Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Mùa Gặt Đỏ

MÙA GẶT ĐỎ - KHO BÁU BỊ ĐÁNH MẤT. Một tay súng đơn độc đi vào trong thị trấn. Anh ta sẽ dọn dẹp nó dù muốn hay là không? "Người chiến đấu với quái vật phải cẩn thận nếu không muốn trở thành một con quái vật khác". Được xuất bản lần đầu vào năm 1929, Mùa gặt đỏ (Red Harvest) là một cuốn tiểu thuyết trinh thám kinh điển của Dashiell Hammett - người được coi là "ông tổ" của thể loại trinh thám đen - hard-boiled. Đây cũng là nguồn cảm hứng cho nhiều bộ phim nổi tiếng, trong đó có Yojimbo (1961), A Fistful of Dollars (1964) và Blood Simple (1984)… Truyện được mở đầu bằng việc Hãng thám tử tư Continental cử một đặc vụ tới Personville - thành phố đang chìm đắm trong bạo lực và sợ hãi dưới sự cai trị của các băng đảng tội phạm và đám quan chức tham nhũng - theo yêu cầu của Donald Willsson, chủ bút tờ báo địa phương và là người đang muốn lấy lại trật tự, công bằng cho thành phố. Nhưng khi nhân viên đặc vụ đó tới nơi thì phát hiện ra khách hàng của mình đã bị bắn chết. Theo như thỏa thuận từ trước, Personville vẫn sẽ được "thanh tẩy", cho dù cái giả phải trả là có thể khiến nó bị nhấn chìm trong biển máu. *** Dashiell Hammett (1894 - 1961) là một trong những tác giả tiên phong của thể loại tiểu thuyết trinh thám đen, với các tác phẩm tiêu biểu như Mùa gặt đỏ (1929), Chim ưng Malta (1930) và Chìa khóa thủy tinh (1931). Những tiểu thuyết của ông thường mang phong cách mạnh mẽ, gay cấn, lối viết ngắn gọn, không hoa mỹ, tiết tấu nhanh, hấp dẫn, đậm mùi súng đạn. Mùa gặt đỏ, tác phẩm đầu tay của Hammett, mang đầy đủ những đặc trưng của thể loại trinh thám đen, đồng thời là hình mẫu cũng như nguồn cảm hứng cho nhiều tác giả trinh thám sau này: một bầu không khí nhớp nhúa ở phần tối của xã hội; một hình ảnh “người hùng không hoàn hảo” với quan niệm về công lý không hoàn toàn đồng nhất với pháp luật. Người thám tử vô danh ấy đến thành phố tội lỗi đó như một lãng khách độc hành thấy việc bất bình ra tay nghĩa hiệp, để rồi bắt đầu “mùa gặt”, mang lại bình yên cho thành phố… *** Review sách Mùa Gặt Đỏ Mùa gặt đỏ được xuất bản lần đầu vào năm 1929, Mùa gặt đỏ (Red Harvest) là một cuốn tiểu thuyết trinh thám kinh điển của Dashiell Hammett - người được coi là "ông tổ" của thể loại trinh thám đen - hard-boiled. Tôi đã khá băn khoăn khi quyết định đọc hay không vì không muốn sa đà liên tục vào trinh thám. Thế nhưng vì một vài lí do, tôi vẫn đọc. Có thể vì thế mà tâm trạng đã không tốt khi tiếp cận cuốn sách. Truyện Trinh thám về những thế lực bên rìa công lý, kiểu mafia, mở đầu bằng cái chết của thân chủ khi chưa kịp làm việc với tay thám tử mà mình mời về. Nhiều nhân vật liên quan, nhiều vấn đề nổi cộm của thế giới thu nhỏ Personville được phơi bày. Theo như thỏa thuận từ trước, Personville vẫn sẽ được "thanh tẩy", cho dù cái giả phải trả là có thể khiến nó bị nhấn chìm trong biển máu.Tiết tấu càng ngày càng nhanh với sự mưu mô, toan tính cả bằng trí tuệ và sự nhanh nhẹn trong việc siết cò với những pha hành động tương đối kịch tính. Truyện thuộc dang trinh thám đen, hành động kịch tính và mang tính giải trí. Cơ bản có lẽ tại tôi không thích văn phong hơi khô của tác giả (hay dịch giả)??, hội thoại, lời văn ngắn gọn, súc tích. Tôi cũng không thích bìa, không thích tên gọi, chỉ an ủi được là việc biên tập đã ổn hơn khá nhiều so với những cuốn sách trước đây của PM. Tạm gác lại, biết đâu một ngày nào đó sẽ có hứng thú đọc lại và biết đâu sẽ thích. Cho tạm 3* vì cuốn sách chưa đủ hấp dẫn khiến tôi bị cuốn hút cũng như tò mò. Hồng Khánh 14.9.2019 *** Người phụ nữ trong bộ đồ xanh và người đàn ông trong bộ đồ xám Lần đầu tiên tôi nghe thấy Personville được đọc lái thành Poisonville là từ một gã tóc đỏ đầu đường xó chợ tên Hickey Dewey tại khách sạn Con Tàu Lớn ở Butte. Hắn cũng phát âm shirt thành shoit. Lúc đó tôi không nghĩ ngợi gì về cách hắn đọc tên thành phố, nhưng rồi tôi thấy những người đã phát âm đúng chữ “r” nhưng vẫn đọc sai như vậy. Tôi chỉ cho rằng việc đám trộm cướp dùng từ richardsnary thay cho dictionary thật quá sức nhạt nhẽo. Vài năm sau, khi đến Personville, tôi mới hiểu rõ hơn. Tôi gọi tới tờ Herald từ một bốt điện thoại tại ga, yêu cầu được nói chuyện với Donald Willsson và sau đó bảo anh ta rằng tôi đã tới. “Anh có thể tới nhà tôi lúc mười giờ tối nay được không?” Anh ta nói, giọng quả quyết. “Số 2101 đại lộ Mountain. Bắt một chiếc xe điện, xuống ở chỗ đại lộ Laurel, rồi đi bộ theo hướng Tây hai dãy nhà.” Tôi hứa sẽ có mặt. Rồi tôi tới khách sạn Great Western, vứt mấy chiếc túi xuống và ra ngoài ngắm nhìn thành phố. Thành phố này không đẹp. Hầu hết chủ thầu xây dựng ở đây đều có gu thẩm mỹ lòe loẹt. Có thể ban đầu họ đã đạt được mục đích. Rồi những lò luyện kim mọc lên sừng sững bên một ngọn núi ảm đạm ở phía Nam đã hun mọi thứ trong lớp khói màu vàng xỉn. Thế là chúng ta có một thành phố xấu xí với bốn mươi ngàn dân, nằm trong một khe hẻm xấu xí giữa hai ngọn núi xấu xí bị ô nhiễm vì sự khai mỏ. Bao trùm lấy nó là bầu không khí ám đầy bụi, như thể vừa chui ra từ ống khói của lò luyện kim. Người cảnh sát đầu tiên mà tôi gặp rõ ràng cần phải cạo râu. Người thứ hai có vài chiếc cúc bị đứt trên bộ đồng phục tồi tàn. Người thứ ba đứng ở giữa giao lộ chính của thành phố, giữa Broadway và phố Union, với một điếu xì gà trên miệng. Sau đó thì tôi không để ý đến họ nữa. Vào lúc chín giờ rưỡi, tôi bắt một chiếc xe điện và đi theo hướng mà Donald Willsson đã chỉ. Nó đưa tôi tới một ngôi nhà có hàng rào bao quanh bãi cỏ. Người giúp việc ra mở cửa bảo tôi rằng ông Willsson không có nhà. Trong khi tôi đang giải thích rằng mình có hẹn với anh ta thì một người phụ nữ tóc vàng mảnh khảnh, khoảng dưới ba mươi tuổi, bận bộ đồ vải crepe màu xanh bước tới. Ngay cả khi cười, sự lạnh nhạt vẫn ẩn hiện trong đôi mắt xanh của cô ta. Tôi giải thích lại một lần nữa. “Chồng tôi