Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Phi Trường

Tên sách: Phi trường Nguyên tác: Airport Tác giả: Arthur Hailey NXB: Doubleday & Company, IncGarden City, New York 1968 Người dịch: DgHien Có tham khảo quyển Phi Trường của Thái Hà (Dịch từ Tiếng Nga) NXB Lao Động 1986. Từ những thông tin rời rạc, những người có trách nhiệm tại Phi trường quốc tế Lincoln đã khám phá ra một âm mưu đánh bom máy bay để trục lợi tiền bảo hiểm, và tìm cách ngăn chặn nó. Bên cạnh đó, quyển sách cũng trình bày nhiều hoạt động của những bộ phận khác nhau trong một phi trường, những hoạt động mà những hành khách bình thường không bao giờ thấy được. Và những suy nghĩ, hành động của những con người có liên quan trong một bộ phận xã hội. Arthur Hailey đã có nhiều sách xuất bản tại Việt Nam, mỗi quyển đều có liên quan đến một ngành nghề trong xã hội, một số đã có ebook. Tuy nhiên, theo đánh giá của tôi, Phi Trường là quyển hay nhất, hấp dẫn nhất, đến nay vẫn chưa có ebook, ngoài quyển Phi trường (PDF) do bạn Nga Hoang đưa lên mới đây. Quyển Phi Trường của Thái Hà (dịch từ Tiếng Nga) NXB Lao Động 1986 có một số thiếu sót: (1) phiên âm tên riêng, không còn nhận ra được tên nguyên gốc, không còn phù hợp thời đại; (2) bản Tiếng Nga dịch phóng túng, tùy tiện thêm vào những cái tên không có trong nguyên bản; và quan trọng (3) dịch sai một số chi tiết kỹ thuật, hoặc không hiểu rõ bộ phận kỹ thuật nên để nguyên tên Tiếng Anh không dịch. Do đó tôi đã mạnh dạn dịch mới từ nguyên tác Tiếng Anh, quyển Phi Trường của Arthur Hailey. *** Thông qua câu chuyện hồi hộp về quá trình nghi ngờ, điều tra phát hiện, và tìm cách ngăn chặn một vụ âm mưu cho nổ một chuyến máy bay hành khách quốc tế đông người ngay trên không. Arthur Hailey muốn cung cấp cho bạn đọc những hiểu biết tương đối tường tận và lý thú về hoạt động của một sân bay dân dụng vào loại lớn và hiện đại nhất nước Mỹ, sân bay quốc tế Lincoln, với lưu lượng máy bay lên xuống trung bình 30 giây một chiếc. Qua đó, tác giả muốn nói đến những vấn đề xã hội đang đặt ra hiện nay cho nước Mỹ: đó là những mâu thuẫn và bất công không thể tránh khỏi trong cuộc chạy đua theo tiến bộ khoa học kỹ thuật không phải vì hạnh phúc con người, mà trước hết vì lợi nhuận, đẩy con người đi đến chỗ có những hành động mù quáng điên rồ, tìm lối thoát trước cảnh ngộ bế tắc bằng cách tự giết mình và giết oan nhiều người vô tội khác. *** Arthur Hailey (người Anh có quốc tịch Canada) (1920 - 2004) là tác giả của mười một cuốn best-sellers, trong đó có "Bản tin chiều" đã được dựng thành phim. Ông có 11 tiểu thuyết bán rất chạy được in ở 40 quốc gia với 170 triệu bản. Hailey được coi là người trường vốn trong sự nghiệp sáng tác. Những cuốn truyện ông viết đã vượt khỏi quê hương, được xuất bản trên 40 nước với hơn 170 triệu bản. Điểm nổi bật trong tác phẩm của ông là những nhân vật có xuất xứ rất tầm thường nhưng khi bị đẩy vào hoàn cảnh bi hùng đã vượt lên thành một số phận khác.  Sinh ngày 5/4/1920, Hailey sớm phải bỏ học ở tuổi mười bốn, bởi cha mẹ không đủ tiền chu cấp ăn học cho con trai. Sau đó, chàng trai Arthur trở thành phi công trong quân chủng Hoàng gia Anh trong đại chiến 2. Năm 1947, nhà văn tương lai rời bỏ xứ sở sương mù đến Canada và nhập quốc tịch tại đây. Thời gian đầu nơi đất khách, Hailey phải kiếm sống như một nhân viên tiếp thị cho nhà máy sản xuất máy kéo. Được một thời gian thì việc viết lách đã cám dỗ Hailey. Cuốn tiểu thuyết đầu tay của ông là The Final Diagnosis, xuất bản năm 1959, kể về một bác sĩ chẳng may gây ra cái chết với một bé sơ sinh.  Mải mê với những con chữ trong một thập kỷ, rồi ông trở về công việc kinh doanh, chỉ ngồi vào bàn viết như một thú vui. Bà vợ của Hailey cho biết, nhà văn rất khiêm tốn và giản dị, nhưng ông có một niềm hân hoan đặc biệt khi đọc những bức thư của độc giả tán dương tác phẩm mình. Hậu duệ của ông dự định sẽ tổ chức một bữa tiệc tưởng nhớ ông vào tháng giêng theo đúng nguyện ước của người quá cố. Mười bốn tuổi đã nghỉ học vì cha mẹ không đủ tiền cho ông đi học tiếp, Arthur Hailey tham gia thế chiến thứ 2 với tư cách là phi công trong không lực hoàng gia Anh và trở thành nhà văn khi xuất bản tác phẩm đầu tay The final diagnoisis vào năm 1959.  Arthur Hailey có cách viết tiểu thuyết rất hấp dẫn, mô tả những người bình thường trong hoàn cảnh bất thường. Năm 2001 ông nói với hãng tin AP: "Tôi không thật sự tạo ra ai cả. Tôi chỉ lấy từ đời thật". Một số tác phẩm của ông đã được ra tiếng Việt như Phi trường, Bản tin chiều, Trong khách sạn... *** T háng giêng, lúc sáu giờ ba mươi chiều một ngày thứ sáu, Phi trường quốc tế Lincoln, tiểu bang Illinois, vẫn đang hoạt động, dù rất khó khăn. Cũng như toàn bộ miền trung nước Mỹ, phi trường đang rối tung bởi một cơn bão tuyết lớn chưa từng thấy trong vòng sáu năm nay. Cơn bão đã kéo dài ba ngày. Bây giờ, như những mụn mủ trên một thân thể xiêu vẹo, yếu ớt, những chỗ yếu nhất đang vỡ ra đều đều. Một xe tiếp phẩm của hãng United Airlines mang theo hai trăm phần ăn, bị mất tích và bị kẹt tuyết đâu đó trong phạm vi sân bay. Việc tìm kiếm chiếc xe tải hoặc người tài xế của nó đã thất bại trong bão tuyết và bóng tối. Chuyến bay 111 của hãng United, chuyến bay thẳng đến Los Angeles mà chiếc xe tiếp phẩm phải phục vụ, đã chậm lịch bay nhiều giờ. Sự hỗn loạn do chiếc xe tiếp phẩm bị mất tích sẽ làm cho nó chậm hơn nữa. Những trường hợp chậm tương tự vì những lý do khác nhau đã làm ảnh hưởng đến ít nhất một trăm chuyến bay của hai mươi hãng hàng không khác nhau đang sử dụng Phi trường quốc tế Lincoln. Trong phạm vi sân bay, đường băng 3-0 không sử dụng được, do bị chặn bởi chiếc máy bay Boeing 707 của hãng Aéreo-Mexican, những bánh xe của nó kẹt sâu trong lớp bùn tuyết, gần mép đường băng. Hai giờ tận lực để kéo chiếc máy bay khổng lồ đi đều thất bại. Bây giờ, sau khi sử dụng hết khả năng của mình, hãng Aéreo-Mexican phải cầu cứu hãng TWA. Vì đường băng 3-0 bị chặn nên đài kiểm soát không lưu (KSKL) phải áp dụng chế độ kiểm soát trên không hết sức chặt chẽ và hạn chế việc tiếp nhận máy bay từ những trung tâm lân cận như Minneapolis, Cleveland, Kansas City, Indianapolis và Denver. Mặc dù vậy, vẫn có hai mươi máy bay đang lượn tròn trên trời xin hạ cánh, một số gần cạn nhiên liệu. Còn trên mặt đất thì có gấp đôi số máy bay như thế sẵn sàng cất cánh. Nhưng chừng nào tình hình trên không chưa bớt căng thẳng, đài KSKL chưa cho phép bất cứ máy bay nào cất cánh. Kết quả là các cửa ra máy bay, đường lăn, khu sân đỗ nhồi đầy máy bay đang nằm