Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Phi Trường

Tên sách: Phi trường Nguyên tác: Airport Tác giả: Arthur Hailey NXB: Doubleday & Company, IncGarden City, New York 1968 Người dịch: DgHien Có tham khảo quyển Phi Trường của Thái Hà (Dịch từ Tiếng Nga) NXB Lao Động 1986. Từ những thông tin rời rạc, những người có trách nhiệm tại Phi trường quốc tế Lincoln đã khám phá ra một âm mưu đánh bom máy bay để trục lợi tiền bảo hiểm, và tìm cách ngăn chặn nó. Bên cạnh đó, quyển sách cũng trình bày nhiều hoạt động của những bộ phận khác nhau trong một phi trường, những hoạt động mà những hành khách bình thường không bao giờ thấy được. Và những suy nghĩ, hành động của những con người có liên quan trong một bộ phận xã hội. Arthur Hailey đã có nhiều sách xuất bản tại Việt Nam, mỗi quyển đều có liên quan đến một ngành nghề trong xã hội, một số đã có ebook. Tuy nhiên, theo đánh giá của tôi, Phi Trường là quyển hay nhất, hấp dẫn nhất, đến nay vẫn chưa có ebook, ngoài quyển Phi trường (PDF) do bạn Nga Hoang đưa lên mới đây. Quyển Phi Trường của Thái Hà (dịch từ Tiếng Nga) NXB Lao Động 1986 có một số thiếu sót: (1) phiên âm tên riêng, không còn nhận ra được tên nguyên gốc, không còn phù hợp thời đại; (2) bản Tiếng Nga dịch phóng túng, tùy tiện thêm vào những cái tên không có trong nguyên bản; và quan trọng (3) dịch sai một số chi tiết kỹ thuật, hoặc không hiểu rõ bộ phận kỹ thuật nên để nguyên tên Tiếng Anh không dịch. Do đó tôi đã mạnh dạn dịch mới từ nguyên tác Tiếng Anh, quyển Phi Trường của Arthur Hailey. *** Thông qua câu chuyện hồi hộp về quá trình nghi ngờ, điều tra phát hiện, và tìm cách ngăn chặn một vụ âm mưu cho nổ một chuyến máy bay hành khách quốc tế đông người ngay trên không. Arthur Hailey muốn cung cấp cho bạn đọc những hiểu biết tương đối tường tận và lý thú về hoạt động của một sân bay dân dụng vào loại lớn và hiện đại nhất nước Mỹ, sân bay quốc tế Lincoln, với lưu lượng máy bay lên xuống trung bình 30 giây một chiếc. Qua đó, tác giả muốn nói đến những vấn đề xã hội đang đặt ra hiện nay cho nước Mỹ: đó là những mâu thuẫn và bất công không thể tránh khỏi trong cuộc chạy đua theo tiến bộ khoa học kỹ thuật không phải vì hạnh phúc con người, mà trước hết vì lợi nhuận, đẩy con người đi đến chỗ có những hành động mù quáng điên rồ, tìm lối thoát trước cảnh ngộ bế tắc bằng cách tự giết mình và giết oan nhiều người vô tội khác. *** Arthur Hailey (người Anh có quốc tịch Canada) (1920 - 2004) là tác giả của mười một cuốn best-sellers, trong đó có "Bản tin chiều" đã được dựng thành phim. Ông có 11 tiểu thuyết bán rất chạy được in ở 40 quốc gia với 170 triệu bản. Hailey được coi là người trường vốn trong sự nghiệp sáng tác. Những cuốn truyện ông viết đã vượt khỏi quê hương, được xuất bản trên 40 nước với hơn 170 triệu bản. Điểm nổi bật trong tác phẩm của ông là những nhân vật có xuất xứ rất tầm thường nhưng khi bị đẩy vào hoàn cảnh bi hùng đã vượt lên thành một số phận khác.  Sinh ngày 5/4/1920, Hailey sớm phải bỏ học ở tuổi mười bốn, bởi cha mẹ không đủ tiền chu cấp ăn học cho con trai. Sau đó, chàng trai Arthur trở thành phi công trong quân chủng Hoàng gia Anh trong đại chiến 2. Năm 1947, nhà văn tương lai rời bỏ xứ sở sương mù đến Canada và nhập quốc tịch tại đây. Thời gian đầu nơi đất khách, Hailey phải kiếm sống như một nhân viên tiếp thị cho nhà máy sản xuất máy kéo. Được một thời gian thì việc viết lách đã cám dỗ Hailey. Cuốn tiểu thuyết đầu tay của ông là The Final Diagnosis, xuất bản năm 1959, kể về một bác sĩ chẳng may gây ra cái chết với một bé sơ sinh.  