng niu từng lá dài rồi đột nhiên nói to: – Cây gì mà trồng hoài không trổ bông? Ông đạo giải thích: – Cháu ơi! Nhiều khi đôi ba năm nó mới trổ một lần. – Ông cho cháu vài lá, đem về trồng vài tháng thì nó trổ hàng chục cái bông cho ông coi. Để chiều theo ý bé Huôi và để biết thêm về tương lai của đứa con gái kỳ lạ nọ, ông đạo Đất hái một lá dài trao cho Tư Thính. Hai cha con lững thững về nhà theo con đường mòn sình lầy. Tư Thính nghe tim đập mạnh trong lồng ngực. Chú muốn kêu to: – Con tôi trở thành bà chúa! Thiệt vậy sao? Trời đất xui khiến hay ma quỷ xúi giục? Nhiều đứa bé khôn ngoan nhưng chết yểu hoặc là trở thành điên khùng, lên đồng lên bóng. Chú nắm tay con. Căn chòi hiện ra. Trong phút giây chú ngỡ là cung vàng điện ngọc. Chắc còn nhiều năm nữa bé Huôi mới trở thành bà chúa. Chừng đó chú già nua rồi. Chú chỉ muốn có căn nhà cao ráo để dưỡng già…   Hòn Chông là dẫy đồi thấp, sát mé biển vịnh Xiêm La. Dân chúng sống bằng nghề chài lưới ở mé biển nhưng nguồn lợi to nhứt vẫn là nghề trồng tiêu (hồ tiêu). Với mười lăm hay hai chục dây chăm bón kỹ lưỡng là một gia đình sống dễ dàng. Bao nhiêu đất tốt để trồng tiêu đều thuộc về ông Thần Phước cai quản, vì là người Triều Châu lai Cao Miên rồi lai Việt Nam nên tên ông được đọc là Xìn Phóc. Mấy người kỳ lão ở địa phương, nhứt là người tá điền, đều kiêng nể, gọi ông là ông Chúa Hòn, ông vua nho nhỏ giàu có và sang trọng nhứt của vùng Hòn Chông. Với số vốn tích trữ từ mấy đời trước, ông thuê nhân công để khai thác mấy ngọn đồi ở vùng kế cận: núi Còm, núi Mo So. Khi bán hồ tiêu cho bọn thương gia Mã Lai, ông chỉ lấy vàng, không dùng hình thức tiền bạc nào khác. Bọn gia nhân đồn đãi ông dùng số vàng ấy để trấn ếm một vài “linh huyệt” trên Hòn Chông, nơi có phủ thờ của tiên nhân – một người từ Triều Châu qua lập nghiệp ở Hà Tiên, theo chân họ Mạc vào thế kỷ thứ XVIII. Năm được 86 tuổi, ông Thần Phước giao cho đứa con trai đầu lòng là cậu Hai Minh cai quản tài sản. Cậu Hai chưa được bốn mươi tuổi nhưng đã có một vợ chánh và hàng chục tì thiếp. Ở vùng hẻo lánh, thú vui duy nhất của cậu Hai vẫn là uống rượu và tìm gái đẹp. Vợ chánh sanh đứa con trai duy nhất là cậu Hai Điền. Ăn ở với khá đông tì thiếp từ mười năm qua, cậu Hai Minh không hài lòng cho lắm, vì chẳng nàng nào sanh được con trai. Một buổi chiều, cậu Hai Minh ra lịnh cho gia nhân: – Đưa tao qua núi Mo So. Bọn gia nhân dạ rân lên, đem chiếu bông trải xuống chiếc ghe mui vuông sơn son thếp vàng. Bấy giờ là mùa hạn, sông rạch đều cạn ráo. Bọn gia nhân buộc bốn sợi dây luộc trước mũi và sau lái ghe, mỗi sợi dây chắc chắn ấy nối liền vào một con trâu đực to tướng, gọi là trâu cổ. Đáy sông quá cạn phơi lớp bùn sình. Ấy thế, mà chiếc ghe vẫn lướt nhanh. Bốn đứa bé mặc áo xanh cỡi trên lưng trâu, quất roi thật mạnh. Cậu Hai Minh nằm dài, dựa tay vào cái gối thêu: – Chừng nầy, ở núi Mo So…mình làm cái gì cho vui? Hai Ú trả lời: – Dạ, chừng nầy con gái trong xóm tới bờ mới gánh nước và tắm… – Hay quá! Vừa cười, cậu Hai vừa vỗ tay lia lịa. Lát sau, cậu gật đầu nhòm Hai Ú: – Mầy giỏi quá. Mầy chưa dở lần nào hết. Lát nữa tao tới đó bất ngờ. Mầy làm thế nào cho mấy cô gái cứ gánh nước tự nhiên, đừng chào đón. – Thưa cậu, vậy thì tôi phải đi trước mới được. – Họ biết trước thì mất vui. Phải tình cờ mới vui. Hai Ú chắp tay thưa: – Dạ, đón rước long trọng là chuyện dễ, đón rước tự nhiên là chuyện khó, cần sắp đặt trước. Không khéo mấy cô gái e lệ rồi hoảng chạy thì sao? Cậu cứ tin lời tôi. Lập tức, Hai Ú đến trước mũi ghe, nhảy lên bờ rất nhẹ nhàng. Anh ta giành lấy một con trâu cổ, cởi sợi dây ra rồi quất mạnh cho trâu chạy nhanh đến núi Mo So. Vì chỉ có ba con trâu kéo nên chiếc ghe tiến chậm. Cậu Hai khen ngợi: – Thằng Ú giỏi quá, nó biết lo trước lo sau. À! Cái gì mà chộn rộn ở chân núi? Bọn gia nhân phía sau reo lên: – Cậu Hai ơi, họ đốt đuốc… Xóm nhỏ ở chân núi Mo So hiện ra, náo nhiệt như buổi chợ phiên. Khi đến chân núi, cậu Hai Minh gặp ngay Hai Ú. Anh ta cầm bó đuốc đứng sẵn: – Thưa cậu, mời cậu đến bờ suối… – Ủa! Tại sao xóm giềng im lặng quá vậy? – Dạ, tôi ra lịnh cho ai nấy đóng cửa lại ngủ sớm để một mình cậu tới bờ suối, mặc tình nói chuyện với các cô. Tôi đã khuyên các cô cứ gánh nước tự nhiên. Các cô cười giỡn kìa! Cậu nghe không? Trong phút giây, cậu Hai ngỡ mình sống trong khung cảnh thần tiên nơi thượng giới. Ánh đuốc rọi chập chờn vào vách đá hai bên con đường dốc. Đêm mười bốn, trăng khá sáng tỏ. Lúc cao hứng, cậu Hai Minh ra lịnh: – Hai Ú cứ đi trước, thật xa. Tao đi dưới bóng trăng vui hơn. Cần gì qua bên Tàu mới hưởng được vui thú. Nhưng Hai Ú như còn ngập ngừng. Anh ta khoát tay đôi ba lần như làm dấu hiệu riêng với người phía sau. Cậu Hai Minh chẳng mảy may chú ý đến chi tiết đó, cứ hỏi đồn dập: – Tới chưa? Chà! Mấy cô cười nghe dòn quá. Còn ở phía sau, ai mà đông dữ vậy? Hai Ú đáp: – Cậu coi thử! Đó là mấy người khiêng rượu cho cậu uống. – Thằng nầy giỏi thiệt. Thật ra Hai Ú đã dàn cảnh khéo léo từ lúc nãy với Mười Hấu – người có khá nhiều quyền thế ở vùng núi Mo So. Mười Hấu rất tinh thông võ nghệ, con gái ông ta thuộc vào hàng đẹp nhứt trong vùng. Khi gặp Mười Hấu, Hai Ú đưa ra ý kiến: – Ông Mười muốn làm giàu không? Đây là dịp may hiếm có. Cậu Hai Minh tới để tìm gái đẹp. Nếu ông Mười vui lòng, làm thế nào cho cậu Hai được thỏa mãn thì… Mười Hấu nhớ đến đứa con gái tên là Ngó: – Con gái tôi chắc hạp nhãn với cậu Hai Minh. Hai Ú đáp: – Cậu Hai chỉ thích như vậy thôi! Ông Xìn Phóc già khú rồi. Bây giờ, cậu Hai Minh là ông Chúa Hòn chớ còn ai đâu xa lạ. Ngọn suối ở núi Mo So quá nhỏ hẹp. So với vùng cao nguvên thì đó là nơi dơ bẩn kém thơ mộng, nhưng ở chốn sình lầy nước mặn đồng chua thì quả là mạch nước