Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Kinh Cầu cho Một Đứa Trẻ Không Ra Đời

Nhà văn Hung gốc Do thái Kertész Imre sinh ngày 9 tháng 11 năm 1929 tại Budapest- Hungary. Năm 1943, mới 14 tuổi, ông đã trải qua trại Auschwitz, rồi Buchenwald, những trại tập trung phát xít Đức dựng lên để lùa nhốt dân Do thái toàn cõi châu Âu, với mục đích thủ tiêu họ dần dần. Năm 1945, sau khi các trại tập trung được Hồng quân liên Xô giải phóng, Kertész Imre quay về Hungary. Ông làm nhiều nghề khác nhau: nhà báo, biên tập viên cho các báo và văn phòng Bộ công nghiệp, viết lời cho một số nhạc kịch, có lúc làm công nhân trong một thời gian ngắn. Từ 1953 trở đi, Kertész là nhà báo tự do, kiếm sống chủ yếu bằng công việc dịch thuật. Tiểu thuyết đầu tay của Kertész Imre, tác phẩm Không số phận viết trong 13 năm, sau nhiều chờ đợi và chối từ, năm 1975 mới được xuất bản tại Hungary. Nhân vật chính của cuốn tiểu thuyết là một thiếu niên, sau khi đã trải qua những kinh nghiệm sống hãi hùng, trong các trại tập trung của phát xít Đức trở về, cậu trở thành người lớn, một người lớn, vĩnh viễn không bao giờ có thể sống đời sống bình thường như những người khác, chính vì dấu ấn nạn nhân, từ chủ nghĩa bài Do thái, đã để lại sâu sắc trong tâm hồn cậu. Ngày 10 tháng 10 năm 2002, Kertész Imre nhận giải Nobel văn học với cuốn tiểu thuyết Không số phận. Ông trở thành nhà văn Hungary đầu tiên đoạt Nobel văn chương. Tác phẩm Không số phận đã được dịch ra hầu hết các thứ tiếng trên thế giới, và được chuyển thể thành phim năm 2005. Trong các tác phẩm khác viết sau này, Kertész Imre thường phân tích một cách độc đáo và sâu sắc, số phận của những con người, bị quy định như một bi kịch định mệnh trong các tình huống xã hội đặc thù, như trong xã hội Hungary nói riêng và trong lịch sử Đông Âu nói chung. Đó là các tác phẩm: Sự thất bại (1988), Lá cờ Anh (1991), Nhật ký khổ sai (1992) Kẻ khác (1997), Tính sổ (2003)… Tiểu thuyết Kinh cầu cho một đứa trẻ không ra đời , viết năm 1990, thường được coi là câu trả lời tiếp nối của Không số phận. Giới phê bình và độc giả trong nước, đánh giá tác phẩm này là một trong những kiệt tác văn học Hungary- kể cả về nội dung lẫn hình thức thể hiện- trong thập kỷ đầu tiên, khi Hungary trở lại thành một xã hội dân chủ. Ngay với tên cuốn sách, tác giả đã lưu ý bạn đọc đến một loại kinh cầu nguyện, thường sử dụng trong các buổi tang lễ, phúng những người đã mất: đó là kinh Kaddis trong tôn giáo Do thái. Cuốn tiểu thuyết được viết như một lời cầu nguyện, các ý tưởng nối tiếp nhau, dàn trải theo một nhịp điệu nhịp nhàng, Kertész Imre đã sử dụng lối viết độc đáo của văn học truyền thống Do thái khi xây dựng tác phẩm này. Nhân vật chính của cuốn tiểu thuyết là một người đàn ông Do thái, lấy một người vợ Do thái, nhưng ngay từ điểm xuất phát vào đời, người đàn ông này đã quyết định sẽ không có con. Trong một đêm giông tố của cuộc đời, nhân vật chính kể lại tại sao mình lại nhất quyết nói: "Không!” với người vợ (cũ) khi nàng muốn có con, muốn xây dựng tổ ấm với mình. Ông từ chối cơ hội sinh ra những đứa