Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Hùng Karô

Cùng với Lê Lựu, Ma Văn Kháng, Bảo Ninh, Nguyễn Khắc Tường, Khuất Quang Thụy, Dương Hướng... Chu Lai là một trong những nhà văn tự khẳng định mình trong giai đoạn văn học sau 1975. Ông được đọc giả biết đến là một nhà văn quân đội " đậm chất lính tráng": rắn rỏi mạnh mẽ nhưng không kém phần sâu sắc. Chu Lai sáng tác trên nhiều thể loại khác nhau: tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch, hồi ký, bút kí... Tất cả đã chứng tỏ ông là một nhà văn có sức viết khỏe và bền bỉ. Trong đó, tiểu thuyết của ông là bức tranh toàn cảnh gồm nhiều tầng, nhiều mảng khác nhau của hiện thực đời sống. Hùng Karô là một thể nghiệm bút pháp khác lạ của Chu Lai, câu chuyện kể về cuộc đời giông bão của nhân vật chính cùng tên Hùng Karô, một gã giang hồ có một tuổi thơ và cả tuổi trưởng thành lầm than khốc liệt.  Gã từ hoang sơ cỏ dại đi lên, vượt qua mọi thăng trầm trong cuộc sống, vào tù rồi ra tù, hối cải để trở thành một công dân tử tế, rồi từ công dân tử tế thành một doanh nhân thậm chí là doanh nhân thành đạt để rồi nhận một cái kết thật buồn khi cuộc đời này, thể chế còn nhiều góc khuất chưa phân định sáng tối này đã đánh vào anh một đòn cuối cùng... Có thể nói, mỗi trang văn của Chu Lai là một câu chuyện của những cái tận cùng, cố gắng hướng đến cái tận cùng, nỗi khổ niềm vui, hy vọng và tuyệt vọng, can đảm và yếu hèn, tất cả đều được nổi lên một cách đậm nét và hết sức chân thực. *** Đại tá, nhà văn Chu Lai có tên khai sinh là Chu Văn Lai, sinh ngày 5 tháng 2 năm 1946, tại xã Hưng Đạo, huyện Phù Tiên, tỉnh Hưng Yên, hiện ở Hà Nội. Ông là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (từ năm 1980). Ông là con trai của nhà viết kịch Học Phi. Trong chiến tranh Việt Nam ông công tác trong đoàn kịch nói Tổng cục Chính trị rồi trở thành chiến sĩ đặc công hoạt động trong vùng Sài Gòn. Sau 1973, ông về làm trợ lý tuyên huấn Quân khu 7. Đến cuối năm 1974 ông tham dự trại sáng tác văn học Tổng cục Chính trị và sau đó học tại Trường Viết văn Nguyễn Du khóa 1. Sau khi tốt nghiệp, ông biên tập và sáng tác cho Tạp chí Văn nghệ Quân đội. Nhà văn Chu Lai còn viết một số kịch bản sân khấu, kịch bản phim và tham gia đóng phim. Chu Lai là một trong những nhà văn quân đội có tên tuổi trong nền văn học sau 1975. Đã từng một thời khác áo lính, ông rất thành công với đề tài chiến tranh. Và tiểu thuyết là thể loại mà Chu lai đã khẳng định được tài năng và phong cách của mình. Nắng Đồng Bằng là một trong những tác phẩm để đời của nhà văn khi viết về đề tài chiến tranh với câu chuyện và những phận người đầy gai góc. Người lính trong Nắng đồng bằng không chỉ biết có chiến đấu vì lý tưởng, biết đấu tranh, giành giật sự sống trước bom đạn, trước kẻ thù mà cũng có những suy tư, tính toán thiệt hơn... nhưng cuối cùng họ vượt qua tất cả để góp phần làm nên chiến thắng vĩ đại của dân tộc. Chính Chu Lai từng bộc bạch "Cuộc đời có thể xô đẩy người lính, quăng quật người lính nhưng người lính vẫn bật lại để sống xứng đáng với màu xanh áo lính". Có thể nói mỗi trang văn của Chu Lai là một câu chuyện của những cái tận cùng, cố gắng hướng đến cái tận cùng, nỗi khổ niềm vui, hy vọng và tuyệt vọng, can đảm và yếu hèn, tất cả đều được nổi lên một cách đậm nét và hết sức chân thực. Một số tác phẩm của tác giả Chu Lai: Cuộc Đời Dài Lắm Mưa Đỏ Phố Nắng Đồng Bằng Ăn Mày Dĩ Vãng Út Teng Truyện Ngắn Chu Lai Hùng Karô Chỉ Còn Một Lần Khúc Bi Tráng Cuối Cùng Người Im Lặng Nhà Lao Cây Dừa 3 Lần Và 1 Lần Sông Xa Vòng Tròn Bội Bạc Bãi bờ hoang lạnh Gió không thổi từ biển *** Tôi tên là Hùng, gọi đủ theo giấy khai sinh là Trần Văn Hùng, nhưng người đời chẳng hiểu sao lại cứ thích gọi tôi là Hùng Ka Rô, Hùng tướng cướp, Hùng hung thần, tử thần, Hùng sát thủ máu lạnh rồi gọi cả cái tên xem ra có vẻ rất rắc rối này nữa: Kẻ đa tình dữ tợn!) Vâng, thôi thì cứ để mặc cho người ta gọi, miệng lưỡi thế gian có khi nào không ngứa ngáy song tôi có đa tình hay dữ tợn thật không thì những trang viết vụng về dưới đây sẽ trả lời các bạn tất cả. Viết! Khổ! Tôi có viết lách bao giờ đâu. Từ nhỏ tôi đã kinh sợ cây bút và trang giấy, như sợ ma. Chữ nghĩa dưới tay tôi nó đùn ra lục cục, lôi thôi lắm, có lúc còn nhăng nhít, thô lậu nửa, ấy vậy nhưng mọi người cứ bảo tôi ngồi vào bàn đi, cuộc đời ông phong trần trồi sụt khác thường như thế, không viết nó phí đi, phí lắm! Rồi ngay cả.ông nhà văn già bất đắc chí ở phố núi tối tối mút xương gà như mút kẹo cũng bảo: "Tất cả bọn cầm bút thật hay giả ở cái nước không coi văn chương là trọng này đều ước muốn có một phần mười cái vốn sống mà cậu đã trải qua" Trời đất! Oách thế kia à? Vậy thì tôi viết, không, đúng ra là kể, chỉ kể thôi chứ viết nghe có vẻ sang quá, véo von vít vông quá, người ta cười, tức là thấy gì kể nấy, không thấy không kể, tức là dòng đời tôi thế nào tôi cứ cho nó tuôn ra ùng ục ra thế ấy, một mạch từ đầu đến cuối, thẳng đuột, phẳng lỳ, không chìm nổi, không lắt léo, không bịa đặt, không tô vẽ, không chơi chữ chơi nghĩa, không chương hồi, không lớp lang, không đảo lên đảo xuống, không cắt dán, không bố cục, không hồi tưởng, không đa chiều đa kích lằng nhằng, không màng đến tính nhân văn tính tư tưởng cao siêu gì gì đó mà có màng cũng chả được, và cũng không hư cấu tí tẹo nào hết, bởi tôi có biết hư cấu là cái quái gì đâu mà hư, hư bậy bạ, có khi lại thành cái thằng rao bán thuốc hôi nách thuốc hắc lào ngoài chợ. Kệ thì giống như kể câu chuyện mình đã trải qua, đã ngửi thấy, sờ thấy, nếm thấy vậy việc gì phải tính nọ tính kia cho rắc rối. Kệ, vả lại tôi viết rồi để đó, viết để lấp đầy im lặng, viết cho riêng tôi, viết cho khỏi cắn lưỡi mà chết chứ có viết cho ai đâu mà đo đắn nọ kia. Và còn vì điều này nữa tôi giấu cho riêng mình, giấu cả vợ, người đàn bà