tiên ngọt ngào và tinh khiết. Hai Ú dừng lại báo tin trước: – Mấy cô nên vui vẻ… bởi vì cậu Hai thương mấy cô, chịu khó lặn lội tới đây. Cậu tới kìa. Đừng làm cho cậu giận. Ngày mai các cô sẽ được ban thưởng, mỗi cô ít nhất được một lượng vàng. Đó là chưa nói sau nầy hễ túng thiếu tiền bạc thì các cô tới gặp tôi, tôi nói giùm một tiếng với cậu Hai là xong. Câu Hai Minh cười dòn: – A ha ha! Đêm nay là đêm vui sướng nhất của đời tôi! Mấy cô cứ tự nhién, đẹp quá. Hai Ú đâu rồi? Đốt thêm vài ngọn đuốc. Mười Hấu và đứa gia nhân để cần xé đựng hàng chục hũ rượu trên tảng đá rồi nói nhanh: – Thưa cậu, tôi có đuốc… Cậu Hai vỗ vai Mười Hấu: – Chú ở đâu? Tôi nhớ gặp mặt vài lần rồi. Đuốc ở đâu? Đốt lên. Ba ngọn đuốc cháy chập chờn. Trong đám thôn nữ rõ ràng cô Ngó là hoa khôi. Nàng mặc áo ngắn tay, đứng bỡ ngỡ trong dòng suối, nước ngập lên tận gối. Ánh sáng chói chang làm nàng giựt mình: – Ai làm chi vậy? Chỗ này… của người ta gánh nước. Mười Hấu hơi e ngại, nói khéo cho con nghe: – Ngó ơi! Cậu Hai tới thăm là vinh hạnh cho con. Con cứ vui cười. Cậu Hai Minh hơi xúc động. Mấy tháng qua, cậu chỉ lân la với mấy nàng hầu thiếp ở trong phòng kín đáo, toàn là những cô gái ăn mặc sạch sẽ và ốm yếu mảnh khảnh. Cô Ngó đúng là một pho tượng, căng đầy nhựa sống. Cậu Hai cầm ngọn đuốc, đến gần. Cô lính quýnh, bước ra giữa dòng. Cậu vói tới, nắm tay cô mà kéo lại: – Lên bờ cho vui. Tôi đã nói là cứ tự nhiên. Tôi tới đây để tìm cái… tự nhiên mà. Cô Ngó mỉm cười, để lộ hai hàm răng đều đặn: – Dạ, mắc cỡ lắm, cậu Hai! Mình mẩy ướt mem như vầy khó coi quá, thành ra vô lễ với cậu. Hai Ú nói: – Cô Ngó cứ lên bờ, ngồi bên tảng đá để nghe cậu Hai dạy việc. Cậu Hai dìu người đẹp lên bờ, Mười Hấu bèn đem bầu rượu trao tận tay: – Xin mời cậu… – Ngon lắm! Ngon Iắm. Tôi uống rượu một mình coi sao được? Xưa nay vua đâu uống ruợu một mình. Vua uống thì các quan đại thần và hoàng hậu đều uống. Đem rượu ra, uống không hết thì đổ bỏ xuống dòng suối tiên nầy. Hai ba cô gái gánh nước đứng gần cô Ngó cũng hưởng được chút ân huệ, nhưng làm sao các cô nuốt được thứ rượu đế quá cay, quá nồng! Hai Ú nhắc nhở từng chập: – Cứ uống. Uống không nổi thì cứ làm bộ đưa lên môi. Bầu rượu được cậu Hai đưa sát môi cô Ngó. Cô nhăn mặt liếc qua Mười Hấu như để hỏi ý kiến. Mười Hấu nói: – Uống đi con. Cậu Hai đoái tưởng tới con đó. Cậu Hai lim dim đôi mắt, một tay vuốt mái tóc người đẹp, một tay nghiêng bầu rượu. Rượu đổ tràn xuống ngực người đẹp. Cậu đưa tay ra phía sau: – Rượu nữa! Rượu nữa! Cô tên gì? Uống rượu không được thì chắc là tắm bằng rượu được… Cô Ngó ôm ngực van nài: – Lạnh lắm… Cho tôi về. – Tôi cho cô về… chiếc ghe của tôi. Hai Ú đâu rồi? Sửa soạn về. Nãy giờ tao cũng hơi lạnh. Muỗi cắn quá. Xứ nầy nhiều muỗi. Bây giờ cô Ngó cầm đuốc dẫn đường cho tôi xuống bến. Hai Ú đi sát bên cô Ngó mà nói khẽ: – Nên hầu hạ khéo léo cho cậu Hai vui. Tài sản của ông Chúa Hòn để lại cho cậu Hai, nghĩa là để cho cô. Cậu Hai nhiều khi khờ dại, cô nên hy sinh để cho cha mẹ và chòm xóm được nhờ. Dân chúng hai bên đường ngồi nép mình bên cánh cửa mà trông ra. Họ vừa mừng vừa sợ. Nếu cô Ngó được cậu Hai đem về Hòn Chông làm tì thiếp thì cha cô là Mười Hấu trở nên hách dịch, ai chịu cho nổi. Cô Ngó vào nhà, thay quần áo mới, trong khi cậu Hai Minh nằm trên ghe, thúc hối từng chập: – Trốn rồi sao chớ! Muỗi cắn chết. Tụi bây lo cho tao chớ.Tao hơi mệt rồi đó. Đắp mền cho tao. Con nhỏ đó sao chưa xuống đây quạt muỗi cho tao! Lát sau, chiếc ghe hầu trở về Hòn Chông, bốn con trâu kéo hì hục. Tội nghiệp cho mấy thằng bé cỡi trâu. Chúng nó ngủ gục từng chập, bị Hai Ú chửi rủa không ngớt mồm. Cô Ngó ngồi bên gối của cậu Hai, cầm cây quạt lông mà phe phẩy, cậu Hai khen ngợi từng chập: – Giỏi quá, khỏe quá! Quạt mạnh tay cho muỗi bay bớt thì ta mới ngủ được. Về Hòn Chông ít muỗi mòng hơn. Mỗi ngày, cô em cứ ở không mà quạt cho ta ngủ, khỏi gánh nước. Cậu Hai Minh đến Hòn Chông vào lúc hừng sáng. Hai Ú cõng cậu lên nhà. Cô Ngó hơi sợ vì lần đầu tiên trong đời, cô bước vào căn nhà sang trọng, đúng ra là ba bốn căn nhà cất chung trong vòng rào kiên cố. Năm sau cô Ngó hạ sanh một đứa con trai. Mấy nàng tì thiếp khác lấy làm bất mãn và ganh tị. Bà chánh thất lo ngại hơn ai cả, vì đứa bé nọ có thể tranh giành gia tài và ngôi vị với đứa con của bà. Bà đến gặp cậu Hai để cằn nhằn: – Ông làm như vầy còn gì thể diện! Cậu Hai đáp: – Tôi là… ông Chúa Hòn. Ba tôi đã trao quyền hạn cho tôi. Hằng ngày, nếu không đùa giỡn thì tôi làm gì bây giờ? Tôi thích đi đó đi đây, lâu lâu uống rượu say một lần. Bà chánh thất nói khẽ: – Con Ngó là đứa mà tôi không ưa. Nó làm mất thể diện dòng họ. – Trời ơi! Bà đừng vu cáo mà tội nghiệp nó. Nó là gái quê, là tì thiếp, hằng đêm cầm quạt đuổi muỗi cho tôi ngủ. Nhờ nó mà bà được rảnh rang, vả lại, hễ gặp bà là nó chắp tay xá… – Nó sanh đứa con trai. Nó là con của thằng Mười Hấu quê mùa dốt nát ở núi Mo So. Mười Hấu trở thành… cha vợ của ông Chúa Hòn, thiên hạ đàm tiếu nhiều lắm rồi. Cậu Hai bị chạm tự ái nên quát to: – Bà đừng nói vậy. Muốn tôi đuổi con Ngó sao? Tôi chưa đuổi nó được trong năm nay, nhưng tôi hứa là vài năm nữa nó không còn ở nhà nầy. – Nhưng thằng con của con Ngó! Nay mai nó tranh quyền hạn với con tôi thì sao? Ông nên suy nghĩ lại… Câu nói ấy khiến cậu Hai Minh bâng khuâng. Lập tức, ông vào phòng riêng nằm dài, vỗ trán cho bớt nhức đầu. Nãy giờ, cô Ngó đã nghe ngóng được câu chuyện. Chờ khi cậu Hai ngồi dậy uống chén trà, cô mới than thở; – Tội nghiệp em, nếu ở đây hoài, chắc có ngày em chết vì bà lớn. Tốt hơn, ông cho em bồng con về núi Mo So để rồi xin vô chùa, đi tu. – Đâu được! Đôi mắt đen huyền và làn da trắng mịn của cô Ngó khiến cậu Hai ngây ngất. Cậu vuốt ve cô nhưng cô ngồi lui ra, cầm cây quạt mà phe phẩy, cánh tay với tới. Những cảnh ghen tương giận hờn và tranh chấp quyền lợi đã xảy ra quá nhiều lần, nào riêng gì trong năm nay. Tin rằng thời gian trôi qua thì mọi việc đều tự dàn xếp êm thấm, cậu Hai uống thêm vài chén rượu rồi ngủ khò. Cô Ngó ngưng tay, không quạt nữa. Đến trưa, khi cậu mở mắt thức dậy thì cô lanh tay cầm cây quạt đứng thẳng người phía sau lưng. Đột nhiên cô buông tay. Cây quạt rơi xuống nền gạch, cán bằng ngà gây tiếng động vừa khô khan, vừa tức tối. Cậu day lại. Cô Ngó giả vờ như giựt mình, vội cúi mình lượm cây quạt đem lên, xem kỹ rồi run rẩy đến quì bên cạnh cậu Hai: – Ông tha cho tôi. Cán quạt nứt bể rồi. Cây quạt nầy quý giá lắm. Nói xong, nàng ngả người, quơ tay lên trời, kêu lên ú ớ mấy tiếng rồi nằm dài trên gạch. Cậu Hai đứng dậy quì bên cạnh đỡ nàng lên: – Em! Sao vậy? Tôi ở đây thì em cứ ở đây. Tôi chưa nói điều gì mất lòng em mà. Làm vậy tôi buồn… Cô mở mắt ra, nói khẽ: – Em chưa đủ sức để hầu hạ ông, ông nên tìm người khác. Em đâu dám hờn giận ai. Chẳng qua là em thức quá nhiều. Nãy giờ, em đứng mà quạt không nghỉ tay. Mấy ngón tay tê cóng, phần thì hồi sáng đến giờ em chưa rảnh để ăn món gì ráo… Lần đầu tiên trong đời, cậu Hai để rơi hai giọt nước mắt. Suốt đêm rồi, Ngó ngồi ngoài mùng mà quạt cho cậu được mát mẻ, đến canh ba, khi giật mình thức dậy, cậu vẫn thấy cô ngồi lì một chỗ, bảo đi ngủ thì cô trả lời rằng còn đủ sức quạt hầu. Rồi đến trưa nay, cô Ngó lại đứng quạt. Đúng là một cực hình mà cô chịu đựng không một lời than thở. Cậu Hai nói: – Mệt thì em lên giường tôi. Cô Ngó lắc đầu: – Em đâu dám. Rủị bà chánh thất bắt gặp, chắc em bị giết… – Tôi gọi đứa khác vô đây để em nghỉ tay. Từ rày về sau, em khỏi làm công việc cực nhọc nầy. – Thôi, cho em về mà nuôi con. Nó là con trai, em thương nó lắm. Hai tiếng ‘‘con trai’’ khiến cậu Hai thêm kiêu hãnh. Đây là đứa con trai thứ nhì của cậu, phải nuôi nó bằng được để dự phòng trường hợp đứa con trai của bà vợ lớn chết thình lình. Cậu đáp: – Em ở đây. Người chánh thất giận vì em có con trai, tôi biết. Bây giờ, em tìm cách gởi đứa con đó đi xa, đặt tên xấu xí. Hễ mang tên xấu thì làm sao nó trở về đây chia gia tài được? Thế là hôm sau, mọi sự thắc mắc trong gia đình cậu Hai Minh đều được giải quyết êm ái. Đứa con mới sanh phải mang tên là thằng Cẩu – nghĩa là con chó. Mười Hấu được mời đến Hòn Chông để lãnh đứa cháu ngoại đem về, nuôi tại núi Mo So. Cậu Hai ban cho Mười Hấu mười lượng vàng. Cô Ngó bị đày xuống nhà bếp, lo cơm nước cho cậu Hai. Mời các bạn đón đọc Bà Chúa Hòn của tác giả Sơn Nam.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Nếu Thời Gian Dừng Lại Ở Ngày Hôm Nay
“Tôi sẽ quên đi Koyomi âm thầm khóc vào những ngày mưa buổi sớm. Nếu nhắm mắt lại tôi cũng có thể nhìn thấy Koyomi đang đi bộ trên con đường được cát vàng thổi. Thế giới của tôi có Koyomi, thế giới của Koyomi có tôi cũng đang ở đó. Hai thế giới có chút hòa trộn vào nhau. Như vậy là đủ rồi.”   Nếu thời gian dừng lại ở ngày hôm nay kể về cuộc gặp gỡ tình cờ giữa Yukisuke và Koyomi ở tiệm bánh taiyaki. Cuộc sống của hai người bắt đầu bị xáo trộn bởi tai nạn của Koyomi. Tỉnh lại sau 3 tháng hôn mê, Koyomi vẫn nhớ được những gì trước khi xảy ra tai nạn, nhưng những ký ức sau khi xảy ra tai nạn, những công việc cô làm trong một ngày đều bị biến mất sau mỗi lần thức dậy ngày mới. Yukisuke muốn Koyomi có một cuộc sống mà mỗi ngày đều là những ngày vui vẻ, mới mẻ, đồng thời cũng giúp đỡ cô trong những lúc như thế này nên đã ngỏ ý mời cô về sống chung một nhà. Hai người đã có những ngày tháng yên bình cùng nhau. Nhưng niềm vui đó cũng sẽ chỉ trọn vẹn được trong một ngày vì sang ngày hôm sau, ký ức về ngày hôm qua của Koyomi sẽ lại biến mất. Cuộc gặp gỡ tình cờ ở tiệm bánh taiyaki giống như một sợi dây vô hình gắn kết hai người lại với nhau, họ luôn cố gắng cùng nhau khởi tạo những ký ức mới, để Koyomi không quên Yukisuke, để trân trọng hơn những phút giây dành cho nhau và để ngày mai không bao giờ đến. Koyomi, một cô gái chỉ có thể giữ được ký ức của mình trong một thời gian ngắn. Yukisuke, một chàng trai luôn coi sự tồn tại của Koyomi là tất cả. Dù cố lãng quên bao nhiêu đi chăng nữa, thế giới của hai con người ấy vẫn không thể nào biến mất.   *** MIYASHITA NATSU Sinh năm 1967 tại tỉnh Fukui. Tốt nghiệp chuyên ngành Triết học - khoa Văn trường Đại học Sophia. Năm 2004, tác phẩm Nếu thời gian dừng lại ở ngày hôm nay(Shizukana ame) của bà được bình chọn là tác phẩm xuất sắc cho giải thưởng Bungakukai Shinjinshou. Năm 2015, tiểu thuyết Hitsuji to Hagane no Mori được phát hành và mang lại cho bà giải thưởng Honya Taisho, cuốn sách đã đứng đầu bảng xếp hạng Kinobest đồng thời được trao giải Branch Book Award. *** MỞ ĐẦU Không còn xa nữa dự đoán bản thân trở thành kẻ vô dụng sẽ đến, nhưng tôi không nghĩ nó lại tới sớm như thế. Vì hiếm khi có đại biểu ở công ty từ sáng sớm, tất cả các nhân viên đã tập trung lại nói chuyện với nhau. Nghe nói năm nay công ty sẽ dừng hoạt động, đóng cửa toàn bộ. Trợ cấp nghỉ việc là một tháng lương cơ bản. Vì đây là việc gấp và cũng vừa đủ hết một tháng nên nghe nói công ty sẽ chuyển khoản cho nhân viên vào ngày nhận lương của tháng sau. Tuyết rơi báo hiệu mùa đông đến. Vào Giáng sinh có tuyết đúng là một cảnh tượng tuyệt vời, thế nhưng đến quá trưa khi tôi ra khỏi công ty thì tuyết đã ngừng rơi, trên đường chẳng còn lưu lại dấu hiệu nào cả. Tôi xuống ga gần nhất, trong lúc đang thơ thẩn dạo bước bỗng ngửi thấy một mùi hương thoang thoảng, dễ chịu lẫn trong cái giá lạnh của từng đợt gió ngày đông, khiến bước chân tôi dừng lại. Tôi chợt nhận ra rằng, thì ra có một tiệm bánh taiyaki* ở chỗ bãi gửi