trẻ, từ chối cơ hội, để cuộc sống của mình tiếp nối với những thế hệ con, cháu. Ông chuẩn bị một cái chết từ từ cho mình, và quay lưng lại với cuộc sống. Cuộc đời của nhân vật, là một chuỗi phủ nhận những gì đang tồn tại với mình, và quanh mình. Nguyên nhân của sự phi lý này, chính là toàn bộ quá khứ, đã gây ra những vết thương, giết chết tâm hồn con người, mà Kertész Imre đã phân tích cực kỳ sâu sắc, trong những triết lý thiên tài, về những vết thương còn "mạnh hơn cả tri thức…” Đấy là hậu quả của một quá khứ tổng hợp, của một con người được nuôi dạy trong nền giáo dục thiên chúa giáo cực kỳ nghiêm khắc, của tuổi thơ bị mất, vì sự hà khắc của người cha, của những kinh nghiệm sống sót từng trải, thu thập từ trại tập trung của phát xít Đức. Đấy là toàn bộ sự hiện hữu bi kịch của một người Do thái, trong lịch sử bi thương của dân tộc Do thái. Tiểu thuyết kết thúc bằng kết quả lạc quan bất ngờ: người vợ ly hôn, nàng kết hôn với người khác, và sinh ra những đứa con. Cuộc sống, dù cay đắng bao nhiêu, vẫn tiếp tục đơm hoa kết quả. Người đàn ông- nhân vật chính của tác phẩm, là một nhà văn và một dịch giả - tuy lựa chọn con đường sống độc thân, nhưng với các tác phẩm và dịch phẩm của mình, vô hình chung vẫn kéo dài cuộc sống của chính mình bằng nghệ thuật và văn chương, bằng những giá trị đích thực từ một nền văn hóa tạo ra thế giới con người. Đây là giá trị vĩnh cửu của văn chương và nghệ thuật trong đời sống con người, được nhắc đến như ý nghĩa của tác phẩm. Giá trị nhân bản của tác phẩm, cùng với những triết lý, tuy rất”tự thân”, rất đặc thù của Kertész Imre, nhưng có nhiều tương đồng với những yếu tố triết học đương đại của thế kỷ XX, khiến tiểu thuyết Kinh cầu cho một đứa trẻ không ra đời đã trở thành một trong những kiệt tác văn chương xuất sắc, trong văn chương hiện đại châu Âu, và thế giới. Là một dịch giả tiếng Đức nổi tiếng, tác phẩm của Kertész Imre chắc chắn chịu nhiều ảnh hưởng từ các nhà triết học Đức, Áo mà ông dịch như: Elias Canetti, Sigmund Frend, Hugo Von Hoffmannstahl, Friedrich Nietzsche, Jozseph Roth, Arthur Schnitzler, Ludwig Wittgenstein Để lần đầu tiên tác phẩm của Kertész Imre được xuất bản tại Việt nam, người dịch đã bỏ rất nhiều công sức, cố gắng mang lại cho bạn đọc Viêt nam một ấn phẩm dịch có chất lượng, với mong muốn, sau tiểu thuyết Kinh cầu cho một đứa trẻ không ra đời , người dịch sẽ có dịp giới thiệu tiếp, những tác phẩm ưu tú khác, của nhà văn đoạt giải Nobel Hungary Kertész Imre, giúp bạn đọc tìm hiểu thêm một nền văn học châu Âu cực kỳ đặc sắc: văn học Hungary. Budapest 18-05-2008 Người dịch: Nguyễn Hồng Nhung "Không!” – tôi nói luôn và ngay tức khắc, không do dự và có thể nói, theo bản năng, bởi vì hoàn toàn hiển nhiên, những bản năng của chúng ta hoạt động chống lại chính những bản năng của chúng ta, nói cách khác, những bản năng đối kháng của chúng ta hoạt động thay cho những bản năng thuần tính, thậm chí không quá lời – tôi đang ví von, nếu điều này có thể coi như sự ví von, hoặc cũng vậy, nếu sự thật trần trụi và thảm hại có thể xem là sự ví von. – tóm