chờ, nhiều chiếc đang nổ máy sẵn. Trong kho của tất cả các hãng hàng không đều đầy ứ hàng hóa, những hàng hóa cần vận chuyển gấp nhưng giờ bị cơn bão ngăn trở. Các nhân viên giám sát hàng hóa lo lắng nhìn những đống hàng mau hỏng - những hoa hồng trồng trong nhà kính từ Wyoming đi New England; một tấn phó mát Pennsylvania chở đi Anchorage, Alaska; đậu ướp lạnh chở đi Iceland; những con tôm hùm sống từ miền đông chở đi châu Âu trên chuyến bay qua b ắc cực. Những con tôm hùm này phải xuất hiện trong thực đơn ngày mai của các khách sạn, nhà hàng ở Edinburgh và Paris, nơi chúng được gọi là “hải sản tươi sống của địa phương” và đám khách du lịch Mỹ cả tin sẽ tranh nhau ăn chúng. Dù có bão hay không, các hợp đồng đã ghi rằng những thứ hàng mau hỏng này phải được vận chuyển đến nơi vẫn còn tươi và phải nhanh chóng. Điều làm các nhân viên hàng hóa của hãng American Airlines đặc biệt lo ngại là lô hàng mấy nghìn con gà tây mới ra khỏi lồng ấp cách đây vài giờ. Lịch chuyên chở món hàng này đã được sắp xếp chính xác từ nhiều tuần lễ trước đây - giống như mệnh lệnh khai hỏa một trận chiến - trước khi những quả trứng gà tây được đưa vào lồng ấp. Chậm nhất những con gà sống này phải được chở tới bờ biển phía tây trong vòng bốn mươi tám giờ đồng hồ sau khi nở, là thời hạn để những sinh vật tí hon này có thể sống sót mà không cần ăn uống. Thông thường, việc vận chuyển như vậy có tỉ lệ sống sót gần một trăm phần trăm. Còn nếu cho chúng ăn uống trong khi vận chuyển thì chúng và cả chiếc máy bay sẽ bốc mùi nặng đến nhiều ngày sau chưa hết. Bây giờ lịch vận chuyển chúng đã bị chậm mất nhiều giờ. Vì thế một chuyến bay chở hàng được điều động thay cho một chuyến bay hành khách, xem ra những chú gà tây mềm yếu này được ưu tiên hơn mọi thứ, kể cả những hành khách VIP. Trong nhà ga hàng không chính, sự hỗn loạn đã tăng cao. Các phòng chờ chật kín hàng nghìn hành khách của các chuyến bay bị hoãn hay bị hủy. Hàng đống hành lý khắp nơi. Cả căn phòng khổng lồ trông giống như sự lộn xộn kết hợp giữa một trận đấu bóng đá kiểu Mỹ với cửa hàng Macy's trước lễ Giáng sinh. Cao trên mái nhà ga, câu slogan thiếu khiêm tốn PHI TRƯỜNG QUỐC TẾ LINCOLN - NGÃ TƯ HÀNG KHÔNG THẾ GIỚI, hoàn toàn bị tuyết che lấp. Thật đáng kinh ngạc là mọi thứ vẫn tiếp tục hoạt động, Mel Bakersfeld nghĩ. Mel, Tổng giám đốc phi trường - dáng gầy, khắc kỷ - đang đứng cạnh phòng chỉ huy chống tuyết, cao trên tháp KSKL, nhìn chăm chú vào màn đêm. Bình thường từ văn phòng kính này, toàn bộ khu liên hợp phi trường - các đường băng, đường lăn, nhà ga, giao thông dưới đất và trên không - trông giống như những mô hình bé xíu, ngay cả vào ban đêm hình dạng và chuyển động của chúng có thể nhìn thấy rõ ràng dưới ánh đèn. Chỉ có một nơi nhìn được như vậy cao hơn - Đài KSKL chiếm hai tầng trên cùng. Nhưng đêm nay chỉ nhìn thấy thấp thoáng vài ánh đèn gần nhất sau tấm màn tuyết dày đặc đang bị gió cuốn. Mel nghĩ rằng mùa đông này sẽ còn được thảo luận tại Hội nghị các nhà khí tượng trong nhiều năm tới. Trận bão tuyết này xuất hiện cách đây năm ngày tại vùng núi khuất gió ở Colorado. Lúc mới xuất hiện nó chỉ là một vùng áp thấp không to hơn một quả đồi, và đa số các nhà dự báo thời tiết, để lập bản đồ khí tượng cho các chuyến bay, không ghi nhận ra nó, hay bỏ qua nó. Và như bất mãn, cơn áp thấp đó gia tăng sức mạnh giống như một căn bệnh ác tính khổng lồ, vẫn đang phát triển, lúc đầu hướng về phía đông nam, sau đó phía bắc. Nó vượt qua Kansas và Oklahoma, sau đó tạm dừng tại Arkansas, thu thập thêm sức mạnh.  Ngày hôm sau, mạnh lên và hung hãn, nó ào ào đổ vào thung lũng Mississippi.  Cuối cùng, cơn bão trút xuống Illinois, gần như làm tê liệt cả tiểu bang với gió mạnh, nhiệt độ đóng băng, và một lượng tuyết dày mười inch trong 24 giờ. Tại sân bay, lớp tuyết dày mười inch lúc đầu rơi nhẹ, liên tục. Nhưng bây giờ lớp tuyết cũ được tiếp nối bởi nhiều tuyết hơn, gió cuốn chúng thành từng đống, cùng một lúc các đống tuyết mới lại chồng lên các đống tuyết cũ.  đ ội dọn tuyết đã gần như kiệt sức. Trong vòng vài giờ qua một số người đã được lệnh về nhà, mặc dù trong trường hợp khẩn cấp như thế này sân bay có cung cấp cho họ nơi tạm nghỉ. Tại phòng chỉ huy chống tuyết ở gần Mel, Danny Farrow - lúc bình thường là trợ lý của Tổng giám đốc phi trường, nay phụ trách phòng chỉ huy chống tuyết - đang gọi Trung tâm chống tuyết qua radio. “Chúng tôi đang mất cả các bãi đậu xe rồi. Tôi cần thêm sáu xe dọn tuyết nữa và một đội banjo tại ngã ba bảy bốn”. Danny đang ngồi tại phòng chỉ huy chống tuyết, thực sự không phải là một căn phòng đúng nghĩa, nhưng là một chỗ rộng cỡ ba gian nhà.  Trước mặt Danny và hai người giúp việc của ông ở hai bên là một loạt điện thoại, máy telex và máy radio. Xung quanh họ là các bản đồ, sơ đồ, và các tờ phiếu ghi lại tình trạng và vị trí của tất cả các xe dọn tuyết, cũng như các nhân viên và các giám sát. Có một phiếu riêng biệt cho các đội banjo - đội lưu động với dụng cụ dọn tuyết cá nhân. Phòng chỉ huy chống tuyết chỉ hoạt động đúng mục đích của mình trong một mùa này. Tại các thời điểm khác trong năm, căn phòng này chỉ còn sự vắng vẻ và yên tĩnh. Cái đầu hói của Danny bóng nhẫy những giọt mồ hôi khi ông ghi chú những ký hiệu trên bản đồ khổ lớn của sân bay.  Ông lặp đi lặp lại thông điệp của mình cho Trung tâm chống tuyết, nghe giọng ông giống như một lời van xin cho cá nhân, mà có lẽ đúng như thế thật. Ở trên cao này là phòng chỉ huy. Và người chỉ huy phòng này phải hiểu rõ toàn bộ sân bay, biết rõ từng yêu cầu và triển khai các thiết bị đến bất cứ nơi nào cần thiết nhất.  Một vấn để - và chắc chắn là nguyên nhân làm cho Danny toát mồ hôi - là những người dưới kia, những người đang chiến đấu để sân bay tiếp tục hoạt động, ít khi chia sẻ quan điểm giống nhau về những nơi nào ưu tiên hơn. “Chắc chắn, chắc chắn rồi.  Thêm sáu xe dọn tuyết nữa”.  Một giọng nói từ Trung tâm chống tuyết, từ đầu bên kia sân bay, gắt gỏng trong loa. “Để chúng tôi hỏi Ông già Noel đã. Hình như ông ta đang ở quanh đây thôi”.  Im lặng một chút, rồi sôi nổi hơn, “Còn có chỉ dẫn ngu ngốc nào nữa không?” Liếc nhìn Danny, Mel lắc đầu.  Ông nhận ra giọng nói trong loa là của một đội trưởng có lẽ đã làm việc liên tục kể từ khi bắt đầu có bão tuyết. Tâm trạng giận dữ trong hoàn cảnh như thế này cũng dễ hiểu.  Thông thường, sau một mùa đông khó khăn chiến đấu với tuyết, Trung tâm chống tuyết và Ban giám đốc sân bay sẽ tổ chức một buổi tối vui vẻ với nhau mà họ gọi là “đêm-hóa-dữ-làm-lành”.  