Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Phi Trường

Tên sách: Phi trường Nguyên tác: Airport Tác giả: Arthur Hailey NXB: Doubleday & Company, IncGarden City, New York 1968 Người dịch: DgHien Có tham khảo quyển Phi Trường của Thái Hà (Dịch từ Tiếng Nga) NXB Lao Động 1986. Từ những thông tin rời rạc, những người có trách nhiệm tại Phi trường quốc tế Lincoln đã khám phá ra một âm mưu đánh bom máy bay để trục lợi tiền bảo hiểm, và tìm cách ngăn chặn nó. Bên cạnh đó, quyển sách cũng trình bày nhiều hoạt động của những bộ phận khác nhau trong một phi trường, những hoạt động mà những hành khách bình thường không bao giờ thấy được. Và những suy nghĩ, hành động của những con người có liên quan trong một bộ phận xã hội. Arthur Hailey đã có nhiều sách xuất bản tại Việt Nam, mỗi quyển đều có liên quan đến một ngành nghề trong xã hội, một số đã có ebook. Tuy nhiên, theo đánh giá của tôi, Phi Trường là quyển hay nhất, hấp dẫn nhất, đến nay vẫn chưa có ebook, ngoài quyển Phi trường (PDF) do bạn Nga Hoang đưa lên mới đây. Quyển Phi Trường của Thái Hà (dịch từ Tiếng Nga) NXB Lao Động 1986 có một số thiếu sót: (1) phiên âm tên riêng, không còn nhận ra được tên nguyên gốc, không còn phù hợp thời đại; (2) bản Tiếng Nga dịch phóng túng, tùy tiện thêm vào những cái tên không có trong nguyên bản; và quan trọng (3) dịch sai một số chi tiết kỹ thuật, hoặc không hiểu rõ bộ phận kỹ thuật nên để nguyên tên Tiếng Anh không dịch. Do đó tôi đã mạnh dạn dịch mới từ nguyên tác Tiếng Anh, quyển Phi Trường của Arthur Hailey. *** Thông qua câu chuyện hồi hộp về quá trình nghi ngờ, điều tra phát hiện, và tìm cách ngăn chặn một vụ âm mưu cho nổ một chuyến máy bay hành khách quốc tế đông người ngay trên không. Arthur Hailey muốn cung cấp cho bạn đọc những hiểu biết tương đối tường tận và lý thú về hoạt động của một sân bay dân dụng vào loại lớn và hiện đại nhất nước Mỹ, sân bay quốc tế Lincoln, với lưu lượng máy bay lên xuống trung bình 30 giây một chiếc. Qua đó, tác giả muốn nói đến những vấn đề xã hội đang đặt ra hiện nay cho nước Mỹ: đó là những mâu thuẫn và bất công không thể tránh khỏi trong cuộc chạy đua theo tiến bộ khoa học kỹ thuật không phải vì hạnh phúc con người, mà trước hết vì lợi nhuận, đẩy con người đi đến chỗ có những hành động mù quáng điên rồ, tìm lối thoát trước cảnh ngộ bế tắc bằng cách tự giết mình và giết oan nhiều người vô tội khác. *** Arthur Hailey (người Anh có quốc tịch Canada) (1920 - 2004) là tác giả của mười một cuốn best-sellers, trong đó có "Bản tin chiều" đã được dựng thành phim. Ông có 11 tiểu thuyết bán rất chạy được in ở 40 quốc gia với 170 triệu bản. Hailey được coi là người trường vốn trong sự nghiệp sáng tác. Những cuốn truyện ông viết đã vượt khỏi quê hương, được xuất bản trên 40 nước với hơn 170 triệu bản. Điểm nổi bật trong tác phẩm của ông là những nhân vật có xuất xứ rất tầm thường nhưng khi bị đẩy vào hoàn cảnh bi hùng đã vượt lên thành một số phận khác.  Sinh ngày 5/4/1920, Hailey sớm phải bỏ học ở tuổi mười bốn, bởi cha mẹ không đủ tiền chu cấp ăn học cho con trai. Sau đó, chàng trai Arthur trở thành phi công trong quân chủng Hoàng gia Anh trong đại chiến 2. Năm 1947, nhà văn tương lai rời bỏ xứ sở sương mù đến Canada và nhập quốc tịch tại đây. Thời gian đầu nơi đất khách, Hailey phải kiếm sống như một nhân viên tiếp thị cho nhà máy sản xuất máy kéo. Được một thời gian thì việc viết lách đã cám dỗ Hailey. Cuốn tiểu thuyết đầu tay của ông là The Final Diagnosis, xuất bản năm 1959, kể về một bác sĩ chẳng may gây ra cái chết với một bé sơ sinh.  Mải mê với những con chữ trong một thập kỷ, rồi ông trở về công việc kinh doanh, chỉ ngồi vào bàn viết như một thú vui. Bà vợ của Hailey cho biết, nhà văn rất khiêm tốn và giản dị, nhưng ông có một niềm hân hoan đặc biệt khi đọc những bức thư của độc giả tán dương tác phẩm mình. Hậu duệ của ông dự định sẽ tổ chức một bữa tiệc tưởng nhớ ông vào tháng giêng theo đúng nguyện ước của người quá cố. Mười bốn tuổi đã nghỉ học vì cha mẹ không đủ tiền cho ông đi học tiếp, Arthur Hailey tham gia thế chiến thứ 2 với tư cách là phi công trong không lực hoàng gia Anh và trở thành nhà văn khi xuất bản tác phẩm đầu tay The final diagnoisis vào năm 1959.  