xe đằng sau quán pachinko*cạnh ga. Đúng lúc tôi đang nghĩ giá mà có thứ gì đó ấm ấm để lót dạ. Tiệm bánh hình như được xây dựng theo kiểu nhà tiền chế*. Nhắc mới nhớ, hèn chi tôi rất hay bắt gặp mấy người vừa đi bộ vừa ăn bánh taiyaki ở gần ga. Thì ra là bánh taiyaki của quán này. Tuyết đã ngừng rơi nhưng gió thì vẫn còn khá tê buốt, khiến tai và mũi tôi cảm thấy đau vì giá lạnh. Tôi phải cho tay vào túi quần, co đầu rụt cổ để tránh sự luồn lách của những cơn gió vào cơ thể. Trong lúc chờ nướng bánh, tôi thơ thẩn, mơ màng với suy nghĩ: “Từ bây giờ mình phải làm gì đây?” “Xin lỗi đã để anh phải chờ.” Người bán bánh đưa cho tôi chiếc bánh taiyaki được bọc trong giấy mỏng, tôi đếm tiền lẻ, trả tiền bánh. Bánh taiyaki vừa nướng xong dù được bọc bằng một lớp giấy mỏng nhưng vẫn ấm nóng. Tôi kẹp chặt bánh vào giữa đôi bàn tay đang lạnh buốt của mình, rời khỏi cửa hàng, vừa đi bộ vừa ăn trên đường về nhà. Cắn một miếng. Trời ơi ngon tuyệt, đến mức bước chân tôi phải dừng hẳn lại để cảm nhận. Tôi ăn thử miếng nữa. Ôi, cái này không phải ngon nữa mà thật sự là quá ngon, quá tuyệt vời. Tôi quay lại chỗ bán bánh, dùng tay gõ vào cánh cửa quán đã được đóng. Phía sau cửa kính, một cô bé đang lau chùi tấm sắt nướng bánh ngẩng mặt lên nhìn. “Cái này ngon thật đấy.” Đó là điều duy nhất tôi có thể nói lúc đó, câu nói tựa như của một đứa trẻ hai tuổi. Cô bé tròn xoe đôi mắt đen láy, hai má đỏ ửng và nói: “Cảm ơn quý khách.” Khuôn mặt đó giống như đang thấy rất vui từ tận đáy lòng. Sáng hôm sau, lúc tôi thức dậy đã là bảy giờ. Bắt đầu từ ngày hôm nay, tôi không phải đi làm cũng chả sao, không biết là nên thấy vui hay buồn nữa. Mặc dù đang là buổi sáng nhưng cơ thể tôi lúc đó có cảm giác như đã hơn bốn giờ chiều. Hôm nay, tôi sẽ giải quyết nốt những công việc còn lại ở công ty, rồi sau đó sẽ đi tìm việc. Thế nhưng tôi lại không muốn dậy chút nào, có điều gì đó mông lung, mơ hồ; mọi thứ như thế nào cũng được. Tôi cảm thấy dường như sắp có tin vui đến với mình và tự hỏi không biết đó là gì nhỉ? Tôi nhấc người dậy. Bánh taiyaki, đúng rồi tiệm bánh taiyaki tình cờ hôm đó và cả cô bé ấy nữa. Thế rồi tôi đến công ty, gọi điện thoại, dọn dẹp lại bàn làm việc. Sau khi kết thúc công việc, trên đường về tôi sẽ ghé qua tiệm bánh đó. Chỉ nghĩ vậy thôi mà cơ thể tôi cảm thấy thoải mái, nhẹ nhõm hơn hẳn. Mời các bạn mượn đọc sách Nếu Thời Gian Dừng Lại Ở Ngày Hôm Nay của tác giả Miyashita Natsu & Akichan (dịch).
Mười Ba Lý Do
Ở thời điểm hiện tại, có 3 cuốn sách tôi chưa “can đảm” đọc lại lần nữa trong tương lai, 3 cuốn đó, là: Mắt Biếc (Nguyễn Nhật Ánh), Tình nhỏ làm sao quên (Đoàn Thạch Biền) và Mười ba lý do (Jay Asher). Tôi chạm đến những trang gây “ám ảnh” với chính mình vào ngày “thất tịch” (mồng 7-7), buổi trưa trời đương nắng bỗng mưa ào xuống, rồi thôi… Rạng sáng, trời mưa lớn, kéo dài, như đã thấm bao ẩn ức chất chứa bấy lâu và chực vỡ òa sau thời khắc gặp nhau ấy; tôi giật mình bởi tiếng động, hồi tưởng về nhân vật trong câu chuyện, tôi nặng lòng lắm! Ngưu Lang – Chức Nữ dẫu mỗi năm chỉ gặp được một lần, ít ra họ còn được nhìn thấy nhau; nhưng hai nhân vật chính trong “MƯỜI BA LÝ DO” mãi mãi chẳng thể nghe giọng nhau, cùng trò chuyện hay thấy nhau nữa… Tôi chợt nhớ dòng trạng thái người quen đăng trên mạng xã hội: “Cuộc đời này vô thường lắm, có lỡ thương ai, nhớ ai thì cứ nói đi, biết còn được gặp nhau bao nhiêu lần nữa đâu… Ngại ngùng không nói, thờ ơ không nói, vô tâm không nói… Để rồi, muốn nói thì chẳng còn ai nghe nữa rồi!” Và, chúng ta sẽ chẳng thể biết rằng, phút giây bất chợt, có khi ta là điểm tựa, là “phao cứu sinh” tinh thần mà đối phương trông ngóng để trút hết những tâm sự thầm kín nhất đời mình. Một ánh mắt, một lời ủi an đúng lúc là liều thuốc tinh thần kịp thời vực dậy ý chí lịm dần giữa đại dương tuyệt vọng chỉ chực nhấn chìm người nặng mang ý nghĩ tiêu cực… * 13 mặt, 7 cuộn băng – 13 lý do như lời trăn trối của Hannah Baker trước khi tự sát. Cô đã thu âm số băng này gửi những nhân vật có liên quan và “yêu cầu” họ chuyển tiếp số băng trên đến những đối tượng khác là một phần của 13 lý do trên. Nếu ai đó làm trái luật, một bộ băng khác sẽ được phát hành ra công chúng. Nhân vật tôi “Clay” ngoài nghe hết 13 mặt băng, cậu còn đi đến những địa điểm được Hannah đánh dấu trên bản đồ, như một cách tưởng niệm người bạn quá cố, như một cách hình dung câu chuyện Hannah kể lại. * Cuốn sách gợi cho tôi khá nhiều suy tư: Về phía Hannah Baker: Thứ 1, cô có quá “ích kỷ” và “tàn nhẫn” lắm không khi nêu tên 13 người trong cuộn băng cùng lý do khiến cô tự sát, như ngầm đeo quả tạ nặng lên vai đảo lộn cuộc sống họ mà họ không được một lần đính chính và xác tín từng chi tiết xuất hiện trong câu chuyện. Thứ 2, cô bất công lắm không khi “quy kết” toàn bộ việc mình tự vẫn cho thầy tâm lý (tôi lờ mờ phán đoán thế). . Về phía Clay Jensen: Giá như anh “lì lợm”, chịu “chai mặt” một chút, không “nghe lời” Hannah bỏ về mà nán lại, rồi ôm cô vào lòng mặc cô đẩy anh ra xa thì có thể anh sẽ không phải nghe cuộn băng nói về mình trong nước mắt, dẫu Hannah nói về anh chỉ những điều tốt đẹp. Giá như Clay cứng rắn hơn, quyết đoán hơn tìm hiểu tin đồn thay vì im lặng, chết nhát để rồi giờ đây tự dày vò mình. . Và, về phía chúng ta; những người làm công tác giáo dục, những bạn học sinh – sinh viên, những con người bình thường trong cuộc sống: Có bao giờ chúng ta từng “kết tội” người tự sát chưa? Có bao giờ mọi người to nhỏ hoặc nhìn đối phương với ánh mắt khinh rẻ thông qua tin đồn mình nghe được về họ chưa? Có bao giờ chúng ta hứng chí lập một danh sách trêu đùa cá nhân bởi vẻ bề ngoài họ có phần “nổi bật” (như thừa cân, số đo 3 vòng…) chưa? Có bao giờ chúng ta tự