Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Lời Hồi Đáp 1994 - Lee Woo Jung & Oh Seung Hee

Lời hồi đáp 1994 là cuốn sách đặc biệt dành tặng những người đã từng phải rời gia đình đến một nơi xa, tự mình bắt đầu một hành trình mới.   Nằm trong series Reply nổi tiếng Hàn Quốc cùng với Lời hồi đáp 1997, tiểu thuyết Lời hồi đáp 1994 do chính biên kịch Lee Woo Jung và Oh Seung Hee chấp bút tiếp tục được bạn đọc đón nhận nhiệt tình. Trọng tâm cuốn sách xoay quanh cuộc sống của một nhóm sinh viên lên thành phố học đại học. Duyên số đã đưa tất cả về ở cùng một nhà trọ. Lần đầu tiên rời quê hương mình đã gắn bó từ khi sinh ra đến một nơi hoàn toàn mới, là cả một hành trình hòa nhập đầy khó khăn và thử thách của những cô cậu tỉnh lẻ này.  Việc phải đi học hay đi làm xa gia đình là câu chuyện của nhiều người trẻ hiện nay. Lời hồi đáp 1994 chính là món quà đặc biệt dành tặng những con người dùng cả thanh xuân của mình để xây dựng một tương lai mới tốt đẹp hơn. Hành trang họ mang theo không chỉ có đam mê, tuổi trẻ và nhiệt huyết mà còn có hi vọng và niềm tin của người thân ở quê nhà. Dù nhiều chông gai và vất vả thì những ngày tháng đó luôn là thời gian tươi đẹp và đầy sức sống nhất. Đi qua rồi nhìn lại, ta đều sẽ bất giác mỉm cười: ai cũng từng có một thời tuổi trẻ như thế! *** Tháng Chín năm 2013, phường Sangam, quận Mapo, thành phố Seoul.   Phố lên đèn. Bóng tối lẩn khuất giữa những ánh sáng rực rỡ phát ra từ các cửa hàng cùng những biển hiệu quảng cáo liên tục nhấp nháy. Những tòa nhà sáng rực, những cây cầu vượt đông nghịt xe hơi, đoàn người liên tục di chuyển trên đường phố. Bóng tối như thể bị đè sâu xuống mặt đất, để những cái phao người và xe nổi lềnh bềnh bên trên. Có lẽ phải lấy giấy vẽ đè xuống, rồi dùng bút chì tô thật mạnh lên trên, thì những mảng hình khối loang lổ của thành phố mới dần dần hiện hình.   Bức phác họa ấy chính là đêm Seoul. Ở một nơi nào đó, một ngày mới đang bắt đầu, một tình yêu đang nảy nở, một thời khắc huy hoàng đang được mong chờ. Chẳng biết từ lúc nào trong quãng thời gian mười chín năm sống ở Seoul, Na Jung không còn cảm thấy bất kỳ điều gì lạ lẫm, mới mẻ ở nơi đây nữa. Từ nãy đến giờ, Na Jung bày đầy ra nhà những thùng các tông to tướng, mải miết tìm kiếm cái gì đó. Bên ngoài cửa sổ, cuộc sống thành phố quen thuộc vẫn đang trôi đi.   “Cậu tìm cái gì thế?”   Yoon Jin vừa hỏi vừa quệt ngón tay lên giá sách. Có đúng là nhà mới chuyển đến không đấy? Ôi mẹ ơi, không có lấy một tí bụi nào. Sung Na Jung vẫn y như ngày nào, sạch sẽ gọn gàng đến phát sợ. Yoon Jin ngắm một lượt giá sách, le lưỡi ngạc nhiên.   “Ôi, cậu vẫn còn giữ cái này cơ à?”   Thứ mà Yoon Jin vừa lôi từ cuối giá sách ra là cuốn album của đội bóng rổ trường Đại học Yonsei. Yoon Jin không giấu nổi nụ cười mừng rỡ. Trời đất ơi! Phải ngắm các cầu thủ một tí mới được. Trẻ quá, trẻ quá đi thôi, đẹp hơn cả hoa!   “Xem cẩn thận đừng có để dính nước miếng vào. Đồ quý hiếm nhà mình đấy.”   Đang nói dở, Na Jung lục tung cái thùng giấy, bàn tay chợt dừng sững lại.   “Tìm thấy rồi!”   Na Jung hét lên phấn khích khiến Yoon Jin phải quay lại nhìn. Đấy là cái gì? Na Jung lôi từ trong hộp ra một cuộn băng VHS. Có tiếng mở cửa. Sook Sook nói vọng vào, “Em ra ngoài một tí”, rồi đi thẳng ra cửa.   “Úi chà chà. Sook Sook lớn quá rồi nhỉ. Mới ngày nào sự xuất hiện của thằng bé còn làm cả nhà một phen bất ngờ. Nó học có giỏi không?”   Yoon Jin đưa mắt nhìn theo cậu bé mặc đồng phục.   “Không, học dốt lắm. Càng lớn càng khó bảo, lại còn bắt đầu mọc râu, kinh chết đi được.”   Na Jung trả lời ngắn gọn, vừa lắc đầu vừa đi đến ngồi trước chiếc ti vi treo trên tường.   “Ôỉ, lâu lắm mới thấy cuộn phim băng đen như thế này đấy. Nhưng video gì thế? Đừng nói là cuộn băng hôm cưới cậu đấy nhé?”   Na Jung ra điệu bộ dễ thương gật đầu cười.   “Gớm quá. Cậu vẫn còn là cô dâu mới cưới đấy à? Bây giờ mà vẫn còn xem cái đấy à?”   “Đâu mà. Mình cứ tưởng làm mất rồi. Hôm trước dọn nhà tự nhiên tìm thấy. Hồi đấy xấu hổ có dám xem đâu. Hôm nay mới bật lên lần đầu tiên đây.”   Na Jung cho cuộn băng vào đầu máy video. Tìm thấy cuộn băng đã bị quên lãng từ lâu giữa cuộc sống bận rộn hối hả khiến cô thực sự vui mừng như thể gặp lại người bạn cũ.   “Nhất định phải xem đúng hôm về nhà mới thế này à?”   “Thì làm sao. Mọi người cùng xem lại mình ngày xưa cũng vui mà.”   “Chắc trông cậu phải kinh nhất luôn đấy.”   Na Jung đang định bấm nút play chợt dừng lại, quay lưng nhìn Yoon Jin. Kiểu trang điểm cô dâu môi đỏ chót quê một cục, nụ cười gượng gạo cứng đờ, đôi môi run rẩy vì căng thẳng trước máy quay. Yoon Jin không thể nào quên được cô dâu Na Jung ngày ấy.   “Sung Na Jung hồi đấy mặc váy cưới kiểu Park Ju Mi, lại còn đội cả vương miện nữa cơ mà.”   “Hay thôi không xem nữa?”   Na Jung và Yoon Jin nhìn nhau, cả hai đều có chung một suy nghĩ. Bỗng điện thoại của Na Jung rung lên. Yoon Jin ngắm nhìn Na Jung giải thích trôi chảy qua điện thoại, giờ này thì đường nào tắc, đường nào đi nhanh. Giọng địa phương vùng Gyeongsangdo cũng hoàn toàn biến mất, thay vào đó là tiếng thành phố chuẩn mực, thành thạo. Đến cả đoạn dặn mua café, nhớ bỏ hạnh nhân ra khỏi sữa chua blueberry, rồi cho thêm hai thìa espresso, tiếng Anh như gió, nghe cũng thật là “Seoul”.   “Na Jung nhà mình thành người thành phố xịn rồi. Hơi bị ghen tị đấy nhé. Đường nào cũng biết, tên café cũng thuộc vanh vách, gọi không cần phải nghĩ. Thế này thì ai mà biết được đây lại là gái quê Masan cơ chứ.”   Na Jung đặt điện thoại xuống, thở một hơi dài thườn thượt.   “Bạn à. Năm nay là năm thứ mười chín mình sống ở Seoul rồi đấy. Một nửa cuộc đời sống ở thành phố, như thế chưa đủ để gọi là người thành phố hả?”   Nói đoạn, Na Jung cố tình chuyển sang giọng nhà quê.   “Cũng phải. So với hồi đó thì bây giờ hoàn toàn là người Seoul rồi.”   Yoon Jin hất cằm chỉ về hướng ti vi. Cuộn băng lễ cưới Na Jung do Yoon Jin quay bắt đầu chạy.   ***   Thứ Bảy ngày 22 tháng Sáu năm 2002. Chiếc máy quay đang rung lắc loạn xạ trong tay Yoon Jin dần dần được giữ ổn định lại, hình ảnh cô dâu Na Jung hiện ra. Trước khuôn mặt không thể giấu nổi vẻ đờ đẫn sau một đêm hồi hộp đến mất ngủ của cô dâu, giọng địa phương vùng Jeonlado nặng trình trịch của Yoon Jin vang lên.   “Na Jung à, cơ hội cuối cùng rồi đấy. Bỏ trốn đi. Chỉ cần bước ra ngoài cánh cửa này thôi là thế giới tự do sẽ lại về với cậu. ”   “Bây giờ là lúc nói như thế với cô dâu đấy à. Cậu định lấy chồng đẻ con sống hạnh phúc để một mình mình thành bà già cô đơn hả?”   “Cậu mà lấy chồng bây giờ là không đi Jeonju gặp anh Lee Sang Min được đâu.”   Từ trong phòng chờ của cô dâu, Na Jung nở nụ cười gượng gạo hướng ra ngoài chào khách, rồi nghiến chặt răng gầm ghè.   “Mình đã xin phép chú rể rồi. Chú rể bảo trận đấu vào ngày nghỉ sẽ cho mình đi xem.”   “Trước khi cưới thì nói thế nào chả được. Thế mà cậu cũng tin à?”   “Ờ. Tin. Cậu không tin thì đi mà hỏi chú rể đứng đằng sau cậu kia kìa.”   Từ lúc nào Na Jung đã chuyển ánh nhìn ra phía sau vai Yoon Jin. Gương mặt cô không giấu nổi sự rạng rỡ xen lẫn ngại ngùng. Chú rể dường như cũng cảm nhận được tình cảm của cô dâu dành cho mình. Nụ cười bẽn lẽn khiến Na Jung trở nên xinh đẹp hơn bất cứ lúc nào. Mặc dù toàn nói đùa từ nãy đến giờ, nhưng Yoon Jin hiểu ngay chính giây phút này, Na Jung đang hạnh phúc đến nhường nào.   Lễ cưới của Na Jung. Dù đã mười năm trôi qua nhưng trong trí nhớ của Yoon Jin, hình ảnh ngày hôm ấy vẫn rực rỡ, ấm áp. Ký ức về những ngày đầu họ gặp nhau cũng dần dần hiển hiện rõ ràng. Từng hình ảnh, từng kỷ niệm về những ngày thanh xuân gan góc, vui vẻ, và ngờ nghệch tràn lên sống động như câu chuyện của ngày hôm qua. Lâu lắm rồi Yoon Jin mới ngồi hồi tưởng lại chuyện ngày xưa như thế này. Quãng thời gian của tình yêu trong sáng và những tổn thương vụng về. Quãng thời gian khó khăn và hạnh phúc mà ai cũng phải trải qua trong đời.   Năm 1994. Khi đó, chúng tôi mới hai mươi tuổi.   Mời các bạn đón đọc Lời Hồi Đáp 1994 của tác giả Lee Woo Jung & Oh Seung Hee.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Ngang Qua Thị Trấn Ngàn Mây