hiện không có nhà.” Âm giọng địa phương mờ nhạt khiến phát âm của cô ta hơi nhịu. “Nhưng nếu đã có hẹn thì chắc anh ấy sẽ về sớm thôi.” Cô ta dẫn tôi lên tầng, tới một căn phòng nhìn về hướng đại lộ Laurel. Căn phòng được sơn hai màu nâu đỏ và có rất nhiều sách. Chúng tôi ngồi xuống chiếc sofa da, nửa quay về phía người đối diện, nửa hướng về phía lò sưởi đang đỏ than, và cô ta bắt đầu tìm hiểu về chuyện giữa tôi và chồng cô ta. “Anh sống ở Personville à?” Cô ta hỏi trước. “Không. San Francisco.” “Nhưng đây không phải lần đầu anh tới Personville, phải vậy không?” “Đây là lần đầu tiên.” “Thật ư? Anh nghĩ sao về thành phố này?” “Tôi chưa quan sát đủ để có thể đưa ra ý kiến.” Đó là một lời nói dối. Tôi đã thấy đủ. “Tôi vừa mới tới lúc chiều.” Sự tò mò biến mất khỏi đôi mắt lấp lánh của cô ta. Rồi cô ta nói: “Anh sẽ thấy rằng đây là một chốn ảm đạm.” Rồi cô ta tiếp tục soi mói, “Tôi cho rằng tất cả các thành phố mỏ đều giống như thế này. Anh có tham gia vào ngành khai mỏ không?” “Hiện tại thì không.” Cô ta nhìn đồng hồ trên mặt lò sưởi và nói: “Donald thật thiếu chu đáo khi hẹn anh tới rồi lại để anh ngồi đợi, giữa đêm hôm khuya khoắt thế này. Đã quá giờ làm việc lâu quá rồi.” Tôi đáp rằng không sao. “Có lẽ đây không phải là vấn đề công việc.” Cô ta bóng gió. Tôi không trả lời. Cô ta cười, tiếng cười cộc lốc và có phần chói tai. “Thường thì tôi không tọc mạch thế này đâu”, cô ta vui vẻ nói, “nhưng anh quá kín đáo đến mức tôi không thể không tò mò. Anh không phải dân buôn rượu lậu đấy chứ? Donald đổi người rất thường xuyên.” Tôi để cô ta tự suy diễn và nở một nụ cười. Chuông điện thoại reo dưới tầng. Cô Willsson duỗi đôi chân đi dép lê xanh về phía lò sưởi đang đỏ than và vờ như không nghe thấy gì. Tôi không hiểu tại sao cô ta nghĩ thế là cần thiết. Cô ta bắt đầu, “Tôi sợ rằng mình sẽ ph…”, và dừng lại, nhìn về phía cô hầu đứng bên cửa. Người giúp việc nói rằng đầu dây bên kia muốn gặp cô Willsson. Cô ta cáo lỗi rồi ra ngoài. Cô ta không đi xuống tầng dưới mà nói qua máy điện thoại kéo dài, trong tầm nghe của tôi. Tôi nghe được, “Tôi, Willsson nghe đây… Vâng… Xin lỗi?… Ai đấy?… Anh có thể nói to lên không?… Gì cơ?… Vâng… Vâng… Ai đó?… A lô! A lô!” Rồi có tiếng dập máy và tiếng bước chân của cô ta vang lên trên hành lang. Tôi châm một điếu thuốc và nhìn chằm chằm vào nó cho đến khi nghe thấy tiếng bước chân của cô ta dưới thềm. Rồi tôi tới bên cửa sổ, vén rèm lên, nhìn xuống đại lộ Laurel và thấy phía sau ngôi nhà là một nhà để xe màu trắng. Ngay sau đó, một người phụ nữ mảnh mai đội mũ và bận áo khoác tối màu vội vã đi ra chỗ nhà để xe. Đó là cô Willsson. Cô ta lái chiếc Buick hai chỗ đi. Tôi quay lại ghế và chờ đợi. Bốn mươi lăm phút trôi qua. Lúc mười một giờ năm phút, tiếng phanh ô tô rít lên bên ngoài. Hai phút sau, cô Willsson bước vào phòng. Cô ta cởi mũ và áo khoác ra. Mặt cô ta trắng bệch, đôi mắt ủ dột. “Tôi vô cùng xin lỗi”, cô ta nói với khuôn miệng mím chặt chuyển động nhát gừng, “anh đã mất công ngồi đợi vô ích rồi. Tối nay chồng tôi sẽ không về nhà.” Tôi nói rằng tôi sẽ liên lạc với anh ta tại Herald sáng mai. Tôi đi về và tự hỏi tại sao mũi dép bên trái của cô ta lại dính thứ gì đó sẫm màu và ướt giống như máu vậy. • • • Tôi đi bộ đến Broadway và bắt một chiếc xe điện. Qua ba dãy nhà lớn ở phía Bắc khách sạn, tôi xuống xe để xem đám đông đang làm gì quanh lối vào Tòa thị chính. Tầm ba, bốn mươi người đàn ông và lác đác vài phụ nữ đang đứng trên vỉa hè, nhìn vào một cánh cửa gắn biển Sở Cảnh sát. Đám đông bao gồm những người công nhân mỏ và lò nung vẫn mặc nguyên đồ bảo hộ, những anh chàng mặc đồ lòe loẹt vừa bước ra từ tiệm bi-a và vũ trường, những gã chải chuốt với khuôn mặt nhợt nhạt, những người mang vẻ ngoài trì độn của một ông chồng đứng đắn, vài người phụ nữ cũng trì độn và đứng đắn y như vậy cùng vài ả gái điếm. Đến bên rìa đám đông, tôi dừng lại cạnh một người đàn ông nghiêm nghị mặc bộ đồ xám nhàu nhĩ. Khuôn mặt và đôi môi dày của anh ta trông cũng xám xịt, mặc dù nhìn qua anh ta không quá ba mươi tuổi. Khuôn mặt anh ta rộng, đường nét thô kệch và sáng sủa. Anh ta đeo một chiếc cà vạt đỏ thắt kiểu Windsor trên chiếc áo sơ mi bằng vải flannel màu xám. “Chuyện gì ồn ào vậy?” Tôi hỏi anh ta. Anh ta cẩn thận nhìn tôi trước khi trả lời, như thế muốn chắc chắn rằng thông tin sẽ được gửi đi một cách an toàn. Mắt anh ta cũng xám như bộ đồ, nhưng trông chúng không hề mềm như thế. “Don Willsson đã đến ngồi bên tay phải của Chúa, nếu Chúa không ngại nhìn vào những vết đạn.” “Ai đã bắn anh ta?” Tôi hỏi. Người đàn ông gãi đầu và đáp lại: “Một kẻ nào đó mang súng.” Tôi muốn thông tin, chứ không phải sự hóm hỉnh. Tôi sẽ thử vận may với một người khác trong đám đông nếu gã đeo cà vạt đỏ này không khiến tôi hứng thú. Tôi bảo: “Tôi mới đến thành phố. Cứ diễn vở Punch và Judy* với tôi đi. Người lạ thì phải chịu thôi.” “Quý ngài Donald Willsson, chủ biên của tờ Herald Buổi sáng và Herald Buổi tối, mới được tìm thấy trên phố Hurricane, bị một kẻ vô danh nào đó bắn chết.” Anh ta nói một lèo bằng giọng đều đều. “Hết cảm thấy bị tổn thương rồi chứ?” “Cảm ơn.” Tôi đưa tay ra và chạm vào đầu chiếc cà vạt thắt lỏng của anh ta. “Có ý nghĩa gì không? Hay chỉ đeo vậy thôi?” “Tôi là Bill Quint.” “Hóa ra là anh!” Tôi kêu lên, giả bộ như mình đã biết cái tên này. “Chúa ơi, tôi rất mừng được gặp anh!” Tôi rút chiếc ví chứa danh thiếp ra và lục lọi trong đống danh thiếp mà tôi đã kiếm được bằng nhiều cách, ở nhiều nơi khác nhau. Tấm màu đỏ là cái tôi muốn tìm. Trên đó ghi tôi là Henry F. Neill, thủy thủ được đào tạo bài bản, thành viên cấp cao của Hiệp hội Công nhân Công nghiệp Thế giới*. Không một chữ nào là sự thật. Tôi đưa tấm danh thiếp cho Bill Quint. Anh ta đọc kỹ nó, cả mặt trước lẫn mặt sau, rồi trả lại và nhìn tôi từ đầu đến chân một cách ngờ vực. “Chẳng có gì để nhìn nữa đâu.” Anh ta nói. “Anh định đi đâu?” “Đâu cũng được.” Chúng tôi đi cạnh nhau, rẽ vào sau góc phố một cách bâng quơ. “Điều gì đã đưa anh tới đây, nếu anh là một thủy thủ?” Anh ta chợt hỏi. “Sao anh lại nghĩ vậy?” “Có tấm danh thiếp đó.” “Tôi còn có một cái ghi rằng mình là tiều phu nữa cơ.” Tôi nói. “Nếu anh muốn tôi trở thành thợ mỏ, tôi sẽ làm một cái ngay trong ngày mai.” “Anh không kiếm được đâu. Tôi điều hành ở đây.” “Thế nếu anh nhận được điện báo từ Chi* thì sao?” Tôi hỏi. “Mặc xác Chi! Tôi điều hành ở đây.” Anh ta hất đầu về phía nhà hàng và hỏi, “Uống gì không?” “Kiếm được không đã.