bào chữa cho hành động đùa quá trớn vô thưởng vô phạt của mình bằng câu chống chế “Vui mà, sao căng vậy…” chưa? Có bao giờ chúng ta lên tiếng tố cáo những việc làm vi phạm pháp luật để bảo vệ chính mình và bảo vệ người khác chưa? Có bao giờ chúng ta bàng quan chuyện ấy không liên quan đến mình và tốt nhất không nên dây vào tránh rắc rối chưa? … Câu chuyện đặt ra rất nhiều vấn đề trong môi trường giáo dục quá cởi mở như nước Mỹ, từ đó dẫn đến các vấn nạn, như: sử dụng chất kích thích và gây tai nạn khi lái xe, hiếp dâm,… * Tôi vẫn thường nói, thời chúng ta đang sống là “thế kỷ cô đơn.” Nhịp sống mỗi ngày thúc hối, công nghệ chi phối con người,… mỗi cá thể tự dựng xây ốc đảo giam hãm mình, sẽ đến một ngày, cá thể không thể tiếp tục chịu đựng và tự kết liễu đời mình. Mãi đến phút cuối, Clay mới thực sự vượt qua bức tường thỏ đế bản thân tạo nên, tiếp cận đối tượng mà anh sợ sẽ rơi vào hoàn cảnh như Hannah Baker, cứ để quả cầu tuyết lăn mãi và đến lúc buông xuôi cho chúng cuốn mình… Cảm ơn Jay Asher đã viết “MƯỜI BA LÝ DO” – cuốn sách đầu tay đầy tinh thế, xoáy vào chủ đề quen thuộc dẫu tồn tại quanh chúng ta nhưng ít tác giả đề cập. Qua “MƯỜI BA LÝ DO”, tôi mong mọi người quan tâm và hiểu nhau hơn, để không còn trường hợp đau lòng nào như Hannah Baker nữa… *** “Anh?” cô nhân viên nhắc lại. “Anh muốn chừng nào nó đến nơi?” Tôi lấy hai ngón tay gãi mạnh lông mày mắt trái. Đầu tôi càng ngày càng nhức. “Sao cũng được,” tôi bảo. Người nhân viên nhận gói bưu kiện. Cái hộp giày đó cũng chính là cái hộp giày đã nằm trước thềm cửa nhà tôi hai mươi bốn tiếng trước; nó đã được tôi gói lại trong một cái túi giấy màu nâu và dán kín bằng băng keo trong, y như lúc tôi nhận được. Nhưng giờ thì địa chỉ nó sắp đến lại là một cái tên khác. Cái tên tiếp theo trong danh sách của Hannah Baker. “Một tá của thợ bánh,(*)” tôi lẩm bẩm. Rồi lại thấy tởm vì như vậy cũng nghĩ ra được. “Anh nói gì cơ?” Tôi lắc đầu. “Hết bao nhiêu vậy?” Cô ta đặt chiếc hộp lên một tấm đệm cao su, sau đó gõ liên tục trên bàn phím. Tôi đặt cốc cà phê mua ở cây xăng lên thành quầy và ngó vào màn hình. Tôi móc vài tờ tiền từ trong ví ra, lục vài xu trong túi, rồi đặt chúng lên quầy. “Tôi nghĩ cốc cà phê đó chưa ép phê đâu,” cô nhân viên nói. “Anh đưa thiếu một đô la.” Tôi đưa thêm một đô la, rồi dụi mắt cho tỉnh ngủ. Cà phê còn âm ấm khi tôi làm một ngụm, nên lại càng khó uống hơn. Nhưng dù thế nào tôi cũng phải tỉnh. Hoặc có lẽ không. Có lẽ tốt nhất tôi nên nửa tỉnh nửa mơ cho đến hết ngày. Có lẽ đó là cách duy nhất để tôi trụ qua hết ngày hôm nay. “Đúng lịch thì ngày mai cái hộp đến nơi,” cô ta nói. “Hoặc mốt.” Rồi thả cái hộp vào chiếc xe đẩy đằng sau. Đáng lẽ tôi nên chờ tới sau giờ học. Tôi nên để Jenny tận hưởng ngày yên bình cuối cùng của cậu ta mới phải. Dù cậu ta chẳng đáng để tôi làm vậy. Khi về tới nhà ngày mai, hoặc mốt, cậu ta sẽ thấy một bưu kiện trước thềm cửa nhà mình. Hoặc nếu bố, mẹ hay ai đó nhận thư trước thì có thể cậu ta sẽ thấy chiếc hộp nằm trên giường mình. Và cậu ta sẽ phấn khích. Tôi cũng đã phấn khích đấy. Một bưu kiện không đề tên người gửi à? Họ quên đề tên, hay là cố ý? Có thể từ một người hâm mộ bí mật chăng? “Anh có muốn lấy hóa đơn không?” cô nhân viên hỏi. Tôi lắc đầu. Dù vậy, cái máy cũng in ra một tờ hóa đơn. Tôi nhìn cô nhân viên xé dọc rìa răng cưa nhựa của máy in rồi quăng tờ giấy vào thùng rác. Trong thị trấn có độc một bưu điện. Không biết có phải chính cô nhân viên này cũng là người nhận cái hộp giày này từ những người khác trong danh sách không, những người nhận được nó trước tôi. Rồi bọn họ có giữ hóa đơn như vật lưu niệm bệnh hoạn không? Giấu chúng vào ngăn đồ lót? Ghim chúng lên một tấm bảng? Suýt nữa tôi đã xin lại tờ hóa đơn rồi. Suýt nữa tôi nói, “Em xin lỗi, cho em xin lại hóa đơn được không?” Để về sau có thứ nhắc tôi nhớ chuyện này. Nhưng nếu muốn có thứ nhắc nhớ mình thì tôi đã đi sao lại số băng cát sét hoặc giữ lại tấm bản đồ rồi. Nhưng tôi không bao giờ muốn nghe lại đống băng đó nữa, dù giọng cậu ấy sẽ còn vang mãi trong đầu tôi. Và những ngôi nhà đó, những con phố đó, và ngôi trường cấp ba đó sẽ luôn luôn còn đó để nhắc tôi nhớ về chuyện này. Giờ thì hết làm gì được nữa rồi. Bưu kiện đã trên đường gửi đi. Tôi ra khỏi bưu điện mà không lấy hóa đơn. Sâu bên trong chân mày mắt trái, đầu tôi vẫn nhức. Mỗi ngụm nước bọt tôi nuốt đều có vị chua, và càng gần đến trường, tôi càng thấy mình sắp ngã gục. Tôi muốn gục ngã. Tôi muốn ngã xuống ngay vỉa hè đằng kia rồi lết thân mình vào trong đám thường xuân đó. Vì ngay bên kia bụi thường xuân, vỉa hè uốn cong, men theo rìa ngoài bãi đỗ xe của trường. Rồi nó cắt xuyên qua bãi cỏ trước, tiến vào tòa nhà chính. Nó đi xuyên qua cửa chính và nhập vào hành lang, ngoằn ngoèo giữa những dãy tủ đồ và lớp học ở hai bên, rồi cuối cùng dẫn vào cánh cửa luôn để mở của tiết học thứ nhất. Phía trước lớp, đối diện với học sinh, sẽ là bàn của thầy Porter. Thầy ấy sẽ là người cuối cùng nhận được gói bưu kiện không có tên người gửi. Và ở giữa phòng, dịch qua bên trái một bàn, sẽ là bàn của Hannah Baker. Không người ngồi. (*) Một tá của thợ bánh, hay Baker’s dozen, có nghĩa là 13 chứ không phải 12 như nghĩa thường của một tá. Cụm từ này được cho là có nguồn gốc từ thời Trung cổ ở Anh. Thời đó, giá bán bánh mì được quy định phải dựa theo giá của bột mì, thợ bánh nào bán thiếu cân sẽ bị trừng phạt. Và vì bánh mì được tính theo cân bột chứ không phải số lượng nên để tránh thiếu cân, các thợ bánh thường cho thêm vào một hoặc hai ổ bánh giống hệt mỗi khi bán ra một tá bánh. Họ Baker của Hannah cũng có nghĩa là thợ làm bánh. Mời các bạn mượn đọc sách Mười Ba Lý Do của tác giả Jay Asher & Tuấn Phúc (dịch).