“Trong lòng đa số người, quê hương sau này sẽ trở thành một chấm màu đen, như hòn đảo lẻ loi ngàn đời không thay đổi.” Lưu Thập Tam sinh ra và lớn lên ở thị trấn Ngàn Mây – nơi có một tiệm tạp hóa với đống hàng hóa chồng chất theo năm tháng và những con người đã để lại vô vàn dấu ấn không sao xóa nhòa trong ký ức cậu. Cả một tuổi thơ sôi nổi và êm đềm, cậu đều trải qua bên bà ngoại ở nơi đây. Con người ta chỉ biết trân trọng những thứ mìnhy có khi nó dần tan biến. Rời khỏi thị trấn, bước chân trên con đường “trưởng thành”, Lưu Thập Tam mới dần thấu hiểu: những hồi ức đẹp đẽ nơi trấn nhỏ chính là một thứ vô cùng quý giá – là mái ấm, là góc nhỏ bình yên trong lòng cậu, để mỗi lần đối mặt với gian nan, mệt mỏi, thất bại và tuyệt vọng đến sức cùng lực kiệt, Lưu Thập Tam biết, vẫn luôn có một nơi gọi là “quê hương” che chở cho cậu khi trở về. Đây là một câu chuyện dành tặng cho những bi thương, vất vả, những giọt nước mắt tủi vô thức nơi khóe mắt mỗi chúng ta khi bước trên đường đời, cũng chính là những hy vọng và tia sáng không bao giờ tắt dẫn lối cho ta tiến về phía “trưởng thành”. *** NÚI RỪNG, GỐC ĐÀO, VƯƠNG OANH OANH “Bà ơi, sao trời cao thế?” Bà đáp: “Con có thấy mây không? Đó là cánh của trời đấy.” Đầu hè, dưới mái hiên, Lưu Thập Tam cắn hết vốc hạt dưa, bảo bà ngoại: “Con cảm thấy có người đang nhớ bà cháu mình.” Bà đáp: “Nhớ có ích gì, sao không cho tiền ấy.” Cát cánh nở đầy thị trấn, bồ công anh bay vượt qua tán lựu, dạt vào ruộng lúa dưới chân núi. Trong lòng đa số người, quê hương sau này sẽ trở thành một chấm đen, như hòn đảo lẻ loi ngàn đời không thay đổi. Bà ngoại nói, tổ tiên đời đời chôn cất ở đây, nên gọi là quê hương. Thị trấn nhỏ trong núi, tựa như đội đất chui lên. Từ khi đỗ đại học rồi rời quê, ngoài những dịp lễ Tết ra, Lưu Thập Tam chẳng bao giờ trở lại. Bà ngoại tên đầy đủ là Vương Oanh Oanh, mở quán tạp hóa tại nhà đã mấy chục năm. Bà mặc áo ngắn tay hoa nhí, mái tóc bạc phơ vấn thành búi, cánh tay giấu trong bao tay áo, tất bật chạy qua chạy lại. Trời ấm dần lên, bia bán chạy như tôm tươi, bà chồng từng két bia lên rồi hổn hển lau mồ hôi, “Mày có phụ một tay không, không làm bà giết.” Lưu Thập Tam rầu rĩ đáp: “Con không ở mãi xó rừng rú này được đâu.” Bà hỏi: “Bán bảo hiểm thế nào rồi, có kiếm được không?” Lưu Thập Tam thở dài, “Tiền không quan trọng, con đang khởi nghiệp mà.” Trong sân trồng một cây đào, bà đứng dưới gốc cây, cầm chổi quét sân, liếc xéo cậu: “Hay thế này, bà bán quách nhà đi, cho mày tiền khởi nghiệp nhé?” Lưu Thập Tam ôm chầm lấy bà, “Con yêu bà nhất.” Bà đá cậu ra, “Thôi thôi, tránh ra đi.” Lưu Thập Tam hỏi: “Trưa nay ăn gì ạ?” Bà châm điếu thuốc, đáp: “Ai rỗi hơi lo cơm cho mày, đi kiếm tiền đi.” Tháng Sáu, ve đã râm ran từ lâu, kêu ra rả không dứt, khi gần khi xa, ong ong như cơn ù tai khi vừa thức dậy. Bà ngoại thò đầu vào cửa giục: “Kiếm nhiều tiền vào, tối nay bà mời cơm, uống hai chén.” Hai chén rượu với Vương Oanh Oanh chẳng thấm vào đâu. Tối qua bà ít nhất phải uống đến hai chục chén, ngà ngà mắng cậu: “Thất tình có gì mà buồn, yêu đứa khác đi!” Lưu Thập Tam chống chế: “Nhưng con chưa quên được cô ấy.” Bà ngoại xót xa ôm lấy cậu, dịu dàng dỗ: “Mày xấu nên người ta bỏ là phải. Người ta xinh nên mày không quên được là đúng. Muốn khóc thì cứ khóc đi, bà thương mày, bà xui xẻo.” Lưu Thập Tam khẽ cựa mình, phát hiện bà ôm rất chặt, bèn quờ lấy bình rượu tu cạn rồi thiếp đi trong lòng bà. Chắc bà chẳng nhớ chuyện tối qua, nên vẫn hăng hái như thường. Lưu Thập Tam bị đá ra cửa, ngoái lại trông thấy nửa thân đào cao vượt khỏi tường vây, bảng hiệu cũ kỹ của quán tạp hóa treo lủng lẳng trên cửa, có mây trắng núi xanh xa xa làm nền. Lưu Thập Tam thật sự bó tay hết cách. Mấy hôm trước, cậu còn đang nai lưng đi làm ở thành phố, cuối cùng vừa thất tình