n ăm nay chắc chắn sẽ cần một buổi tối như thế. Danny nói có lý, “Chúng tôi đã yêu cầu bốn xe dọn tuyết đi tìm chiếc xe tiếp phẩm của hãng United. Họ có lẽ đã xong việc rồi chứ”. “Họ có thể đã xong việc rồi - nếu chúng ta tìm được chiếc xe chết tiệt đó”. “Anh chưa tìm ra nó sao? Mấy người của anh đang làm gì vậy - Ăn tối với các quý bà chắc?” Danny vươn tay vặn nhỏ âm thanh như một cử chỉ đáp trả bực bội. “ n ghe này, những con chim trong cái chuồng nhếch nhác đó làm sao có ý tưởng nào về những gì xảy ra ngoài sân bay?  Có lẽ anh nên nhìn ra ngoài cửa sổ một lát chứ.  Bất kỳ ai có thể ở Bắc cực chết tiệt đêm nay mới biết khác biệt như thế nào”. “Cố thổi vào tay đấy, Ernie”, Danny nói. “ Nó có thể làm tay anh ấm áp và im miệng”. Mel Bakersfeld hiểu hầu hết các trao đổi này, ông biết rằng những gì đã nói về tình hình bên ngoài nhà ga là sự thật. Một giờ trước đây, Mel đã lái qua sân bay.  Ông đã sử dụng đường công vụ, mặc dù ông biết rõ sân bay như lòng bàn tay, nhưng tối nay ông đã rất khó khăn khi tìm đường và nhiều lần gần như bị lạc đường. Mel đã đến kiểm tra Trung tâm chống tuyết nơi đang hoạt động khẩn trương. Nếu t òa tháp nơi đặt phòng chỉ huy chống tuyết là sở chỉ huy, thì Trung tâm chống tuyết là một doanh trại ở chiến tuyến. Từ đây, các đội công nhân mệt mỏi và các đội trưởng đến và đi, những người đẫm mồ hôi và lạnh cóng thay phiên nhau, các công nhân thường xuyên được bổ sung thêm những công nhân tạm thời - thợ mộc, thợ điện, thợ ống nước, nhân viên, cảnh sát. Các công nhân tạm thời được lấy từ công nhân và nhân viên làm nhiệm vụ thường xuyên trong sân bay và được trả lương gấp rưỡi cho đến khi kết thúc tình hình khẩn cấp vì tuyết. Nhưng họ biết công việc phải làm, vì trong mùa hè và mùa thu họ đã diễn tập dọn tuyết nhiều lần vào những ngày cuối tuần, như những người lính, trên đường băng và các đường lăn. Những người đứng bên ngoài đôi khi tức cười khi xem các nhóm công nhân cào tuyết, máy ủi, máy thổi tuyết gầm rú, vào một ngày nắng nóng. Nhưng nếu có ai ngạc nhiên trước mức độ chuẩn bị công phu như thế, Mel Bakersfeld sẽ nhắc nhở họ rằng việc dọn tuyết khỏi khu vực hoạt động của sân bay tương đương bằng bảy trăm dặm đường cao tốc. Cũng giống như phòng chỉ huy chống tuyết trên tháp KSKL, Trung tâm chống tuyết chỉ hoạt động theo chức năng của nó vào mùa đông.  Đó là một gian phòng lớn, tối tăm ở bên trên một nhà để xe tải của sân bay, khi sử dụng, được lãnh đạo bởi một người điều vận phụ trách công tác vận chuyển trong sân bay. Căn cứ từ giọng nói trong radio hiện nay, Mel đoán rằng người ta đã thay người điều vận khác, có lẽ người kia đã về ngủ trong “Phòng Xanh”, như mọi người trong sân bay gọi đùa phòng nghỉ của công nhân. Tiếng người đội trưởng của Trung tâm chống tuyết vang lên lần nữa trong radio: “ Chúng tôi cũng đang lo về chiếc xe đó, Danny. Thằng con hoang khốn khổ đó chắc chết cóng ngoài đó rồi.  Mặc dù nếu hắn ta có tháo vát chút nào đi nữa, hắn ta không phải chết đói”. Chiếc xe tiếp phẩm của UAL đã rời nhà bếp của hãng hàng không để đến nhà ga chính cách đây gần hai giờ.  Hành trình của nó chạy theo đường vành đai, thông thường chỉ mất mười lăm phút. Nhưng chiếc xe tiếp phẩm đã không đến nơi, và rõ ràng lái xe đã lạc đường và bị kẹt tuyết trong khu hoang vu nào đó của sân bay. Hãng United đã gửi đi một đội tìm kiếm, mà chưa có kết quả. Bây giờ những người quản lý sân bay phải đích thân lo việc này. Mel hỏi: “Rốt cuộc chuyến bay United cất cánh rồi sao? Bay mà không có thực phẩm à?” Danny Farrow trả lời mà không cần nhìn lên. ”Tôi nghe thấy cơ trưởng nhường cho hành khách quyết định. Ông ta nói với họ rằng phải mất thêm một giờ nữa mới có một chiếc xe tiếp phẩm khác, rằng họ đã có phim và rượu trên máy bay, và mặt trời vẫn chiếu sáng tại California. Mọi người đã biểu quyết để rời khỏi địa ngục này. Nếu là tôi, tôi cũng sẽ làm như vậy”. Mel gật đầu, chống lại sự cám dỗ để tiếp nhận và đích thân tìm kiếm chiếc xe tải mất tích và người lái xe. Hành động là một liệu pháp.  Cái lạnh và sự ẩm ướt nhiều ngày, đã làm nhói đau vết thương cũ thời chiến tranh của Mel một lần nữa - ký ức chiến tranh Triều Tiên không bao giờ rời ông - và ông có thể cảm thấy nó ngay bây giờ. Ông chuyển, nghiêng, tì trọng lượng của mình sang chân lành.  Nhưng chỉ được một lát. Hầu như cùng một lúc, ở vị trí mới, cơn đau trở lại. Ông vui mừng, một lúc sau đó, rằng ông đã không can thiệp.  Danny hầu như đã làm đúng - tăng cường tìm kiếm chiếc xe, kéo các xe dọn tuyết và công nhân từ khu vực nhà ga, chuyển ra các đường vành đai. Trong thời gian này, các bãi đỗ xe sẽ phải để lại, và sau đó sẽ có rất nhiều lời phàn nàn về điều đó.  Nhưng người lái xe mất tích phải được cứu giúp ưu tiên. Giữa các cuộc gọi, Danny cảnh báo Mel, “Ông phải tự chống chọi với nhiều khiếu nại hơn nữa đấy. Việc tìm kiếm này phải chặn đường vành đai. Chúng tôi phải giữ lại tất cả xe tiếp phẩm khác cho đến khi chúng ta tìm thấy anh chàng kia”. Mời các bạn đón đọc Phi Trường của tác giả Arthur Hailey.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Thiên Thần Tan Vỡ
Reece Gilmore, người duy nhất thoát chết sau vụ thảm sát diễn ra ở thành phố Boston đã phải bỏ đi trong tình trạng hoảng loạn, suy sụp về tinh thần, không tin vào chính mình. Cô đến với thị trấn Angel”s Fist thuộc bang Wyoming chỉ vì bị cuốn hút bởi cảnh đẹp nơi đây. Nhưng cũng chính ở nơi này, trong một buổi tình cờ đi bách bộ bên sông, cô nhìn thấy một vụ giết người. Với tinh thần trách nhiệm của một công dân cô thông báo với cơ quan thực thi pháp luật nhưng cũng chính vì thế mà cuộc sống của cô ở thị trấn nhỏ này trở nên phức tạp. Có lúc cô đã nghĩ đến việc lại phải ra đi. Liên tục có kẻ dấu mặt nào đó đột nhập vào nhà cô, đe doạ, gây hại cho cô, có lúc hắn ngụ ý muốn cô phải rời khỏi thị trấn. Kẻ đó là ai? Liệu đó có phải là tên giết người mà cô nhìn thấy bên sông? Làm sao hắn có thể đột nhập vào nhà cô đựơc trong khi cô đã lắp thêm khoá cửa? Làm sao hắn có thể nắm chắc được quy luật hoạt động của cô cũng như của thị trấn nhỏ bé kia với những con người rất tò mò mà lại không bị ai chú ý? Chính những hành động hèn nhát của tên giấu mặt kia làm cô tức giận và quyết định sẽ không ra đi. nhưng nếu không có sự tin tưởng, giúp đỡ của Brody thì cô cũnng không đủ nghị lực để ở lại. Và 2 người chung sức bên nhau. Brody không những giúp cô hồi phục mà còn cùng cô khám phá ra vụ giết người khi cơ quan công quyền của thị trấn không biết vì lý do gì mà tỏ ra bất lực. *** Reece Gilmore đi trên con đường đầy ổ gà của thị trấn