Arthur Hailey có cách viết tiểu thuyết rất hấp dẫn, mô tả những người bình thường trong hoàn cảnh bất thường. Năm 2001 ông nói với hãng tin AP: "Tôi không thật sự tạo ra ai cả. Tôi chỉ lấy từ đời thật". Một số tác phẩm của ông đã được ra tiếng Việt như Phi trường, Bản tin chiều, Trong khách sạn... *** T háng giêng, lúc sáu giờ ba mươi chiều một ngày thứ sáu, Phi trường quốc tế Lincoln, tiểu bang Illinois, vẫn đang hoạt động, dù rất khó khăn. Cũng như toàn bộ miền trung nước Mỹ, phi trường đang rối tung bởi một cơn bão tuyết lớn chưa từng thấy trong vòng sáu năm nay. Cơn bão đã kéo dài ba ngày. Bây giờ, như những mụn mủ trên một thân thể xiêu vẹo, yếu ớt, những chỗ yếu nhất đang vỡ ra đều đều. Một xe tiếp phẩm của hãng United Airlines mang theo hai trăm phần ăn, bị mất tích và bị kẹt tuyết đâu đó trong phạm vi sân bay. Việc tìm kiếm chiếc xe tải hoặc người tài xế của nó đã thất bại trong bão tuyết và bóng tối. Chuyến bay 111 của hãng United, chuyến bay thẳng đến Los Angeles mà chiếc xe tiếp phẩm phải phục vụ, đã chậm lịch bay nhiều giờ. Sự hỗn loạn do chiếc xe tiếp phẩm bị mất tích sẽ làm cho nó chậm hơn nữa. Những trường hợp chậm tương tự vì những lý do khác nhau đã làm ảnh hưởng đến ít nhất một trăm chuyến bay của hai mươi hãng hàng không khác nhau đang sử dụng Phi trường quốc tế Lincoln. Trong phạm vi sân bay, đường băng 3-0 không sử dụng được, do bị chặn bởi chiếc máy bay Boeing 707 của hãng Aéreo-Mexican, những bánh xe của nó kẹt sâu trong lớp bùn tuyết, gần mép đường băng. Hai giờ tận lực để kéo chiếc máy bay khổng lồ đi đều thất bại. Bây giờ, sau khi sử dụng hết khả năng của mình, hãng Aéreo-Mexican phải cầu cứu hãng TWA. Vì đường băng 3-0 bị chặn nên đài kiểm soát không lưu (KSKL) phải áp dụng chế độ kiểm soát trên không hết sức chặt chẽ và hạn chế việc tiếp nhận máy bay từ những trung tâm lân cận như Minneapolis, Cleveland, Kansas City, Indianapolis và Denver. Mặc dù vậy, vẫn có hai mươi máy bay đang lượn tròn trên trời xin hạ cánh, một số gần cạn nhiên liệu. Còn trên mặt đất thì có gấp đôi số máy bay như thế sẵn sàng cất cánh. Nhưng chừng nào tình hình trên không chưa bớt căng thẳng, đài KSKL chưa cho phép bất cứ máy bay nào cất cánh. Kết quả là các cửa ra máy bay, đường lăn, khu sân đỗ nhồi đầy máy bay đang nằm chờ, nhiều chiếc đang nổ máy sẵn. Trong kho của tất cả các hãng hàng không đều đầy ứ hàng hóa, những hàng hóa cần vận chuyển gấp nhưng giờ bị cơn bão ngăn trở. Các nhân viên giám sát hàng hóa lo lắng nhìn những đống hàng mau hỏng - những hoa hồng trồng trong nhà kính từ Wyoming đi New England; một tấn phó mát Pennsylvania chở đi Anchorage, Alaska; đậu ướp lạnh chở đi Iceland; những con tôm hùm sống từ miền đông chở đi châu Âu trên chuyến bay qua b ắc cực. Những con tôm hùm này phải xuất hiện trong thực đơn ngày mai của các khách sạn, nhà hàng ở Edinburgh và Paris, nơi chúng được gọi là “hải sản tươi sống của địa phương” và đám khách du lịch Mỹ cả tin sẽ tranh nhau ăn chúng. Dù có bão hay không, các hợp đồng đã ghi rằng những thứ hàng mau hỏng này phải được vận chuyển đến nơi vẫn còn tươi và phải nhanh chóng. Điều làm các nhân viên hàng hóa của hãng American Airlines đặc biệt lo ngại là lô hàng mấy nghìn con gà tây mới ra khỏi lồng ấp cách đây vài giờ. Lịch chuyên chở món hàng này đã được sắp xếp chính xác từ nhiều tuần lễ trước đây - giống như mệnh lệnh khai hỏa một trận chiến - trước khi những quả trứng gà tây được đưa vào lồng ấp. Chậm nhất những con gà sống này phải được chở tới bờ biển phía tây trong vòng bốn mươi tám giờ đồng hồ sau khi nở, là thời hạn để những sinh vật tí hon này có thể sống sót mà không cần ăn uống. Thông thường, việc vận chuyển như vậy có tỉ lệ sống sót gần một trăm phần trăm. Còn nếu cho chúng ăn uống trong khi vận chuyển thì chúng và cả chiếc máy bay sẽ bốc mùi nặng đến nhiều ngày sau chưa hết. Bây giờ lịch vận chuyển chúng đã bị chậm mất nhiều giờ. Vì thế một chuyến bay chở hàng được điều động thay cho một chuyến bay hành khách, xem ra những chú gà tây mềm yếu này được ưu tiên hơn mọi thứ, kể cả những hành khách VIP. Trong nhà ga hàng không chính, sự hỗn loạn đã tăng cao. Các phòng chờ chật kín hàng nghìn hành khách của các chuyến bay bị hoãn hay bị hủy. Hàng đống hành lý khắp nơi. Cả căn phòng khổng lồ trông giống như sự lộn xộn kết hợp giữa một trận đấu bóng đá kiểu Mỹ với cửa hàng Macy's trước lễ Giáng sinh. Cao trên mái nhà ga, câu slogan thiếu khiêm tốn PHI TRƯỜNG QUỐC TẾ LINCOLN - NGÃ TƯ HÀNG KHÔNG THẾ GIỚI, hoàn toàn bị tuyết che lấp. Thật đáng kinh ngạc là mọi thứ vẫn tiếp tục hoạt động, Mel Bakersfeld nghĩ. Mel, Tổng giám đốc phi trường - dáng gầy, khắc kỷ - đang đứng cạnh phòng chỉ huy chống tuyết, cao trên tháp KSKL, nhìn chăm chú vào màn đêm. Bình thường từ văn phòng kính này, toàn bộ khu liên hợp phi trường - các đường băng, đường lăn, nhà ga, giao thông dưới đất và trên không - trông giống như những mô hình bé xíu, ngay cả vào ban đêm hình dạng và chuyển động của chúng có thể nhìn thấy rõ ràng dưới ánh đèn. Chỉ có một nơi nhìn được như vậy cao hơn - Đài KSKL chiếm hai