thân yêu nhất mà tôi đi tìm cả đời mới thấy, đó là tôi đã nhìn thấy cái lỗ huyệt há hoác đang từng phút chờ nuốt tôi vào cái bụng đen ngòm, tanh tưởi của nó. Những dòng chữ chắc chắn sẽ là hết sức nhức nhối này tôi muốn gửi lại như một món quà lòng thành tặng riêng cho cô ây, chỉ một cô ây thôi. Tất nhiên tôi cũng bắt chước thiên hạ là đánh số một số hai, ghi rõ phần một phần hai để cô ây dễ theo dõi. Cái này lại ông nhà văn già bất đắc chí ở phố huyện chỗ tôi thường gọi là: Thái độ tôn trọng người đọc. Tôi bắt đầu kể đây! Kể đúng theo ngôn từ, khẩu khí của một thằng đã trải qua những tháng ngày ở dưới đáy xã hội nên có thể sẽ rất nghịch nhĩ, rất dễ gây phản cảm, rất khó chịu nhưng cái tạng nó trót là vậy rồi, có muốn sửa cũng chả được. Mời các bạn đón đọc Hùng Karô của tác giả Chu Lai.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Hành Trình Đến Tận Cùng Đêm Tối - Louis Ferdinand Céline
Louis Ferdinand Céline (1894-1961) tên thật: Louis-Ferdinand Destouches, vừa là nhà văn vừa là thầy thuốc. Ông lấy tên bà ngoại, Céline, làm bút danh. Năm 1912, ông tình nguyện nhập ngũ và giải ngũ năm 1914 với 75% thương tật. Sau đó, ông sang châu Phi tham gia việc chiếm đóng một thuộc địa cũ của Đức là Cameroun; trở về nước năm 1916, với bệnh sốt rét mạn tính. Năm 1918, ông theo học đại học y khoa, từng làm thầy thuốc cả ở New York, Mỹ lẫn Paris, Pháp. Đây là những chi tiết sẽ xuất hiện trong tiểu thuyết đầu tay của ông năm 1932 với tựa đề Hành trình đến tận cùng đêm tối. Đây là một trong những cuốn sách hiếm hoi vừa ra mắt đã lập tức trở thành một sự kiện lịch sử văn học. Céline đã dựa vào thứ ngôn ngữ truyền khẩu và bình dân mà văn học Pháp đã không biết đến suốt ba thế kỷ, để kịch liệt tố cáo thực trạng xã hội, từ đó tạo ra một sức mạnh chưa từng có và dùng nó đế đặt một nghi vấn siêu hình về con người và thân phận làm người. Nhiều từ điển bách khoa Pháp đặt Hành trình đến tận cùng đêm tối ngang với các tác phẩm văn học kinh điển và thường dành một mục từ riêng cho tác phẩm và cho rằng tác phẩm đã "được viết với một văn phong méo mó, tràn ngập những lộng ngôn", nhưng cũng phải thừa nhận "tác phẩm đã ảnh hưởng sâu sắc đến văn học Pháp hiện đại". Năm 1995, tờ tuần báo Pháp L’Évènement du Jeudi cùng Đài Phát thanh và Trung tâm văn hóa Pompidou ở Paris đã tổ chức một cuộc trưng cầu ý kiến để chọn lấy 10 cuốn sách hay nhất trong văn học Pháp cho thế hệ năm 2000. Kết quả là, cuốn Hành trình đến tận cùng đêm tối được xếp thứ hai, sau cuốn Đi tìm thời gian đã mất của Marcel Proust, nhưng đứng trên các tác phẩm xưa nay nổi tiếng của Albert Camus, André Malraux, Marguerite Yourcenar hay Jean- Paul Sartre. Hoàng Phong​ *** Chuyện ấy đã bắt đầu như thế đấy. Tôi thì tôi chẳng bao giờ nói gì đâu. Chẳng nói gì cả. Nhưng Arthur Ganate lại gợi cho tôi nói. Arthur, một thằng bạn sinh viên, cùng khoa y với tôi. Hai đứa gặp nhau ở