vừa thất nghiệp, đau lòng khôn tả. Vương Oanh Oanh xách hai chai rượu gạo đến chỗ cậu ở, chuốc cho cậu say mèm rồi lôi về. Bà cụ bảy mươi tuổi lái máy kéo cả đi cả về hai trăm cây số, trói thằng cháu ngoại say bí tỉ trong thùng xe. Bà than thở: “Đường xóc quá, thằng ngốc này thì nôn liên tục như đứa thiểu năng. Hơi một tí lại phải xuống xe lau cho nó. Khổ quá đi mất.” Lưu Thập Tam tỉnh lại, trợn tròn mắt nhận ra mình đang nằm trong căn nhà nhỏ giữa núi. Khó khăn lắm mới rời khỏi quê, quyết tâm làm nên sự nghiệp, nào ngờ lại bị Vương Oanh Oanh lái máy kéo tới, lôi về thị trấn Ngàn Mây. Ngôi nhà này lưu giữ tuổi thơ của Lưu Thập Tam. Mỗi khi tan học, cậu lại lẽo đẽo bám lấy bà ngoại hỏi đủ thứ chuyện. Thằng bé hỏi: “Bà ơi, sao trời cao thế?” Bà đáp: “Con có thấy mây không? Đó là cánh của trời đấy.” Chẳng biết từ lúc nào, rất nhiều chuyện đã rất nhiều năm. Từ nhỏ đến lớn đều là bà đóng học phí cho cậu, mà thu nhập của bà chủ yếu bắt nguồn từ quán tạp hóa Oanh Oanh. Từ khi cậu hiểu chuyện, bà đã ngậm điếu thuốc, lái máy kéo rong ruổi khắp núi rừng, hàng hóa chất thành đống trong thùng xe. Thuở bé, Lưu Thập Tam giận bà vì vô số việc, nhưng chủ yếu là ba chuyện: Một, cho ít tiền tiêu vặt. Hai, chơi mạt chược quá nhiều. Ba, không tôn trọng mơ ước của cậu. Mỗi lần cậu nói: “Bà chơi ít thôi, dành tiền cho con này, để con thực hiện ước mơ.”, bà ngoại lại nghi ngờ hỏi: “Mày mới học lớp Bốn, mơ mộng cái gì?” Lưu Thập Tam đáp: “Đỗ vào Thanh Hoa, Bắc Đại, rời khỏi Vương Oanh Oanh, đến thành phố lớn.” Nghe vậy bà liền vơ dao đuổi cậu chạy khắp phố. Lưu Thập Tam trèo tót lên cây, nghiêm trang nói vọng xuống: “Bà ngoại, con nói cho bà biết, bà phải tôn trọng mơ ước của con.” Bà đáp: “Không thích ở với bà, định học theo mẹ mày, lẳng lặng bỏ đi đấy phải không?” Lưu Thập Tam đáp: “Con không học theo mẹ, con gửi tiền cho bà, tám vạn mười vạn đều vô tư!” Bà bổ dao vào gốc cây, “Bà đợi thế nào được đến lúc ấy, mày cứ đưa tiền mừng tuổi năm ngoái ra đây đã.” Lưu Thập Tam ngớ người rồi òa khóc thảm thiết, “Xấu hổ lắm! Con không học tiểu học nữa đâu! Con thi luôn vào Thanh Hoa, Bắc Đại, lấy vợ sinh con thôi!” Mười bốn năm trước, bà ngoại nhận được một bức thư. Bà không biết chữ, nhưng cũng không đưa cho Lưu Thập Tam đọc mà cất vào hộp bánh quy thiếc cùng mấy món trang sức. Bấy giờ Lưu Thập Tam tò mò lục ra xem rồi lén lút viết một bức thư trả lời, gửi theo địa chỉ ghi trên đó. Cậu viết rất đơn giản: Xin chào, con tên Lưu Thập Tam, cháu ngoại bà Vương Oanh Oanh, hai bà cháu sống rất chật vật, gửi cho ít tiền đi. Từ đó, cậu còn háo hức chờ hồi âm hơn cả bà. Giữa con phố chính của thị trấn là cửa hàng mậu dịch cũ, về sau sửa thành nhà thờ. Trước cửa hàng có một hòm thư, đối diện quán bánh bao. Lưu Thập Tam đeo túi chéo, hỏi bác Trần bưu tá: “Có thư của cháu không? Có thì nhớ đưa cho cháu, đừng đưa cho bà Vương Oanh Oanh.” Bác hỏi lại: “Sao vậy?” “Bác già rồi hỏi nhiều thế làm gì, cháu chia hoa hồng cho bác nhé?” Lưu Thập Tam đợi suốt cả học kỳ, đến Tết, nhân lúc bà ngoại uống say, cậu mới dám dò hỏi người kia rốt cuộc là ai, liệu có gửi tiền không? Đột nhiên bà ngoại bật khóc nức nở, khiến Lưu Thập Tam phát hoảng, cuống quýt lau nước mắt cho bà, “Bà ngoại, bà đừng khóc nữa, đợi con lớn lên ra thành phố sẽ gửi tiền cho bà.” Sau khi bác Trần qua đời, chẳng có bưu tá mới đến, hộp thư cũng biến mất, mọi người hiếm khi viết bằng bút máy. Bất kể ai trải giấy ra, viết ba chữ “anh yêu em”, đều có thể trở thành bức thư tình cuối cùng của thế kỷ 21. Lưu Thập Tam cũng viết một bức, kẹp vào sách Ngữ văn của cô bạn Trình Sương ở lớp học thêm hè năm lớp Bốn, vỏn vẹn mấy chữ: Tớ thấy cậu xinh hơn cả cô La, ăn ô mai không? Cô La là chủ nhiệm lớp, đồng thời cũng là dì của Trình Sương, mới ngoài hai mươi, tuổi xuân phơi phới. Hôm sau lên lớp, cô xách tai Lưu Thập Tam lôi vào phòng giáo viên, dịu dàng hỏi: “Em thấy cô có xinh không?” Lưu Thập Tam quả quyết: “Xấu như ma cấu.” Cả phòng