lại, tôi đang kể cho nhà thông thái đi ngược về phía tôi, sau khi cả ông ta lẫn tôi cùng dừng lại trong cánh rừng sồi đang héo mòn và hổn hển thở có thể nghe thấy được, bởi mắc một căn bệnh, có thể là bệnh lao phổi, rừng cây sồi, hay gọi là cây gì nhỉ: xin thú thật, tôi yếu kém về môn thực vật, riêng cây thông thì tôi nhận ra ngay, do những lá kim nhọn của nó, và những cây sung dâu, bởi vì tôi thích chúng. Cái gì tôi thích, cho đến tận hôm nay, ngay cả bằng bản năng đối kháng, nếu không phải bằng cái cảm giác buốt nhói trong ngực, đau quặn ruột, muốn nhảy dựng lên, như khi tôi phát hiện ra những điều tôi thù ghét, nói thẳng ra là, với sự nhận biết cảm hứng, tôi vẫn nhận ra nó. Tôi không biết, ở tôi, tại sao mọi cái với nhau, luôn luôn khác, đơn giản hơn, nếu tôi biết tại sao tôi không biết. Bởi vì điều này giải thoát tôi khỏi vô số lời giải thích. Nhưng, có vẻ không thể chạy trốn khỏi những lời giải thích, chúng ta luôn luôn giải thích và phân trần, bản thân cuộc sống đòi chúng ta phải giải thích, đây là cái hiện tượng-, cảm giác phiền toái không thể cắt nghĩa, môi trường xung quanh chúng ta đòi lời giải thích, và sau cùng, chúng ta cũng đòi lời giải thích từ ngay bản thân chúng ta, rốt cuộc, chúng ta thành công tiêu diệt tất cả những gì có xung quanh chúng ta, kể cả bản thân mình, hay nói cách khác, chúng ta thành công thanh minh đến vỡ đầu – tôi giải thích cho nhà thông thái hiểu, bằng thái độ nói chuyện gượng ép mà đối với bản thân tôi thật kinh tởm, nhưng không thể chống lại, cái thái độ luôn xâm chiếm tôi khi không có gì để nói, và là thứ, tôi e rằng, cùng gốc rễ với các đồng tiền boa tôi trả trong các quán ăn, trên những taxi, khi đút lót những nhân viên hành chính chính thống, chính xác hơn, nửa chính thống, và tiếp nữa, bằng thái độ lịch sự quá ư tự dâng hiến bản thân, như thể tôi đang sám hối không ngừng vì sự tồn tại, vì sự hiện hữu của mình. Lạy Chúa! Chỉ đơn giản là tôi vào rừng dạo chơi – cho dù đây chỉ là một cánh rừng sồi còi cọc –, trong bầu không khí thoáng đãng – cho dù bầu không khí này đã ô nhiễm chút ít –, với mục đích làm thông thoáng cái đầu của mình, hãy nói như vậy, bởi vì nếu chúng ta không quan tâm vào ý nghĩa của từ ngữ, thì nghe như thế thật hay ho, còn giả sử chúng ta có quan tâm đi nữa, thì, các từ ngữ này cũng chẳng có ý nghĩa gì, như việc cái đầu của tôi không cần thiết phải làm thông thoáng, trái lại, tôi là người rất dễ bị trúng gió. Tôi đốt – đã đốt – thời gian của tôi ở đây, một cách tạm thời (lúc này tôi không lan man sang những điều ngoài đề tài mà từ này tiềm tàng), trong cái thung lũng của dãy núi miền trung nước Hung này, trong một căn nhà, hãy gọi là nhà nghỉ mát, tuy nó xứng đáng được coi là nơi làm việc (tôi vẫn luôn luôn làm việc, và không chỉ sự sống còn buộc tôi phải thế, bởi nếu tôi không làm việc, thì tôi tồn tại, và nếu tôi tồn tại, thì điều đó, tôi không biết, nó buộc tôi làm gì, thành ra tốt hơn, tôi cũng không nên biết, cho dù các tế bào, phủ tạng của tôi, chúng chắc mẩm rồi, chính vì vậy tôi làm việc không ngừng: chừng nào tôi còn làm