Mải mê với những con chữ trong một thập kỷ, rồi ông trở về công việc kinh doanh, chỉ ngồi vào bàn viết như một thú vui. Bà vợ của Hailey cho biết, nhà văn rất khiêm tốn và giản dị, nhưng ông có một niềm hân hoan đặc biệt khi đọc những bức thư của độc giả tán dương tác phẩm mình. Hậu duệ của ông dự định sẽ tổ chức một bữa tiệc tưởng nhớ ông vào tháng giêng theo đúng nguyện ước của người quá cố. Mười bốn tuổi đã nghỉ học vì cha mẹ không đủ tiền cho ông đi học tiếp, Arthur Hailey tham gia thế chiến thứ 2 với tư cách là phi công trong không lực hoàng gia Anh và trở thành nhà văn khi xuất bản tác phẩm đầu tay The final diagnoisis vào năm 1959.  Arthur Hailey có cách viết tiểu thuyết rất hấp dẫn, mô tả những người bình thường trong hoàn cảnh bất thường. Năm 2001 ông nói với hãng tin AP: "Tôi không thật sự tạo ra ai cả. Tôi chỉ lấy từ đời thật". Một số tác phẩm của ông đã được ra tiếng Việt như Phi trường, Bản tin chiều, Trong khách sạn... *** T háng giêng, lúc sáu giờ ba mươi chiều một ngày thứ sáu, Phi trường quốc tế Lincoln, tiểu bang Illinois, vẫn đang hoạt động, dù rất khó khăn. Cũng như toàn bộ miền trung nước Mỹ, phi trường đang rối tung bởi một cơn bão tuyết lớn chưa từng thấy trong vòng sáu năm nay. Cơn bão đã kéo dài ba ngày. Bây giờ, như những mụn mủ trên một thân thể xiêu vẹo, yếu ớt, những chỗ yếu nhất đang vỡ ra đều đều. Một xe tiếp phẩm của hãng United Airlines mang theo hai trăm phần ăn, bị mất tích và bị kẹt tuyết đâu đó trong phạm vi sân bay. Việc tìm kiếm chiếc xe tải hoặc người tài xế của nó đã thất bại trong bão tuyết và bóng tối. Chuyến bay 111 của hãng United, chuyến bay thẳng đến Los Angeles mà chiếc xe tiếp phẩm phải phục vụ, đã chậm lịch bay nhiều giờ. Sự hỗn loạn do chiếc xe tiếp phẩm bị mất tích sẽ làm cho nó chậm hơn nữa. Những trường hợp chậm tương tự vì những lý do khác nhau đã làm ảnh hưởng đến ít nhất một trăm chuyến bay của hai mươi hãng hàng không khác nhau đang sử dụng Phi trường quốc tế Lincoln. Trong phạm vi sân bay, đường băng 3-0 không sử dụng được, do bị chặn bởi chiếc máy bay Boeing 707 của hãng Aéreo-Mexican, những bánh xe của nó kẹt sâu trong lớp bùn tuyết, gần mép đường băng. Hai giờ tận lực để kéo chiếc máy bay khổng lồ đi đều thất bại. Bây giờ, sau khi sử dụng hết khả năng của mình, hãng Aéreo-Mexican phải cầu cứu hãng TWA. Vì đường băng 3-0 bị chặn nên đài kiểm soát không lưu (KSKL) phải áp dụng chế độ kiểm soát trên không hết sức chặt chẽ và hạn chế việc tiếp nhận máy bay từ những trung tâm lân cận như Minneapolis, Cleveland, Kansas City, Indianapolis và Denver. Mặc dù vậy, vẫn có hai mươi máy bay đang lượn tròn trên trời xin hạ cánh, một số gần cạn nhiên liệu. Còn trên mặt đất thì có gấp đôi số máy bay như thế sẵn sàng cất cánh. Nhưng chừng nào tình hình trên không chưa bớt căng thẳng, đài KSKL chưa cho phép bất cứ máy bay nào cất cánh. Kết quả là các cửa ra máy bay, đường lăn, khu sân đỗ nhồi đầy máy bay đang nằm chờ, nhiều chiếc đang nổ máy sẵn. Trong kho của tất cả các hãng hàng không đều đầy ứ hàng hóa, những hàng hóa cần vận chuyển gấp nhưng giờ bị cơn bão ngăn trở. Các nhân viên giám sát hàng hóa lo lắng nhìn những đống hàng mau hỏng - những hoa hồng trồng trong nhà kính từ Wyoming đi New England; một tấn phó mát Pennsylvania chở đi Anchorage, Alaska; đậu ướp lạnh chở đi Iceland; những con tôm hùm sống từ miền đông chở đi châu Âu trên chuyến bay qua b ắc cực. Những con tôm hùm này phải xuất hiện trong thực đơn ngày mai của các khách sạn, nhà hàng ở Edinburgh và Paris, nơi chúng được gọi là “hải sản tươi sống của địa phương” và đám khách du lịch Mỹ cả tin sẽ tranh nhau ăn chúng. Dù có bão hay không, các hợp đồng đã ghi rằng những thứ hàng mau hỏng này phải được vận chuyển đến nơi vẫn còn tươi và phải nhanh chóng. Điều làm các nhân viên hàng hóa của hãng American Airlines đặc biệt lo ngại là lô hàng mấy nghìn con gà tây mới ra khỏi lồng ấp cách đây vài giờ. Lịch chuyên chở món hàng này đã được sắp xếp chính xác từ nhiều tuần lễ trước đây - giống như mệnh lệnh khai hỏa một trận chiến - trước khi những quả trứng gà tây được đưa vào lồng ấp. Chậm nhất những con gà sống này