Angel" Fist (Nắm tay thiên thần) trong khi chiếc Chevy Cavalier của cô đã nóng ran. Cô chỉ còn lại 243 $ lẻ nhưng dù sao cũng đủ để chăm sóc chiếc xe của cô, tiếp nhiên liệu cho nó và cho cả cô. Nếu chiếc xe không hỏng quá nặng thì cô còn đủ tiền để thuê tạm 1 phòng nghỉ qua đêm. Nhưng cho dù có tính toán lạc quan đến mấy thì cũng đến lúc cô bị khánh kiệt. Và rồi khi thấy hơi nước bốc lên từ thùng xe phía trước cô biết cần phải dừng lại ở đâu đó một thời gian để tìm việc làm. Không có gì để lo lắng, sẽ chả có vấn đề gì lớn cả, cô tự nhủ. Thị trấn nhỏ bé của bang Wyoming này nằm bao quanh một hồ nước xanh lạnh lẽo, khung cảnh cũng chẳng đến nỗi nào so với các nơi khác. Có thể còn đẹp hơn. Ở đây có sự thoáng đãng cần thiết đối với cô với những ngọn núi tuyết bao phủ từ phía xa pử vùng Tetons. Cô đã mất hàng giờ đi loanh quanh qua các ngọn núi và thung lũng này. Cô cũng không biết mình sẽ đi đến đâu khi bắt đầu lên đường vào sáng sớm hôm đó, chỉ biết là cô đã đi qua thị trấn Cody, thị trấn Dubois, và mặc dù cô dự định sẽ đến thị trấn Jackson nhưng cô lại rẽ xuống phía Nam. Có thể là sức hút nào đó đã dẫn cô đến nơi này. Đã tám tháng nay cô chuyên tâm tìm hiểu các chỉ dẫn và đi theo sự cuốn hút của bản thân. Những khúc cua nguy hiểm, trơn trượt khi ướt. Ai đó đã có ý tưởng rất hay khi đưa ra những lời cảnh báo đó. Ngoài ra còn có những chỉ dẫn khác có thể là một tia nắng mặt rời xiên nghiêng rất kì lạ ở phía cuối một con đường, hay chỉ là những chiếc chong chóng gió hướng về phía Nam. Nếu cô thích ngắm nhìn ánh nắng hoặc những chiếc chong chóng gió kia thì có thể cô đã đi theo tiếng gọi của nó cho đến khi cô tìm được đúng nơi cần đến, đúng thời điểm cần có mặt. Có thể cô sẽ ở lại đó một vài tuần hoặc thậm chí là một vài tháng như có lần cô đã ở lại South Dakota. Cô sẽ lại tìm việc làm, khám phá nơi đó và rồi lại đi khi tìm thấy những chỉ dẫn khác và những cuốn hút khác. Cô hoàn toàn tự do thực hiện chế độ mà cô tự lập ra cho mình, và thường thì nó sẽ làm giảm bớt nỗi lo lắng đang đè nặng trong đầu cô. Mấy tháng qua cô đã sống với chình mình, làm những việc để xoa dịu bản thân chư không đơn thuần là thực hiện chế độ điều trị kéo dài một năm của cô. Nói một cách công bằng, chế độ điều trị đó khiến cô phải đối mặt với mình mỗi khi ngày mới đến, mỗi lúc đêm về, thậm chí là hàng giờ. Và bây giờ cô lại bắt đầu một việc làm mới ở thị trấn Angel"s Fist này. Nếu không có gì thay đổi, cô sẽ ở lại đây vài ngày để thưởng thức hồ nước, ngọn núi kia và kiếm đủ tiền để tiếp tục lên đường. Thị trấn nhỏ bé như thế này- theo chỉ dẫn trên đường thì dân cư chỉ có 623 người- rất phù hợp cho hoạt động du lịch khi khai thác nguồn phong cảnh ở đây, thậm chí có thể biến nó thành một công viên quốc gia. Cô sẽ cần một khách sạn, ít nhất cũng là một khách sạn loại nhỏ, hoặc một nông trại trong vòng một vài dặm nữa. Làm việc ở một nông trại cũng không quá tẻ nhạt. Những nơi này sẽ cần người tiếp đón, khuôn vác và dọn dẹp nhất là khi mùa xuân đang đến và băng tuyết bắt đầu tan thế này. Nhưng trong khi khói trong xe đang bốc ra ngày cang nhiều như thế này thì việc cần làm đầu tiên có lẽ phải tìm một thợ cơ khí. Cô đi chậm lại trên con đường nhỏ bao quanh hồ. Tuyết tan tạo thành những vũng nước trắng tẻ nhạt. Cây cối vẫn giữ nguyên màu nâu đặc trưng của mùa đông nơi đây nhưng dưới hồ đã xuất hiện một vài chiếc thuyền. Một vài người đang mặc áo gió, đội mũ lưỡi trai đang theo hướng thuyền về phía ngọn núi soi bóng xuống mặt nước hồ. Phía bên kia hồ là khu sinh hoạt của cư dân, có cửa hàng đồ lưu niệm, gian triển lãm, ngân hàng, bưu điện và văn phòng cảnh sát trưởng. Cô rời khỏi khu vực mép hồ đi về hường nhà kho lớn của một cửa hàng bách hoá tổng hợp. Có hai người đàn ông mặc áo len ngồi ngắm mặt hồ. Họ gật đầu chào khi cô tắt mày và bước ra khỏi xe. Người đàn ông ngồi bên mé phải trên mũ có in tên- Cửa hàng rau quả và mậu dịch Mac- lên tiếng. " Hình như xe của cô đang bị trục trặc" " Vâng. Anh có thể chỉ cho tôi chỗ sửa được không?" Anh ta đứng dậy, vóc dáng khá vạm vỡ, vẻ mặt hồng hào. Trên khoé mắt đã xuất hiện vài nếp nhăn, giọng anh ta có vẻ hơi lè nhè. "Sao chúng ta không thử mở thùng xe xem thế nào?" "Thế thì tốt quá". Reece mở khoá thùng xe và anh ta lật nắp lên. Khói bên trong bốc lên mù mịt khiến anh ta giật mình lùi lại. Không hiểu tại sao nhưng cô cảm thấy rất bối rối. " Hình như nó mới chỉ bị như vậy cách đây khoảng mười dặm. Tôi không để ý nên bây giờ mới biết". "Không sao cả. Cô đang muốn đến chỗ công viên phải không?" "Vâng, có thể là như vậy. Nhưng tôi nghĩ chiếc xe không muốn làm theo ý định của tôi." Không chắc chắn như vậy, co không bao giờ biết chắc là mình sẽ đi đến đâu. Cô cố gắng tập trung vào chiếc xe thay vì quanh quẩn nghĩ không không biết sau đây mình sẽ đi đâu. Người đàn ông kia cùng đi ra xem xét chiếc với bạn mình. Cô cũng làm bộ nhìn ngó cùng với họ mặc dù cô biết mình không hề có chút kiến thức nào về cơ khí. Đối với phụ nữ thì những gì nằm dưới chiếc thùng xe kia chả khác nào miền đất xa xôi lạ lẫm trên sao Diêm Vương. "Hộp toả nhiệt bị vỡ rồi.Cô phải thay hộp mới thôi." "Có vẻ không tồi tệ quá, cô sẽ không mất quá nhiều tiền." "Có nới nào trong thị trấn này thay được không?" "Cô nên đến gara nhà Lynt. Tôi sẽ gọi điện cho họ giúp cô." "Vậy thì rất cảm ơn anh. Tên tôi là Reece, Reece Gilmore." Cô mừng rỡ và vội vàng giới thiệu. "Tôi là Mac Drubber. Còn đây là Carl Samsonp." Mac giới thiệu lại. "Cô đến từ miền Đông phải không?" Carl hỏi. Theo đánh giá bề ngoài của Reece thì Carl năm nay khoảng 50 tuổi và có vẻ là người gốc Mỹ. "Vâng, tôi đến từ Boston. Rất may được gặp các anh giúp đỡ." Mac nói ngay. "Có gì đâu. Chỉ là một cuộc điện thoại thôi mà. Cô có thể đi dạo quanh đâu đó một lát. Nhân viên gara sẽ đến đây trong vòng vài phút." "Tôi cũng muốn đi dạo một lát để thăm nơi này. Ở thị trấn có chỗ nào tốt để ở không anh?" "Cuối đường này có một khách sạn nhìn ra hồ. Phía bên kia có nhà nghỉ Teton ấm cúng hơn. Ngoài ra ven hồ còn có rất nhiều khách sạn và nhà trọ loại nhỏ có thể thuê theo tuần hoặc theo tháng." Cô không nghĩ mình sẽ ở đây đến cả tháng. Một ngày đã kà cả vấn đề đối với cô lúc này. Nhưng ở nhà trọ cùng với gia đình chủ nhà thì lại bất tiện. "Có lẽ là tôi sẽ tìm một khách sạn nào đó để ở tạm." "Đi bộ từ đây tới đó khác xa. Nếu cô không phiền thì tôi có thể cho cô đi nhờ xe tới đó." "Tôi đã lái xe cả ngày rồi và bây giờ cũng muốn đi lại một chút cho thư giãn. Dù sao thì cũng rất cảm ơn anh Drubber." "Không có