giáo viên cười ồ lên, cô Vu dạy Toán ghé sang hỏi: “Còn cô thì sao?” Lưu Thập Tam phân vân giây lát rồi đáp: “Chắc cô La định đánh em đấy, cô cứu em với.” Cô Vu nói: “Cô ấy đánh là dĩ nhiên, giờ chỉ xem cô có đánh em không thôi.” Lưu Thập Tam trả lời: “Cô trẻ hơn cô ấy nên xấu vừa vừa thôi.” Cô Vu ra lệnh: “Ra hành lang, đứng dựa vào tường đến khi tan học.” Lưu Thập Tam hỏi lại: “Cô không hỏi em thấy hiệu trưởng thế nào à?” Mọi người trong phòng giáo viên vội ngừng công việc, bao nhiêu con mắt như đèn pha đổ dồn vào cậu. Cậu bĩu môi, “Thầy ấy chẳng ra sao, học thêm hè mà huy động từng này người thì khác gì học chính?” Kết quả cậu bị đưa từ phòng giáo viên sang phòng hiệu trưởng. Hiệu trưởng rót một chén trà, Lưu Thập Tam vội bưng ngay lên uống, khiến thầy ngạc nhiên ra mặt, “Thầy rót cho thầy cơ mà.” Lưu Thập Tam thổi lá trà, nhấp một ngụm rồi tặc lưỡi, “Đắng ngắt, có tiền người ta đã uống nước quýt cho ngọt rồi.” Hiệu trưởng gõ xuống bàn, “Thập Tam viết thư tình dở ẹc.” Lưu Thập Tam khinh khỉnh liếc thầy, “Em đọc hết sách trong thư viện trường rồi, thầy dựa vào cái gì mà nghi ngờ năng khiếu văn học của em?” Hiệu trưởng mỉm cười đưa cho cậu một quyển sách cũ nát, trang bìa lốm đốm mấy vết cháy sém, viết bốn chữ Khải: Nhân gian từ thoại*. Lưu Thập Tam lật qua lật lại, đầu ong lên, đã văn ngôn* lại còn đọc theo hàng dọc. Hiệu trưởng nói: “Mấy hôm nữa tôi sẽ kiểm tra em.” Trong đầu Thập Tam nhảy số thật nhanh, đáp ngay: “Năm 1997, Hồng Kông trở về với Đại lục.” Hiệu trưởng hỏi: “Em nhắc tới chuyện này làm gì?” Lưu Thập Tam nghiêm trang dõng dạc: “Hồng Kông được trả về, thế giới đại đồng, tàn dư phong kiến nhà thầy còn đọc chữ phồn thể, định phản động à?” Hiệu trưởng lẳng lặng đặt chén trà xuống, để cuốn sách vào lòng Lưu Thập Tam, xoa đầu cậu rồi nghiêm nghị nói: “Em đọc đi, đọc kỹ vào, thằng oắt con, đọc không hiểu thì liệu hồn đấy, cút ra.” Mời bạn đón đọc Ngang Qua Thị Trấn Ngàn Mây của tác giả Trương Gia Giai & Tố Hinh (dịch).
Sau Màn Sương Lạnh - Trần Hữu Tòng
Sau Màn Sương Lạnh là tiểu thuyết phản gián viết về giai đoạn quân và dân ta ở vùng biên giới phía Bắc chống lại âm mưu, thủ đoạn thâm độc của người "bạn" lớn. *** Trần Hữu Tòng sinh năm 1938 ở huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh. Tháng 4/1954, ông nhập ngũ khi mới vừa tròn 16 tuổi và là một trong những người đầu tiên xẻ núi, mở rừng xây dựng Đồn biên phòng Cầu Treo. Dẫu sau này, ông có hơn 15 năm làm phóng viên Báo Công an nhân dân vũ trang, 20 năm là phóng viên báo Quân đội nhân dân, 5 năm đảm nhận chức vụ Cục trưởng Cục Văn hóa Thông tin cơ sở - Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch, được đi đến nhiều miền đất của Tổ quốc, thì cái tên Nước Sốt - Cầu Treo vẫn là một vùng ký ức sâu đậm trong cuộc đời. Cũng chính vì xuất thân từ một người lính biên phòng, tác phẩm đầu tiên cũng được ra đời nơi biên viễn, thế nên chủ đề về biên giới và hình tượng người lính biên phòng cứ bền bỉ gắn với những trang viết của Trần Hữu Tòng trong suốt khoảng thời gian dài bằng cả đời người. Đến nay, nhà văn Trần Hữu Tòng đã xuất bản gần 30 tác phẩm gồm tiểu thuyết, truyện vừa, truyện ngắn mà không có tác phẩm nào vắng bóng người chiến sĩ biên phòng. Với hàng chục tác phẩm về đề tài biên giới và người chiến sĩ biên phòng như: "Ngôi sao biên cương", "Dấu vết để lại", "Tín hiệu bình yên", "Bên dòng Păng Pơi", "Cơn lốc rừng thông", "Bầy cọp núi", "Cánh rừng và hai vầng trăng", "Bếp lửa đêm rừng", "Phiên gác trăng tà", “Sau màn sương lạnh”, “Bóng núi” cùng nhiều giải thưởng văn học có giá trị trong hành trình sáng tác của mình, có thể nói rằng với nhà văn Trần Hữu Tòng ký ức của một thời trai trẻ, về những miền đất xa xôi nơi biên ải, nơi những người lính trẻ như ông thuở nào đang làm nhiệm vụ canh giữ biên cương cho Tổ quốc, chắc hẳn vẫn luôn tươi mới và là nguồn cảm hứng dồi dào cho ngòi bút của ông.   Mời các bạn đón đọc Sau Màn Sương Lạnh của tác giả Trần Hữu Tòng.