quảng trường Clichy. Lúc ấy đã sau bữa trưa. Cậu ta có chuyện gì đó muốn nói với tôi. Tôi nghe cậu ta. “Thôi, không ngồi ngoài này nữa, chúng mình về đi”, cậu ta bảo. Tôi về với cậu ta. Thế đấy. Rồi cậu ta bắt đầu câu chuyện. “Ngoài hiên này dành cho khách ăn trứng la-coóc. Chúng mình lại đằng kia đi!” Lúc ấy đường phố vắng tanh, chẳng có ma nào, vì trời nóng bức; xe cộ cũng không, chẳng có gì hết. Trời lạnh thì cũng chẳng ma nào ngoài phố; tôi nhớ rằng chính cậu ta nói với tôi cái ý này: “Dân Paris cứ làm ra vẻ lúc nào cũng bận bịu, nhưng thật ra họ dong chơi suốt từ sớm đến tối. Chứng cớ là khi nào thời tiết không đẹp để họ đi chơi, hoặc lạnh quá hoặc nóng quá thì có thấy họ quái đâu, tất cả còn chúi mũi vào quán cà phê hay quầy bia hơi. Là thế đấy! Họ bảo rằng thế kỷ của chúng ta là thế kỷ tốc độ! Đâu nào? Rồi lại nói đến những thay đổi lớn! Nói thế thôi, thay đổi gì nào? Thật ra chẳng thay đổi cái quái gì cả. Họ chỉ bốc nhau lên đó thôi. Mà cái chuyện bốc nhau thì cũng chẳng mới mẻ gì. Toàn chuyện ngôn từ, mà ngôn từ thì cũng có đổi mới được bao nhiêu đâu! Hai ba cái ở chỗ này, chỗ kia, toàn những đồ nhỏ nhoi, vặt vãnh”. Khoái trí vì gióng được lên những hồi chuông tưởng như là chân lý hữu ích, cả hai đứa chúng tôi ngồi lỳ ở đó, thích thú, nhìn ngó các cô hàng cà phê. Sau đó, câu chuyện quay về với tổng thống Poincaré vừa cắt băng khai mạc, đúng vào sáng hôm ấy, cuộc triển lãm chó cún; và thế rồi, chuyện tán róc rỉ rả trên tờ Thời báo (Le Temps). Arthur nói chọc tôi: “Thằng cha Thời báo quả là bậc thầy làng báo. Không thể có lấy hai tờ báo như thế để mà bênh vực cái giòng giống Pháp này!” Tôi bảo: “Rõ ràng là cần có một giòng giống Pháp, nhưng làm quái gì có!” Trả miếng hắn ta như thế để tỏ ra rằng tôi cũng là thằng nói năng có sở cứ lắm chứ. “Có đấy! Có một giòng giống Pháp, mà lại là giòng giống tốt nữa cơ - hắn nhấn mạnh - thậm chí còn là giòng giống tốt nhất thế giới cơ đấy. Chỉ tội một nỗi là rất khỏe bị cắm sừng mà lại cứ nói ngược!” Thế là hắn ta bắt đầu nổi khùng với tôi. Tất nhiên tôi phải tự trấn tĩnh và vững vàng. “Không đúng đâu. Cái mà cậu gọi là giòng giống, chỉ là một mớ táp nham những kẻ khố rách áo ôm như loại tớ thôi, toàn là một bầy chấy rận, toét mắt, run rẩy trôi giạt vào đất này, lại còn bị đủ thứ đói rét, dịch hạch bám đuổi, những kẻ thất thế khắp bốn phương trời đổ về đây. Họ không còn đi xa hơn được nữa vì biển cả đã ngăn bước chân họ lại. Đấy, nước Pháp và dân Pháp là thế đấy”. Trầm hẳn giọng xuống và đượm vẻ buồn, cậu ta bảo tôi: -     Bardamu ơi, ông cha mình đáng tự hào lắm, chớ có nói bậy! -     Cậu có lý, Arthur ạ. Cái ấy thì cậu có lý! Luôn luôn hằn học và dễ bảo, bị xâm phạm, bị đánh cắp, bị moi ruột và ngốc nghếch... Ông cha ta đáng tự hào lắm chứ! Cậu có thể nói là thế! Chúng ta có gì thay đổi nào? Giầy tất, không thay đổi; chúa tể, không thay đổi, chính kiến cũng