gì. Quả là một việc hay đấy." Mac Drubber còn đứng nán lại một lát khi cô đi xuống con đường đi dạo hai bên đầy cây. Carl lắc đầu ngao ngán. "Chẳng có tí da thịt nào cả. Phụ nữ ngày nay dường như đánh mất hết đường cong của mình rồi". Thực ra không phải cô muốn có thân hình gầy còm như vậy mà cô đang cố gắng lấy lại phần trọng lượng cơ thể mà cô đã mất đi mấy năm nay.Trước đây cô rất béo nhưng rồi sau sự kiện đó, thân hình cô trở nên khẳng khiu và giờ đây cô lại tìm cách trở lại điểm xuất phát ban đầu ấy. Cô không thể tin vào mắt mình mỗi khi cởi quần áo và nhìn thấy những chỗ xương lộ hẳn ra. Hình như đây không phải là thân hình của cô. Cô không đông ý với nhận xét của Mac về việc làm đó của cô. Đã có thời cô rất tự hào về mình- một người phụ nữ xinh đẹp, biết ăn diện và rất hấp dẫn. Nhưng giờ đây khuôn mặt cô trở nên khô cứng, qua những đêm dài mất ngủ hơn nhưng mỗi khi mất ngủ ban đêm mắt cô lại thâm quầng, da dẻ xanh xao ốm yếu. Cô muốn trở lại thời kì đẹp đẽ đó. Reece lặng lẽ bước trên đường. Cô tự nhủ với mình là không được vội vàng, không được xô đẩy, chen lấn mà phải thản nhiên đón nhạn mọi thứ đến với mình cho dù thế nào đi nữa. Làn gió lạnh phả vào vào mặt cô làm bay lọn tóc nâu mà cô đã bện thành đuôi phía sau lưng. Cô rất thích cảm giác sạch sẽ tươi mát đó và cô thích cả thứ ánh sáng bao phủ khách sạn Teton toả xuống mặt hồ lung linh. Đúng như lời Mac nói,có vài căn nhà nhỏ nằm lấp sau mấy rặng liễu và cây dương trơ trụi. Cửa nhà chủ yếu làm bằng khung gỗ kính, phía trước có cổng vòm khá lớn nhìn ra khung cảnh quang đãng phía trước. Sẽ rất thoải mái nếu được ngồi trên những cổng vòm kia ngắm nhìn mặt hồ, núi non, hoặc thậm chí là đầm lầy với những bụi dương bồ mọc rải rác. Nhất định cô sẽ ở trong những ngôi nhà như vậy nhưng đó là chuyện sau này chứ không phải ngay ngày hôm nay. Cô nhận thấy có mấy khóm dương xỉ xanh mọc dưới những thùng rượu Whisky để ngay lối vào một nhà hàng. Cơn gió lạnh thổi qua làm rung rinh thân câynhưng dù ứao thù đó cũng là dấy hiệu báo mùa xuân đang về. Mọi vật đầy trở nên mới mẻ khi mà xuân đến, và có thể mùa xuân này chính cô cũng tươi mới trở lại. Cô dừng lại một thoáng để chiêm ngưỡng cảnh vật và không khí dễ chịu khi có dấu hiệu mùa xuân về. Và chẳng bao lâu nữa, cảnh sắc mùa xuân sẽ hiển hiện nơi đây. Sách hướng dẫn của cô phóng đại nơi đây có bạt ngàn các loài hoa dại mọc trên cánh đồng và rất nhiều loài khác mọc quanh hồ. Reece thầm nghĩ cô đang rất mong cây cối đâm chồi nụ hoa hé mở. Cô ngước mắt lên và thấy cảnh cửa sổ lớn của một nhà hàng. Có lẽ đây là nơi ăn tối thì đúng nghĩa hơn. Quầy phục vụ, những chiếc bàn vuông vắn và khi ăn uống khép kín, tất cả đều sơn màu đỏ nhạt và trắng. Bánh nhân táo và các loại bánh ngọt khác được trưng bày bên trên gian bếp quay cửa ra phía quầy phục vụ. Hai cô nhân viên phục vụ đi lại giữa các bàn, trên tay mang các khay đựng đồ ăn và bình café. Bây giờ đang là giờ ăn trưa. Cô dã quên không ăn trưa. Nhất định khi vào khách sạn cô sẽ. Thế rồi cô nhìn thấy ngay bên trên cửa sổ có tấm biển viết tay thông báo: CẦN TUYỂN ĐẦU BẾP HỎI BÊN TRONG Đúng là tấm biển báo. Mặc dù đã lùi lại một bước để nhìn cho kỹ nhưng dường như cô vẫn chưa tin vào mắt mình. Cô đứng đó một lúc nhìn bên trong. Gian bếp vẫn đang mở, đó là điều quan trọng nhất đối với cô. Nấu các món ăn tối là việc làm hết sức đơn giản, ít nhất thì cô đã từng có khả năng làm như vậy. Đây chính là lúc để cô thử sức mình, là cơ hội để cô tiến thêm một bước. Cho dù cô không được chấp nhận thì mọi việc cũng sẽ không xấu đi chút nào so với hiện tại của lúc này. Có thể sẽ có,một khách sạn nào đó cần thuê cô để chuẩn bị đón khách mùa hè. Hoặc cũng có thể Drubber sẽ cần thuê cô. Nhưng dù sao thì tấm biển báo vẫn còn nằm kia, chiếc xe đã đưa cô đến thị trấn và chính đôi bàn chân cô đã đưa cô đến nơi này. Những cây dương xỉ đã lấy lại được màu xanh tươi ban đầu khi mùa xuân còn chưa đến. Cô bước đến chỗ cửa ra vào hít thở thật sâu để lấy lại sự tự tin sau đó mới mở cửa bước vào. Mùi hành phi, thịt nướng và mùi café bay ngào ngạt bên trong. Có cả tiếng nhạc phát ra từ phía chiếc máy hát. Nên nhà lát gạch đỏ và quầy phục vụ được lau sạch bóng. Một vài bàn chưa có khách ngồi cũng đã được đặt sẵn các món ăn trưa. Trên tường là những bức ảnh khá bắt mắt về hồ nước, cảnh núi non vào các mùa. Cô chưa kịp làm quen với môi trường bên trong, chưa kịp thu hết can đảm thì một cô nhân viên phục vụ đã bước đến. "Chào chị. Chị có thể chọn bàn ngồi hoặc ngồi trên quầy để ăn trưa." "Không tôi muốn gặp người quản lí hoặc chủ cửa hàng. Ừm, việc liên quan đến tấm biển thông báo trên cửa sổ ngoài kia. Tôi muốn được nhận vào làm nhận viên nấu ăn." Cô nhân viên phục vụ đứng hẳn lại, chiếc khay thức ăn vẫn trên tay. "Chị là đầu bếp phải không?" Đã có thời gian cô chẳng thềm để ý đến lòng tốt của người khác nhưng bấy giờ thì cô thấy việc làm đó là không nên. "Vâng". Cô trả lời gọn lỏn. "Công việc nặng nhọc đấy. Mới cách đây hai ngày cô Joanie đã sa thải một người." Cô phục vụ vừa nói vưà đưa tay lên lau miệng có vẻ muốn uống chút gì đó. "Ồ". Reece thốt lên có vẻ ngạc nhiên. " Hồi tháng hai anh ta đến đây tìm việc làm và nói rằng anh ta đã gặp Chúa Jesus và muốn truyền bà lời răn dạy của Chúa đến vùng đất này". Cô nhân viên nghếch mặt mỉm cười rất tươi với Reece và nói tiếp: "Anh ta cầu khẩn nhe một môn đồ chính thống, vì vậy chị chỉ cần kiếm một miếng giẻ nhét vào miệng anh ta là xong. Chị ngồi chỗ quầy đợi đi, tôi sẽ vào tìm Joanie xem cô ấy có thể rời khỏi bếp một lát không. Chị dùng một ly café chứ?" "Xin chị cho tô một tách trà" "Sẽ có ngày thôi". Reece tự nhủ cô sẽ không bắt buộc phải làm công việc đó. Cho dù cô có được chấp nhận vào làm việc thì cô vẫn có quyềb từ chối. Cô có thể làm việc dọn dẹp ở khách sạn hay tìm một nông trại vào đó. Chiếc máy hát nhảy bài và giọng ca sỹ Shania Twain vang lên rất vui vẻ. Cô nhân viên phục vụ bước vào trong vỗ vai một phụ nữ thấp béo mập. Sau một lát người phụ nữ đó ngó ra bắt gặp ánh mắt của Reece và gật đầu chào. Cô nhân viên quay lại quầy chỗ Reece ngồi trên tay cầm một ly Lipton nóng. "Cô Joanie sẽ ra gặp chị ngày. Chị có dùng bữa trưa luôn không? Hôm nay nhà hàng có món đặc biệt bánh mì thịt dùng với khoai tây nghiền, đậu xanh và bánh quy." Không cám ơn chị. Tôi dùng trà thôi." Reece chưa từng bao giờ phải kiềm chế như lúc này trong khi bụng cô đang đói cồn cào. Không những thế cô còn cảm thấy hồi hộp lo sợ.   Mời các bạn đón đọc Thiên Thần Tan Vỡ của tác giả Nora Roberts.