tầng trên cùng. Nhưng đêm nay chỉ nhìn thấy thấp thoáng vài ánh đèn gần nhất sau tấm màn tuyết dày đặc đang bị gió cuốn. Mel nghĩ rằng mùa đông này sẽ còn được thảo luận tại Hội nghị các nhà khí tượng trong nhiều năm tới. Trận bão tuyết này xuất hiện cách đây năm ngày tại vùng núi khuất gió ở Colorado. Lúc mới xuất hiện nó chỉ là một vùng áp thấp không to hơn một quả đồi, và đa số các nhà dự báo thời tiết, để lập bản đồ khí tượng cho các chuyến bay, không ghi nhận ra nó, hay bỏ qua nó. Và như bất mãn, cơn áp thấp đó gia tăng sức mạnh giống như một căn bệnh ác tính khổng lồ, vẫn đang phát triển, lúc đầu hướng về phía đông nam, sau đó phía bắc. Nó vượt qua Kansas và Oklahoma, sau đó tạm dừng tại Arkansas, thu thập thêm sức mạnh.  Ngày hôm sau, mạnh lên và hung hãn, nó ào ào đổ vào thung lũng Mississippi.  Cuối cùng, cơn bão trút xuống Illinois, gần như làm tê liệt cả tiểu bang với gió mạnh, nhiệt độ đóng băng, và một lượng tuyết dày mười inch trong 24 giờ. Tại sân bay, lớp tuyết dày mười inch lúc đầu rơi nhẹ, liên tục. Nhưng bây giờ lớp tuyết cũ được tiếp nối bởi nhiều tuyết hơn, gió cuốn chúng thành từng đống, cùng một lúc các đống tuyết mới lại chồng lên các đống tuyết cũ.  đ ội dọn tuyết đã gần như kiệt sức. Trong vòng vài giờ qua một số người đã được lệnh về nhà, mặc dù trong trường hợp khẩn cấp như thế này sân bay có cung cấp cho họ nơi tạm nghỉ. Tại phòng chỉ huy chống tuyết ở gần Mel, Danny Farrow - lúc bình thường là trợ lý của Tổng giám đốc phi trường, nay phụ trách phòng chỉ huy chống tuyết - đang gọi Trung tâm chống tuyết qua radio. “Chúng tôi đang mất cả các bãi đậu xe rồi. Tôi cần thêm sáu xe dọn tuyết nữa và một đội banjo tại ngã ba bảy bốn”. Danny đang ngồi tại phòng chỉ huy chống tuyết, thực sự không phải là một căn phòng đúng nghĩa, nhưng là một chỗ rộng cỡ ba gian nhà.  Trước mặt Danny và hai người giúp việc của ông ở hai bên là một loạt điện thoại, máy telex và máy radio. Xung quanh họ là các bản đồ, sơ đồ, và các tờ phiếu ghi lại tình trạng và vị trí của tất cả các xe dọn tuyết, cũng như các nhân viên và các giám sát. Có một phiếu riêng biệt cho các đội banjo - đội lưu động với dụng cụ dọn tuyết cá nhân. Phòng chỉ huy chống tuyết chỉ hoạt động đúng mục đích của mình trong một mùa này. Tại các thời điểm khác trong năm, căn phòng này chỉ còn sự vắng vẻ và yên tĩnh. Cái đầu hói của Danny bóng nhẫy những giọt mồ hôi khi ông ghi chú những ký hiệu trên bản đồ khổ lớn của sân bay.  Ông lặp đi lặp lại thông điệp của mình cho Trung tâm chống tuyết, nghe giọng ông giống như một lời van xin cho cá nhân, mà có lẽ đúng như thế thật. Ở trên cao này là phòng chỉ huy. Và người chỉ huy phòng này phải hiểu rõ toàn bộ sân bay, biết rõ từng yêu cầu và triển khai các thiết bị đến bất cứ nơi nào cần thiết nhất.  Một vấn để - và chắc chắn là nguyên nhân làm cho Danny toát mồ hôi - là những người dưới kia, những người đang chiến đấu để sân bay tiếp tục hoạt động, ít khi chia sẻ quan điểm giống nhau về những nơi nào ưu tiên hơn. “Chắc chắn, chắc chắn rồi.  Thêm sáu xe dọn tuyết nữa”.  Một giọng nói từ Trung tâm chống tuyết, từ đầu bên kia sân bay, gắt gỏng trong loa. “Để chúng tôi hỏi Ông già Noel đã. Hình như ông ta đang ở quanh đây thôi”.  Im lặng một chút, rồi sôi nổi hơn, “Còn có chỉ dẫn ngu ngốc nào nữa không?” Liếc nhìn Danny, Mel lắc đầu.  Ông nhận ra giọng nói trong loa là của một đội trưởng có lẽ đã làm việc liên tục kể từ khi bắt đầu có bão tuyết. Tâm trạng giận dữ trong hoàn cảnh như thế này cũng dễ hiểu.  Thông thường, sau một mùa đông khó khăn chiến đấu với tuyết, Trung tâm chống tuyết và Ban giám đốc sân bay sẽ tổ chức một buổi tối vui vẻ với nhau mà họ gọi là “đêm-hóa-dữ-làm-lành”.  n ăm nay chắc chắn sẽ cần một buổi tối như thế. Danny nói có lý, “Chúng tôi đã yêu cầu bốn xe dọn tuyết đi tìm chiếc xe tiếp phẩm của hãng United. Họ có lẽ đã xong việc rồi chứ”. “Họ có thể đã xong việc rồi - nếu chúng ta tìm được chiếc xe chết tiệt đó”. “Anh chưa tìm ra nó sao? Mấy người của anh đang làm gì vậy - Ăn tối với các quý bà chắc?” Danny vươn tay vặn nhỏ âm thanh như một cử chỉ đáp trả bực bội. “ n ghe này, những con chim trong cái chuồng nhếch nhác đó làm sao có ý tưởng nào về những gì xảy ra ngoài sân bay?  Có lẽ anh nên nhìn ra ngoài cửa sổ một lát chứ.  Bất kỳ ai có thể ở Bắc cực chết tiệt đêm nay mới biết khác biệt như thế nào”. “Cố thổi vào tay đấy, Ernie”, Danny nói. “ Nó có thể làm tay anh ấm áp và im miệng”. Mel Bakersfeld hiểu hầu hết các trao đổi này, ông biết rằng những gì đã nói về tình hình bên ngoài nhà ga là sự thật. Một giờ trước đây, Mel đã lái qua sân bay.  