không, hay có chăng thì cũng quá muộn mằn, chẳng còn đáng để trông đợi nữa. Chúng ta bẩm sinh đã là những kẻ trung thành, điều ấy thì rõ quá đi rồi! Lính tráng không lương, anh hùng cho tất cả mọi người, cho tất cả những con khỉ biết nói tiếng người... Những từ ngữ đã làm khổ tai nhau quá rồi. Chúng ta chỉ là những thần dân của Đức Vua Khốn khổ. Ngài chính là chúa tể của chúng ta. Chừng nào mà ta không ngoan ngoãn thì ngài siết chặt lại. Những ngón tay ngài siết chặt cổ tất cả chúng ta, nói đã chẳng ra lời, còn phải liệu, thần hồn nếu muốn ăn nuốt cho trôi... Ngài bóp hầu bóp cổ ta chẳng cần có nguyên cớ gì hết... cứ thế thì còn cóc gì là đời nữa... -     Còn chứ, còn tình yêu, Bardamu ơi! ... Mời các bạn đón đọc Hành Trình Đến Tận Cùng Đêm Tối của tác giả Louis Ferdinand Céline.
Về Trong Mưa Bão - Tô Đức Chiêu
Mỗi nhà văn đều có một miền quê suối nguồn cho tác phẩm, với ông Tô Đức Chiêu, đó là bầu trời của quân chủng phòng không và quê hương Hải Dương. Đọc sách của nhà văn Tô Đức Chiêu, như thể nghe thấy hơi thở một thời của thị xã Hải Dương và một vùng Cẩm Giàng nhỏ bé. *** Nhà văn Tô Đức Chiêu sinh năm 1942. Quê ông ở Gia Lộc - Hải Dương. Ông chuyên viết truyện ngắn, tiểu thuyết. Các tác phẩm đã xuất bản: Ngày về (1978); Chàng rể (1990); Chân pháo (1986); Về trong mưa bão (1991); Nhớ đàn chim vàng anh (1996). *** Vào những ngày sát Tết âm lịch năm ấy, tôi có dịp về thăm làng Thị. Bởi đó cũng chính là quê tôi. Tôi đạp xe từ phía Thọ Chương, qua khóm tre đầu làng Kim Trang về chùa Mận. Tôi xuống xe dắt mà không đạp nữa vì có quá nhiều người làm đồng vẫy gọi. Đang mùa cấy chiêm. Người ta tháo nước theo các máng nhỏ vào đồng. Đất ải bị bừa vỡ làm nước bạc sàu sàu xô những bãi bọt vô bờ. Những con dế trũi khoét trong vồng đất khô khốc gặp nước nổi lên, bơi chới với, làm mồi cho những con chim có thể bay đứng, phát hiện mồi, lao xuống mổ đánh tốp rồi vút lên không. Nhưng chính những con chim ấy lại làm mồi cho những chú bé đặt bẫy. Đồng đang mùa làm ăn vui say như ngày hội của làng. Bà con phấn khởi. Người người đi lại vội vàng. Anh Thùy gặp tôi ngay chỗ Lò Gạch gần nổ tát Ao Phe. Anh giữ tôi lại và bao nhiêu người tranh thủ kéo đến. Anh nói nhanh: - Chú về vui lắm. Bà con đang mong. Tôi nói: - Em có qua huyện, nhưng bí thư sang Tây Kỳ còn chủ tịch họp trên tỉnh. Chẳng hiểu tình hình hợp tác xã bây giờ thế nào? Anh Thùy khẳng định: - Tốt! Bà con phấn chấn lắm. Huyện và xã đồng ý tạm thời với phương án của nhân dân làng Thị là cứ thử để ban điều hành sản xuất làm việc hết năm nay. Ao hồ cho đấu thầu thả cá hết. Cánh đồng Mạn Điền thì xóm Cổng Và làng Cao đồng ý nhường lại cho một nửa. Còn mười mẫu đồng Mè qua thương lượng được bà con bên ấy đồng ý để lại cho làng Thị. Nếu phương án này tỏ ra ưu việt thì cấp trên sẽ xem xét ra quyết định chính thức. ... Mời các bạn đón đọc Về Trong Mưa Bão của tác giả Tô Đức Chiêu.