phải được chở tới bờ biển phía tây trong vòng bốn mươi tám giờ đồng hồ sau khi nở, là thời hạn để những sinh vật tí hon này có thể sống sót mà không cần ăn uống. Thông thường, việc vận chuyển như vậy có tỉ lệ sống sót gần một trăm phần trăm. Còn nếu cho chúng ăn uống trong khi vận chuyển thì chúng và cả chiếc máy bay sẽ bốc mùi nặng đến nhiều ngày sau chưa hết. Bây giờ lịch vận chuyển chúng đã bị chậm mất nhiều giờ. Vì thế một chuyến bay chở hàng được điều động thay cho một chuyến bay hành khách, xem ra những chú gà tây mềm yếu này được ưu tiên hơn mọi thứ, kể cả những hành khách VIP. Trong nhà ga hàng không chính, sự hỗn loạn đã tăng cao. Các phòng chờ chật kín hàng nghìn hành khách của các chuyến bay bị hoãn hay bị hủy. Hàng đống hành lý khắp nơi. Cả căn phòng khổng lồ trông giống như sự lộn xộn kết hợp giữa một trận đấu bóng đá kiểu Mỹ với cửa hàng Macy's trước lễ Giáng sinh. Cao trên mái nhà ga, câu slogan thiếu khiêm tốn PHI TRƯỜNG QUỐC TẾ LINCOLN - NGÃ TƯ HÀNG KHÔNG THẾ GIỚI, hoàn toàn bị tuyết che lấp. Thật đáng kinh ngạc là mọi thứ vẫn tiếp tục hoạt động, Mel Bakersfeld nghĩ. Mel, Tổng giám đốc phi trường - dáng gầy, khắc kỷ - đang đứng cạnh phòng chỉ huy chống tuyết, cao trên tháp KSKL, nhìn chăm chú vào màn đêm. Bình thường từ văn phòng kính này, toàn bộ khu liên hợp phi trường - các đường băng, đường lăn, nhà ga, giao thông dưới đất và trên không - trông giống như những mô hình bé xíu, ngay cả vào ban đêm hình dạng và chuyển động của chúng có thể nhìn thấy rõ ràng dưới ánh đèn. Chỉ có một nơi nhìn được như vậy cao hơn - Đài KSKL chiếm hai tầng trên cùng. Nhưng đêm nay chỉ nhìn thấy thấp thoáng vài ánh đèn gần nhất sau tấm màn tuyết dày đặc đang bị gió cuốn. Mel nghĩ rằng mùa đông này sẽ còn được thảo luận tại Hội nghị các nhà khí tượng trong nhiều năm tới. Trận bão tuyết này xuất hiện cách đây năm ngày tại vùng núi khuất gió ở Colorado. Lúc mới xuất hiện nó chỉ là một vùng áp thấp không to hơn một quả đồi, và đa số các nhà dự báo thời tiết, để lập bản đồ khí tượng cho các chuyến bay, không ghi nhận ra nó, hay bỏ qua nó. Và như bất mãn, cơn áp thấp đó gia tăng sức mạnh giống như một căn bệnh ác tính khổng lồ, vẫn đang phát triển, lúc đầu hướng về phía đông nam, sau đó phía bắc. Nó vượt qua Kansas và Oklahoma, sau đó tạm dừng tại Arkansas, thu thập thêm sức mạnh.  Ngày hôm sau, mạnh lên và hung hãn, nó ào ào đổ vào thung lũng Mississippi.  Cuối cùng, cơn bão trút xuống Illinois, gần như làm tê liệt cả tiểu bang với gió mạnh, nhiệt độ đóng băng, và một lượng tuyết dày mười inch trong 24 giờ. Tại sân bay, lớp tuyết dày mười inch lúc đầu rơi nhẹ, liên tục. Nhưng bây giờ lớp tuyết cũ được tiếp nối bởi nhiều tuyết hơn, gió cuốn chúng thành từng đống, cùng một lúc các đống tuyết mới lại chồng lên các đống tuyết cũ.  đ ội dọn tuyết đã gần như kiệt sức. Trong vòng vài giờ qua một số người đã được lệnh về nhà, mặc dù trong trường hợp khẩn cấp như thế này sân bay có cung cấp cho họ nơi tạm nghỉ. Tại phòng chỉ huy chống tuyết ở gần Mel, Danny Farrow - lúc bình thường là trợ lý của Tổng giám đốc phi trường, nay phụ trách phòng chỉ huy chống tuyết - đang gọi Trung tâm chống tuyết qua radio. “Chúng tôi đang mất cả các bãi đậu xe rồi. Tôi cần thêm sáu xe dọn tuyết nữa và một đội banjo tại ngã ba bảy bốn”. Danny đang ngồi tại phòng chỉ huy chống tuyết, thực sự không phải là một căn phòng đúng nghĩa, nhưng là một chỗ rộng cỡ ba gian nhà.  Trước mặt Danny và hai người giúp việc của ông ở hai bên là một loạt điện thoại, máy telex và máy radio. Xung quanh họ là các bản đồ, sơ đồ, và các tờ phiếu ghi lại tình trạng và vị trí của tất cả các xe dọn tuyết, cũng như các nhân viên và các giám sát. Có một phiếu riêng biệt cho các đội banjo - đội lưu động với dụng cụ dọn tuyết cá nhân. Phòng chỉ huy chống tuyết chỉ hoạt động đúng mục đích của mình trong một mùa này. Tại các thời điểm khác trong năm, căn phòng này chỉ còn sự vắng vẻ và yên tĩnh. Cái đầu hói của Danny bóng nhẫy những giọt mồ hôi khi ông ghi chú những ký hiệu trên bản đồ khổ lớn của sân bay.  