Ông đã sử dụng đường công vụ, mặc dù ông biết rõ sân bay như lòng bàn tay, nhưng tối nay ông đã rất khó khăn khi tìm đường và nhiều lần gần như bị lạc đường. Mel đã đến kiểm tra Trung tâm chống tuyết nơi đang hoạt động khẩn trương. Nếu t òa tháp nơi đặt phòng chỉ huy chống tuyết là sở chỉ huy, thì Trung tâm chống tuyết là một doanh trại ở chiến tuyến. Từ đây, các đội công nhân mệt mỏi và các đội trưởng đến và đi, những người đẫm mồ hôi và lạnh cóng thay phiên nhau, các công nhân thường xuyên được bổ sung thêm những công nhân tạm thời - thợ mộc, thợ điện, thợ ống nước, nhân viên, cảnh sát. Các công nhân tạm thời được lấy từ công nhân và nhân viên làm nhiệm vụ thường xuyên trong sân bay và được trả lương gấp rưỡi cho đến khi kết thúc tình hình khẩn cấp vì tuyết. Nhưng họ biết công việc phải làm, vì trong mùa hè và mùa thu họ đã diễn tập dọn tuyết nhiều lần vào những ngày cuối tuần, như những người lính, trên đường băng và các đường lăn. Những người đứng bên ngoài đôi khi tức cười khi xem các nhóm công nhân cào tuyết, máy ủi, máy thổi tuyết gầm rú, vào một ngày nắng nóng. Nhưng nếu có ai ngạc nhiên trước mức độ chuẩn bị công phu như thế, Mel Bakersfeld sẽ nhắc nhở họ rằng việc dọn tuyết khỏi khu vực hoạt động của sân bay tương đương bằng bảy trăm dặm đường cao tốc. Cũng giống như phòng chỉ huy chống tuyết trên tháp KSKL, Trung tâm chống tuyết chỉ hoạt động theo chức năng của nó vào mùa đông.  Đó là một gian phòng lớn, tối tăm ở bên trên một nhà để xe tải của sân bay, khi sử dụng, được lãnh đạo bởi một người điều vận phụ trách công tác vận chuyển trong sân bay. Căn cứ từ giọng nói trong radio hiện nay, Mel đoán rằng người ta đã thay người điều vận khác, có lẽ người kia đã về ngủ trong “Phòng Xanh”, như mọi người trong sân bay gọi đùa phòng nghỉ của công nhân. Tiếng người đội trưởng của Trung tâm chống tuyết vang lên lần nữa trong radio: “ Chúng tôi cũng đang lo về chiếc xe đó, Danny. Thằng con hoang khốn khổ đó chắc chết cóng ngoài đó rồi.  Mặc dù nếu hắn ta có tháo vát chút nào đi nữa, hắn ta không phải chết đói”. Chiếc xe tiếp phẩm của UAL đã rời nhà bếp của hãng hàng không để đến nhà ga chính cách đây gần hai giờ.  Hành trình của nó chạy theo đường vành đai, thông thường chỉ mất mười lăm phút. Nhưng chiếc xe tiếp phẩm đã không đến nơi, và rõ ràng lái xe đã lạc đường và bị kẹt tuyết trong khu hoang vu nào đó của sân bay. Hãng United đã gửi đi một đội tìm kiếm, mà chưa có kết quả. Bây giờ những người quản lý sân bay phải đích thân lo việc này. Mel hỏi: “Rốt cuộc chuyến bay United cất cánh rồi sao? Bay mà không có thực phẩm à?” Danny Farrow trả lời mà không cần nhìn lên. ”Tôi nghe thấy cơ trưởng nhường cho hành khách quyết định. Ông ta nói với họ rằng phải mất thêm một giờ nữa mới có một chiếc xe tiếp phẩm khác, rằng họ đã có phim và rượu trên máy bay, và mặt trời vẫn chiếu sáng tại California. Mọi người đã biểu quyết để rời khỏi địa ngục này. Nếu là tôi, tôi cũng sẽ làm như vậy”. Mel gật đầu, chống lại sự cám dỗ để tiếp nhận và đích thân tìm kiếm chiếc xe tải mất tích và người lái xe. Hành động là một liệu pháp.  Cái lạnh và sự ẩm ướt nhiều ngày, đã làm nhói đau vết thương cũ thời chiến tranh của Mel một lần nữa - ký ức chiến tranh Triều Tiên không bao giờ rời ông - và ông có thể cảm thấy nó ngay bây giờ. Ông chuyển, nghiêng, tì trọng lượng của mình sang chân lành.  Nhưng chỉ được một lát. Hầu như cùng một lúc, ở vị trí mới, cơn đau trở lại. Ông vui mừng, một lúc sau đó, rằng ông đã không can thiệp.  Danny hầu như đã làm đúng - tăng cường tìm kiếm chiếc xe, kéo các xe dọn tuyết và công nhân từ khu vực nhà ga, chuyển ra các đường vành đai. Trong thời gian này, các bãi đỗ xe sẽ phải để lại, và sau đó sẽ có rất nhiều lời phàn nàn về điều đó.  Nhưng người lái xe mất tích phải được cứu giúp ưu tiên. Giữa các cuộc gọi, Danny cảnh báo Mel, “Ông phải tự chống chọi với nhiều khiếu nại hơn nữa đấy. Việc tìm kiếm này phải chặn đường vành đai. Chúng tôi phải giữ lại tất cả xe tiếp phẩm khác cho đến khi chúng ta tìm thấy anh chàng kia”. Mời các bạn đón đọc Phi Trường của tác giả Arthur Hailey.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Người Truyền Ký Ức