Trước Giờ Nổ Súng - Phan Tứ
Tiểu thuyết Trước giờ nổ súng của Phan Tứ (Lê Khâm) ra đời năm 1960, từng gây chú ý một thời. Đã có nhiều bài viết tập trung khai thác tác phẩm ở khía cạnh nội dung tư tưởng. Tuy nhiên, nếu phân tích cuốn tiểu thuyết này từ góc độ Thi pháp học, ta sẽ phát hiện được nhiều điều thú vị về bút pháp ngôn từ, nhất là trên phương diện không gian và thời gian nghệ thuật. Tác phẩm được xây dựng theo kiểu cốt truyện phiêu lưu như sử thi Odyssee và Ramayana. Đặc điểm của kiểu cốt truyện này là có rất nhiều không gian. Tuy nhiên, nhiều tiểu thuyết có cốt truyện phiêu lưu nhưng vẫn không gây hứng thú cho bạn đọc. Lý do chính là các mảng không gian mà nhân vật trải qua là quá êm đẹp, không có kịch tính, bởi vậy không thể hiện đúng bản chất của tiểu thuyết phiêu lưu. “Đặc điểm của tiểu thuyết phiêu lưu là sau mỗi biến cố, nhân vật bị ném vào một không gian mới đầy xa lạ, nhiều hiểm họa” (Trần Đình Sử) [5]. Phan Tứ đã chú trọng xây dựng loại “không – thời gian cản trở” với chức năng thử thách nhân vật. Cả không gian lẫn thời gian đều cộng hưởng nhau gây sức ép lên các hoạt động nhân vật, để từ đó sàng lọc, chỉ giữ lại những anh hùng lý tưởng theo quan điểm cách mạng. Nói tóm lại, “không – thời gian cản trở” là một đặc điểm của cốt truyện phiêu lưu, và khi sáng tác Trước giờ nổ súng, Phan Tứ ý thức rất rõ điều đó. Tác giả không chỉ xây dựng thành công xuất sắc không gian và thời gian nghệ thuật mà còn tỏ ra có tài trong nghệ thuật phân tích tâm lý nhân vật. Giọng văn linh hoạt, uyển chuyển, kết hợp nhiều giọng điệu khác nhau. Trước giờ nổ súng còn lôi cuốn bạn đọc bởi nó cung cấp một kho tàng kiến thức hết sức phong phú về Đất nước và Con người Lào. Nó xứng đáng là một trong những cuốn tiểu thuyết hay của văn học Việt Nam thời chiến tranh. *** Những nóc lô cốt chìm trong đêm, hằn trên nền trời vần vụ một đường sống dài, chen đôi chỗ gãy góc. Ngọn đèn điện treo giữa cổng chính soi ánh vàng ệch xuống một mảng thép gai và mấy thân cọc lổn nhổn chạy vào bóng tối. Cái khối bê tông, gỗ, đá, thép gai úp tròn trên đỉnh đồi này nằm lịm, chỉ hé lên đôi chấm đèn ngái ngủ. Từng lúc, bọn lính trong hầm nói mê lầu bầu, nghiến răng, nhai tóp tép. Tiếng động luồn qua các lỗ châu mai như một hơi thở ngột ngạt, cắt ngang tiếng dế rên ti tỉ từ trong lòng đất thấm ra, rồi lắng đi. Tên lính gác vẫn đứng dựa vào tường lô cốt, gãi, ngáp, xốc cổ áo mưa sột soạt. Lưng hắn bịt giữa lỗ châu