Ông lặp đi lặp lại thông điệp của mình cho Trung tâm chống tuyết, nghe giọng ông giống như một lời van xin cho cá nhân, mà có lẽ đúng như thế thật. Ở trên cao này là phòng chỉ huy. Và người chỉ huy phòng này phải hiểu rõ toàn bộ sân bay, biết rõ từng yêu cầu và triển khai các thiết bị đến bất cứ nơi nào cần thiết nhất.  Một vấn để - và chắc chắn là nguyên nhân làm cho Danny toát mồ hôi - là những người dưới kia, những người đang chiến đấu để sân bay tiếp tục hoạt động, ít khi chia sẻ quan điểm giống nhau về những nơi nào ưu tiên hơn. “Chắc chắn, chắc chắn rồi.  Thêm sáu xe dọn tuyết nữa”.  Một giọng nói từ Trung tâm chống tuyết, từ đầu bên kia sân bay, gắt gỏng trong loa. “Để chúng tôi hỏi Ông già Noel đã. Hình như ông ta đang ở quanh đây thôi”.  Im lặng một chút, rồi sôi nổi hơn, “Còn có chỉ dẫn ngu ngốc nào nữa không?” Liếc nhìn Danny, Mel lắc đầu.  Ông nhận ra giọng nói trong loa là của một đội trưởng có lẽ đã làm việc liên tục kể từ khi bắt đầu có bão tuyết. Tâm trạng giận dữ trong hoàn cảnh như thế này cũng dễ hiểu.  Thông thường, sau một mùa đông khó khăn chiến đấu với tuyết, Trung tâm chống tuyết và Ban giám đốc sân bay sẽ tổ chức một buổi tối vui vẻ với nhau mà họ gọi là “đêm-hóa-dữ-làm-lành”.  n ăm nay chắc chắn sẽ cần một buổi tối như thế. Danny nói có lý, “Chúng tôi đã yêu cầu bốn xe dọn tuyết đi tìm chiếc xe tiếp phẩm của hãng United. Họ có lẽ đã xong việc rồi chứ”. “Họ có thể đã xong việc rồi - nếu chúng ta tìm được chiếc xe chết tiệt đó”. “Anh chưa tìm ra nó sao? Mấy người của anh đang làm gì vậy - Ăn tối với các quý bà chắc?” Danny vươn tay vặn nhỏ âm thanh như một cử chỉ đáp trả bực bội. “ n ghe này, những con chim trong cái chuồng nhếch nhác đó làm sao có ý tưởng nào về những gì xảy ra ngoài sân bay?  Có lẽ anh nên nhìn ra ngoài cửa sổ một lát chứ.  Bất kỳ ai có thể ở Bắc cực chết tiệt đêm nay mới biết khác biệt như thế nào”. “Cố thổi vào tay đấy, Ernie”, Danny nói. “ Nó có thể làm tay anh ấm áp và im miệng”. Mel Bakersfeld hiểu hầu hết các trao đổi này, ông biết rằng những gì đã nói về tình hình bên ngoài nhà ga là sự thật. Một giờ trước đây, Mel đã lái qua sân bay.  Ông đã sử dụng đường công vụ, mặc dù ông biết rõ sân bay như lòng bàn tay, nhưng tối nay ông đã rất khó khăn khi tìm đường và nhiều lần gần như bị lạc đường. Mel đã đến kiểm tra Trung tâm chống tuyết nơi đang hoạt động khẩn trương. Nếu t òa tháp nơi đặt phòng chỉ huy chống tuyết là sở chỉ huy, thì Trung tâm chống tuyết là một doanh trại ở chiến tuyến. Từ đây, các đội công nhân mệt mỏi và các đội trưởng đến và đi, những người đẫm mồ hôi và lạnh cóng thay phiên nhau, các công nhân thường xuyên được bổ sung thêm những công nhân tạm thời - thợ mộc, thợ điện, thợ ống nước, nhân viên, cảnh sát. Các công nhân tạm thời được lấy từ công nhân và nhân viên làm nhiệm vụ thường xuyên trong sân bay và được trả lương gấp rưỡi cho đến khi kết thúc tình hình khẩn cấp vì tuyết. Nhưng họ biết công việc phải làm, vì trong mùa hè và mùa thu họ đã diễn tập dọn tuyết nhiều lần vào những ngày cuối tuần, như những người lính, trên đường băng và các đường lăn. Những người đứng bên ngoài đôi khi tức cười khi xem các nhóm công nhân cào tuyết, máy ủi, máy thổi tuyết gầm rú, vào một ngày nắng nóng. Nhưng nếu có ai ngạc nhiên trước mức độ chuẩn bị công phu như thế, Mel Bakersfeld sẽ nhắc nhở họ rằng việc dọn tuyết khỏi khu vực hoạt động của sân bay tương đương bằng bảy trăm dặm đường cao tốc. Cũng giống như phòng chỉ huy chống tuyết trên tháp KSKL, Trung tâm chống tuyết chỉ hoạt động theo chức năng của nó vào mùa đông.  