*” Chúng tôi bước vào nhà hàng, leo lên các bậc thang và bước vào một căn phòng nhỏ với một dãy bàn dài trên tầng hai. Bill Quint gật đầu và nói, “Hullo!” với vài cậu trai và cô gái, rồi đưa tôi vào một trong nhũng căn buồng có màn che màu xanh lá nằm thẳng hàng dọc bức tường đối diện quầy bar. Chúng tôi dành hai giờ để uống rượu whiskey và nói chuyện. Người đàn ông trong bộ đồ xám cho rằng tôi chẳng liên quan gì tới tấm danh thiếp mà tôi vừa cho anh ta xem, cũng như những danh tính khác mà tôi đã đề cập. Anh ta cũng không cho rằng tôi là một thành viên cấp cao của Hiệp hội. Với vai trò là thủ lĩnh quan trọng của IWW ở Personville, anh ta cho rằng nhiệm vụ của mình là phải tìm ra sự thật về tôi, đồng thời không để mình bị dò hỏi ngược lại trong khi đang làm việc đó. Với tôi thế cũng chẳng sao. Tôi hứng thú với các vấn đề ở Personville. Anh ta thì không bận tâm tới chuyện đó mà chỉ tập trung vào tấm thẻ đỏ của tôi. Và đây là những gì tôi moi được từ anh ta: Trong vòng bốn mươi năm, Elihu Willsson - cha của người đàn ông bị giết đêm qua - đã sở hữu trái tim, linh hồn cũng như xác thịt của Personville. Lão là chủ tịch và cổ đông lớn nhất của Tập đoàn Khai mỏ Personville cũng như ngân hàng First National, là chủ sở hữu của tờ Herald Buổi sáng và Herald Buổi tối, những tờ báo duy nhất của thành phố, và đồng sở hữu gần như tất cả các doanh nghiệp quan trọng khác. Cùng với khối tài sản đó, lão cũng nắm trong tay một Thượng nghị sĩ Mỹ, vài dân biểu, thống đốc bang, thị trưởng thành phố và hầu hết các cơ quan lập pháp của bang. Elihu Willsson là Personville, và gần như là toàn bộ bang. Hồi chiến tranh, IWW - khi đó đang lan rộng về phía Tây - đã giúp đỡ Tập đoàn Khai mỏ Personville. Nói giúp đỡ là không hoàn toàn chính xác. Họ đã sử dụng sức mạnh để đòi hỏi quyền lợi. Elihu già buộc phải chấp nhận và nín nhịn chờ thời. Chuyện xảy ra vào năm 1921. Việc kinh doanh gặp khó khăn. Elihu già không quan tâm xem liệu có phải đóng cửa tạm thời hay không. Lão xé hết những bản thỏa thuận trước đó và đá đám công nhân trở lại tình trạng khó khăn trước thời chiến. Tất nhiên là các công nhân đã yêu cầu sự giúp đõ. Bill Quint được trụ sở chính của IWW ở Chicago cử đến để giải quyết tình hình. Anh ta phản đối bạo loạn hay đình công. Anh ta khuyên họ hãy sử dụng một mánh cũ, trở lại làm việc và phá hoại từ bên trong. Nhưng điều đó là không đủ với các công nhân của Personville. Họ muốn tên mình được biết đến, muốn tạo ra lịch sử. Vậy là bạo loạn nổ ra. Nó kéo dài tám tháng. Cả hai bên đều tổn thất nặng nề. Chính các thành viên của Hiệp hội cũng phải đổ máu. Elihu già đã thuê các tay súng, lực lượng chống bạo loạn, vệ binh quốc gia và thậm chí là cả quân đội để chiến đấu cho mình. Khi đám tàn quân cuối cùng bị tiêu diệt, công đoàn của Personville chỉ còn là một xác pháo nổ tan tành. Nhưng, Bill Quint nói, Elihu già không biết gì về lịch sử nước Ý. Lão thắng, nhưng đã đánh mất quyền lực ở thành phố và tiểu bang. Để đánh bại đám thợ mỏ, lão đã để cho đám lính đánh thuê được tự do lộng hành. Khi cuộc chiến kết thúc, lão không thể loại bỏ chúng. Lão đã trao thành phố vào tay chúng và không đủ mạnh để lấy lại. Personville là một miếng mồi ngon và chúng đã chiếm lấy nó. Chúng giúp lão thắng cuộc chiến, và chiến lợi phẩm chúng yêu cầu là thành phố. Lão không thể công khai chống lại chúng. Chúng quá mạnh so với lão. Lão phải chịu trách nhiệm với những gì chúng đã làm trong cuộc bạo loạn. Khi câu chuyện tới được đó thì cả Bill Quint và tôi đều đã chếnh choáng. Anh ta bỏ kính xuống, gạt mớ tóc lòa xòa trước mặt và đưa câu chuyện về thì hiện tại: “Giờ kẻ mạnh nhất trong số chúng có lẽ là tay Pete Người Phần Lan. Thứ chúng ta đang uống đây cũng thuộc sở hữu của hắn. Rồi đến Lew Yard. Hắn có một tiệm cho vay trên phố Parker, chuyên thu tiền bảo lãnh và dính líu tới hầu hết các sự vụ nóng sốt của thành phố - đó là theo những gì người ta nói, và khá thân với Noonan - cảnh sát trưởng. Tay Max Thaler - biệt danh Kẻ Thầm Thì - cũng có rất nhiều bạn. Một gã da màu lươn lẹo có vấn đề ở cổ họng. Không thể nói được. Một tay cờ bạc. Ba kẻ đó, cùng với Noonan, đã giúp Elihu điều hành thành phố của lão - giúp nhiều hơn những gì lão muốn. Nhưng lão buộc phải hợp tác với chúng, hoặc là…” “Người bị bắn tối nay - con trai của Elihu - vị trí của anh ta là ở đâu?” Tôi hỏi. “Ông già đặt đâu thì gã ngồi đó, lúc nào cũng vậy.” “Ý anh là lão già đã khiến anh ta…?” “Có thể, nhưng tôi không cho là vậy. Tay Don đó chỉ vừa mới về nhà và bắt đầu điều hành tờ báo cho lão già. Lão quỷ già này, sắp xuống mồ đến nơi mà vẫn không để cho ai tóm đuôi mà không cắn lại. Nhưng lão phải cẩn trọng với đám kia. Lão đã mang con trai và người vợ quốc tịch Pháp của gã từ Paris về và sử dụng gã như một con khỉ trong rạp xiếc - một chiêu trò chết tiệt của một người cha. Don bắt đầu tiến hành cải tổ tờ báo. Dọn sạch sự tham nhũng và thối nát - đồng nghĩa với việc loại bỏ cả Pete, Lew và Kẻ Thầm Thì, đấy là nếu nó thành công. Anh hiểu rồi chứ? Nước cờ của lão già đã khiến chúng lâm vào thế bị động. Tôi đoán chúng chán chuyện đó rồi.” “Có gì đó sai sai trong suy đoán của anh.” Tôi nói. “Cái chốn đê tiện này còn cả đống thứ sai hơn nhiều. Uống đủ rồi chứ?” Tôi nói đã đủ. Chúng tôi xuống phố. Bill Quint bảo rằng anh ta đang ở trong khách sạn Miners trên đường Forest. Đường về của anh ta đi qua khách sạn của tôi, vậy nên chúng tôi đi cùng nhau. Có một gã cao lớn trông giống một tay cớm mặc thường phục đứng trước khách sạn của tôi, đang nói chuyện với một gã ngồi trong chiếc Stutz du lịch. “Trong xe là Kẻ Thầm Thì.” Bill Quint bảo tôi. Tôi bỏ qua người đàn ông lực lưỡng và thấy khuôn mặt trông nghiêng của Thaler. Hắn còn trẻ, da sậm và nhỏ con, với gương mặt đẹp như tượng tạc. “Hắn trông dễ thương đó.” Tôi nói. “Ừ hứ”, người đàn ông mặc đồ xám đồng ý, “và thuốc nổ cũng thế.” Mời các bạn đón đọc Mùa Gặt Đỏ của tác giả Dashiell Hammett & Nguyệt Minh (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Án Mạng Ở Công Viên Gorky