mai. Lính gác không đứng trước lỗ châu mai bao giờ. Nhưng hắn là lính mới, hắn ngốc. Hai giờ gác dưới mưa dài hơn hai canh bạc thâu đêm. Hắn vặn người, vươn vai một cái rõ mạnh. Rồi hắn giật thót bụng, bật người sang bên: bàn tay hắn vừa chạm phải vật gì mềm mà tròn trên miệng lỗ châu mai. Như con rắn. Hắn lóng ngóng lên đạn, lại buông súng. Hắn đánh diêm, khum tay che mưa, soi. Không có gì. Chắc con rắn đã bò ra ngoài, hay là hắn mê ngủ cũng nên. Hắn xốc lại áo mưa, chập chờn ngủ đứng. Dưới chân hắn, cách đế giày độ một ngang tay, nền đất không phẳng nữa mà cồn lên lượn xuống thành những nét lạ. Những nét ấy từ từ chuyển, từ từ chuyển, không một tiếng động, như con trăn gió nửa đêm trường lên cây bắt khỉ. ... Mời các bạn đón đọc Trước Giờ Nổ Súng của tác giả Phan Tứ.
Trạng Quỳnh Toàn Tập - Ngô Lăng Vân
Dân Việt Nam ta là dân giỏi cười và lắm chuyện cười nhất thế giới… Đó chính cũng là một trong nhiều yếu tố khác đã làm nước ta trở thành một nước anh hùng quật khởi, không kẻ cường địch nào lấn được. Kể số chuyện cười phải chép cả kho giấy nhà giấy, chỉ riêng những cái cười để sửa sang phong hóa, để chữa bệnh rởm rác, lố bịch, và để vui sống hăng say tranh đấu với mọi hoàn cảnh ở trên các lãnh vực nhân sinh. Trong kho chuyện cười ấy, phải kể chuyện Trạng Quỳnh là một. Chuyện Trạng Quỳnh chẳng những dài nhất, hay nhất, mà đọc lên, ngoài cái thưởng thức về thú vị văn chương, chúng ta còn được vô số những cái cười rất khoái, khoái hơn cả lúc động phòng hoa chúc là cái khoái gấp cả trăm ngàn lần những lúc được làm vương làm bá. Những cái cười rất khoái ấy, đại lược là : Cười để chửi thẳng vào mặt bọn vua chẳng ra vua, quan chẳng ra quan, văn chẳng ra văn và võ chẳng ra võ. Cười để vãi tưới lên đầu bọn ăn trên ngồi chốc, mũ cao áo rộng, tác oai tác quái, mà người chẳng ra người, ngợm chẳng ra ngợm. Cười để lột trần bề trái lũ buôn thần bán thánh, gá Phật thầu Trời, ma giáo quỷ thuật, giả nhân giả nghĩa, giả đạo đức thánh hiền, cũng như bọn tu hành ẩu tả, bọn trưởng giả học sang, phường ăn càn nói ẩu, bọn tham ô nhũng lạm và hành động lố lăng… Vân vân và v.v… Nói chung là những hạng đáng đem lột trần nọc cổ ra mà đánh cho bét đít sịt ngòi, nếu không phải dùng đến gươm đao súng đạn. Bởi các cớ ấy, và bởi chuyện Trạng Quỳnh tuy cũ mà tinh thần vẫn còn như mới ở trước cảnh huống của xã hội bây giờ, nên chúng tôi tổng hợp các chuyện do đồng bào đã kể và tham khảo những tài liệu đã viết