Đó là một gian phòng lớn, tối tăm ở bên trên một nhà để xe tải của sân bay, khi sử dụng, được lãnh đạo bởi một người điều vận phụ trách công tác vận chuyển trong sân bay. Căn cứ từ giọng nói trong radio hiện nay, Mel đoán rằng người ta đã thay người điều vận khác, có lẽ người kia đã về ngủ trong “Phòng Xanh”, như mọi người trong sân bay gọi đùa phòng nghỉ của công nhân. Tiếng người đội trưởng của Trung tâm chống tuyết vang lên lần nữa trong radio: “ Chúng tôi cũng đang lo về chiếc xe đó, Danny. Thằng con hoang khốn khổ đó chắc chết cóng ngoài đó rồi.  Mặc dù nếu hắn ta có tháo vát chút nào đi nữa, hắn ta không phải chết đói”. Chiếc xe tiếp phẩm của UAL đã rời nhà bếp của hãng hàng không để đến nhà ga chính cách đây gần hai giờ.  Hành trình của nó chạy theo đường vành đai, thông thường chỉ mất mười lăm phút. Nhưng chiếc xe tiếp phẩm đã không đến nơi, và rõ ràng lái xe đã lạc đường và bị kẹt tuyết trong khu hoang vu nào đó của sân bay. Hãng United đã gửi đi một đội tìm kiếm, mà chưa có kết quả. Bây giờ những người quản lý sân bay phải đích thân lo việc này. Mel hỏi: “Rốt cuộc chuyến bay United cất cánh rồi sao? Bay mà không có thực phẩm à?” Danny Farrow trả lời mà không cần nhìn lên. ”Tôi nghe thấy cơ trưởng nhường cho hành khách quyết định. Ông ta nói với họ rằng phải mất thêm một giờ nữa mới có một chiếc xe tiếp phẩm khác, rằng họ đã có phim và rượu trên máy bay, và mặt trời vẫn chiếu sáng tại California. Mọi người đã biểu quyết để rời khỏi địa ngục này. Nếu là tôi, tôi cũng sẽ làm như vậy”. Mel gật đầu, chống lại sự cám dỗ để tiếp nhận và đích thân tìm kiếm chiếc xe tải mất tích và người lái xe. Hành động là một liệu pháp.  Cái lạnh và sự ẩm ướt nhiều ngày, đã làm nhói đau vết thương cũ thời chiến tranh của Mel một lần nữa - ký ức chiến tranh Triều Tiên không bao giờ rời ông - và ông có thể cảm thấy nó ngay bây giờ. Ông chuyển, nghiêng, tì trọng lượng của mình sang chân lành.  Nhưng chỉ được một lát. Hầu như cùng một lúc, ở vị trí mới, cơn đau trở lại. Ông vui mừng, một lúc sau đó, rằng ông đã không can thiệp.  Danny hầu như đã làm đúng - tăng cường tìm kiếm chiếc xe, kéo các xe dọn tuyết và công nhân từ khu vực nhà ga, chuyển ra các đường vành đai. Trong thời gian này, các bãi đỗ xe sẽ phải để lại, và sau đó sẽ có rất nhiều lời phàn nàn về điều đó.  Nhưng người lái xe mất tích phải được cứu giúp ưu tiên. Giữa các cuộc gọi, Danny cảnh báo Mel, “Ông phải tự chống chọi với nhiều khiếu nại hơn nữa đấy. Việc tìm kiếm này phải chặn đường vành đai. Chúng tôi phải giữ lại tất cả xe tiếp phẩm khác cho đến khi chúng ta tìm thấy anh chàng kia”. Mời các bạn đón đọc Phi Trường của tác giả Arthur Hailey.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Ngôi Nhà Nhỏ Trên Thảo Nguyên - Laura Ingalls Wilder
  AudioBook Ngôi Nhà Nhỏ Trên Thảo Nguyên   Ấn tượng lớn nhất với mỗi độc giả khi đọc  Ngôi nhà nhỏ trên Thảo nguyên  có lẽ là tình cảm gia đình ấm áp, tình làng nghĩa xóm, tình cảm bạn bè trong sáng. Thiên tiểu thuyết cũng ngợi ca những con người lạc quan, yêu đời, tràn đầy nghị lực sống dù sống trong điều kiện khó khăn gian khổ khi khai phá vùng đất mới.  Bên cạnh những áng văn tuyệt đẹp về thiên nhiên bao la trên những vùng thảo nguyên hoang sơ của nước Mỹ cuối thế kỉ 19,  Ngôi nhà nhỏ trên Thảo nguyên  còn đề cập đến nhiều vấn đề của nước Mỹ đương thời: nạn phân biệt chủng tộc, nội chiến Nam-Bắc, tự do tín ngưỡng, mặt trái của nền tư bản, vấn đề tự do báo chí… Laura Ingalls Wilder sinh ra trong một căn nhà chòi bằng gỗ vào năm 1867 tại Wisconsin, Mỹ. Trải nghiệm thời thơ ấu của bà trở thành nguồn cảm hứng làm nên tác phẩm để đời Ngôi nhà nhỏ trên thảo nguyên. Laura Ingalls Wilder mất ngày 10 tháng 2 năm 1957 ở tuổi 90 trong trang trại xinh đẹp của bà ở Mansfield, bang Missouri. Năm 1932, cuốn sách đầu tiên trong bộ tiểu thuyết ra đời và hơn 10 năm sau, vào năm 1943, tác giả mới cho ra đời cuốn sách thứ chín. Sau đó, cháu gái của nhà văn - Rose Wilder Lane đã biên tập lại. Hơn 70 năm đã trôi qua, bộ sách Ngôi nhà nhỏ trên thảo nguyên đã tái bản lại nhiều lần, được dịch ra hơn 40 ngôn ngữ và được độc giả khắp thế giới say mê.     