Giải Khăn Sô Cho Huế - Nhã Ca
TỰA NHỎ : VIẾT ĐỂ CHỊU TỘI Tôi được sinh ra ở Huế, lớn lên với Huế, nhưng khi trưởng thành, đã rời gia đình, bỏ thành phố và ra đi biền biệt. Hồi trước Tết Mậu thân, hôm 23 tháng chạp năm mùi, đang cùng chồng con cúng ông táo, tôi bỗng nhận được điện tín từ Huế : về ngay, ba hấp hối. Với một gói hành lý vội vàng, đứa con hư hỏng của gia đình và thành phố là tôi, đã trở lại Huế để chụi tang người cha thân yêu. Và rồi như bao người khác, đã phải chịu luôn cái tang lớn cho cả thành phố, khi biến cố tết Mậu Thân bùng nổ. Sau cả tháng dài lạn lọn trong địa ngục Huế, khi sống sót trở về Sàigòn, tôi đã thao thức mãi về việc phải thất một giải khăn sô cho Huế, phải viết một hồi ký về những ngày giờ hấp hối của Huế. Nhưng thời sự những ngày sau biến cố Tế Mậu Thân ồn ào quá, bên cạnh cơn khóc than vật vã của Huế, người ta còn bận bịu với việc khai thác những chi tiết ly kỳ của chiến cuộc, những thành tích chiến thắng trên tro tàn, thật chưa phải là lúc viết ra những sót sa, tủi nhục, tuy tầm thường nhất, nhưng cũng lại là sâu sác nhất của một thành phố hấp hói. Chính vì vậy mà sau khi phác họa một vài nét đại cương trên nhật báo Sông hồi ấy, mặc dù được tòa soạn yêu cầu tiếp tục và sau đó được nhiều nhà xuất bản thúc dục, tôi cũng đã cố gắng ngưng lại. Phải ngưng lại, để nếu không nghiền ngẫm được kỹ hơn, thì ít ra cũng tách rời được khỏi những hậu ý xô bồ của thời cuộc, để chờ đợi một giây phút yên lặng hơn, trầm tĩnh hơn, khi viết về Huế. Cái thời gian chờ đợi ấy, đến nay, đã gần hai năm qua, Hai năm, hài cốt cả chục ngàn dân Huế bị tàn sát, vùi nông ở bờ bụi, vứt bỏ xuống đáy sông đáy suối, đã được thu nhặt dần. Những nấm mồ tập thể đã tạm thời xanh cỏ. Những nền nhà đổ nát đã tạm thời dựng lại. Cơn khóc than vật vã của Huế, những tiếng nói xô bồ về Huế, như vậy, cũng đã bớt ồn ào. Đây, chính là lúc chúng ta có thể cùng nhau chít lại giải khăn sô, đốt lại nén hương nhỏ trong đêm tối mênh mông của chiến tranh và tang tóc, để hồi tưởng về Huế. Có nhiều loạt súng đạn, nhiều loại tang tóc, đã nổ và đã tàn phá Huế. Công trình ấy không biết từ đâu, nhưng dù do đâu đi nữa, thì cái tội ác tàn phá một thành phố lịch sử là Huế, chính thế hệ chúng ta, thời đại chúng ta, phải chụi trách nhiệm. Chính trong thế hệ chúng ta đây, đã có Đoan, một cô bạn học cùng lớp với tôi ngày nào, đang ngồi trên ghế đại học ở Sàigòn, bỗng về Huế, đeo băng đỏ nơi tay, dát súng lục bên hong, hâng hái đi lùng người này, bắc người khác, để trở thành một nữ hung thần trên cơn hấp hối của Huế. Chính trong thế hệ chúng ta đây, đã có Đắc một sinh viên trẻ trung, hăng hái. Thời trước Đắc làm thơ, Đắc tranh đấu, rồi bỏ ra khu. Để rồi trở lại Huế lập những phiên tòa nhân dân, kêu án tử hình hàng loặt người, rồi đích tay đào một cái hố, bắt một bạn học cũ có xích mích từ trước ra đứng bên hố, để xử tử. Cậu bạn của Đắc, tên Mậu tý, dơ cái băng đỏ dấu hiệu giải phóng quân lên cao, lạy van Đắc : - Em lạy anh. Bây giờ em theo các anh rồi mà. Em có mang băng đỏ rồi mà. Cách mạng muôn năm... Hồ chủ tịch muôn năm. Nhưng mặc Mậu Tý năn nỉ, hoan hô, Đắc vẫn nhất định nổ súng vào người bạn nhỏ. Chính trong thế hệ chúng ta đây, đã có từng đoàn người, hàng trăm người, cha có, sư có, già có, con trẻ có, mỗi người cầm một lá cờ trắng để ra dấu đầu hàng bất cứ phe nào, đi thất thểu trong một thành phố đầy lửa cháy. Cứ như thế chạy ngược chạy xuôi, cho đến khi gục ngã gần hết. Cũng chính trong thời đại chúng ta, ngày thứ hai mươi mấy trong cơn hấp hối của Huế, đã có một con chó nhỏ kẹt giữa hai lằn đạn, chạy ra sủa bâng quơ ở bên bờ sông Bến Ngự. Con chó thành mục tiêu đùa rỡn cho những mũi súng hờm rẵn từ bên kia sông. Họ bắn cho con vật khốn khổ sợ hãi rơi xuống sông. Rồi lại bắn