Đội Trinh Sát Và Con Chó Sara
Cuốn sách thuộc loại tiểu thuyết chiến tranh, thông qua câu chuyện về chú chó Sara được một anh bộ đội Việt Nam nhặt được trên vỉa hè gần bến cá ở Kampong Ch’nang, Campuchia. Nhờ cặp móng huyền đề, sự thông minh, nhanh nhẹn và sự trung thành, Sara thoát khỏi món “rựa mận” và gia nhập vào “đời lính”. Một trang sử được lột tả một cách chân thật và gần gũi thông qua những mẩu chuyện xung quanh chú chó Sara và các anh bộ đội Việt Nam trong quá trình đấu tranh chống lại tội ác diệt chủng của Kh’mer Đỏ. *** "Với Sara, khẩu DKZ 75 ly chỉ là một con chó điên, sủa ra lửa cả đằng đầu lẫn đằng đuôi. Một con chó vô dụng dài ngoằng, không có lông và hay gây phiền nhiễu. Đã thế, có mỗi ba chân, thua hẳn nó một chân nên trông thậm vô lý và buồn cười…". Nhân vật trung tâm của tiểu thuyết chiến tranh đang được chú ý trên văn đàn có tên Sara - nghĩa là "Rượu" trong tiếng Campuchia - một con chó nhách có huyền đề kép lang thang xin ăn được Phong lượm về ở bến cá bên bờ Tonle Sap. Từ mối duyên lành đó, số phận của nó gắn liền với số phận những người lính trinh sát thuộc một tiểu đoàn chủ lực, dọc ngang mọi nẻo chiến trường trên đất nước Chùa Tháp. Văn thơ Việt Nam có nhiều trang viết về vùng thôn quê mộc mạc, đơn sơ cùng sự xuất hiện của những chú chó trung thành là vật nuôi giữ nhà, là người bạn thân thiết của con người; tạo dựng nên những thông điệp nhân văn sâu sắc trong các tác phẩm văn học nổi tiếng như Đôi mắt, Lão Hạc… Việc đưa loài vật trở thành nhân vật trong văn học không hề đơn giản nếu thiếu sự quan sát tinh tế hay cảm nhận sâu sắc về thế giới muôn màu muôn vẻ. Trong cuốn sách Đội trinh sát và con chó Sara, nhà văn Trung Sỹ đã khéo léo đưa hình ảnh chú chó xuất hiện ngay từ tên tác phẩm và xuyên suốt cốt truyện, khêu gợi sự háo hức, tò mò của độc giả. Sara không khác với các con chó trung đội Phong từng bầu bạn và… chén thịt trước đây nhưng nó đã thoát chết do sở hữu cái huyền đề kép theo kinh nghiệm dân gian là quý tướng loài cẩu hay vì sự trống vắng, tàn khốc do chiến tranh gây ra? Đội trinh sát 12 người, đã tử trận 4, anh em chí cốt lần lượt ra đi để lại quá nhiều khoảng trống lạnh lẽo, sự trống vắng thấu tim cảm nhận rõ rệt nhất trong những ca gác đêm mỗi đầu hai vọng. Vậy là Sara không bị giết, được ăn cơm lính và trở thành đứa bạn đêm trường thính tai, biết sủa, đỡ đần các ca gác thiếu người… Những con chó trung thành vẫn luôn xuất hiện như thế, khi mà người ta khốn khó, cô độc và đau thương nhất! Anh bạn bốn chân này được tác giả miêu tả như một nhân vật rất khôn ngoan và tình cảm. Sara thấu hiểu từng ngõ ngách tâm tư của các ông chủ, biết thân biết phận thực thi nhiệm vụ được giao nhưng cũng luôn đòi hỏi được đối xử công bằng, đúng tinh thần "chó có suất". Tình cảm giữa chú chó hoang và những người lính ngày càng khăng khít sau những lần "tác chiến" bắt rắn mối, băng qua "cơn mưa" đạn pháo hay đối diện với những mẩu vụn thịt người rã nát, thối khắm nồng nặc… Ấn tượng nhất là những phen cứu mạng thót tim: trong một lần đánh chiến dữ dội, Sara với linh tính của chú chó chiến, đã kịp thời báo cho chủ về quả lựu đạn M67 giấu trong áo một đứa trẻ. Sự ví von "len lét như rắn mùng năm, cúp đuôi như chó sợ pháo" không đúng với Sara khi chú đã quá quen thuộc với chiến trường rền vang tiếng đại bác gầm, tiếng hỏa lực tức ngực nổ gần. Chú thành thạo nằm áp xuống đất, dạt ngang né bom rơi đạn lạc... Tác giả khắc họa Sara như một "nhân chứng" chiến tranh ấn tượng, chú vật vã đi tìm dấu vết chủ của mình, dù bị bỏ quên vẫn quay về sau mấy ngày lưu lạc như một lữ khách chân chính. Tình nghĩa keo sơn đâu phải một sớm một chiều nên bắt gặp một mùi hương quen thuộc, hay cử chỉ búng tay của anh lính lạ cũng khiến nó bồi hồi, xao xuyến. Sara qua ngòi bút Trung Sỹ được nhân cách hóa vô cùng sinh động, biết sán đến ve vãn các nàng chó như một gã "trai lơ" bụi bặm đích thực; biết vênh váo, hãnh diện khoe chiến tích trước sự thán phục của bầy chó cái; biết giả vờ nịnh bợ các ông chủ; biết đau đớn, tức tưởi khi bạn tình bị giết; biết nhớ nhung tình nghĩa với cô chủ cũ… Cuốn theo những trang sách, độc giả cảm nhận hai năm chinh chiến dường như dài bằng nửa đời người. Những mảnh xác người vương vãi khắp chốn, chiếc bi đông cạn khô khai nồng mùi nước tiểu, đôi mắt trõm sâu một em bé gần chết đói đăm đăm nhìn nắm cơm vắt của Phong hay xác con voi đen toác bụng ngầu máu đỏ? Chưa ở đâu, ranh giới giữa sự sống và cái chết là mong manh nhường vậy: "Tử thần hóa trang giấu mặt bao giờ cũng nguy hiểm và đáng sợ. Một khu rừng nhiệt đới nguyên sinh, một thiên nhiên thật thà hoang dã bội nhiễm bởi những trái mìn dày đặc. Mìn dày như những cái gai độc cắm vào lòng trái đất. Chớ nên tin một khóm lan rừng đang ra hoa, một bụi sâm tươi tốt, một bãi nghỉ râm mát, một bờ suối trong lành. Tất cả có thể đã bị gài mìn". Cuộc chiến ngày càng khốc liệt. Phong bị thương nặng phải chuyển viện tuyến trên. Ở cứ, Sên hy sinh vì dính đạn nhọn của kẻ thù khi truy quét ở núi Tà Đạt, Phương ôm trọn trái mìn KP2 lúc ra Krako nhận thuốc đem về Svay Chek tiêm chủng cho trẻ con… Và Sara vẫn âm thầm đồng hành cùng họ! Sara đôi khi là hiện thân của những người lính can trường nhưng cũng bị bủa vây bởi nỗi cô đơn. Họ có thể không màng đến tính mạng trong những trận đánh sinh tử nhưng đêm về vẫn đối diện với bao khát khao rất đời thường, dằn vặt nỗi nhớ nhà, cháy bỏng trong tim ước mơ hòa bình và ngày về bình yên trong vòng tay mẹ. "Có những thứ trên đời kim bất hoán, là tính mạng người lính, bây giờ không phải của anh mà thuộc về mẹ anh đang trông chờ…". Cách tiếp cận và miêu tả chiến tranh của tác giả với sự xuất hiện của Sara khiến cho cuộc chiến bớt phần nào bi thương, áng văn cuồn cuộn chất lính, thấm thía chất đời và để lại trong lòng người đọc thật nhiều suy ngẫm, day dứt khôn nguôi: "Sara ươn ướt mắt, âu yếm ngắm ân nhân cũ trong chiếc áo vá rộng thùng thình của Phong. Bóng đêm giấu bớt đi vẻ khổ hạnh, phô ra những nét thanh tú của cô chập chờn trong ánh lửa. Hương ngọt đường cô chủ ngày xưa giờ có thêm mùi mồ hôi mặn vai áo lính. Đã lâu lắm những mùi đời thường thân quen này mới trở lại…". Gia nhập làng văn chưa lâu nhưng "lính mới" Trung Sỹ (tên thật là Xuân Tùng, sinh năm 1960) đã có những tác phẩm nổi tiếng về đề tài chiến tranh và Hà Nội. Xuất thân là trai Hà Thành chính hiệu, từng đi qua thời "mũ rơm", "tem phiếu", đồng thời là một người lính bộ binh đã tham gia cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam, những trang viết của ông vừa mang nét tài hoa duyên dáng, vừa thấm đẫm những nguyên liệu chắt lọc từ thực tế. Chuyện lính Tây Nam viết về quân tình nguyện Việt Nam