Ngôi nhà nhỏ ở Big Woods là tập một của bộ sách  Ngôi nhà nhỏ trên Thảo nguyên , kể lại những ngày đầu đời của cô bé khi sống cùng bố mẹ tại rừng Big Woods. Bìa sách Ngôi nhà nhỏ ở Big Woods Rừng Big Woods mênh mông rậm rạp là nơi ẩn mình của hươu nai, chồn cáo, thỏ sóc và cũng là gian sơn của chó sói, mèo rừng, gấu đen, báo đen.  Giữa rừng Big Woods có một ngôi nhà gỗ nhỏ. Trong ngôi nhà nhỏ này có một cô bé sống cùng với bố mẹ, chị gái và em gái.  Cô bé tên là Laura Ingalls, cái tên rực sáng trên văn đàn Mỹ và thế giới suốt bảy chục năm qua với bộ sách gồm 9 tập đã được chuyển thành phim dưới tựa đề  Ngôi nhà nhỏ trên Thảo nguyên .  Qua lời kể của Laura Ingalls, bạn đọc sẽ gặp không chỉ những kỉ niệm riêng tư mà luôn đối diện với một cuộc sống kiên cường sẵn sàng đương đầu với những thử thách khắc nghiệt nhất để giữ vững ngọn lửa ấm gia đình.  Ngôi nhà nhỏ ở Big Woods là bức tranh khắc hoạ sinh động nhất về cuộc sống khai phá đầy mạo hiểm của những bàn tay nhỏ bé nhưng có một sức mạnh thần kì: sức mạnh của lòng nhân hậu và tình thương yêu chân thật.  Nhiều thế hệ bạn trẻ trên khắp nước Mỹ và nhiều nơi trên thế giới đã say mê đến với   Ngôi nhà nhỏ ở Big Woods của Laura Ingalls và ngay lúc này, ngôi nhà nhỏ trên cũng đang mở rộng cửa đón chờ các bạn trẻ Việt Nam. Ebook Little House (Ngôi nhà nhỏ trên thảo nguyên) gồm có:  Tập 1 : Ngôi nhà nhỏ ở Big Woods   Tập 2 : Ngôi nhà nhỏ trên đồng cỏ   Tập 3 : Cậu bé quê   Tập 4 : Trên bờ suối Plum   Tập 5 : Bên hồ Nước Bạc  Tập 6 : Mùa đông thăm thẳm  Tập 7 : Thị trấn nhỏ trên thảo nguyên   Tập 8 : Những ngày vàng hạnh phúc   Tập 9 : Bốn năm đầu  Tập 10 : Trên đường về   Tập 11: Thư miền tây  Mời các bạn đón đọc  Ngôi nhà nhỏ trên thảo nguyên của tác giả   Laura Ingalls Wilder.
Công Viên Khủng Long Kỷ Jura
Tên ebooK: Công Viên Khủng Long Kỷ Jura (full prc, pdf, epub) Tác giả: Michael Crichton Nguyên tác: Jurassic Park (1990) Thể loại: 100 Tiểu thuyết Trinh thám - Kinh dị hay nhất mọi thời đại, Giả tưởng, Khoa học, Tiểu thuyết, Văn học phương Tây Dịch giả: Trương Văn Khanh NXB: Kim Đồng & Lao Động Năm xuất bản: 1994 Scan: duy_anh_o2 Đánh máy: buihongvan Nguồn: vnthuquan.net Ebook: Đào Tiểu Vũ eBook - www.dtv-ebook.com Bìa sách Công Viên Khủng Long Kỷ Jura - Michael Crichton Giới thiệu: Michael Crichton, sinh ngày 23 tháng 10 năm 1942 tiểu bang Chicago mất ngày 4 tháng 11 năm 2008 ở Los Angeles.  Ông là một người chuyên viết về những truyện khoa học,giả tưởng và đã có nhiều truyện đã được dựng lên phim. Tác giả Michael Crichton nổi tiếng trong giới truyền hình nhiều hơn là trong giới văn chương bởi đơn giản ông là một nhà viết kịch bản tài ba của nhiều bộ phim nổi tiếng. Điểm đặc biệt trong sự nghiệp văn chương của ông chính ở chỗ các truyện được viết dựa trên những nghiên cứu khoa học của ông sau khi tham gia học ngành y và ông có được một kiến thức y học tương đối rộng (ông tốt nghiệp khoa y Đại học Havard). Vì lý do đó, ông được gọi là "Cha đẻ của truyện giật gân Mỹ", các sáng tác của ông mang nặng tính giả tưởng, tính ly kỳ hoàn hảo và bằng tài năng hiếm có, ông đã sáng tạo ra những thiên truyện hoàn mỹ, ly kỳ và giật gân nhất thế kỷ XX.  