việc, chừng ấy tôi còn hiện hữu, nếu như tôi không làm việc, có giời biết, tôi có còn hiện hữu hay không, nên, tôi cho là quan trọng, và tôi cũng lấy làm quan trọng, bởi vì đây là cả một mối tương quan nghiêm túc nhất giữa sự sống còn và công việc của tôi, điều này hoàn toàn rõ ràng). Tóm lại, trong một căn nhà, nơi tôi được thưởng cái quyền đến ở với đám trí thức đồng quan điểm hoành tráng, những kẻ mà tôi không có cách gì để tránh họ, tôi có nằm bẹp bất động trong phòng mình cũng vô ích – tiếng lách cách của cái máy chữ của tôi sẽ tố giác ngay nơi tôi ẩn nấp –, tôi vô ích rón rén đầu ngón chân trên hành lang, vẫn cần phải đi ăn, những lúc đó, bằng hiện thực tồn tại không thương tiếc, đồng loại cùng bàn xúm xít quây quần, cũng cần phải đi dạo, thế là ngay giữa rừng tôi đụng trán với tiến sĩ Obláth đi ngược lại, nhà thông thái với cái dáng dấp mập mạp thô thiển, trên đầu sùm sụp phi lý cái mũ lưỡi trai kẻ ca-rô màu nâu xám, trong cái áo khoác cháo lòng tay rộng, với cặp mắt ti hí và khuôn mặt rộng, béo tốt, nhàu nát, giống như bột mỳ chứa bột nở và quả thực đã phồng to, ngài đã tỉnh ngủ hẳn. Thông thái gia, đây là chức danh nghề nghiệp thị dân của ngài, bên cạnh đó, cũng nên biết thêm rằng, và điều này có thể chứng minh bằng danh mục có ghi trong chứng minh thư của ngài, tiến sĩ Obláth là nhà triết học, giống như Immanuel Kant, như Baruch Spinoza, hoặc như triết gia Herakleitos của xứ Ephesos, như bản thân tôi là nhà văn và dịch giả, nhưng tôi không đính thêm vào người một danh hiệu đáng nực cười màu mè nào khác với những tên tuổi khổng lồ, những người là nhà văn và – đôi khi – cũng là dịch giả đích thực, bởi vì ngay khi chưa làm điều này, tôi, với nghề nghiệp của mình, cũng đã đủ là một trò cười rồi, và bởi vì hoạt động dịch thuật mang tính chất khách quan, trong mắt của vài người – chủ yếu của các cơ quan chính quyền và, tất nhiên do nhiều nguyên nhân khác, nhưng của bản thân tôi nữa – đôi khi, với chút dáng dấp của những nghề nghiệp minh bạch, nó là tấm ngụy trang cho biết bao bận bịu của tôi. "Không” – một cái gì đó tru lên, rền rĩ trong tôi, ngay lập tức, chính lúc đó, khi vợ tôi (người thực ra từ lâu đã hết là vợ tôi) lần đầu tiên rào đón về chuyện này – về con – và sự khiếm khuyết này của tôi rất chậm rãi, đúng thế, sau rất – rất nhiều năm mới dịu dần đi trong tôi, biến thành nỗi đau nhân thế buồn bã vô tận, như thể cơn giận dữ bùng nổ của Wotan trong buổi chia ly lừng danh, cho đến tận khi, trở thành bè vĩ cầm tắc nghẹn từ những ảo ảnh, rất chậm rãi và nhức nhối, như một căn bệnh từ lâu ấp ủ, như một câu hỏi mạnh mẽ xoáy trong tôi, câu hỏi đó chính là con, chính xác hơn là ta, nhưng được đặt ra vì con, chính xác hơn nữa là (điều này tiến sĩ Obláth cũng đồng tình):): Sự hiện hữu của ta chính là khả năng tồn tại sự hiện hữu của con, xét cho cùng. Hay nói cách khác, tôi như một kẻ giết người, nếu chúng ta muốn chính xác đến tột cùng, muốn tăng đến tận cái không thể, và với chút tự gặm nhấm bản thân cho phép điều này, bởi vì, lạy Chúa, muộn mất rồi, luôn luôn sẽ là sự chậm trễ mất rồi, con