làm nhiệm vụ quốc tế ở nước bạn Campuchia những năm cuối thập kỷ 70, đầu thập kỷ 80 của thế kỷ XX gây được tiếng vang lớn trên văn đàn. Điều này khích lệ tác giả viết tiếp tiểu thuyết Đội trinh sát và con chó Sara (NXB Lao Động - 2020)... Không quá khốc liệt như Chuyện lính Tây Nam nhưng Đội trinh sát và con chó Sara giúp người đọc hình dung được những khó khăn, hiểm nguy chết chóc luôn rình rập tấn công người lính tình nguyện Việt Nam đóng quân ở Svay Chek. Sự hiện diện của quân tình nguyện Việt Nam là chỗ dựa vững chắc cho Xã trưởng Sok Un, Xã đội trưởng Loung, cô giáo Chanrithy và bà con ở Svay Chek chung tay xây dựng cuộc sống mới... Là cây bút bước ra từ chiến trường, trực tiếp đối mặt với quân diệt chủng, nhà văn Trung Sỹ không chỉ viết bằng ngòi bút mà bằng mọi giác quan, bằng cả hơi thở gấp gáp và trái tim bị bóp nghẹt. Chính điều đó đã tạo nên sự hấp dẫn của tác phẩm. Xin trân trọng giới thiệu cùng độc giả! Được biết đến là một trong những thương hiệu sách đi đầu về dòng sách quản trị kinh doanh/ phát triển kỹ năng trong ngành xuất bản với các cuốn sách hướng dẫn khởi nghiệp, các bài học, phương pháp và kinh nghiệm quản trị của các chuyên gia, các hãng và tập đoàn nổi tiếng trên thế giới. Nổi bật với các cuốn sách: HBR Onpoint, Quốc gia khởi nghiệp, Trí tuệ Do Thái, Phi lý trí, Tư duy nhanh và chậm, Tiểu sử Steve Jobs, Thiên nga đen, Chiến lược đại dương xanh, Phù thủy sàn chứng khoán,.. Sau 16 năm hình thành và phát triển, Alpha Books đang từng bước khẳng định tên tuổi của mình, đặc biệt đối với các thế hệ doanh nhân, nhà quản lý và những người trẻ luôn khát khao xây dựng sự nghiệp thành công. *** Là cây bút bước ra từ chiến trường, trực tiếp đối mặt với quân diệt chủng, tận mắt thấy những xác người không toàn thây sau những thảm sát phi nhân tính, giọng văn của Trung Sỹ không chỉ có cái mùi khói đạn đặc trưng mà còn có mùi đắng hắc của ký ninh, mùi vết thương hoại, mùi xác chết đang trương, mùi tanh gây của máu, của những mảnh nhuyễn thịt vụn thân người người trộn lẫn với khói đen khét lẹt. Có lẽ, ông không chỉ viết bằng bút mà bằng mọi giác quan, bằng súng! Trên đường hành quân, trong trùng vây rừng khộp, bất cứ nơi nào, người lính Việt Nam tình nguyện cũng có thể phải đối mặt với đói khát, với thiên nhiên khắc nghiệt, với thú dữ, bom đạn, quân thù, khiến ranh giới giữa sự sống và cái chết trở thành mong manh: “Một khu rừng nhiệt đới nguyên sinh, một thiên nhiên thật thà hoang dã đã bội nhiễm bởi những trái mìn dày đặc. Mìn dày như những cái gai độc cắm vào lòng trái đất. Chớ nên tin một khóm lan rừng đang ra hoa, một bụi sâm tươi tốt, một bãi nghỉ râm mát, một bờ suối trong lành… Tất cả có thể đã bị cài mìn”. Chứng kiến nhiều cái chết đau đớn của đồng đội, người chết khát giữa rừng, người liệt tim vì bị rắn cắn, nhiều người bị mảnh bom găm vào da thịt, cắt lìa tay, chân, chết dần mòn trong đau đớn kéo dài, đến mức tác giả chỉ ước nếu lỡ tử thần có dạo bước ghé thăm thì được chết tốt bởi một loạt đạn bắn gần hay một trái mìn chớp nổ. Chết tốt là phải chết ngay! Cái chết tức thì nhẹ nhàng, không đớn đau khắc khoải. Bối cảnh cuộc chiến được tái hiện qua thể loại tiểu thuyết chiến tranh với hai tuyến nhân vật đối nghịch và kết thúc có phần có hậu, song có lẽ như lời thề của lính, Trung Sỹ đã rất mực tôn trọng sự thật. Bên cạnh những trang viết nhuốm màu huyền bí mô tả trận lốc ma cuốn dựng thảm lá khô nơi bìa rừng hay những đoạn tái hiện vẻ u tịch bí hiểm của một ngôi đền hoang giữa rừng khộp nắng hun là sự đói khát của những chàng lính trẻ trong rừng sâu núi thẳm, là những lần phải uống nước tiểu của chính mình để qua cơn khát. Bên cạnh những cảm tình trai gái lãng mạn, những đụng chạm da thịt đầy rạo rực đưa đẩy hồn yêu và khát khao tuổi trẻ là những “nỗi buồn chiến tranh”, những đêm gác trõm mắt, những trận sốt rét rừng quằn quại, là nỗi nhớ mong khắc khoải quê nhà. Là phút phân vân vì bản năng sống, là lúc hoang mang nghĩ tới cái chết. Là ước mong đến ngày giải ngũ, về đến ngõ nhà gặp mẹ, gặp em, để sống nốt những tháng năm tuổi trẻ. Những chất liệu thô tháp ấy, những tình cảm rất thật của con người ấy khó lòng mà hư cấu nổi. Cũng qua Đội trinh sát và con chó Sara, người đọc có thể hình dung phần nào đời sống đen tối và số phận khổ hạnh của con người ở đất nước chùa Tháp trong thời kỳ này.  Rõ ràng, chiến trường Tây Nam để lại trong những người lính chiến những ký ức ám ảnh chẳng kém một trận địa khốc liệt nào trên dải đất Việt nhiều thương đau, nhưng bao trùm và xuyên suốt trong hình tượng người lính vẫn là tấm lòng yêu thương, nỗi nhớ mong tha thiết đối với gia đình, Tổ quốc, vẫn là ước vọng hòa bình và đoàn tụ...   Mời các bạn mượn đọc sách Đội Trinh Sát Và Con Chó Sara của tác giả Trung Sỹ.
Bà Nội Găngxtơ
Bà nội của Ben là một bà nội chuẩn không cần chỉnh - bà có tóc bạc, răng giả, và giấy ăn giắt đầy tay áo. Bà chỉ thích ăn mỗi món bắp cải và chơi trò xếp chữ. Theo Ben thì bà chán kinh khủng. Cho đến khi cậu phát hiện ra bí mật vĩ đại của bà: Bà là một tên trộm nữ trang quốc tế! Hết sảy nhất là bà còn đang lên kế hoạch cho vụ trộm nữ trang đỉnh nhất từ trước đến giờ - trộm bộ Báu vật Hoàng gia từ Tháp London! Đã thế Ben còn có thể tham gia! Thế là tối thứ Sáu ở nhà bà nội bỗng trở thành ngày hào hứng nhất tuần! Và vụ trộm đã kết thúc theo một cách không ai ngờ tới nhất... "Trong tuyệt phẩm này, Walliams đã cân bằng giữa hài kịch đỉnh cao với một thông điệp đầy xúc động." *** Review sách “Bà nội Găngxtơ” – David Walliams Bài review này dành cho những bạn đã và đang tò mò về cuốn sách mà phân vân không biết có nên rước em nó về không? Thì câu trả lời là có nha. Rước lẹ ạ Cuốn truyện vẫn lôi cuốn mình như lần đầu mình đọc nó. Bạn nghĩ nó là một câu chuyện hài hước ư, chỉ một phần thôi. Bởi sâu trong nó là rất nhiều ý nghĩa về gia đình, đời sống xã hội và cả những ẩn khuất của cuộc sống hiện đại, nơi mà những người như bà nội của Ben không tìm được ý nghĩa cho những ngày còn lại ngắn ngủi của bà. Bà nội của Ben là hình mẫu điển hình y hệt như những bà nội khác. Tóc bạc xoăn tít, kính đít chai, răng giả, máy trợ thính đeo trên tai. Bà luôn có khăn giấy dùng rồi trong túi áo khoác và người bà lúc nào cũng sặc mùi bắp cải. Đối với Ben bà nội chán thôi rồi. Thế nhưng rồi trong một ngày chán phải biết khi ở với bà nội, Ben phát hiện ra một chuyện kinh thiên động địa. Bà nội của cậu là một Găng x tơ chính hiệu, một tên trộm nữ trang quốc tế. Khỏi phải nói Ben bàng hoàng cỡ nào, cậu không thể ngờ rằng bà nội của mình lại ngầu bá cháy con bọ chét như thế. Thế rồi cái nhìn của Ben về bà nội quanh ngoắt 180 độ. Cậu hâm mộ bà ghê gớm. Rồi câu chuyện tiếp