Ba vụ án mạng xảy ra tại trung tâm vui chơi giải trí Moscow : ba xác chết được tìm thấy đóng băng trong tuyết, tất cả các khuôn mặt và các ngón tay đều biến mất. Chánh thanh tra tổ án mạng Arkady Renho là một con người tài giỏi, nhạy cảm, trung thực và hoài nghi tất cả mọi thứ về nghề nghiệp của mình. Để xác minh danh tính của các nạn nhân và hé mở sự thật, anh phải chiến đấu với lực lượng cảnh sát của KGB, FBI và cả New York, giống như thực hiện một nhiệm vụ bất khả thi - và anh phải cố gắng sống sót để làm điều đó. Bộ sách Arkady Renko gồm có: Án Mạng Ở Công Viên Gorky (#1) Chó Sói Cắn Chó Nhà (#5) ... *** Martin Cruz Smith, tên khai sinh là Martin William Smith, sinh ngày 3 tháng 11 năm 1942, tại Reading, Pennsylvania, Mỹ. Ông tốt nghiệp trường Đại học Pennsylvania, Philadelphia năm 1964. Hiện tại, ông đang sống cùng gia đình ở San Rafael, California. Từ năm 1965 đến 1969, Martin trở thành phóng viên và chỉ bắt đầu viết tiểu thuyết hư cấu từ thập niên 70 với tác phẩm đầu tay, The Indians Won. Canto for a Gypsy, cuốn tiểu thuyết thứ ba trong sự nghiệp của ông và là cuốn thứ hai viết về nhân vật Roman Grey, một nhà môi giới nghệ thuật người Gypsy, đã được đề cử giải Edgar. Một tác phẩm khác cũng từng được đề cử giải Edgar, Nightwing (1977), được coi là tiểu thuyết đột phá của Martin và được chuyển thể thành bộ phim cùng tên vào năm 1979. Martin Cruz Smith nổi tiếng với series tiểu thuyết xoay quanh nhân vật trung tâm là chuyên gia điều tra người Nga, Arkady Renko, xuất hiện lần đầu trong tác phẩm Án mạng ở công viên Gorky (Gorky Park). Renko được biết đến như một điều tra viên cao cấp chuyên gắn liền với các vụ án giết người và luôn sẵn sàng phơi bày bản chất tham nhũng, bất lương trong bộ phận những nhân vật chủ chốt có tầm ảnh hưởng lớn cũng như được bảo vệ chặt chẽ của thời “Cải tổ”. Án mạng ở công viên Gorky đã được tạp chí New York Times đánh giá là “cuốn tiểu thuyết trinh thám đầu tiên của thập niên 80”, đồng thời trở thành cuốn sách bán chạy nhất và được Hiệp hội Nhà văn Trinh thám trao giải Gold Dagger. Trong suốt thập niên 90, Martin Cruz Smith đã hai lần được Hiệp hội các nhà văn viết truyện trinh thám quốc tế nhánh Bắc Mỹ trao tặng giải thưởng Dashiell Hammett, lần đầu vào năm 1996 với tác phẩm Rose và lần thứ hai với Havana Bay năm 1999. Năm 2004, Martin Cruz Smith xuất bản tác phẩm Wolves Eat Dogs, cuốn tiểu thuyết thứ năm trong series tám quyển về Arkady Renko. Tác phẩm đã được Bách Việt xuất bản vào quý III năm 2015, với tựa đề Chó sói cắn chó nhà. Tháng 9 năm 2010, sự trở lại của Martin và Arkady Renko đã đưa tác phẩm thứ bảy, Three Stations, lên vị trí đầu bảng trong danh sách tiểu thuyết bán chạy nhất của tạp chí New York Times. Bachviet Books *** Martin Cruz Smith sinh ngày 3 tháng 11 năm 1942 tại hoa Kỳ. Martin Cruz Smith xếp hạng nổi tiếng thứ 36200 trên thế giới và thứ 269 trong danh sách Tiểu thuyết gia nổi tiếng. Ông theo học tại Đại học Pennsylvania vào đầu những năm 1960, tốt nghiệp với bằng văn bản sáng tạo. Vào giữa những năm 1960, ông bắt đầu làm việc như một nhà báo; ông xuất bản tác phẩm văn học đầu tiên của mình, Người Ấn Độ Won, vào năm 1970. *** Matxcova chìm đắm trong sắc màu. Những ngọn đèn pha lờ mờ ở Quảng trường Đỏ hòa lẫn ánh đèn neon từ các sòng bạc trong Quảng trường Cách mạng. Ánh sáng len lỏi chui lên từ trung tâm thương mại dưới lòng đất ở Manezh. Ánh đèn rực rỡ bao quanh các tòa tháp bằng kính và đá hoa cương bóng loáng, trên đỉnh mỗi tòa là tháp hình chóp nhọn. Thị trưởng thành phố yêu thích những ngọn tháp. Dẫu những mái vòm mạ vàng vẫn thấp thoáng quanh Vành đai Garden*, nhưng hằng đêm máy xúc lại xé toạc thành phố già nua và đào những cái hố ngập tràn ánh sáng ngày càng rộng hơn để nhào nặn nên một Matxcova hiện đại, cao vút như Houston hay Dubai. Đó chính là Matxcova mà Pasha Ivanov đã góp phần xây dựng, một khung cảnh đang chuyển dịch của các mảng kiến tạo, dòng dung nham nóng rực và những sai lầm chết người. Điều tra viên cấp cao Arkady Renko ngó ra ngoài từ cửa sổ tầng mười nhìn xuống thi thể Pasha Ivanov đang nằm trên vỉa hè. Ivanov đã chết nhưng không quá đẫm máu, tay và chân gập lại trong tư thế quái dị. Hai chiếc Mercedes màu đen đỗ ở lề đường, một của Ivanov, và chiếc SUV còn lại dành cho các vệ sĩ của ông ta. Đôi khi Arkady nhận thấy, điểm chung của các doanh nhân thành đạt lẫn những ông trùm mafia ở Matxcova là đều sở hữu hai con Mercedes dòng SS-black của Đức. Ngoài các vệ sĩ từ chiếc xe hộ tống của Ivanov, thì lễ tân và nhân viên điều hành thang máy của tòa nhà cũng được trang bị vũ khí. Hành lang, thang máy dành cho khách, lối đi cho người phục vụ và mặt trước tòa nhà đều gắn máy quay. Pasha đã đến đây lúc 9:28 tối, lên thẳng căn hộ an toàn nhất Matxcova và vào lúc 9:48 thì lao thẳng xuống đường phố. Arkady đã đo khoảng cách từ điểm Ivanov chạm đất tới chân tòa nhà. Nếu là một vụ giết người thì khoảng cách đó thường gần hơn vì nạn nhân sẽ cố gắng vùng vẫy để không bị rơi. Còn nếu là tự tử thì điểm rơi sẽ có một đích đến duy nhất và cách xa hơn. Ivanov gần như đã chạm tới lòng đường. ... Mời các bạn đón đọc Án Mạng Ở Công Viên Gorky của tác giả Martin Cruz Smith.