không xuất hiện, còn ta tự biết một cách chắc chắn, sau cái khăng khăng ”Không! Không!”, ta đã làm đổ vỡ tất cả, nghiền nát mọi thứ thành bụi, trước tiên là cuộc hôn nhân bất hạnh ngắn ngủi của mình – tôi kể – tôi đã kể – cho ngài Obláth, tiến sĩ khoa Nhân văn nghe, bằng một thái độ lãnh đạm thờ ơ, mà cuộc sống chưa bao giờ dạy thế, nhưng rốt cuộc tôi đã thể hiện thuần thục, khi cần thiết vô điều kiện. Và tất nhiên là cần, vì nhà thông thái đến gần tôi với vẻ mơ màng, tôi lập tức nhìn thấy nó trên cái đầu ngoẹo sang một bên, trên là một cái mũ lưỡi trai nằm bẹp dí, như thể một tên côn đồ láu cá đang tiến lại gần, sau khi đã nốc vài chén, bần thần tính toán, nên tống tôi một cú hay chỉ vòi tiền, nhưng tất nhiên, suýt nữa tôi nói: rất tiếc, ngài Obláth không bần thần, một nhà thông thái không có thói quen trầm ngâm giữa đường, còn nếu có, điều này hiện ra trong hình thái một vấn đề triết học nghiêm trọng, những công việc thấp hèn do những kẻ chuyên nghiệp thực hiện, tương tự, ta đã thấy, cho dù điều chợt lóe trong đầu tôi liên quan đến tiến sĩ Obláth là sự chuyên quyền đích thực và gần như đáng ngờ, bởi tôi không biết quá khứ của ngài, hy vọng ngài đừng kể. Không, nhưng ngài khiến tôi ngạc nhiên, vì một câu hỏi chẳng tế nhị chút nào, như thể một tên du côn vặn hỏi có bao nhiêu tiền trong túi tôi, tóm lại, ngài bắt đầu tra hỏi hoàn cảnh đời tư của tôi, tuy rằng, để mào đầu, ngài cho biết về đời riêng của ngài, với mục đích tạm ứng, làm tiền đề cho trường hợp nếu tôi muốn biết tất cả về ngài, dù tôi không hề quan tâm mảy may, với việc này ngài có thể nhào nặn cái quyền về… nhưng tôi phải dừng cuộc suy diễn này, tôi cảm thấy những chữ cái, những từ ngữ bắt đầu bị cuốn đi, bị trôi dạt theo hướng sai lầm, hướng của luân lí mù mờ, thứ mà đáng tiếc, gần đây tôi nhận ra mình cũng mắc vào, và các nguyên nhân của nó hiển hiện quá rõ ràng trước mắt tôi (nỗi cô độc, sự cách ly, việc lưu đày tự nguyện), như thể những nguyên nhân này khiến tôi phải lo âu, bởi suy cho cùng, chính tôi đã gây nên chúng, như vài nhát cuốc ban đầu vào một cái hố sâu thăm thẳm, đến tận cùng, với từng nhát bổ, tôi cần phải đào xong, để sau này nó nuốt chửng mình (giá có thể, tôi không đào vào đất mà nên đào vào không khí, vì ở đó có đầy chỗ) – Tóm lại, tiến sĩ Obláth hỏi tôi đúng một câu vô tội, tôi có con hay không, trong mọi trường hợp, đây là sự thẳng thắn vô lại, đặc trưng cho một nhà thông thái, hay nói cách khác, bất lịch sự, nhất là trong giây phút tồi tệ nhất, tất nhiên làm sao ngài biết, câu hỏi của ngài không thể phủ nhận, thậm chí còn làm tôi bối rối. Vì sau đấy, tôi đành trả lời bằng sự lên tiếng bắt buộc không thể đừng, bắt nguồn từ nỗi lịch sự quá ư tự dâng hiến bản thân, làm tôi vừa trả lời vừa kinh tởm, mà vẫn cứ phải kể lại, rằng: "Không!” – tôi nói ra luôn và ngay tức khắc, không chút lưỡng lự và có thể nói, theo bản năng, bởi vì hoàn toàn hiển nhiên là những bản năng của chúng ta hoạt động chống lại chính những bản năng của chúng ta, nói cách khác, những bản năng đối kháng của chúng ta đang hoạt động thay cho