để soạn ra quyển TRẠNG QUỲNH TOÀN TẬP này. Mục đích của chúng tôi không ngoài việc nhằm làm sống lại những cái cười đời trước để dọi lại đời nay. Còn việc chuyện tích có thật hay không, xin nhường để quý bạn đọc suy ngẫm… cũng như suy ngẫm để… Định Tường đầu Thu Nhâm-Tý 1972 NGÔ LĂNG VÂN *** Trạng Quỳnh dân gian là Nguyễn Quỳnh, sống dưới thời vua Lê, chúa Trịnh, quê ở làng Bột Thượng nay là xã Hoằng Lộc, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Nguyễn Quỳnh (1677–1748 có tài liệu chép 1720–1770) là một danh sĩ thời Lê–Trịnh (vua Lê Hiển Tông), từng đỗ Hương cống nên còn gọi là Cống Quỳnh. Ông nổi tiếng với sự trào lộng, hài hước tạo nên nhiều giai thoại nên trong dân gian vẫn thường gọi ông là Trạng Quỳnh dù ông không đỗ Trạng nguyên. Ông còn có tên Thưởng, hiệu Ôn Như, thụy Điệp Hiên, quê tại làng Bột Thượng, xã Hoằng Lộc, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Thân sinh ông là ông Nguyễn Bổng và bà Nguyễn Thị Hương. Thuở nhỏ, ông học với ông nội và cha (vốn là giám sinh ở Quốc Tử Giám). Năm 1696, Quỳnh thi đỗ Giải nguyên, nhưng đi thi Hội nhiều lần bị hỏng. Về sau, triều đình bổ nhậm ông làm giáo thụ các huyện Thạch Thất, Phúc Lộc (Sơn Tây), tiếp đến làm huấn đạo phủ Phụng Thiên ở kinh thành Thăng Long. Năm 1718, đỗ khoa Sỹ vọng được bổ làm tri phủ Thái Bình, rồi về làm Viên ngoại lang ở Bộ Lễ; sau bị giáng xuống chức Tu soạn ở Viện Hàn lâm. Tuy không đỗ cao, Quỳnh vẫn nổi tiếng là người học hành xuất sắc. Đương thời đã có câu: “Nguyễn Quỳnh, Nguyễn Nham, thiên hạ vô tam” (nghĩa là thiên hạ không có người thứ ba giỏi như hai ông). Sách “Nam Thiên lịch đại tư lược sử” đã nhận xét về ông: “… Nguyễn Quỳnh văn chương nổi tiếng ở đời, nói năng kinh người, thạo quốc âm, giỏi hài hước…”. Tác phẩm còn lại của Nguyễn Quỳnh, gồm một số bài ký, văn tế mẹ, văn khóc em (vốn tài hoa, nhưng chết yểu ở tuổi 14) và hai bài phú chép trong tập: “Lịch triều danh phú”. Lịch triều danh phú là tuyển tập của các danh sĩ thời bấy giờ, tất cả đều đỗ đại khoa, chỉ có hai người đỗ Hương cống là Nguyễn Quỳnh và Đặng Trần Côn. Tương truyền Trạng Quỳnh là bạn thơ của nữ sĩ Đoàn Thị Điểm. Do tính cách trào phúng nên dân gian thường đồng hóa ông vào nhân vật Trạng Quỳnh – một ông Trạng dân gian nổi tiếng với tính trào lộng. Để tôn vinh ông, nhà nước Việt Nam đã cho xây dựng nhà lưu niệm Trạng Quỳnh tại quê hương ông. Mời các bạn đón đọc Trạng Quỳnh Toàn Tập của tác giả Ngô Lăng Vân.