Trái Tim Của Brutus
Trái tim của Brutus được nhà xuất bản Kobunsha xuất bản lần đầu năm 1989, và năm 2011 được chuyển thể thành phim truyền hình do diễn viên Fujiwara Tatsuya thủ vai chính. GIỚI THIỆU SÁCH: Suenaga Takuya đảm trách phát triển robot sử dụng trí thông minh nhân tạo ở công ty Công nghiệp nặng MM. Là một gã trai sáng giá, đầy hứa hẹn tương lai, y trở thành “ứng cử viên” chức hôn phu của Hoshiko – con gái út ông chủ. Vì thế, khi người tình Yasuko bắt đầu thai nghén đứa con của gã, Takuya hoang mang. Cùng với Naoki – anh trai cùng cha khác mẹ của Hoshiko, và Hashimoto – đồng nghiệp ở công ty, y quyết định vạch ra một kế hoạch giết người… Một cuộc “chạy tiếp sức” cho án mạng được bắt đầu hoàn hảo, nhưng cái kết lại nằm ngoài sức tưởng tượng của bất cứ ai. *** Suenaga Takuya là một kĩ sư triển vọng trong lĩnh vực phát triển người máy thông minh cho một doanh nghiệp sản xuất thiết bị công nghiệp cực thịnh. Hắn là một kẻ tham vọng, luôn tìm mọi cách để leo lên và đang nhắm tới vị thế con rể của Phó giám đốc công ty. Ai dè, mọi tính toán của hắn trật lất khi cô nhân tình mang thai và khăng khăng không định bỏ đứa trẻ. Takuya bị dồn vào thế bí, thận trọng suy tính và quyết định bày ra một kế hoạch giết người… Brutus là tên một nhân vật nổi tiếng trong lịch sử La Mã. Ban đầu, ông ta thuộc phe đối địch với Julius Caesar nhưng về sau đã quy hàng và được Caesar trọng dụng. Có điều, cuối cùng ông lại chính là kẻ đã ám sát thành công Ceasar dẫn đến sự sụp đổ của Đế chế La Mã. Vậy trong câu truyện về trái tim kẻ phản bội này, Higashino Keigo muốn truyền thông điệp gì tới người đọc? *** Về tác giả: Higashino Keigo sinh năm 1958 tại Osaka, là nhà văn trinh thám hàng đầu hiện nay tại Nhật Bản. Năm 1985, Higashino Keigo giành được giải Edogawa Rampo lần thứ 31 cho tác phẩm trinh thám hay nhất với tiểu thuyết Giờ tan học. Các năm sau đó, Higashino Keigo liên tục được đề cử vô số giải thưởng văn học lớn. Năm 1999, ông đoạt giải Mystery Writers of Japan Inc với tiểu thuyết Bí mật của Naoko, và năm 2006, là giải Naoki lần thứ 134 cho Phía sau nghi can X. Các tác phẩm khác của Higashino Keigo đã được Nhã Nam phát hành: - Phía sau nghi can X - Bí mật của Naoko - Bạch dạ hành - Điều kỳ diệu ở tiệm tạp hóa Namiya - Hoa mộng ảo - Ảo dạ - Ma nữ của Laplace - Phương trình hạ chí - Sự cứu rỗi của Thánh nữ - Ma thuật bị cấm - Án mạng mười một chữ - Vụ án mạng ở lữ quán Kairotei *** Mở đầu Lúc băng ngang Naomi, không hiểu sao Takashima Yuuji cảm thấy có cơn ớn lạnh chạy dọc sống lưng. Anh đứng lại, ngước nhìn Naomi. Cô vẫn vô cảm như mọi khi, tiếp tục cử động cánh tay thon dài nhịp nhàng và chính xác đến ngỡ ngàng. Anh không nhận ra chút bất thường nào trong thao tác ấy. Tất cả đều như mọi ngày. Yuuji đưa mắt nhìn sang Haruko đứng cạnh Naomi. Haruko đảm nhiệm công đoạn trước Naomi, lắp ghép và hàn các chi tiết. Còn Naomi thực hiện lắp ghép hoàn thiện. Rời khỏi vị trí của Naomi và Haruko, Yuuji trở lại lối đi, bắt đầu tiến trình thường nhật. Bên trong xưởng tối âm u. Nhưng thực ra có tối cũng chẳng sao. Không ảnh hưởng gì đến công việc của các cô gái cả. Như đêm nay, bởi anh ở đây nên mới có chút ánh đèn le lói. Vì Yuuji sẽ chẳng thể đi lại nếu không có đèn. Anh tiến vài mét rồi dừng bước, kiểm tra công việc của các đồng nghiệp luôn im lặng dọc hai bên lối đi. Lúc này là 3 giờ sáng. Tại xưởng lắp ráp số 3 này, 30 con rôbốt đang hoạt động. Chúng không cần nghỉ ngơi hay ăn uống gì mà vẫn có thể làm việc suốt 24 giờ. Tính cả Yuuji thì chỉ có hai con người làm việc ở xưởng này. Thế nhưng anh không hề gặp cộng sự của mình trong giờ làm. Bởi nếu người này làm ca ngày, người còn lại sẽ làm ca đêm. Do vậy, thẻ chấm công của cả hai hầu như không có con số nào trùng lặp. Yuuji phải trải qua đêm dài chỉ có 30 con rôbốt vô cảm bầu bạn. Khi trời sáng, anh sẽ thay ca với cộng sự còn lại. Hai người chỉ gặp nhau tại thời điểm đó. Nhưng thật ra họ cũng không giáp mặt nhau nhiều. Bởi lẽ, khi giao ca cũng chỉ cần nhập liệu vào máy tính là được rồi. Sau khi kết thúc công việc, Yuuji sẽ thay đồ rồi về ký túc xá dành cho nhân viên độc thân, ăn một suất ăn dở tệ ở căng tin dành cho người làm ca đêm, chui vào bồn tắm, xem cuộn băng đã hẹn giờ ghi hình rồi đi ngủ. Đến khi tỉnh dậy thì trời đã xế chiều. Sau đấy lại là một bữa ăn dở tệ và ca trực khác. Trong xưởng, 30 con rôbốt sẽ vẫn vận hành theo đúng nhịp điệu mọi ngày, thực hiện công việc y hệt đêm trước. Anh sẽ tiếp tục giám sát chúng, sửa chữa hỏng hóc và cung cấp linh kiện. Điều này sẽ tiếp diễn trong hai tuần. Sau đó, anh sẽ làm ca ngày hai tuần rồi lại phải đổi sang ca đêm. Yuuji đã sống như vậy hơn một năm nay. Mình chịu hết nổi rồi! Yuuji ngước nhìn con rôbốt hàn cỡ lớn, thì thầm. Tính tới đêm nay, anh đã làm ca đêm được mười ngày rồi. Anh muốn nói chuyện với ai đó, muốn được tiếp xúc với con người. Yuuji lại nhớ tới bạn gái mình. Cô có mái tóc dài, khuôn mặt làm người ta liên tưởng tới mấy con búp bê Nhật. Hầu như Chủ nhật nào hai người cũng hẹn hò. Bản thân anh tương đối ít nói, và bạn gái anh cũng thuộc diện kiệm lời so với những cô gái trẻ khác. Dẫu vậy, những lúc ở cạnh cô, anh thấy tinh thần mình hồi phục. Tình cảm ấy tiếp thêm động lực để anh tiếp tục cố gắng một tuần nữa. Tuy nhiên, mấy Chủ nhật gần đây hai người không thể gặp nhau. Bạn gái anh luôn có việc bận không tránh được. Chẳng biết làm gì khác, anh dạo phố một mình, mua sắm linh tinh rồi quay về. Điều này cũng làm tâm trí thảnh thơi đôi chút, nhưng không sánh bằng việc hẹn hò với bạn gái. Đã hai tuần chưa gặp cô, Yuuji thấy bồn chồn không yên. Anh đang phải làm ca đêm nên cũng không gọi điện được. Yuuji tự nhủ, sau khi kết hôn sẽ xin chuyển sang bộ phận khác bằng bất cứ giá nào. Anh vẫn chưa giới thiệu bạn gái với cha mẹ, nhưng đã quyết định cưới cô. Như vậy hai người sẽ được bên nhau hằng ngày. Nhưng nếu cứ làm công việc hiện tại thì mong ước đó khó thành hiện thực. Cả hai đều định đi làm, nếu cứ thế này, mỗi hai tuần sinh hoạt của họ sẽ bị lệch. Nhưng dù có chuyển sang bộ phận khác đi nữa, công việc của Yuuji thường phải làm theo ca, nên có lẽ sẽ không tránh được những buổi làm đêm. Nhưng vậy cũng tốt hơn hiện giờ. Ít ra anh còn được làm chung với những con người bằng xương bằng thịt. Đối với Yuuji, thế đã đủ hấp dẫn lắm rồi. Thu nhập có giảm một chút cũng được. “Không rõ nhân tài nào đã bày ra trò này, nhưng cũng phải nghĩ đến hoàn cảnh của tôi chứ!” Đứng nhìn hàng dài rôbốt đang làm việc, Yuuji tặc lưỡi. Đúng lúc đó, Yuuji nghe thấy tiếng còi báo động vang lên từ hướng anh vừa đi qua. Không cần nhìn đèn nhấp nháy, anh đã cất bước về phía rôbốt phát ra tín hiệu. Chỉ cần chút khác biệt trong âm thanh, Yuuji có thể biết ngay là con rôbốt nào. Hơn nữa, chi có vài đối tượng quen thuộc là hay gặp sự cố như vậy. “Quả đúng là mày à.” Anh nhìn Haruko, càu nhàu. Haruko đã dừng hoạt động trong khi rút linh kiện từ thiết bị cung cấp. Tuy nhiên, lỗi không nằm ở rôbốt Haruko mà ở thiết bị cung cấp linh kiện. Do phương thức sản xuất đa dạng sản phẩm với số lượng nhỏ1, thiết bị này nhả ra nhiều linh kiện có kích cỡ khác nhau. Vì vậy máy cũng hay bị nghẹt như thế. Thiết bị cung cấp linh kiện nằm giữa Haruko và Naomi. Yuuji nhòm vào kiểm tra, quả nhiên là linh kiện bị lệch làm máy nghẹt. Anh cố gỡ ra, nhưng mãi không được. “Khỉ thật!” Yuuji ngẩng lên, nhìn sang Haruko và thì thầm. Đúng lúc đó, Yuuji thấy cái bóng của Naomi đang bắt đầu cử động, hắt xuống thân máy của Haruko. Anh không kịp ngoái đầu lại hay hét lên. Khi anh định chạy trốn, cánh tay bằng thép thon dài của Naomi đập mạnh vào đầu anh, vốn chỉ đang đội mũ đồng phục. Yuuji mất ý thức trong giây lát, gục xuống mặt bàn trước con robot. Naomi đổ sập xuống cơ thể anh. Yuuji rên rỉ yếu ớt, sau đó tiếng rên tắt đi. Vài giây sau, Naomi bắt đầu phát còi báo động. Tuy nhiên không có ai lao đến. Sự việc xảy ra vào 3 giờ khuya. Ngoài Naomi và Haruko, những con rôbốt khác vẫn làm việc miệt mài. Phải một lúc sau, những cỗ máy đã mất người quản lý ấy mới báo còi ầm ĩ vì đủ loại hỏng hóc. Mời bạn đón đọc Trái Tim Của Brutus của tác giả Higashino Keigo & Nguyễn Quang Phương (dịch).