Cuốn sách Công Viên Khủng Long Kỷ Jura là một trong những cuốn sách bán chạy nhất thế giới và là nguồn cảm hứng cho đạo diễn nổi tiếng thế giới Steven Spielberg khởi tạo bộ phim cùng tên. *** Trong Công viên kỷ Jura, tại một hòn đảo giả tưởng có tên Isla Nublar, gần Costa Rica, một tỉ phú cho xây dựng nên một công viên khủng long giải trí. Khi xảy ra một sự kiện bất ngờ, gây ra cái chết của một nhân viên, vị tỉ phú kia, John Hammond, cho mời ba chuyên gia đến thanh tra công viên để giúp các nhà đầu tư không cảm thấy lo sợ. Các chuyên gia này bao gồm nhà cổ sinh vật học Alan Grant, nhà cổ thực vật học Ellie Sattler, và nhà toán học Ian Malcolm. Tất cả bọn họ đều hết sức bất ngờ khi được tận mắt chứng kiến khủng long thật, còn sống, được tạo ra từ ADN hóa thạch của khủng long gốc. Tuy nhiên, khi một nhân viên bất mãn có tên Dennis Nedry tắt nguồn điện của công viên để tìm cách ăn trộm phôi khủng long đi bán, lũ khủng long sổng chuồng, và khu công viên thanh bình bị biến thành một miền đất đầy rẫy chết chóc. Câu hỏi nhiều người đặt ra nhất hẳn sẽ là: bản truyện khác gì bản phim? Nó hay hơn hay dở hơn? Câu trả lời: khác khá nhiều, và hay hơn hẳn. Bộ phim để lại ấn tượng cho người xem ở cái sự hùng vĩ của cảnh vật và của các con khủng long, nhưng cuốn tiểu thuyết thì lại mới chứa đựng trái tim thật sự của Công viên kỷ Jura: nó kích thích trí tưởng tượng của người đọc, nó mang lại cái cảm giác kiệt quệ, bất an, cảm giác pha trộn giữa trầm trồ ngưỡng mộ và kinh hoàng lạnh sống lưng giữa một khu rừng rậm nhiệt đới mù sương, sống động. Spielberg lúc chuyển thể tác phẩm này thành phim đã khá “thoáng tay” ở một số điểm, và vì thế nên đọc bản tiểu thuyết sẽ cảm thấy đây có phần như một câu chuyện mới hẳn. Dưới đây là ví dụ về một số điểm khác biệt giữa truyện và phim: Tiến sĩ Grant thích trẻ con và rất quý Tim và Lex. Hammond không phải là cái ông già hiền lành như trong phim tí nào. Mấy con khủng long con bé bé (bọn Compsognathus) và khủng long bay (bọn Pterodactyls) có xuất hiện trong truyện, nhưng phải mãi 2 phần sau Spielberg mới đưa chúng lên phim. Nhiều người chết trong truyện nhưng lại sống trên phim, và ngược lại. Bản thân ai là nhân vật chính, ai chết kiểu nào cũng khác hẳn. Và còn rất, rất nhiều điểm khác biệt nữa. Đây vẫn cứ là cái công viên quen thuộc, nhưng phức tạp và chi tiết hơn nhiều. Ừ thì cũng có phần khủng long rượt đuổi, nhưng ẩn dưới bên đó là những chỉ trích khoa học rất đáng suy ngẫm. Truyện chỉ trích việc thương mại hóa các tiến bộ khoa học, đặc biệt khi cứu bừa phứa áp dụng công nghệ vào mục đích kiếm tiền, bất kể hậu quả. Về phần nhân vật thì không có gì đáng nói lắm. Mỗi nhân vật trong Công viên kỷ Jura có một kỹ năng riêng, như kiểu party trong game RPG. Bản thân sự phát triển và tính cách các nhân vật không quan trọng bằng việc kỹ năng họ sở hữu giúp mạch truyện phát triển như thế nào, nhưng Crichton vẫn khiến cho họ trở nên đủ thú vị để ta quan tâm và cảm thấy lo sợ mỗi khi họ gặp tai nạn gì đó. Trong này, nhân vật Ian Malcolm, nhà toán học, giữ vai trò “loa phát thanh” của tác giả. Anh ta chỉ trích khu công viên này không ngừng bằng các phép toán phân dạng phức tạp và thuyết hỗn mang, đưa ra những lập luận rất sắc bén về lý do công viên sẽ sụp đổ. Thông qua nhân vật này, Crichton muốn thể hiện quan điểm tự nhiên về bản chất là một trật tự hỗn mang. Nếu ta tìm cách kiểm soát sự hỗn mang ấy, mọi thứ sẽ bị đảo lộn. Cấu trúc viết truyện cũng có phần đáng chú ý. Truyện được viết theo các chương ngắn, thường chỉ có tầm một, hai phân cảnh là hết. Càng về sau các phân cảnh càng rút ngắn, khiến mạch truyện trở nên rất gấp gáp. Thêm nữa là Crichton thỉnh thoảng lại đưa bảng biểu thông số kỹ thuật máy tính, đồ thị vào trong truyện. Nghe có vẻ năng đầu và hơi “phá game,” nhưng chúng xuất hiện không nhiều, và ngoài ra còn cho người đọc cơ hội được thử phỏng đoán xem vấn đề nằm ở đâu trước khi lời giải đáp được đưa ra liền sau đó. Nhìn chung, Công viên kỷ Jura là một tác phẩm tuyệt vời. Nó có một cốt truyện lôi cuốn, và một ý tưởng rất sáng tạo. Các phần khoa học nền cũng được nghiên cứu rất kỹ. Nếu bạn muốn tìm đọc một cuốn techno thriller ý nghĩa mà cũng kịch tính, đừng bỏ qua cuốn tiểu thuyết này.   Mời các bạn đón đọc  Công Viên Khủng Long Kỷ Jura của tác giả Michael Crichton.