Từ Một Buổi Chiều
Uyên ngồi thu gọn trên giường, cằm chống lên cánh tay tì trên cửa sổ, nhìn trời đang mưa. Trận mưa dai dẳng kéo dài suốt hai tiếng đồng hồ vẫn chưa chịu dứt hẳn! Ý định ra phố của Uyên đành hoãn lại vì cho dù trời có quang tạnh, Uyên cũng rất ngại ngùng khi phải đặt chân xuống những vũng nước trống chẳng có thẩm mỹ tí nào. Trận mưa đầu mùa đối với Uyên thật dễ thương vì dù sao nó cũng xa vắng Uyên bẵng đi hàng mấy tháng trời. Những buổi chiều thanh thản như hôm nay, Uyên thích ngồi thu mình ở một góc giường nhìn những giọt nước mưa trắng xóa rớt đều trên mặt đường tạo thành một âm thanh nghe ray rứt, nhức buốt tim gan. Mặt đường bóng loáng như vừa được tắm gội sạch sẽ. Chỉ có từ đầu con hẻm vào đây - đoạn đường khoảng mười lăm thước - là trông bẩn thỉu, lụt lội một cách thảm hại. Người dễ tính đến đâu đi chăng nữa cũng phải bực mình. Cũng may nhà Uyên chỉ cách mặt đường có mười lăm thước. Giá mà ở tít trong cùng hẻm thì thật không còn gì khổ bằng. Tiếng lội nước bì bõm của vài người trong hẻm đi ra khiến Uyên liên tưởng đến âm thanh quái đản của một cuốn phim kinh dị mà đã có một lần Uyên được xem. Trẻ con trong xóm bắt đầu túa ra nghịch ngợm trên vũng nước đục ngầu bẩn thỉu mà Uyên vẫn thường gọi đùa la "piscine công cộng". Thế giới hồn nhiên của tuổi ấu thơ! Chúng chưa có đủ trí khôn để ý thức được rằng thế nào là vệ sinh. Mùi cống rãnh xông lên làm Uyên khó chịu. Uyên đưa tay hất nhẹ những sợi tóc phủ xòa trước mặt ra đằng sau; thật vô tình, Uyên nhìn thấy vẻ đẹp của mình trong gương chiếc tủ dựng sát tường, ngay đầu giường Uyên. Uyên nổi tiếng là đẹp nhất trường. Chức "hoa khôi" mà bạn bè đặt cho Uyên quả không ngoa chút nào. Uyên sung sướng và thầm hãnh diện mỗi khi được ai ca tụng vẻ đẹp của mình. Mái tóc cắt ngắn hợp với khuôn mặt trái xoan, đôi mắt bồ câu tròn đen láy, sống mũi cao, đôi môi xinh xắn, đỏ mịn, tất cả hợp lại tạo cho Uyên một nét đẹp tự nhiên, lộng lẫy. Có thể nói rằng Uyên là một đứa con gái sung sướng nhất, hạnh phúc nhất trên đời. Vừa đẹp, vừa học giỏi lại được sinh ra trong một gia đình khá giả. Duy chỉ có một điều khiến Uyên buồn và cảm thấy mình chưa hoàn toàn hạnh phúc đó là Uyên không có anh chị em chi cả. Bố mẹ chỉ có độc nhất một mình Uyên vì thế Uyên được chiều chuộng hết mực, muốn gì được nấy. Nhưng tất cả đối với Uyên đều trở nên vô nghĩa. Uyên không ham thích bất cứ một thứ gì ngoài một ước muốn duy nhất: Uyên cũng có đông em như tất cả những đứa bạn cùng lớp. Ước muốn thật tầm thường nhưng đối với gia đình Uyên đó là cả một vấn đề. Bố mẹ Uyên khổ tâm không ít mỗi khi Uyên nhắc đến chuyện này. Nhưng biết làm sao hơn khi số trời đã định cho gia đình Uyên như vậy. Căn nhà không lấy gì làm to tát nhưng Uyên có cảm tưởng nó rộng lớn vô cùng. Nhất là những buổi như hôm nay. Bố Uyên thì ngày nào cũng như ngày nấy, đi làm từ sáng sớm và mãi đến chiều tối mới về. Hàng ngày chỉ có hai mẹ con ở nhà, nếu buồn, Uyên lân la đến gần mẹ, gợi hết chuyện này sang chuyện khác để căn nhà bớt lặng lẽ hơn. Thỉnh thoảng có một hôm mẹ đi vắng - như hôm nay chẳng hạn - Uyên không biết làm gì hơn là ngồi ủ rũ, nghe cô đơn về vây hãm. Mẹ Uyên có việc phải về nhà bác Uyên ở Bảo lộc từ sáng sớm. Hình như hôm nay là ngày giỗ bà ngoại Uyên thì phải. Còn lại một mình ở nhà, Uyên cảm thấy buồn và lo sợ phập phồng bởi cái không khí vắng vẻ trong nhà. Uyên định khoác áo thả bộ ra phố, đi chơi cho khuây khỏa, định bụng đến giờ tan sở Uyên mới trở về. Nhưng chưa kịp thực hành ý định thì trời đổ mưa như trút nước, Uyên đành ngồi bó gối trên giường nhìn trời vu vơ. Trời tạnh hẳn sau một trận mưa dài gần ba tiếng. Uyên nhìn đồng hồ: đã bốn giờ hơn. Thế là sắp hết một buổi chiều. Uyên uể oải đứng dậy, quơ chân tìm đôi dép dưới gầm giường, bước xuống nhà. Uyên đứng ở chân thang gác, phân vân không biết phải làm gì để giết nốt thì giờ còn lại. Cuối cùng Uyên bước trở ra phòng khách, ôm cây đàn guitar vào lòng, vừa đàn vừa hát những bản nhạc sinh hoạt của phong trào du ca. "Hy vọng đã vươn lên.trong màn đêm." Tiếng hát của Uyên hòa nhịp với tiếng đàn thật hùng hồn, lôi cuốn như đang thúc bách mọi người cùng vùng dậy khai phá, xây dựng lại quê hương đổ nát, điêu tàn. Uyên hát thật hăng say như chính Uyên đang châm những ngọn lửa soi đường trong lòng dân chúng. Uyên hát quên mệt như chính Uyên đang tham dự công tác của đoàn thanh niên sinh viên học sinh Nguồn sống. Trẻ con trong xóm nghe Uyên hát, ngưng đùa nghịch, bu quanh cửa sổ cất tiếng hát theo. Uyên vui lây với cái không khí nhộn nhịp bất ngờ đó. Tiếng đàn vừa dứt cùng lúc có tiếng gõ cửa, Uyên hỏi vọng ra: - Ai đó? - Ngy đây! Nghe tiếng đáp, Uyên mừng quýnh, quăng vội cây đàn trên lòng salon, chạy ra mở cửa cho Ngy. - Hèn gì trời mưa to! Ngy ngạc nhiên: - Hử? Uyên cười: - Hôm nay mày đến nhà tao thành thử trời mưa to quá. Ngy đập vào vai bạn: - Con quỉ! Làm gì mà nhộn thế? - Buồn quá lôi đàn ra gãy chơi!… Vào nhà đã nào. Ngy theo Uyên bước vào: - Tao tưởng mày đang sinh hoạt chứ! Uyên thu dọn báo chí trên bàn: - Ừ mà cũng đang sinh hoạt thật. - Sinh hoạt với ai? - Lũ trẻ con trong xóm. Ngy mỉm cười, ngó dáo dác: - Bác gái đâu rồi? - Mẹ tao có việc về Bảo lộc từ sáng sớm. - Hèn gì mà nhà cửa vắng quá. - Tao "hãi" nhất cái không khí này. Định đi chơi thì trời mưa. - Cũng may! - May cái gì? - Nhờ trời mưa to tao mới gặp mày! Cả hai cùng cười. Ngy là bạn cùng lớp thân nhất của Uyên. Bạn bè gọi Ngy là "cây gạo" vì Ngy rất siêng học, ít đi chơi; khi nào có việc gì cần lắm mới thấy Ngy xách xe ra đường. Trong lớp Ngy, Uyên và Diễm Hương là ba đứa học trò giỏi nhất nên được thầy cô cưng không thể tưởng. Chỉ còn không đầy một tháng nữa là đến hè. Năm nay không phải là năm thi nên trông các cô có vẻ thảnh thơi chứ không bận rộn, hồi hộp như các đàn chị. Sang năm Ngy và Uyên thi Tú Tài I nên cả hai đang dự định xin phép gia đình cho đi chơi một chuyến thật xa trong dịp hè này cho thỏa chí. Mùa hè này là cơ hội đi chơi lần cuối đối với Uyên vì kể từ năm tới, cả hai sẽ thi cử liên miên, không có năm nào là năm không phải thi cả. Uyên đang dự định rủ Ngy lên Đà lạt vì thành phố này vẫn có tiếng là đẹp, mộng mơ và là nơi dừng chân lý tưởng nhất của du khách. Thành phố Đà lạt không có gì xa lạ đối với Uyên nhưng Uyên vẫn thích đặt chân đến vì Uyên yêu nó kinh khủng và hình như nó có một sức lôi cuốn Uyên mà Uyên không thể cưỡng lại được. - Nghĩ gì đấy Uyên? - Tao đang nghĩ đến thành phố Đà lạt. - Mày sốt ruột lắm hả? - Ừ! Ba tuần nữa đâu có là bao mày nhỉ! - Thoáng cái đến ngay. - Mày xin phép hai bác chưa? - Rồi!