vào những bờ sông mà con chó nhỏ đang lóp ngóp bơi vào. Những phát súng đùa cợt không có tình bắn chết con chó nhỏ, mà chỉ có trêu chọc cho con chó chới với giữa giòng nước, để có chuyện đùa chơi với máu lửa. Thành phố Huế, và có lẽ cả quê hương khốn khổ của chúng ta nữa, có khác gì thân phận của con chó nhỏ đã chới với giữa giồng nước ấy. Thế hệ chúng ta, cái thế hệ ưa dùng những danh từ đẹp đẽ phô trương nhất, không những chúng ta phải thắt một giải khăn sô cho Huế, cho quê hương bị tàn phá, mà còn phải chịu tội với Huế, với quê hương nữa. Gần hai năm đã qua, hôm nay, nhân ngày giỗ thứ hai của biến cố tàn phá Huế sắp trở lại, tôi xin viết và xin gửi tới người đọc tập giải khăn sô cho Huế này như một bó nhang dèn góp giỗ. Xin mời bạn, chúng ta cùng thấp đèn, châm nhang, chịu tội với quê hương, với Huế.   Sàigon, năm Dậu. NHã CA ***   Nhã Ca, tên thật là Trần Thị Thu Vân (sinh 1939), là một nữ văn sĩ người Việt với nhiều tác phẩm viết thời Việt Nam Cộng hoà, hiện định cư ở Hoa Kỳ. Nhã Ca sinh trưởng tại Huế đến năm 1960 thì vào Sài Gòn nơi bà bắt đầu viết văn. Trong thời gian 1960 - 1975, 36 tác phẩm của bà được xuất bản gồm nhiều thể loại như thơ, bút ký và tiểu thuyết. Một số tác phẩm của bà lấy xứ Huế làm trọng điểm. Theo lời kể của ông Nguyễn Đắc Xuân (nhà văn) thì bà vốn là một nữ sinh Huế (cùng thế hệ với Nguyễn Đắc Xuân), bỏ học Trung học vào Sài Gòn đi theo Trần Dạ Từ - một người Bắc di cư. Trần Dạ Từ viết báo chống các Phong trào tranh đấu chống Mỹ, hai vợ chồng Trần Dạ Từ và Nhã Ca là hai cây viết tâm lý chiến của Đài Tự do của Mỹ (Đài có nhiệm vụ tuyên truyền chiêu hồi và viết bài tấn công về tư tưởng đối với binh lính đối phương) Cũng vì nội dung trong những tác phẩm của bà, sau năm 1975, Nhã Ca bị chính quyền giam hai năm vì tội "biệt kích văn hóa" (có cuốn sách mang tên là ‘Biệt Kích Văn Hoá’ do các học giả, nhà văn ủng hộ Mặt trận giải phóng như Trần Văn Giàu, Lữ Phương, Vũ Hạnh... viết về 10 tác giả miền Nam. Trong sách này, ngoài bà có Hồ Hữu Tường, Nguyễn Mạnh Côn, Nhất Hạnh, Doãn Quốc Sỹ, Võ Phiến...). Trong tù, bà bị biệt giam và chính quyền tiến hành chính sách "khoan hồng, nhân đạo của Đảng" nhằm hạ gục uy tín của bà. Chính cuốn Giải khăn sô cho Huế bị liệt vào hạng tối kỵ, trưng bày trong "Nhà Triển Lãm Tội Ác Mỹ Ngụy" là chứng tích kết tội bà. Chồng bà, nhà văn Trần Dạ Từ, thì bị giam 12 năm. Do sự can thiệp của hội Văn Bút Quốc tế phối hợp với hội Ân xá Quốc tế và thủ tướng Thuỵ Điển Ingvar Carlsson, bà được sang Thuỵ Điển tỵ nạn. Năm 1992 bà cùng gia đình sang California định cư và lập hệ thống Việt Báo Daily News tại Quận Cam. Theo nhà văn Nguyễn Đắc Xuân thì cặp vợ chồng Trần Dạ Từ - Nhã Ca còn từng phụ trách nguyên cả một chương trình của đài Á Châu Tự do (RFA) của Mỹ. Tác phẩm: Nhã Ca mới (1965) Đêm nghe tiếng đại bác (1966) Bóng tối thời con gái (1967) Khi bước xưống (1967) Người tình ngoài mặt trận (1967) Sống một ngày (1967) Xuân thì (1967) Những giọt nắng vàng (1968) Đoàn nữ binh mùa thu (1969) Giải khăn sô cho Huế (1969) đoạt Giải Văn chương Quốc gia Việt Nam Cộng hòa năm 1970[4] (tái bản ở Hoa Kỳ năm 2008) Một mai khi hòa bình (1969) Mưa trên cây sầu đông (1969) Phượng hoàng (1969) Tình ca cho Huế đổ nát (1969) Dạ khúc bên kia phố (1970) Tình ca trong lửa đỏ (1970) Đời ca hát (1971) Lặn về phía mặt trời (1971) Trưa áo trắng (1972) Tòa bin-đing bỏ không (1973) Bước khẽ tới người thương (1974) v.v... Phim Đất khổ do Hà Thúc Cần sản xuất và hoàn tất năm 1973, đã một phần dựa theo cuốn Giải khăn sô cho Huế và Đêm nghe tiếng đại bác, do Nhã Ca viết đối thoại. Tại hải ngoại, bà tiếp tục sáng tác, như: Hồi ký một người mất ngày tháng Đường Tự Do Sài Gòn (2006). Mời các bạn đón đọc Giải Khăn Sô Cho Huế của tác giả Nhã Ca.