X.30 Phá Lưới
Trong các tác phẩm của nhà văn Đặng Thanh, nổi bật nhất là tiểu thuyết “X 30 phá lưới”. Tác phẩm này được viết ở miền Bắc nhưng năm 1975 mới in trên Báo Sài Gòn Giải Phóng, sau in thành sách. Lúc đó nhà văn Đặng Thanh đang làm bên Tòa án nhân dân TP HCM. Vào thời đó, đất nước mới giải phóng, trên thế giới vẫn còn hai phe Xã hội chủ nghĩa, đứng đầu là Liên Xô và Tư bản chủ nghĩa đứng đầu là Mỹ, những tác phẩm văn học còn ít, đặc biệt truyện tình báo, phản gián rất thiếu. Từ đó, truyện này  khi xuất bản trong nước đã gây sốt trên văn đàn. Sau đó, tác phẩm được dịch ra nhiều thứ tiếng và nhiều nước xuất bản: Nga, Bungari, Nhật, Mỹ… Khi biết tin một nhà xuất bản ở Nhật in tác phẩm này, một người quen của nhà văn Đặng Thanh đã kiện ông, đòi quyền tác giả và nhuận bút. Theo lời kể của ông Tuấn Phương và vợ chồng ông Tuấn Dũng, lai lịch của chuyện này như sau: Khi bắt đầu viết “X 30 phá lưới” thì gia đình ông Thanh còn ở miền Bắc, do bận rộn nên ông Thanh nhờ một người thầy giáo dạy Văn sửa giùm lỗi chính tả trong bản thảo. Vì cũng bận nên người thầy giáo này lại nhờ một đồng nghiệp cũng dạy Văn làm giùm. Khi truyện in trên báo thì không thấy người này lên tiếng đòi hỏi quyền lợi, nhưng khi nghe tin một nhà xuất bản ở Nhật in tác phẩm này, thì người thầy giáo sửa giùm bản thảo kia kiện ra tòa đòi tác quyền và nhuận bút. Tại tòa, ông này không trưng ra được bằng chứng gì chứng minh mình là tác giả. Ngược lại, nhà văn Đặng Thanh đã trưng ra nhiều bằng chứng thể hiện mình là tác giả. Đối chiếu các bằng chứng và xét lai lịch của hai người, tòa án kết luận ông Đặng Thanh là tác giả của “X 30 phá lưới” vì chỉ có những người làm trong ngành tình báo hoặc có tư liệu về nó mới am tường mà viết ra được những truyện về tình báo. Trong khi đó, ông thầy giáo kia chỉ là một giáo viên dạy Văn, không thể có tư liệu, vốn sống và sự hiểu biết, trải nghiệm như ông Đặng Thanh. Tuy nhiên, tòa cũng tuyên nhà văn Đặng Thanh phải viết lời cảm ơn cho người thầy giáo kia. “Chuyện đó thì không phải đến lúc tòa tuyên, bố tôi mới làm. Khi xuất bản, ngay trang đầu, ông đã viết lời cảm ơn nhiều người, trong đó có người thầy giáo kia”, ông Tuấn Phương chia sẻ. Mấy chục năm trôi qua, những tác phẩm của ông vẫn được tái bản, làm say mê hàng triệu độc giả. Đọc truyện của ông để hiểu thêm và tự hào về lịch sử, trí tuệ của dân tộc Việt Nam. *** Nhà văn Đặng Thanh nổi tiếng trên văn đàn thập niên 70 - 80 thế kỷ trước với những tiểu thuyết tình báo, phản gián, trong đó nổi bật nhất là cuốn “X 30 phá lưới” nói về nhà tình báo Phan Thúc Định. Tác phẩm này từng được dịch ra nhiều thứ tiếng và xuất bản tại: Nga, Mỹ, Nhật, Bungari... Cũng vì sự nổi tiếng đó mà ông dính vào chuyện kiện cáo lôi thôi. Những người sinh vào thập niên 70 trở về trước và sống ở miền Bắc, miền Trung hẳn không lạ gì với “X 30 phá lưới” của nhà văn Đặng Thanh. Trong trí nhớ của tôi, lúc đó còn là một đứa trẻ 9-10 tuổi sống ở miền quê nghèo Hà Tĩnh, những người trong xóm chuyền tay nhau đọc tác phẩm này đến quăn queo. Chúng tôi say mê theo nhân vật Phan Thúc Định với những tình tiết ly kỳ trong hành trình xâm nhập vào cơ quan đầu não của chính quyền họ Ngô. Ngưỡng mộ nhà văn và nhân vật của ông, không ngờ mấy chục năm sau, tôi lại có cơ duyên được “gặp lại” ông và nhân vật X 30. *** Tháng 8 năm 1945, Ngô Đình Diệm bị bắt tại Đức Phổ (Quảng Ngãi) khi hắn trên con đường chạy trốn. Vì có nhiều nợ máu đối với Cách mạng trong thời kỳ là tri phủ Tuy An, quản đạo Ninh Thuận và tuần vũ Khánh Hoà, Uỷ ban khởi nghĩa địa phương chuẩn bị đưa hắn ra xét xử trước Tòa án Nhân dân. Nhưng có lệnh giải hắn ra Bắc… Chính quyền nhân dân lúc bấy giờ mới thành lập. Với chính sách đại lượng khoan hồng, Hồ Chủ Tịch không những đã ban ơn tha tội chết cho hắn, lại còn cho phép hắn được ở thủ đô, đãi ngộ hắn như khách, cho hắn được tự do đi lại, rồi sau đó, được vào ở hẳn trong một nhà thờ Thiên chúa giáo ở phố Hàng Bột theo sự thỉnh cầu của hắn. Tuy biết hắn là một tên tráo trở, đã từng làm tay sai đắc lực cho Pháp, bị Phạm Quỳnh hất cẳng thì chạy theo liếm gót Nhật, đến khi Nhật đầu hàng đồng minh thì lại tìm cách quay về với chủ Pháp, Cách mạng vẫn mở rộng cửa với hắn, tạo điều kiện cho hắn trở về với con đường của dân tộc. Thế nhưng, sau khi được vào ở trong nhà thờ, Diệm đã thông qua một cha cố Pháp để bắt liên lạc với tướng Lơ-cờ-léc (Leclerc) chỉ huy quân đội Pháp, đóng ở trong thành. Tướng Leclerc đã lệnh cho Phòng Nhì Pháp giải thoát Diệm. Phòng Nhì Pháp đã giao việc thực hiện cho một người giúp việc bí mật của chúng là Phan Thúc Định – con của tuần vũ Phan Thúc Ngân, bạn thân của Diệm – đưa hắn vào thành, rồi bằng phương tiện của quân đội, Pháp bí mật đưa Diệm sang Hồng Kông. Từ đó, Diệm về Sài Gòn, sang Paris. Tuy ra tay cứu Diệm nhưng không tin Diệm bằng những tên tay sai khác, nên hắn không có vai vế gì trong chính phủ bù nhìn do Pháp dựng nên. “Sau bao năm từng lê gót nơi quê người”, như sau này hắn đã phô trương, Diệm tìm đường sang Tô-ky-ô (Tokyo), nói là đi thăm Kỳ - ngoại hầu Cường Để, nhưng thực ra, hắn chủ tâm đi tìm chủ mới. Tháng 2 năm 1950, một người Mỹ tên là Phi-sin (1) đến gặp hắn tại khách sạn Đại Đông Á, đưa cho Diệm bức thử của Hồng Y Giáo chủ Spen-man (2), mời Diệm sang Mỹ. Kèm theo bức thư, Phi-sin đã đưa cho Diệm một ngân phiếu mười vạn đôla lãnh tại ngân hàng Tô-ky-ô. Năm 1951, Diệm sang Mỹ được Hồng Y Giáo chủ Spen-man nhận làm con đỡ đầu và cho ở tại chủng viện Ma-ry Nôn (3). Hai năm sau, CIA đưa vào học trường đại học Michigan (Mi-sit-găng). Lúc này hắn vừa tròn 53 tuổi. Tại đây, câu chuyện bắt đầu…   Mời các bạn đón đọc X.30 Phá Lưới của tác giả Đặng Thanh.