… Mày định bao giờ đỉ - Khoảng đầu tháng bảy. - Lãnh thưởng xong chuẩn bị đi liền? - Ừ! À mà Ngy này! Mày nhắc tao mới nhớ. Hôm nào phát thưởng? - Mười tám tháng sáu. - Chắc chắn không? - Chắc! - Ai bảo mày thế? - Cô Nguyệt. - Mày đến nhà cô Nguyệt? - Ừ! - Có xem điểm cho tao không? - Khỏi nói. Tao đến cộng điểm dùm cô mà! Uyên nôn nóng: - Toàn niên tao hạng mấy? Ngy trêu Uyên: - Từ từ! Đi đâu mà gấp vậy? Uyên nhăn nhó: - Con quỉ! Nói mau đi. Tao đang hồi hộp gần chết đây này. Ngy hắng giọng: - Khoan! Tao chưa nói vì mày chưa làm tròn bổn phận. Uyên cáu sườn hỏi gắt: - Bổn phận gì? - Bổn phận tiếp khách. Uyên suy nghĩ khoảng nửa phút: - À, ừ quên mất! Xin lỗi nghe! Nói xong Uyên chạy vào nhà pha nước, một lát sau Uyên trở ra với hai ly sirop cam trên tay. Uyên hỏi: - Mãi nói chuyện tao quên mất. Mày đến tao có việc gì không? Ngy cầm thìa khoắng ly nước: - Thiện chí! Uyên chăm chú: - Nói đi! - Ở nhà cô Nguyệt về, ghé qua mày báo tin vui. - Tin gì? - Năm nay tao với mày lại đồng hạng. Uyên mừng quá, vỗ tay đôm đốp: - Hạng nhất hả? - Ừ! Uyên nhìn Ngy, ánh mắt thật vui: - Tao vui quá Ngy ơi! Ngy đáp: - Tao cũng vậy! Điều mà Uyên vẫn hằng trông đợi đã đến như ý muốn của Uyên. Nếu kết quả không đúng như lời Ngy nói thì không còn gì để mà buồn hơn. Chẳng những một mình Uyên buồn mà cả bố mẹ cũng buồn không ít, vì từ lâu bố mẹ vẫn hằng mong muốn Uyên phải là một đứa học trò giỏi nhất lớp, không thua một ai cả. Có những tháng Uyên đứng thứ hai - sau Ngy - đem phiếu điểm về trình bố mẹ ký, Uyên buồn và lo kinh khủng! Nhưng bố không mắng Uyên và cũng chẳng tỏ vẻ buồn phiền gì mà bố chỉ khuyến khích Uyên tháng sau nên cố gắng hơn tí nữa thôi. Những lần như vậy Uyên buồn lắm nhưng biết sao hơn khi sức học của Uyên chỉ đến ngần ấy trong khi Ngy cũng là một học trò xuất sắc, thông minh không kém gì Uyên. Tuy vậy, chưa bao giờ Uyên và Ngy tỏ vẻ ganh ghét lẫn nhau. Những tháng Uyên đứng nhất, Ngy cũng buồn vô cùng nhưng không phải vì thế mà tình bạn hai đứa sứt mẻ. Uyên có cảm tưởng hình như có đôi lúc Uyên đã nhường Ngy và ngược lại Ngy cũng vậy. Trong lớp, ai cũng nghĩ rằng Uyên và Ngy chỉ đối với nhau bằng một tình bạn giả tạo ngoài mặt chứ thật ra trong lòng cả hai đang ganh ghét lẫn nhau. Uyên cũng không buồn lên tiếng cãi chính bởi vì có nói chắc cũng chẳng ai tin, cứ im lặng là hơn hết. Chính Ngy cũng đã có lần nói cho Uyên nghe như vậy và cả hai tự nhủ "ai muốn nói gì thì nói, miễn mình đối xử với nhau thành thật và thương mến nhau thật lòng thì thôi". Chuông đồng hồ điểm sáu tiếng. Ngy uống cạn ly nước, đứng dậy: - Thôi! Tao về. Uyên giữ bạn: - Ở chơi tí nữa đã. - Không được! Tao xin phép mẹ tao đi đến 6:15 thôi. - Bây giờ mới có 6:00 giờ. - Ừ! Mới có 6 giờ! Mười lăm phút từ đây về nhà là vừa đúng. - Con khỉ! Uyên tiễn bạn ra cửa. Ngy đùa: - Trời mưa đến nhà mày tao có cảm tưởng như là đi vào con đường lên "thiên thai". Uyên cười: - Ừ! Chỉ có mỗi con hẻm là kém thẩm mỹ. Ngy tiếp: - Người đẹp thường hay ngự trị ở những xóm bùn lầy nước đọng như thế này. Uyên bẽn lẽn: - Tao mà đẹp khỉ gì? Ngy nguýt: - Thôi đi cô. Ngy đạp máy xe, trước khi đi còn quay lại nói một câu: - Mai nhớ cài thêm cái nơ trên đầu cho nó nổi nghe. - Để làm gì vậy? - Lãnh bảng danh dự mà! Uyên cười, nhìn theo bóng bạn cho đến khi chiếc xe mất hút ngoài đường cái. Sau khi khóa cửa cẩn thận, Uyên quay vào thu dọn ly tách và xuống bếp lo cơm nước buổi chiều. Hôm nay chỉ có hai bố con ở nhà, bố đề nghị dắt Uyên vào Chợ Lớn ăn cơm Tàu nhưng Uyên từ chối vì Uyên muốn chính tay Uyên nấu cho bố ăn. Uyên để ý thấy bố thích ăn món canh chua cá lóc; vì thế hôm nay Uyên nhất định trổ tài nấu món này thật ngon để bố khen Uyên rối rít mới được. Lúi húi dưới bếp đến gần nửa tiếng, Uyên mới làm xong món cá, sau khi đặt nồi canh lên bếp, Uyên rửa tay sạch sẽ và bước trở lên nhà. Nhìn đồng hồ, Uyên giật mình thầm hỏi: "Sao hôm nay bố lại về trễ vậy kìa?" Thường thì mọi hôm bố về khoảng 6:20, hôm nào trễ lắm là 6:25. Bây giờ gần 7 giờ rồi mà vẫn chưa thấy bố về! "Hay là có chuyện gì?" Uyên vội vàng xua đuổi những ý nghĩ không hay ra khỏi đầu và mở TV xem để quên đi những nỗi lo sợ đang ám ảnh Uyên. Thời gian vẫn nặng nề trôi. Kim đồng hồ càng di chuyển thì nỗi lo sợ càng đến với Uyên thật dồn dập. Nóng lòng không chịu được, Uyên tắt TV ra đứng tựa cửa ngóng bố. Uyên sống trong sự hồi hộp đó đến hai mươi phút mới thấy bóng bố xuất hiện ở đầu hẻm. Uyên mừng muốn khóc nhưng niềm vui chợt tắt khi Uyên thấy khuôn mặt bố buồn thật buồn và Uyên linh cảm hình như có chuyện gì không may đến với bố. Trống ngực Uyên đập thình thịch, bố nhìn Uyên, Uyên nhìn bố. Tự dưng Uyên câm nín, không thể nói hoặc hỏi bố được một lời. Bố dìu Uyên vào nhà, đặt Uyên ngồi trong lòng salon rồi bố ngồi xuống cạnh Uyên. Bố vẫn lặng thinh, ôm đầu Uyên áp vào ngực bố; nước mắt Uyên ứa ra, không hiểu Uyên khóc vì lo sợ hay khóc vì sung sướng khi được bố vuốt ve, thương yêu!? Mãi đến mấy phút sau, Uyên mới mở miệng hỏi bố được một câu: - Có chuyện gì vậy bố? Bố không trả lời câu hỏi của Uyên mà bố chỉ kêu lên: - Con! Uyên giật mình, đôi mắt mở tròn nhìn bố: - Bố! Chuyện gì vậy bố? Sao bố buồn vậy bố? Uyên nhìn thấy đôi mắt bố đỏ ngầu như sắp khóc. Phải nuốt nước bọt đến đôi ba lần, bố mới nói lên tiếng, giọng nghẹn ngào: - Mẹ con, chết rồi! - Mẹ!? Uyên chỉ kịp hét lên một tiếng ngắn ngủi rồi ngất đi trong lòng bố. Mời các bạn đón đọc Từ Một Buổi Chiều của tác giả Nguyễn Sỹ Nguyên.