Đường Tự Do - Sài Gòn - Nhã Ca
Một đầu, dòng sông Saigon lấp lánh. Một đầu khác, tượng Đức Mẹ trắng toát trước Vương Cung Thánh Đường. Lòng đường hẹp mà vỉa hè rộng. Con đường ấy, một thời ngắn ngủi thôi, mang tên là Tự Do. Tên cũ của nó, thời Pháp: Catinat. Tên mới, thời sau 1975: Đồng Khởi. Không biết đã hoặc sẽ còn những tên nào khác nữa? Với tôi, mãi mãi, con đường ấy mang tên là Tự Do. Đủ loại gót giày, từ Nam chí Bắc, từ năm châu bốn biển, đã nện trên vỉa hè Tự Do. Không chỉ giày dép đâu, mà con người, cả tôi nữa, khi đi đứng, hít thở, hòa mình vào sinh hoạt ở trên con đường này, đã hòa hợp với mạch sống của mọi thời đại, mọi hoàn cảnh. Bắt đầu từ một buổi trưa nắng sau khi Saigon đã thay tên đổi đời... ***   Nhã Ca, tên thật là Trần Thị Thu Vân (sinh 1939), là một nữ văn sĩ người Việt với nhiều tác phẩm viết thời Việt Nam Cộng hoà, hiện định cư ở Hoa Kỳ. Nhã Ca sinh trưởng tại Huế đến năm 1960 thì vào Sài Gòn nơi bà bắt đầu viết văn. Trong thời gian 1960 - 1975, 36 tác phẩm của bà được xuất bản gồm nhiều thể loại như thơ, bút ký và tiểu thuyết. Một số tác phẩm của bà lấy xứ Huế làm trọng điểm. Theo lời kể của ông Nguyễn Đắc Xuân (nhà văn) thì bà vốn là một nữ sinh Huế (cùng thế hệ với Nguyễn Đắc Xuân), bỏ học Trung học vào Sài Gòn đi theo Trần Dạ Từ - một người Bắc di cư. Trần Dạ Từ viết báo chống các Phong trào tranh đấu chống Mỹ, hai vợ chồng Trần Dạ Từ và Nhã Ca là hai cây viết tâm lý chiến của Đài Tự do của Mỹ (Đài có nhiệm vụ tuyên truyền chiêu hồi và viết bài tấn công về tư tưởng đối với binh lính đối phương) Cũng vì nội dung trong những tác phẩm của bà, sau năm 1975, Nhã Ca bị chính quyền giam hai năm vì tội "biệt kích văn hóa" (có cuốn sách mang tên là ‘Biệt Kích Văn Hoá’ do các học giả, nhà văn ủng hộ Mặt trận giải phóng như Trần Văn Giàu, Lữ Phương, Vũ Hạnh... viết về 10 tác giả miền Nam. Trong sách này, ngoài bà có Hồ Hữu Tường, Nguyễn Mạnh Côn, Nhất Hạnh, Doãn Quốc Sỹ, Võ Phiến...). Trong tù, bà bị biệt giam và chính quyền tiến hành chính sách "khoan hồng, nhân đạo của Đảng" nhằm hạ gục uy tín của bà. Chính cuốn Giải khăn sô cho Huế bị liệt vào hạng tối kỵ, trưng bày trong "Nhà Triển Lãm Tội Ác Mỹ Ngụy" là chứng tích kết tội bà. Chồng bà, nhà văn Trần Dạ Từ, thì bị giam 12 năm. Do sự can thiệp của hội Văn Bút Quốc tế phối hợp với hội Ân xá Quốc tế và thủ tướng Thuỵ Điển Ingvar Carlsson, bà được sang Thuỵ Điển tỵ nạn. Năm 1992 bà cùng gia đình sang California định cư và lập hệ thống Việt Báo Daily News tại Quận Cam. Theo nhà văn Nguyễn Đắc Xuân thì cặp vợ chồng Trần Dạ Từ - Nhã Ca còn từng phụ trách nguyên cả một chương trình của đài Á Châu Tự do (RFA) của Mỹ. Tác phẩm: Nhã Ca mới (1965) Đêm nghe tiếng đại bác (1966) Bóng tối thời con gái (1967) Khi bước xưống (1967) Người tình ngoài mặt trận (1967) Sống một ngày (1967) Xuân thì (1967) Những giọt nắng vàng (1968) Đoàn nữ binh mùa thu (1969) Giải khăn sô cho Huế (1969) đoạt Giải Văn chương Quốc gia Việt Nam Cộng hòa năm 1970[4] (tái bản ở Hoa Kỳ năm 2008) Một mai khi hòa bình (1969) Mưa trên cây sầu đông (1969) Phượng hoàng (1969) Tình ca cho Huế đổ nát (1969) Dạ khúc bên kia phố (1970) Tình ca trong lửa đỏ (1970) Đời ca hát (1971) Lặn về phía mặt trời (1971) Trưa áo trắng (1972) Tòa bin-đing bỏ không (1973) Bước khẽ tới người thương (1974) v.v... Phim Đất khổ do Hà Thúc Cần sản xuất và hoàn tất năm 1973, đã một phần dựa theo cuốn Giải khăn sô cho Huế và Đêm nghe tiếng đại bác, do Nhã Ca viết đối thoại. Tại hải ngoại, bà tiếp tục sáng tác, như: Hồi ký một người mất ngày tháng Đường Tự Do Sài Gòn (2006). Mời các bạn đón đọc Đường Tự Do - Sài Gòn của tác giả Nhã Ca.