Sự Thật Về X.30
Từ những năm đầu của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, nhà văn Đặng Thanh đã phụ trách công tác tình báo phản gián ở Trung Trung bộ.         Trong kháng chiến chống Pháp, anh là một trong số người lập ra Ban Phản gián. Từ sau ngày toàn quốc kháng chiến cho đến những năm đầu của thập kỷ 50 ở miền Trung Trung bộ, anh cũng là người duy nhất còn sống được Hồ Chủ tịch xét thành tích và tặng huân chương Kháng chiến hạng nhì đầu tiên trong toàn quốc, vì đã có công lớn trong việc xây dựng cơ sở ở vùng địch hậu và lập được nhiều chiến công. Thu được nhiều tài liệu quan trọng, đoạt được nhiều vũ khí và thu được nhiều kết quả trong công tác địch vận". (1949)         Trong sự nghiệp chống Mỹ, anh đảm nhiệm Phòng Phản gián trong Cục Phản gián X. của Bộ Công an. Sau đó anh được chuyển sang ngành Tòa án Nhân dân được ủy ban Thường vụ Quốc hộị bổ nhiệm làm Thẩm phán Tòa án Nhân dân tối cao.         Do những thành tích trên, nhà văn Đặng Thanh được tặng thương huân chương Chiến thắng hạng nhì, huân chương Kháng chiến hạng ba, huân chương Kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng nhất, huân chương Bảo vệ an ninh Tổ quốc và bằng khen của Chính phù về thành tích Công an.         Người chiến sĩ phản gián tài ba Đặng Thanh, đồng thời lại là một nhà văn được đông đảo bạn dọc ái mộ.         Cương vị công tác và sự lịch lãm trong cuộc đời đã giúp nhà văn sáng tác một loạt truyện tình báo phin gián như:CẨT VÓ (1967), X.30 LƯỚI (1976),TẤM BẢN ĐỒ (1983), ĐỌ sức (1986), LẦN THEO CHUỖI HẠT (1987), NỮ DIỆP VIÊN SAO CHĂMPA (1988), ĐI TÌM THẦN CHẾT (1989), LÁ THƯ VĨNH BIỆT CỦA JACQUELINE (1990)...         Đọc truyện tình báo của nhà văn Đặng Thanh ta không thấy nhiều pha đánh đấm, bắn giểt như trong phần lớn các truyện tình báo Âu- Mỹ. Dưới cây bút của nhà văn hiện lên người tình báo Việt Nam hào hoa, phong nhã, vì thương dân đến dám coi thường tính mạng; đầy trí tuệ để dối phó với những tình huống tường như không sao thoát được; bên cạnh những éo le đau thắt của con người trước một bên là nhiệm vụ đối với Tổ quốc và bên kia là những tình cảm tan nát của con tim; những mất mát cá nhân không gì bù đắp nổi để hoàn thành nhiệm vụ Cách mạng. Đó là những trang hồi hộp qua những cuộc đấu trí, đấu lực có thật giữa chiến sĩ tình báo của ta chống màng lưới dày dặc của mật vụ, điệp báo dịch, CIA Mỹ, ngay tại sào huyệt của kẻ thù trên cuộc chiến đấu thầm lặng. Đó là những trang rung động se thắt trước bao nhiêu bi kịch nội tâm, vô vàn thảm cảnh xã hội trong vùng địch tạm chiếm mà nay, nếu không ai nhắc lại, thì thời gian sẽ sớm phủ lên lớp bụi lãng quên.         Trái tim nào không ngậm ngùi khi đọc bức thư tuyệt mệnh của Vân Anh trong 'X.30 PHÁ LƯỚT' Ai gấp cuốn truyện lại mà nén được tiếng thở dài trước số phận của Jacqueline. Bao nhiêu bóng ma đằng sau các báo cáo thắng lợi. Năm 1976, quyển truyện X.30 PHÁ LƯỚI của Đặng Thanh xuất bản lần đầu với số bản in 200.000 cuỗn được đông đảo bạn dọc hoan nghênh nhiệt liệt; sau đó đã được tái bản. Đó là tiền thân của quyển tiểu thuyết tư liệu tình báo 'Sự THẬT VỀ X.30' mà các bạn có trong tay hiện nay, dày gấp đôi, chứa đựng nhiều tư liệu thật và mới mẻ mà tác giả đã tái hiện.           Với tỉnh chân thật cao, cộng với bút pháp linh hoạt, 'SỰ THẬT VỀ X.30" đã đem lại cho bạn đọc sức cuốn hút ngay từ những trang đầu với những tư liệu trước nay chưa hề ai biết, ly kỳ và bất ngờ trong thực tế đấu tranh giữa ta và địch trên chiến trường thầm lặng.         Với phương pháp làm việc khoa học, chuẩn mực, tác giả Đặng Thanh đã có những nhận định mới mẻ, có khác với những suy nghĩ của nhiều nhà văn, nhà báo về tính cách và đời tư của các nhân vật phản diện như Ngô Đình Diệm, Trần Lệ Xuân, Ngô Đình Nhu, ...         Cuốn truyện có trên một trăm nhân vật thật, trong số này có nhiều cán bộ và chiến sĩ công tác trong ngành Công an nhân dân đương thời và hiện nay một số vẫn còn sống. Kèm với câu chuyện, tác giả đã sưu tầm giới thiệu hình ảnh nhiều nhân vật chủ yếu như X.30, Vũ Long, vị hôn thê của Phan Thúc Định, Vân Anh, Tố Loan, Hồng Nhật, Trần Mai, ... và hình ảnh về gia đình Ngô Đình Diệm, Ba Cụt, Trịnh Minh Thế, vũ nữ Cẩm Nhung, người yêu của Hai Paul con trai Bảy Viễn, v.v...         Trước những nhân chứng của lịch sử đã được tác giả trình bày, mô tả một cách sinh động, tiểu thuyết 'Sự THẬT VÊ X.30' làm cho người đọc thích thú, làm sống lại một giai đoạn đấu tranh quyết liệt giữa ta và địch qua hai cuộc trường kỳ kháng chiến, đánh dấu sự trưởng thành của ngành Công an nhân dân phục vụ cho sự nghiệp Cách mạng vô cùng hào hùng của dân tộc ta.         Xin trân trọng giới thiệu với độc giả thân mến tác phẩm của nhà văn Đặng Thanh. Giáo sư LÊ ANH TRÀ                      Viện Trưởng VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT VIỆT NAM     *** Tác phẩm nổi bật nhất của nhà văn Đặng Thanh là tiểu thuyết “X30 phá lưới”. Tác phẩm này được nhà văn viết ở miền Bắc nhưng năm 1975 mới in trên báo Sài Gòn Giải Phóng, sau in thành sách. Lúc đó, nhà văn đang công tác tại TAND TP. Hồ Chí Minh. “X30 phá lưới” gây tiếng vang lớn trên văn đàn, tạo nên “cơn sốt” trong dư luận. Sau đó, tác phẩm được dịch ra nhiều thứ tiếng và xuất bản ở nhiều nước như Nga, Bungari, Nhật, Mỹ… Khi biết tin một nhà xuất bản ở Nhật in tác phẩm này, một người quen của nhà văn Đặng Thanh đã kiện ông, đòi quyền tác giả và nhuận bút. Theo lời kể của ông Tuấn Phương và vợ chồng ông Tuấn Dũng, nguyên do dẫn đến chuyện lùm xùm như sau: Do bận rộn nên nhà văn nhờ một người thầy giáo dạy văn sửa giùm lỗi chính tả trong bản thảo “X30 phá lưới”. Vì cũng  bận nên thầy giáo này lại nhờ một đồng nghiệp cũng dạy văn làm giúp. Khi truyện in trên báo thì