Tên Ebook: Người Truyền Ký Ức (full prc, pdf, epub) Tác Giả: Lois Lowry Thể Loại: Giả tưởng, Tiểu Thuyết, Văn học phương Tây   Dịch Giả: Nguyễn Quỳnh Trang   Nhà xuất bản: Nhã Nam & NXB Hội Nhà Văn   Năm xuất bản: 2008   Số trang: 246   Giá tiền: 35.000 VND   Khổ: 13x20.5 cm   Đánh máy: Hương Giang, Vigneyard   Kiểm tra: Hương Giang   Nguồn: Bookaholic Club   Ebook: http://www.dtv-ebook.com Bìa sách Người Truyền Ký Ức   Giới thiệu: Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tiểu thuyết Người Truyền Ký Ức của tác giả Lois Lowry. Người lớn hay trẻ nhỏ, có lẽ không ai không thèm muốn một thế giới như của Jonas, nơi mọi bất trắc đã được loại trừ: chiến tranh, đói nghèo, bệnh tật, cha mẹ quở mắng và điểm thấp ở trường. Mỗi cá nhân được giao Nhiệm vụ thích hợp trong cộng đồng, và xã hội này, vận hành yên ổn trong kiểm soát, hình như không thể hoàn thiện hơn thế nữa. Hoặc ít nhất đó cũng là ý nghĩ của Jonas lúc này, trong buổi lễ lên Mười hai tuổi, náo nức chờ đợi Nhiệm vụ của mình. Nhưng đang chờ đợi cậu lại là một điều hoàn toàn khác... Một điều sẽ đưa cậu ra ngoài trật tự quen thuộc, ra ngoài "cái đồng nhất", và những chuyến đi chớp nhoáng vào quá khứ - với Người truyền Ký ức dẫn đường - sẽ cho cậu hiểu hoàn hảo cũng đồng thời là khuyết thiếu ra sao, và thế nào là tình yêu thực sự cũng như nỗi đau thực sực. Người truyền Ký ức, cho đến nay đã bán được 5.3 triệu bản riêng ở Mỹ, đã nhận huân chương Newbery "dành cho đóng góp nỗi bật nhất trong văn học thiếu nhi Mỹ" và đựơc đưa vào danh sách đọc của nhiều trường trung học. Nhưng cũng như mọi tác phẩm đã trở thành kinh điển, đây là cuốn sách để người lớn cũng phải đọc và suy ngẫm, nếu không quá vô tình. Người truyền Ký ức được viết từ năm 1993 này có một lý lẽ lay động về cuộc sống. Nó không như một bài giảng dạy đơn thuần rằng người ta cần thiết nên làm thế này, thế kia, mà khiến mọi người ý thức hơn về những gì mình đang có, về không gian mình đang sống, và về cả ước mơ được nhen nhóm trong đó. *** Người đàn ông tôi đặt tên là người truyền ký ức đã truyền lại cho cậu bé hiểu biết, lịch sử, ký ức, màu sắc, nỗi đau, tiếng cười, tình yêu và sự thực. Mỗi lần bạn trao tay một cuốn sách vào tay một đứa trẻ, bạn cũng đã làm điều đó. Đó là một điều mạo hiểm. Nhưng một lần đứa trẻ mở một cuốn sách ra, nó đã đẩy cánh cổng ngăn cách mình và Nơi khác. Và điều này đưa đến lựa chọn. Đưa đến tự do. Đó là những điều nguy hiểm một cách quý báu và tuyệt diệu.   (Lois Lowry, diễn văn nhận Huân chương Newbery, 1994) *** Bộ sách Người Truyền Ký Ức gồm có: Người Truyền Ký Ức Tìm Lại Màu Xanh Người Truyền Tin Con Trai *** Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tiểu thuyết Người Truyền Ký Ức của tác giả Lois Lowry Tóm tắt: Jonas, một cậu bé 12 tuổi, sống trong một cộng đồng tưởng chừng như hoàn hảo: không có chiến tranh, đói nghèo, bệnh tật, hay bất kỳ mâu thuẫn nào. Mọi người đều được giao nhiệm vụ phù hợp và sống theo quy tắc. Trong buổi lễ lên Mười hai, Jonas nhận được nhiệm vụ đặc biệt: trở thành Người Nhận Ký Ức, người duy nhất lưu giữ ký ức của cộng đồng. Từ đây, Jonas được Người Truyền Ký Ức dẫn dắt vào thế giới của những ký ức về quá khứ, khám phá những cảm xúc và trải nghiệm mà cộng đồng đã cố gắng gạt bỏ. Cậu bé dần nhận thức được sự khác biệt giữa "cái đồng nhất" và thế giới thực, với những cung bậc cảm xúc đa dạng, cả vui lẫn buồn, yêu thương lẫn đau khổ. Review: Ưu điểm: Câu chuyện hấp dẫn: Cuốn sách đưa người đọc vào hành trình khám phá cùng Jonas, trải nghiệm những cảm xúc mới mẻ và suy ngẫm về ý nghĩa của cuộc sống. Thông điệp sâu sắc: "Người Truyền Ký Ức" đề cập đến nhiều chủ đề quan trọng như tự do, bản sắc cá nhân, sự lựa chọn và tầm quan trọng của ký ức. Lối viết nhẹ nhàng, tinh tế: Tác giả sử dụng ngôn ngữ giản dị nhưng đầy sức gợi, dẫn dắt người đọc đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác. Nhược điểm: Cái kết gây tranh cãi: Một số độc giả cho rằng kết thúc của câu chuyện còn dang dở và thiếu thỏa đáng. Chủ đề khá nặng nề: Cuốn sách có thể không phù hợp với trẻ em quá nhỏ bởi nó đề cập đến những vấn đề như cái chết, sự mất mát và đau khổ. Đánh giá chung: "Người Truyền Ký Ức" là một tác phẩm kinh điển dành cho thiếu nhi, nhưng cũng chứa đựng nhiều thông điệp sâu sắc mà người lớn cũng cần suy ngẫm. Cuốn sách khuyến khích người đọc trân trọng những giá trị của cuộc sống, dám sống thật với bản thân và theo đuổi ước mơ của mình. Điểm đánh giá: 4.5/5 Bộ sách: "Người Truyền Ký Ức" là phần đầu tiên trong bộ ba cùng tên của tác giả Lois Lowry, bao gồm: Người Truyền Ký Ức Tìm Lại Màu Xanh Người Truyền Tin Con Trai Lời khuyên: Cuốn sách phù hợp với độc giả từ 12 tuổi trở lên. "Người Truyền Ký Ức" là một lựa chọn tuyệt vời cho những ai yêu thích thể loại khoa học viễn tưởng, dystopia và muốn khám phá những chủ đề về bản sắc cá nhân và tự do. Trích dẫn: "Đó là một điều mạo hiểm. Nhưng một lần đứa trẻ mở một cuốn sách ra, nó đã đẩy cánh cổng ngăn cách mình và Nơi khác. Và điều này đưa đến lựa chọn. Đưa đến tự do. Đó là những điều nguy hiểm một cách quý báu và tuyệt diệu." - Lois Lowry   Mời các bạn đón đọc Người Truyền Ký Ức của tác giả Lois Lowry.  