Thế Giới Nghịch - Michael Crichton
Tên ebook: Thế Giới Nghịch (full prc, pdf, epub) Tên gốc: Next Tác giả: Michael Crichton Thể loại: Best seller, Giả tưởng, Khoa huyễn, Tiểu thuyết, Văn học phương Tây Dịch giả: Nguyễn Khánh Toàn Nhà xuất bản liên kết: Thời đại Số trang: 674 Kích thước: 14 x 20,5 cm Giá bìa: 125 000 VND Năm phát hành: 2011 Thực hiện ebook: Hoàng Liêm Nguồn: e-thuvien.com Ebook: Đào Tiểu Vũ eBook - www.dtv-ebook.com Bìa sách Thế Giới Nghịch - Michael Crichton Giới thiệu: Xin đón chào bạn đến với Thế giới nghịch - thế giới gien. Nhanh, mãnh liệt và vượt tầm kiểm soát. Đây không phải thế giới của tương lai - đây là thế giới ở ngay hiện tại. Thế giới nghịch - khi các Đấng Toàn Năng không còn giữ vai trò độc quyền trong sáng tạo thế giới, khi chỉ một chuỗi gien cũng có thể làm đảo lộn lịch sử, khi ngay cả người đã chết cũng bị đưa lên bàn đấu giá, khi tất cả mọi điều đều trở thành có thể… Hồi hộp, bất ngờ và dễ hiểu ngay cả trong những vấn đề tưởng như đậm tính chuyên môn, với Thế giới nghịch, Michael Crichton mang đến cho độc giả một tác phẩm không-thể-bỏ-qua của thể loại, một thành công nối tiếp những đột phá vang dội của ông trong Công viên kỷ Jura. 15 năm sau Công viên kỷ Jura, Micheal Crichton viết nên một cuốn tiểu thuyết mà đến 15 năm nữa hay thậm chí là lâu hơn vẫn còn gây chấn động. Trong phần ghi chú ở cuối sách, ông cũng thẳn thắn trình bày ý kiến của mình về những vấn đề di truyền học. Không gì hơn, Thế giới nghịch là hồi chuông cảnh báo dành cho toàn thể nhân loại. Nếu chỉ quan tâm đến những mưu đồ sinh lợi cá nhân mà không chú trọng đề phòng các hiểm họa, thì chúng ta sẽ không chỉ có một, mà rất có thể sẽ là hàng triệu quái vật như Frankenstein xuất hiện trong tương lai. Cuốn tiểu thuyết cuối cùng của tác giả nổi tiếng người Mỹ Michael Crichton đặt ra cho độc giả một câu hỏi mà đến nay vẫn còn là chủ đề gây tranh cãi: điều gì sẽ xảy ra nếu kỹ thuật di truyền thành công và được phổ biến rộng rãi? Nhận định “Hãy đọc cuốn sách này. Đủ độ sợ hãi đến mức DNA rơi ra khỏi cơ thể bạn.” - Baton Rouge Advocate “Rợn người.” - The Washington Post “Ngoạn mục.” - Philadelphia Inquirer “Ly kỳ cũng như bất kỳ tác phẩm nào của ông kể từ Công viên kỷ Jura.” - Dallas Morning News Mời các bạn đón đọc Thế Giới Nghịch của tác giả Michael Crichton.
Xuyên Thấu - Ryu Murakami
Tên ebook: Xuyên Thấu (full prc, pdf, epub) Tác giả: Ryu Murakami Thể loại: Tiểu thuyết, Văn học Nhật bản Dịch giả: Lê Thị Hồng Nhung Nhà xuất bản: NXB Văn Học Công ty phát hành: BachvietBooks Số trang: 260  Giá bìa: 39.000 đồng  Nguồn: Romance Book Ebook: Đào Tiểu Vũ eBook - www.dtv-ebook.com Bìa sách Xuyên Thấu - Ryu Murakami Giới thiệu: Nhân vật chính của Xuyên thấu là Kawashima Masayuki, anh sống trong một căn hộ tập thể ở vùng ngoại ô. Anh đang làm việc cho một văn phòng thiết kế ở trung tâm thành phố, có một người vợ đẹp và một đứa con mới chào đời, nhìn chung là cuộc sống thường ngày của anh không có gì đáng phàn nàn. Tuy nhiên, không hiểu sao thỉnh thoảng anh lại có cảm giác như “các dây thần kinh ở mắt, mũi và tai như chập vào nhau và những đốm sáng như pháo hoa lập lòe trước mắt”, anh thấy xung quanh mình như đang ngập ngụa “một mùi cháy khét của mỡ động vật” và mỗi lúc như vậy anh lại không thể kiểm soát nổi bản thân mình. Lúc đó, trong anh như có một nỗi đe dọa, ám ảnh anh rằng có thể một lúc nào đó, anh sẽ dùng cái dùi đập đá đâm chính đứa con gái bẻ bỏng của mình. Và để có thể thoát khỏi nỗi ám ảnh đó, anh đã quyết định sẽ phải đâm một người phụ nữ khác. Kết quả là đã có một cuộc hội ngộ tương phùng kỳ lạ giữa một người đàn ông có mưu đồ giết người và một người phụ nữ mang ý định tự sát, một cuốn tiểu thuyết tâm lý có thể gây cho người đọc cảm giác căng thẳng hồi hộp ngay từ trang đầu tiên cho đến tận trang cuối cùng.   Ryu Murakami (sinh năm 1952) đã từng được Tạp chí Time bình chọn là “một trong mười một người cách-mạng-hóa Nhật Bản”. Năm 1976, đoạt Giải tác giả mới - Gunzo và Giải Akutagawa - giải văn học cao quý của Nhật Bản. Lối diễn đạt ngổ ngáo có khi trắng trợn của ông không khiêu khích nhưng vẫn chênh vênh ở bờ vực phong hóa, làm những nhà đạo đức phải nhăn mặt. Tác phẩm của Ryu Murakami giúp người ngoại quốc thấy được mặt trái của Nhật Bản, đất nước của trà đạo, thư pháp, kimono, kabuki, hoa anh đào…còn đầy cả tham nhũng, dâm thư, những hình thái trụy lạc đến phi nhân… (Giới thiệu Ryu  Murakami - Phạm Vũ Thịnh -  Nhatban.net)      Mời các bạn đón đọc Xuyên Thấu của tác giả Ruy Murakami.