không thấy người này lên tiếng đòi hỏi quyền lợi, nhưng khi nghe tin một nhà xuất bản ở Nhật in tác phẩm này, thầy giáo sửa giùm bản thảo kia kiện ra tòa đòi tác quyền và nhuận bút. Tại tòa, ông này không trưng ra được bằng chứng gì chứng minh mình là tác giả. Ngược lại, nhà văn Đặng Thanh đã trưng ra nhiều bằng chứng thể hiện mình là tác giả. Đối chiếu các bằng chứng và xét lai lịch của hai người, tòa án kết luận ông Đặng Thạnh là tác giả của “X30 phá lưới” vì chỉ có những người làm trong ngành tình báo hoặc có tư liệu về nó mới am tường mà viết ra được những truyện về tình báo. Tuy nhiên, tòa cũng tuyên nhà văn Đặng Thanh phải viết lời cảm ơn cho người thầy giáo kia. “Chuyện đó thì không phải đến lúc tòa tuyên, cha tôi mới làm. Khi xuất bản, ngay trang đầu, ông đã viết lời cảm ơn nhiều người, trong đó có người thầy giáo kia” - ông Tuấn Phương chia sẻ. Mấy chục năm trôi qua, những tác phẩm của nhà văn Đặng Thanh vẫn được tái bản, làm say mê hàng triệu độc giả. Đọc truyện ông bạn đọc càng hiểu thêm về một giai đoạn lịch sử và càng tự hào về những chiến sĩ cách mạng mưu trí, dũng cảm... *** PHẦN MỘT BIẾN ĐỔI 1. PHAN THÚC ĐỊNH         - Anh từ Nghệ An ra ? - Ngô Đình Nhu hỏi người.thanh niên có nước da trắng, dong dỏng cao ngồi trước mặt - Bác nhà có được khỏe không ?         Gã buồn rầu trả lời :         - Thưa ông, thầy tôi đã bị bọn Việt Minh sát hại. Chúng tịch thu hết tài sản, ruộng đất qui là của bóc lột. Mẹ tôi phải về nương nhờ bà con bên ngoại. Còn tôi, ở Huế ra.         Ngô Đình Nhu giận dữ và tỏ vẻ bùi ngùi :         - Bọn Việt Minh là thế. Từ nay anh là khách của tôi, anh Phan Thúc Định ạ ! Cụ Thượng1 nhà tôi với Cụ nhà anh vốn là bạn đồng liêu, anh cứ coi như đây là gia đình mình, công việc sau ta sẽ liệu.         Thế là từ hôm ấy, ngày 4 tháng 3 năm 1946, Phan Thúc Định ở tại nhà Ngô Đình Nhu trong khuôn viên Thư viện Quốc gia Hà Nội.         Tuy được giữ làm Giám đốc Thư viện Quốc gia nhưng Nhu vẫn ngấm ngầm mang một mối hận thù sâu sắc với Cách mạng và luyến tiếc không nguôi cái thời vàng son trước đây. Đồng lương giám thủ trước kia do Pháp trả rất hậu, vợ chồng Nhu ăn tiêu sung sướng thừa thãi. Trong nhà có người hầu kẻ hạ, ra khỏi nhà là có ô-tô. Cách mạng lên, những thứ đó không còn nữa. Chị vú, con sen cái hạng người quen nô lệ để sai khiến vậy mà đều trở thành những nữ cứu thương, y tá cho Việt Minh. Xe hơi thì chỉ dùng để đi công tác... Nhưng thực ra, đó chưa phải là nguyên nhân chính gây cho Nhu căm thù Cách mạng. Tin Ngô Đình Khôi - anh cả trong gia dinh họ Ngô - bị Việt Minh xử bắn ở huyện Phong Điền, làm cho Nhu bàng hoàng mấy ngày đêm. Sau đó không lâu, Nhu lại được tin Ngô Đình Diệm - người anh thứ ba của Nhu, bị bắt tại Đức Phổ (Quảng Ngãi). Nhu lo lắng Diệm cũng sẽ cùng chung số phận với Khôi và cái gia đình họ Ngô sẻ tiêu tan hết. Nào ngờ lại được cụ Hồ đánh điện bảo đưa ra Thủ đô cho Cụ gặp. Thế là Diệm thoát chết.         Sáng hôm ấy, sau khi dặn người nhà bố trí cho Phan Thúc Định một cản phòng, Nhu đi lễ Nhà thờ Hàng Bột, gặp Diệm. Nhu kể chuyện Phan Thúc Định đến nhà cho biết tin bố anh ta là Cụ Tuần Ngân không còn nửa. Diệm sửng sốt :         - Lạy Chúa ! thật à !         - Vâng, đúng rứa đó anh.         Diệm trầm ngâm một lúc rồi ngước lên nhìn Nhu :         - Chú đã thấy đó, anh Khôi chỉ vì trước đây đàn áp bọn phiến loạn Cộng sản nên bị Việt Minh trả thù. Còn Cụ Ngân trong thời kỳ làm Tuân vũ Hà Tĩnh giết quá nhiều người và làm lắm chuyện thất đức nên không tránh khỏi bàn tay của Việt Minh Cộng sản. Còn tui vì "liêm khiết", "treo án từ quan" nên được Cụ Hồ Chí Minh lượng thứ, nhờ đó mới thoát. Tuy vậy, mỗi ngày còn ở đây là một ngày như "cá nằm trên thớt". Chú xem cách nào liên lạc với người Pháp nhờ họ giải cứu cho tui được không?         Ngô Đình Nhu cắn môi suy nghĩ. Điều Diệm vừa nói ra, không phải là Nhu chưa tính tới. Ngay từ khi đại quân Pháp của tướng Lơ-cờ-lác (Leclerc) đến Hà Nội, Nhu đã bí mật bắt liên lạc với Phòng Nhì và có lần đề nghị với viên chỉ huy Pháp tìm cách cứu Ngô Đình Diệm. Thời kỳ đó, Diệm còn ở Bắc Bộ phủ, khó bề thực hiện, nên viên chỉ huy Phòng Nhì Pháp hẹn khi nào có cơ hội thuận tiện sẽ ra tay giúp đỡ. Bây giờ, phải chăng là cơ hội đã đến. Nhu bèn thú nhận :         - Thưa anh, em đã bắt liên lạc với Phòng Nhì Pháp và củng đã tính đến chuyện nhờ họ bố trí đưa anh ra nước ngoài, nhưng chưa gặp thời cơ. Nay nhân dịp anh đã được về ở đây2, lại có thêm thằng Phan Thúc Định, để em bàn việc này với họ xem sao.         Diệm có vẻ hớn hở, gật gù :         - Rứa mà bây giờ chú mới cho tui biết. Việc ni quan trọng lắm. Chú phải bàn thật kỹ với họ. Và nói với Định đến gặp tui mau lên hí. Phải giữ kín đừng cho thêm ai biết, chú nhớ hí !         Thư viện Quốc gia ở phố Tràng Thi khách đến đọc rất đông. Lợi dụng kẻ vào người ra, Ngô Đình Nhu hẹn gặp bọn gián điệp nước ngoài. Hôm ấy, qua một phụ nữ lai Pháp, Nhu gửi Phòng Nhì một bức thư yêu cầu bố trí cho Phan Thúc Định vào thành gặp tướng Moóc-li-e (Morlière) đề nghị giúp Diệm trốn ra nước ngoài.         Được gặp tên tướng khét tiếng của Pháp, Định đưa thư của Diệm gửi với những lời thống thiết cầu xin cứu mạng. Đọc xong thư Moóc-li-e gọi viên sĩ quan chỉ huy Phòng Nhì đến bàn kế hoạch cứu Diệm và giao Định cho hắn để thực hiện kế hoạch quan trọng này.         Ba hôm sau, đêm 4 tháng 2 âm lịch - trời tối như mực vẫn còn rét ngọt, Phan Thúc Định ngồi trên một chiếc xe hơi nhà binh Pháp, đi đến chỗ quy định đón Ngô Đình Diệm, đưa thẳng vào doanh trại quân đội Pháp trong thành. Việc giải thoát cho Diệm trót lọt. Và cũng bắt đầu từ đêm hôm ấy, Định trở thành nhân viên của Phòng Nhì Pháp.    Mời các bạn đón đọc Sự Thật Về X.30 của tác giả Đặng Thanh.