Airhead Trọn Bộ
Airhead là cậu chuyện về một cô bạn Tomboy rất đỗi bình thường, bỗng một ngày tỉnh dậy và thấy mình ở trong cơ thể của... một cô siêu mẫu!!! Emerson Watts, nhân vật chính, không phải là một cô gái theo kiểu nổi trội vẫn thường được nhiều người biết đến ở trường trung học Tribeca. Ngược lại Em Watts vẫn cười vào mũi những cô bạn "nổi tiếng" Cô ấy ghét sự phù phiếm của những hoạt náo viên, của thế giới người mẫu với những vóc dáng size 0. Cô ấy chẳng bao giờ chạy theo những một thời trang mới nhất. Cô ấy chỉ thích mặc quần jeans và áo thun bình dị. Bìa sách Airhead tập 2: Trở thành siêu mẫu Em Watts cũng không có hứng thú với trào lưu nhạc pop đang thịnh hành hay cô siêu mẫu tuổi teen đang nổi tiếng như cồn khắp cả nước - là Nikki Howard. Em Watts thích chơi điện tử với Christipher, cậu bạn thân thiết nhất của mình mà thôi. Thế nhưng, như định mệnh, Em buộc phải đưa cô em gái tới dự buổi khai trương Megastore - nơi mà thật ra Em cũng chẳng muốn tới, nhưng phải có ai trông chừng cô em gái chứ! Và ở đây, cô siêu mẫu Nikki Howard cũng có mặt. Thế rồi một chuyện không hay xảy ra: Chiếc TV to tướng phía trên đầu em gái của Em bị rơi. Em đẩy cô em gái của mình ra. Và rồi tất cả mọi thứ trở nên đen tối và trống rỗng. Em đã không thể ngờ rằng tai họa này sẽ thay đổi cô, và thay đổi cuộc sống của cô, mãi mãi! Bìa sách Airhead tập 3: Trốn Chạy Với Air head cực kì hấp dẫn, tác giả của series "Nhật kí công chúa" (tải eBook trọn bộ 10 tập), Meg Cabot lại chứng tỏ khả năng tuyệt vời trong việc viết chick-lit cho độc giả tuổi teen. Air head hài hước, nhẹ hành, tốc độ nhanh và tác giả đã nắm bắt các cảm xúc của tuổi teen quá tốt đến mức bạn có cảm giác như mình thực sự đang đọc câu chuyện kể của một cô bạn 16 tuổi vậy. Một trong những vấn đề đặt ra trong câu chuyện này là khi một cô gái tuổi teen được đặt vào thế giới của người lớn với nhiều tiền bạc nhưng ít bị kiểm soát sẽ gặp những vấn đề như thế nào? Bộ Airhead gồm có: - Airhead tập 1: Tìm lại chính mình - Airhead tập 2: Trở thành siêu mẫu - Airhead tập 3: Trốn chạy   Tác Giả Meg Cabot Meg Cabot tên khai sinh là Meggin Patricia Cabot, sinh ngày 1 tháng 2 năm 1967 tại Indiana, Hoa Kỳ. Cô là tác giả của hơn 25 cuốn sách và nhiều sê-ri truyện nổi tiếng dành cho cả người lớn và thiếu nhi, thanh thiếu niên, với hàng chục triệu bản in trên toàn thế giới. Trong đó có thể kể đến: Size 12 không phải là mập; Every boy's got one; 1-800-WHERE-R-YOU; All American girls;..., đặc biệt là Nhật ký công chúa - tác phẩm được xem là thành công nhất của Meg Cabot, được Disney chuyển thể thành phim, được bán ra hơn 20 triệu bản và dịch ra hơn 38 ngôn ngữ trên khắp thế giới. Tại Việt Nam, tờ báo dành cho học sinh, sinh viên hàng đầu hiện nay - Hoa Học Trò - đã cho đăng tải, in ấn nhiều truyện của tác giả Cabot như: Airhead; Thần tượng teen; Con gái Mỹ; Sẵn sàng chưa nào?; Tiền chuộc trái tim...  Một số tác phẩm khác rất được yêu thích của Meg Cabot: - Nhật ký công chúa - Airhead - Cấu nối của những hồn ma - Chàng và nàng; - Chàng trai nhà bên; - Mỗi chàng một nàng.. *** “Emerson Watts” – đang mơ màng thì bị thầy Greer môn “Kỹ năng nói trước công chúng” làm cho giật bắn, mình choàng tỉnh khỏi cơn gà gật cố hữu hằng sáng. Khổ ghê. Không lẽ các thầy cô thực sự cho rằng học sinh bọn mình có thể đủ tỉnh táo mà nuốt trôi mấy bài giảng từ lúc 8h15 sáng chắc?   “Có ạ” – mình vội ngóc cổ lên khỏi mặt bàn, lén lút đưa tay quệt vội hai bên mép, đề phòng có dãi rớt gì trong lúc lơ mơ ngủ khi nãy. Nhưng xem ra hành động của mình đã không đủ nhanh để qua được đôi mắt cú vọ của Whitney Robertson, đang ngồi vắt chân khoe đôi chân dài miên man cách đó vài bàn. Cô nàng dẩu môi nhạo báng mình: “Đúng là đồ dở người!”.   Ngoài việc vênh mặt nhìn lại cô ta đầy thách thức mình cũng chẳng biết phải làm gì hơn. Đáp lại, Whitney chỉ nheo nheo đôi mắt xanh được kẻ vẽ cầu kỳ và nhếch mép cười khẩy, ra vẻ ta đây không thèm chấp “Emm” – thầy Greer vừa nói vừa ngáp một cái dài ngoằng. Xem ra tối qua thầy ý cũng thức khuya thì phải. Nhưng tất nhiên không phải để giải quyết núi bài tập về nhà như mình – “Có phải giờ điểm danh đâu mà có với chẳng không. Đến lượt em lên thuyết trình rồi đấy. Nhớ là 2 phút thôi. Hôm nay sẽ không theo thứ tự bảng chữ cái như mọi khi nữa mà ngược lại”. Thôi, thế là xong đời!   