Hầm Bí Mật Bên Sông En-Bơ
 Khoảng 10 giờ sáng, một chiếc xe lửa chạy tới nhà ga ngoại ô. Một ông già theo đám đông bước xuống sân ga.         Bề ngoài của người hành khách không có gì đặc biệt, râu ria đều bạc trắng và xén ngắn, đôi mắt đen dửng dưng và hơi có vẻ mệt mỏi, cái mũi nhỏ và cân đối. Ông ta mặc bộ áo quần bằng thứ vải rẻ tiền, đội mũ chụp bằng da cừu, thân hình khô đét, dáng điệu nhanh nhẹn, cứng rắn.         Sau khi ra tới quảng trường trước ga, ông ta đi về phía bể. Ở đây là những dãy nhà một tầng cũ kỹ xây bằng đá ong sù sì. Ông già đội mũ chụp lững thững dạo bước dọc theo dãy phố, liếc nhìn số nhà rồi cuối cùng đi đến một căn nhà lụp xụp đằng trước có mảnh vườn con.         Ông ta lượn hai lần trước căn nhà như để nghiên cứu. Sau đó tiến về phía cửa hàng thực phẩm gần đấy và đứng vào đuôi đoàn người đang xếp hàng dài trên vỉa hè cạnh lối ra vào.         Một giờ qua, ông già đã tới sát trước cửa ngôi hàng thì có một người từ trong căn nhà nhỏ đi ra. Nhác thấy người đó, ông già đằng hắng, nhấp nhổm đổi từ chân này sang chân nọ, rồi vội vàng móc trong túi ra một chiếc ví bằng da nai vàng. Ông ta mở ví, ngửng đầu lên, bắt gặp cái nhìn của người đàn bà có tuổi bế con đứng cạnh, liền lắc đầu ra vẻ bực tức. Bà kia hỏi:         - Có việc gì thế cụ?         Ồng lão ngán ngẩm nhếch mép cười, bối rối càu nhàu:         - Đứng chầu chực mất bao nhiêu là thời gian! Thế mà lại quên mất phiếu ở nhà!         - Thế thì cụ chạy về nhà đi, quàng lên, nếu không thì quá lượt mất.         Ồng già gật đầu ra vẻ cảm ơn rồi chạy lon ton trên hè phố.         Cái người vừa từ căn nhà nhỏ có vườn con đi ra đang bước đằng trước, cách chừng hai trăm bước. Đó là một người đàn ông cao gầy, mặc áo bờ-lu-dông bằng da hải ly và đội mũ bịt tai của bộ đội.         Chả mấy chốc hai người đã tới bến xe điện. Hành khách đang đợi đông nghịt. Hai mươi phút sau xe điện mới chạy đến. Mọi người đổ xô lên xe, rồi đoàn xe điện lao về phía trung tâm thành phố. Qua từng bến xe, người lên mỗi lúc một đông.         Ông già và người đội mũ quân phục đứng cạnh nhau.         Đột nhiên ông già vồ lấy túi áo và rú lên:         - Kẻ cắp!         Trong toa xôn xao. Ông ta thì vẫn sờ nắn trong mình, vỗ túi, thọc tay vào ngực áo rồi cả quyết nói:         - Mất cắp rồi! Nó cuỗm cái ví của tôi, trong đó lại có cả phiếu thực phẩm nữa chứ!         Bỗng ông già im bặt, suy nghĩ điều gì và quay phắt lại, mặt giáp với người đội mũ trùm tai.         - Đồ chó đẻ, chính mày xoáy của tao! Ví tao đâu? Giả đây hay là để tao gọi công an!         Lảng tránh ông già xấn xổ, gã kia bước giật lùi về phía cửa. Chợt khổ chủ kêu lên:         - Trông kìa! Trông đây này!         Ai nấy ngó xuống dưới. Chiếc ví da nai vàng đang nằm lăn lóc trên sàn xe bẩn thỉu, ẩm ướt. Ông già xông tới túm lấy ngực gã ăn cắp.         Xe điện đã đến bên đỗ. Ổng già vừa chửi mắng không ngớt miệng vừa lôi tên móc ví ra cửa. Khi họ đã xuống đến bậc vỉa hè chợt tên này ưỡn thẳng người lên thụi cho ông già một quả rất nhanh vào đúng giữa ngực ngã lăn ra, rồi ù té chạy.         Hắn lủi theo phố vắng, nghiêng đầu, giơ quả đấm lên đe dọa.         Chỉ còn mấy chục bước nữa là hắn rẽ vào một ngõ ngang, chạy qua đó cho tới đại lộ đông đúc và ở đây thì có mà giời tìm ra hắn trong dòng người cuồn cuộn.         Một đội tuần tra hiện ra trước mặt. Tên ăn cắp ngoái nhìn quanh. Đằng sau khoảng chừng mười người rượt theo, chạy tỏa ra khắp phố. do anh công an dẫn đầu. Khó mà lọt qua lưới bổ vây này. Nhưng thoát khỏi ba người lính có súng đang tiến đến đón đầu lại càng gay hơn. Trong giây phút quyết định tên thủ phạm thoáng thấy cái cổng trước sân nhà ai liền đâm bổ vào đó.         Khi những người đuổi bắt chạy được vào sân thì tên ăn cắp đang trèo thoăn thoắt trên chiếc thang cứu hỏa dựng vào tường một tòa nhà lớn. Hắn đã lên đến tầng thứ ba.         Hai chiên sĩ tuần tra đeo súng tiểu liên vào sau lưng rồi cùng trèo lên thang. Người lính thứ ba cùng với anh công an chạy vội vào cửa để trèo lên mái nhà bằng lối khác. Đám người hiếu kỳ xúm xít trong sân. Tên phạm tội trèo hết bậc thang và lẩn mất trước mắt họ...         Nhưng chỉ lát sau bóng người công an đã nhô lên trên mái nhà. Anh ta vẫy mũ để mọi người hiểu rằng tên ăn cắp đã bị bắt.         Anh công an trao hắn cho các đồng chí bộ đội giữ rồi chạy đi tìm khổ chủ. Nhưng lão già biến mất tăm... Mời các bạn đón đọc Hầm Bí Mật Bên Sông En-Bơ của tác giả Aleksandr Nasibov.
Người Đầu Tiên Trong Danh Sách
MagdalenaWitkiewicz- tác giả các cuốn sách đã in tại Nhà xuất bản Trẻ: Trường học dành cho các bà vợ, Lâu đài cát… hiện vẫn đang là tác giả có sách bán chạy nhất của văn học Ba Lan hiện đại. Tác phẩm mới của chị - Người Đầu Tiên Trong Danh Sách - là một tác phẩm ấm áp, xúc động về tình yêu, tình bạn. Thông điệp của tác phẩm: Không bao giờ là quá muộn để thay đổi một điều gì đó trong cuộc sống. Tình cảm thiêng liêng sẽ đưa con người vượt qua mọi lốc xoáy của số phận "Bạn không thể thay đổi quá khứ, nhưng bạn vẫn còn cơ hội để thay đổi tương lai…" *** Magdalena Witkewicz là nữ nhà văn Ba Lan đã có 9 cuốn sách được xuất bản, chuyên viết về những vấn đề quan trọng với văn phong nhẹ nhàng. Magdalena Witkiewicz hiện vẫn đang là tác giả có sách bán chạy nhất của văn học Ba Lan hiện đại. Magdalena Witkiewicz có một số tiểu thuyết rất hay về hôn nhân như: Trường Học Cho Các Bà Vợ Lâu Đài Cát Chuyện kể của người đàn bà không chung thủy, Người đầu tiên trong danh sách ... *** Nếu như hỏi một trong số những phụ nữ đang ngồi bên đống lửa trại kia, rằng tình bạn hay tình yêu quan trọng hơn, thì chỉ mới cách đây chưa lâu thôi, ai cũng sẽ trả lời rằng, tình yêu. Tình yêu, mà đôi khi thường là sự say mê, quyến rũ đã được đẩy lên vị trí số một. Nhiều khi phải trả giá bằng cả một tình bạn lớn. Song, gần đây có những sự kiện đã chỉ ra rằng, không một người đàn ông nào đáng giá cho hai mươi năm bị mất đi. Nhưng đôi khi phải cần đến hai mươi năm để có được một điều gì đó quan trọng nhất. - Thế thì cái gì ở vị trí số một? - người đàn bà cao đang quấn chiếc túi ngủ cho chặt hơn và hít điếu thuốc lá mỏng, hỏi. Chị ta với lấy chai rượu vang. - Đừng hút nữa! - Tất cả những người còn lại đồng thanh nói. Người trẻ nhất giữ chiếc cặp màu hồng. Những tờ giấy được cất trong đó một cách cẩu thả lộ cả ra, như thể bị ai đó vội vàng nhét vào cặp. Có thể thấy rõ là chúng đã được đọc nhiều lần. Cô gái ôm nó như ôm một tài sản quý giá nhất. Ngồi cạnh cô bên đống lửa là ba phụ nữ. Một người ngồi co chân, quấn chiếc chăn len, hai người kia quấn chung một chiếc túi ngủ, nhìn nhau hoài nghi. Giống như những người quen biết nhau trước đây, đã lâu không gặp và giờ bỗng nhiên tìm thấy nhau trong đám đông. Hay là đúng như vậy? - Đây sẽ là điếu cuối cùng - người đàn bà tóc vàng cười và e dè nói. - Cần phải khép lại chương này. - Chị ta lại hít sâu một hơi thuốc và kéo chiếc túi ngủ mạnh hơn. - Tôi quên mất là vào tháng Tám, buổi tối trời đã lạnh, và có lẽ phải đến cả trăm năm rồi tôi không nằm trong lều trại. - Ờ, một trăm năm thì chưa - người phụ nữ ngồi cạnh cười vang. - Chắc chắn là phải trên hai mươi - người đàn bà tóc vàng trầm ngâm. - Có thể thế... Khi ấy trăng cũng chiếu sáng như thế này, bà nhớ chứ? - Piotr chơi guitare... - Ina! - những người đàn bà lại đồng thanh lên tiếng. - Ok! Sẽ lần lượt. Ai đầu tiên nào? - Ina nhắc lại câu hỏi. - Bà. - Tại sao lại là tôi? - Người phụ nữ dập điếu thuốc, vẻ tức giận. - Tại sao à? Vì bà là người đầu tiên trong danh sách. Mời các bạn đón đọc Người Đầu Tiên Trong Danh Sách của tác giả Magdalena Witkiewicz.