diễn, mang theo những tình tiết dở khóc dở cười dành cho Ben, mang đến cho cậu biết bao nhiêu là rắc rối. Thế nhưng chính những điều ấy khiến Ben nhận ra một sự thật đến đau lòng, bà nội của cậu cô đơn đến mức nào, và bà yêu cậu tới mức nào. Khoảnh khắc khi Ben chuẩn bị rời khỏi phòng bệnh của bà, cậu ngập ngừng quay lại và nói với bà nội: “Cháu yêu bà, bà nội ạ.” đã thực sự chạm đến trái tim mình. Đó không phải là lời nói an ủi, cũng không phải là sự bồng bột. Mà đơn giản nó là điều đã tồn tại trong trái tim bé nhỏ của cậu nhóc từ lâu rồi, chỉ là bây giờ cậu mới nhận ra nó. Câu chuyện còn có một điểm rất thú vị đối với mình nữa đó là việc Ben có một đam mê mãnh liệt với việc trở thành một thợ sửa ống nước. Eo ôi! Có lẽ là điều đầu tiên mà người lớn nghĩ ngay khi biết được ước mơ của cậu, ngay cả cha mẹ của Ben cũng phải vô cùng thất vọng về cái ước mơ của con trai mình. Trong khi những đứa trẻ cùng trang lứa mơ ước những điều lớn lao, nào là trở thành ngôi sao, trở thành bác sĩ này nọ, thì Ben lại chỉ thích làm một thợ sửa ống nước. Thế thì sao chứ, đó là giấc mơ của một cậu bé và người lớn chúng ta hoàn toàn không có quyền để phán xét nó. Ai cũng có một ước mơ, và chúng ta làm tất cả mọi việc để theo đuổi nó, bằng chính sức lực của mình. Đó vốn đã là một điều tuyệt vời rồi đấy thôi. Mà còn tuyệt vời và lạ lùng hơn nữa là chính cái ước mơ tưởng chừng như dở hơi và quái đản ấy đã giúp cho Ben có một kế hoạch để đời cùng với bà nội ngầu bá cháy của mình. Liệu một cậu nhóc mê sửa ống nước và tay trộm nữ trang quốc tế đã rụng gần hết răng có thực hiện được phi vụ lớn nhất quả đất, mà theo lời Ben là sẽ gây chấn động đến toàn cầu này không. Hai bà cháu sẽ trót lọt chứ? Nếu bạn thực sự tò mò, hãy đọc nó nhé. Câu chuyện không quá dài này sẽ đem đến cho bạn trọn vẹn những cung bậc cảm xúc từ thú vị, hài hước đến những phút chạm nhẹ và sự cảm động tới tận trái tim. Review của độc giả Nguyễn Châu – Nhã Nam reading club *** Cảm ơn mọi người:   Tôi muốn gửi lời cảm ơn đến một vài người đã giúp tôi hoàn thành cuốn sách này. Đầu tiên là Tony Ross siêu tài năng với những bức tranh minh họa kỳ diệu. Tiếp theo là Ann-Janine Murtagh, người đứng đầu sáng suốt bộ phận sách thiếu nhi của HarperCollins. Nick Lake, người bạn và biên tập viên mẫn cán của tôi. Hai nhà thiết kế tuyệt vời James Stevens - thiết kế bìa và Elorine Grant - xử lý văn bản. Người dàn trang vô cùng tỉ mỉ của tôi, Lizzie Ryley. Samantha White và những nỗ lực giúp sách của tôi được phát hành. Tanya Brennand-Roper đáng mến, người sản xuất phiên bản audio của cuốn sách này. Và tất nhiên là người đại diện văn học luôn thấu hiểu của tôi, Paul Stevens từ công ty Independent. Trên hết, chú muốn cảm ơn các bạn đọc nhí đã đọc sách của chú. Chú chân thành biết ơn vì các cháu đã đến gặp chú ở buổi ký tặng, viết thư rồi gửi cho chú tranh vẽ của các cháu. Chú thực sự thích kể chuyện cho các cháu nghe. Chú cũng mong mình có thể nghĩ ra nhiều câu chuyện hơn nữa. Cứ tiếp tục đọc sách đi nhé, rất tốt cho các cháu đấy! *** “Nhưng mà bà nội chán lắmmmm,” Ben nói. Đó là một tối thứ Sáu giá lạnh của tháng Mười một, và như mọi khi, cậu nhóc ngồi thõng người ở hàng ghế sau xe bố mẹ. Và một lần nữa, cậu lại đang trên đường đến ngủ ở căn nhà khủng khiếp của bà nội. “Người già ai cũng thế.” “Đừng có nói về bà nội con như thế,” bố nói yếu ớt, cái bụng bia tì lên tay lái chiếc xe màu nâu bé tẹo của gia đình. “Con ghét ở với bà,” Ben phản đối. “Ti vi nhà bà không bật được, lúc nào bà cũng muốn chơi xếp chữ và bà còn bốc mùi bắp cải nữa!” “Công bằng mà nói, bà bốc mùi bắp cải thật,” mẹ đồng tình trong khi cố tô nốt son viền lên môi. “Nói thế chẳng giúp được gì đâu vợ,” bố lẩm bẩm. “Cùng lắm mẹ anh chỉ hơi có mùi rau luộc thôi.” “Con đi với bố mẹ được không ạ?” Ben nài nỉ. “Con thích trò khiêu khích,” cậu nói phét. “Người ta gọi đó là khiêu vũ,” bố chữa lại. “Và con không hề thích môn đó. Con đã nói, để bố nhắc lại nhé, ‘Con thà ăn gỉ mũi còn hơn xem thứ nhảm nhí đó’.” Bố mẹ Ben đều rất thích khiêu vũ. Đôi khi Ben nghĩ bố mẹ còn yêu môn đó hơn cả yêu cậu. Có một chương trình truyền hình vào tối thứ Bảy mà bố mẹ không bao giờ bỏ lỡ tên là Bước nhảy hoàn vũ hoàn hảo, nơi các ngôi sao sẽ nhảy cặp cùng vũ công chuyên nghiệp. Thực ra, nếu có một đám cháy ở nhà Ben và mẹ chỉ có thể cứu được hoặc là chiếc giày bịt mũi màu vàng lấp lánh từng được Flavio Flavioli sử dụng (gã vũ công đào hoa người Ý với làn da rám nắng lấp lánh bóng loáng xuất hiện trong mọi kỳ của chương trình truyền hình tiếng tăm kia) hoặc đứa con trai duy nhất của mình, Ben nghĩ mẹ có lẽ sẽ cứu chiếc giày. Tối nay, bố mẹ cậu sẽ đến tận trường quay để xem trực tiếp chương trình Bước nhảy hoàn vũ hoàn hảo. “Mẹ không hiểu sao con không chịu từ bỏ cái giấc mơ viển vông muốn trở thành thợ sửa ống nước để nghĩ về khiêu vũ chuyên nghiệp đi Ben ạ,” mẹ nói và đường son môi ngoác hẳn lên tận má khi chiếc xe nẩy tưng trên một con lươn giảm tốc mấp mô. Mẹ có thói quen trang điểm trên xe, khiến cho lúc đến được nơi cần tới, trông mẹ chẳng khác gì một tên hề. “Biết đâu, chỉ là biết đâu thôi nhé, cuối cùng con lại được lên Bước nhảy hoàn vũ hoàn hảo!” mẹ hào hứng nói thêm. “Vì nhảy chồm chồm như vậy thật là ngốc nghếch,” Ben nói. Mẹ hơi thút thít rồi với tay lấy giấy ăn. “Con làm mẹ buồn đấy. Giờ thì yên lặng và ngoan ngoãn đi Ben,” bố trả lời kiên quyết trong khi bật to loa trên xe. Hiển nhiên, đó là một đĩa Bước nhảy hoàn vũ hoàn hảo. 50 tuyệt phẩm vàng của chương trình truyền hình đình đám được in rõ nét trên bìa đĩa. Ben ghét cái đĩa này, không phải chỉ vì cậu đã nghe nó đến cả tỷ lần. Thực tế thì cậu đã nghe quá nhiều lần đến nỗi việc này giờ chẳng khác gì tra tấn. Mẹ Ben làm việc trong một tiệm làm móng trong vùng, “Tiệm sửa móng Gail”. Vì chả có mấy khách nên mẹ và một cô nữa làm việc tại đây (chẳng có gì bất ngờ khi cô đó tên là Gail) gần như cả ngày chỉ toàn ngồi sửa móng cho nhau. Đánh bóng, làm sạch, tỉa móng, giữ ẩm, sơn phủ, gắn móng, sơn bóng, giũa móng, sơn móng, nối dài và vẽ móng. Hai người cứ làm mấy thứ đó cho nhau suốt cả ngày (trừ lúc Flavio Flavioli xuất hiện trên ti vi). Thế nên mẹ sẽ luôn về nhà với bộ móng giả đủ màu dài hết cỡ. Trong khi đó, bố Ben làm bảo vệ trong siêu thị địa phương. Điểm sáng trong hai mươi năm sự nghiệp của bố chỉ là chặn được một ông già đã giấu hai ống bơ thực vật trong quần. Mặc dù bây giờ đã quá béo để đuổi trộm, bố chắc chắn vẫn có thể chặn đường chúng. Bố gặp mẹ khi tưởng nhầm mẹ định thó một túi bim bim của cửa hàng, và chỉ một năm sau hai người lấy nhau. Mời các bạn mượn đọc sách Bà Nội Găngxtơ của tác giả David Walliams & Snorlax (dịch).