Mình nhăn nhó bước ra khỏi chỗ, uể oải bước lên trước lớp, trong khi đám bạn ở dưới đang bụm miệng cười khùng khục. Tất cả, trừ Whitney. Bởi cô nàng còn đang bận soi gương, sửa lại mấy lọn tóc trước con mắt đầy ngưỡng mộ của Lindsey Jacobs, ngồi ở dãy bàn kế bên: “Ôi cái màu son này hợp với cậu thật đấy”. “Mình biết” – Whitney tự hào ngắm bản thân qua gương, gật gù nói.   Thề là khi ấy mình phải kiềm chế lắm mới không ọe ra trước lớp – bởi cái ý nghĩ sắp phải lên thuyết trình trước hai mươi tư gương mặt vẫn đang đờ đẫn vì buồn ngủ kia… cộng thêm vừa nghe phải một màn hội thoại không-thể-ớn-lạnh-hơn. Tệ hơn nữa, mình chợt nhận ra là không còn nhớ một chữ nào trong bài phát biểu mà mình phải thức cả đêm hôm qua để viết.   “Emerson” – thầy Greer hắng giọng, nhìn xuống đồng hồ đeo tay – “Em có 2 phút”. Đầu mình đột nhiên trống rỗng. Tất cả những gì mình có thể nghĩ lúc đó là… làm sao cậu ấy biết? Mình đang nói về Lindsey í. Rằng cái màu son bóng đó hợp Whitney? Trong khi mình sống trên đời được gần 17 năm rồi mà vẫn còn chưa biết màu son nào thì hợp với mình… hay bất kì ai.   Tất cả là lỗi tại bố. Chính bố là người khăng khăng đặt cho mình cái tên đầy nam tính này. Chỉ vì lúc ở trong bụng mẹ mình đạp dữ quá nên bố quả quyết rằng mình sẽ là con trai – dù cho kết quả siêu âm đã nói rõ là nữ. Có một ông bố làm giáo viên dạy Văn học Anh nên việc mình được đặt theo tên một nhà thơ Anh âu cũng là điều dễ hiểu. Nhưng còn mẹ… ẵm con trên tay thấy rõ kết quả siêu âm là đúng rồi mà còn vẫn để bố làm theo ý mình… Có lẽ khi ấy mẹ vẫn chưa tan hết thuốc tê. Kết quả là suốt đời này mình sẽ phải gắn với cái tên Emerson Watts. Thử hỏi tên đời này có được mấy đứa con gái mang tên con trai như mình “Bắt đầu đi” – thầy Greer bắt đầu bấm giờ. Ngay lúc đó, tự dưng nội dung bài thuyết trình mà mình đã dầy công chuẩn bị suốt đêm qua chợt ùa về như thác đổ.   May ghê. “Phái nữ” – mình dõng dạc mở đầu – “Chiếm 39% trong cộng đồng chơi game tương tác trên máy tính. Tuy nhiên, trong ngành công nghiệp game toàn cầu được ước tính trị giá gần 35 tỷ đôla, chỉ có một phần rất rất nhỏ được đầu tư vào các game dành cho phái nữ”.   Mình ngừng lại… bên dưới, mọi người như muốn đổ gục xuống bàn bất cứ lúc nào. Mà cũng khó trách. Đi học sớm thế này thì ai mà chịu cho nổi cơ chứ. Ngay cả đến Christopher, cậu bạn hàng xóm và đồng thời là bạn thân của mình, cũng đang không hề chú ý lắng nghe tẹo nào. Mặc dù vẫn thẳng lưng ngồi ngay ngắn ở dãy bàn cuối lớp… …nhưng hai mắt thì nhắm nghiền. “Một nghiên cứu” – kệ chứ, mình tiếp tục mở máy – “bởi Viện nghiên cứu giáo dục ở UCLA cho thấy số phụ nữ thi lấy bằng khoa học máy tính hiện đang giảm xuống mức chưa từng thấy, chỉ còn dưới 30%. Khoa học máy tính là lĩnh vực duy nhất có sự chênh lệch lớn giữa nam giới và nữ giới…” Ôi giời. Giờ thì trong lớp không còn ai thức ngoài mình. Kể cả thầy Greer cũng đang gáy o o rồi.   Càng tốt. Mình thích nói gì thì nói, chẳng sợ ai phản đối hay lên tiếng gì sất. “Rất nhiều nhà nghiên cứu tin rằng nguyên nhân chính là do hệ thống giáo dục của chúng ta hiện nay đang khiến giới nữ thờ ơ với các môn khoa học, đặc biệt là khoa học máy tính, ngay từ những năm học trung học” – mình hùng hồn nói, mắt nhìn chằm chằm vào mặt thầy Greer. Nhưng thầy í chẳng có phản ứng gì hết. Bởi thầy còn đang bận ngáy.   Khi nhận được chủ đề thuyết trình lần này mình đã cực kỳ háo hức bởi vì mình cực kỳ thích chơi game máy tính. Nhưng chỉ duy nhất một trò thôi. “Vậy thì điều gìgiúp duy trì sự hứng thú của phái nữ đối với game máy tính?” – mình vẫn thao thao bất tuyệt đầy nhiệt huyết – “Bởi các nghiên cứu cho thấy bằng việc chơi game máy tính sẽ giúp chúng ta tăng cường khả năng hoạch định chiến lược, giải quyết các khó khăn, đồng thời phát triển kỹ năng tương tác xã hội và phối hợp ăn ý với mọi người”.   Không thể tin nổi mấy người này, chẳng lẽ ngủ hết thật rồi hay sao? “Nói thật, bên dưới bộ quần áo mình đang mặc đây là chiếc áo hai dây và quần soóc ngắn, giống như nhân vật Lara Croft vẫn hay mặc trong trò Tomb Raider… Chỉ có điều của mình là bằng chất chống cháy và in hình khủng long phát-sáng-trong-bóng-tối”. Mời bạn đón đọc Airhead của tác giả Meg Cabot.  
Xác Ấm - Isaac Marion
Tên ebook: Xác Ấm (full prc, pdf, epub) Tác giả: Isaac Marion Thể loại: Giả tưởng, Tiểu thuyết, Zombie, Văn học phương Tây   Người dịch: Lê Minh Đức   Kích thước: 14 x 20.5 cm   Số trang: 362   Ngày xuất bản: 24-03-2014   Giá bìa: 86.000 ₫   Công ty phát hành: Nhã Nam   Nhà xuất bản: NXB Hội Nhà Văn   Chụp pic: sundaefruit   Type: thyxanh, fmlovetm, intheend    Beta: bon bon   Tạo prc: Dâu Lê   Nguồn: luv-ebook.com   Ebook: http://www.dtv-ebook.com Bìa sách Xác Ấm - Isaac Marion Giới thiệu: Anh ấy là R – không tên tuổi, không ký ức, không mạch đập, không cuộc đời. Anh ấy là Xác Sống, nhưng là một Xác Sống không muốn ăn thịt người, mà thích lên lên xuống xuống trên những cầu thang cuốn ở sân bay bỏ hoang, thích nghe nhạc Sinatra trong chiếc 747 ấm cúng được anh gọi là nhà, thích sưu tập đồ kỷ niệm từ những tàn tích của nền văn minh. Và rồi, một ngày kia, anh ấy gặp một cô gái. Một cô gái dẫu có vẻ rất ngon lành, nhưng không những không muốn biến cô thành bữa tiệc của mình, anh chỉ muốn bảo vệ cô… Đây là một câu chuyện cổ về Người Sống, có Người Chết, có Xác Sống, có Xương Khô, có những thành phố bị bỏ hoang, có nền văn minh bị hủy diệt, có súng đạn, chết chóc, có đồng cảm, sẻ chia, có hận thù, tha thứ v.v… Và câu chuyện được kể lại dù đẹp để chẳng thể coi là truyện kinh dị, dù bi thương để không đơn thuần xem như truyện lãng mạn, đủ hấp dẫn để khiến bạn mê mải đọc liền một mạch, và đủ chân thực để khiến bạn tin vào… … một tình yêu chữa lành thế giới… Nhận định: “Không ngờ tôi lại có thể đắm đuối đến thế với một xác sống.” – Stephenie Meyer, tác giả Chạng vạng. “Hài hước trong bi thương. Đậm chất điện ảnh.” – The Guardian. “Đã từng có một quái vật đa cảm hơn thế kể tự thời Frankenstein?” – Financial Times. “Romeo & Juliet phiên bản mới được tái tạo bởi một cây bút tài hoa.” – Goodreads.com Tác giả Isaac Marion: Sinh gần Seattle (Mỹ) vào năm 1981. Anh bắt đầu viết văn từ thời trung học và đã tự xuất bản 3 cuốn tiểu thuyết trước khi gặt hái thành công vang dội với Xác ấm. Hiện tại, anh vừa viết văn, vừa chơi nhạc, vừa rong ruổi trên chiếc xe lưu động Baleen để khám phá đất nước. Mời các bạn đón đọc Xác Ấm của tác giả Isaac Marion. Trailer phim được chuyển thể từ cuốn sách này:
Cô Gái Mang Trái Tim Đá - Andrew Davidson
Tên ebook: Cô Gái Mang Trái Tim Đá (full prc, pdf, epub) Tác giả: Andrew Davidson Thể loại: Best seller, Tiểu thuyết, Văn học phương Tây   Nguyên tác: The Gargoyle   Dịch giả: Nguyễn Vĩnh Hằng   Nhà xuất bản: Văn Học   Công ty phát hành: Nhã Nam   Số trang: 528   Hình thức bìa: Mềm   Kích thước: 16x24 cm   Giá bìa: 108.000   Năm xuất bản: 2011   Nguồn: vnthuquan.net   Ebook: http://www.dtv-ebook.com Bìa sách Cô Gái Mang Trái Tim Đá Giới thiệu: Một cô gái kỳ dị - mang trong mình những trái tim đá - đột nhiên bước vào đời anh như một khúc ngoặt không thể đoán trước. Nhưng tai nạn ấy có phải ngẫu nhiên, và cô gái ấy có thực là một bệnh nhân tâm thần? Cô gái mang trái tim đá là một bức tranh nhuốm màu bí ẩn, đan xen giữa quá khứ và hiện tại, lúc đặt người đọc vào khung cảnh huyền bí của thần thoại Hy Lạp, lúc trở về với thực tại ngổn ngang. Giữa bức tranh đó nổi lên câu chuyện tình bất tử vượt mọi trở ngại không gian và thời gian. Lúc dìu dặt nhẹ nhàng, lúc đau đớn khốc liệt, nhưng không thiếu những tình tiết hài hước trớ trêu hay những phút giây lãng mạn nao lòng. Cô gái mang trái tim đá là khúc bi ca về sự dâng hiến và hy sinh của một tình yêu mãnh liệt dị thường. Mời các bạn đón đọc Cô Gái Mang Trái Tim Đá của tác giả Andrew Davidson.