những bản năng thuần tính, thậm chí: đúng thế, vì những lời nói ngu xuẩn, vì sự hạ thấp bản thân một cách tự nguyện, riêng tư và không động cơ gì của tôi (cho dù tôi có hàng tỷ lý do để nói, như vài dẫn chứng tôi đã nêu trên, nếu tôi nhớ không nhầm), tôi muốn trả đũa ngài Obláth, vị tiến sĩ của khoa Nhân văn, khi tôi tô vẽ lại chân dung ngài giữa cánh rừng sồi (hay rừng phong gì đấy) cằn cỗi, như tôi đã tô vẽ, với cái mũ lưỡi trai bẹp dí, cái áo khoác raglan, và đôi mắt ti hí nhờ nhờ sữa đục trên khuôn mặt rộng, nặng nề nhàu nát, giống tảng bột mì có bột nở phồng to – tôi vẫn cho như thế – đúng, hoàn toàn phù hợp với thực tế. Toàn bộ những điều này, hoàn toàn có thể viết khác đi, một cách cân bằng hơn, rộng lượng hơn, tôi muốn nói thêm: với nhiều tình thương mến hơn nhưng e rằng, tôi chỉ biết viết như thế về tất cả, với ngòi bút tẩm mực châm chọc, một cách chế riễu, có thể hơi nực cười (nhận định điều này không phải việc của tôi), nhưng từ góc độ nào đấy, thật vụng về, như thể có một ai đấy cứ đẩy chệch ngòi bút của tôi đi, khi nó chuẩn bị viết những từ định sẵn, nhưng cuối cùng bàn tay tôi lại cho ra những từ khác, khiến bức tranh phác họa, chả bao giờ chứa tình yêu thương nào trong đấy, đơn giản hơn, sợ rằng, trong lòng tôi chả có tí yêu thương nào, nhưng, – lạy Chúa tôi! – tôi có thể yêu thương ai chứ, và tại sao. Trong khi tiến sĩ Obláth nói một cách trìu mến, đến nỗi vài chia sẻ cốt tủy khiến tôi phải chú ý, cuối cùng (sau này tôi gọi là: một cách định mệnh) đã được tôi ghi lòng tạc dạ. Rằng: ngài không có con, ngài nói, ngài chẳng có ai, ngoài một bà vợ già nua, đang vật lộn với tuổi già, nếu tôi hiểu đúng, bởi vì nhà thông thái giảng giải một cách mờ mịt, hay nói cách khác, định nghĩa một cách bóng bẩy, vì ngài tin là tôi hiểu được, thứ mà tôi muốn hiểu, mặc dù tôi không hề muốn, nhưng tuy vậy tôi vẫn hiểu, tất nhiên. Rằng, tiến sĩ Obláth nói tiếp, cái việc không có con của ngài thực ra chỉ gần đây mới xuất hiện trong đầu, và giờ trở nên thường xuyên, vì thế đúng lúc này, ngài ngẫm nghĩ về nó, trên con đường mòn trong rừng, không thể dừng lại mà không nói về nó, có lẽ, vì ngài đã đứng tuổi, và những khả năng ở tuổi này, ví dụ khả năng có thể sinh được con, đối với ngài ngày càng ít khả năng, thậm chí tuyệt đối mất khả năng, chính vì thế giờ đây ngài thường xuyên nghĩ đến, ngài bảo, ngài nghĩ đến nó "như một cơ hội bị bỏ lỡ”. Đến đây, tiến sĩ Obláth dừng lại giữa con đường mòn, vì trước đó cả hai chúng tôi cùng bắt đầu rảo bước, hai sinh vật xã hội, hai thằng đàn ông trung niên trò chuyện giữa đống lá khô, hai chấm buồn trên nền vải vẽ bức tranh thiên nhiên, hai vết loang phá hoại sự hài hòa vốn chưa bao giờ có của thiên nhiên, chỉ có điều tôi quên mất, tôi lẽo đẽo sau ngài tiến sĩ, hay ngài lẽo đẽo theo tôi, tất nhiên ta không nên đặt câu hỏi kiêu ngạo này ra làm gì, đúng thế, tất nhiên tôi lẽo đẽo sau ngài Obláth, có thể, với mục đích thoát khỏi ngài, bởi vì trong giây phút thích hợp nhất cho mình, tôi có thể quay trở lại; Tóm lại, tiến sĩ Obláth dừng lại giữa đường mòn trong rừng, bằng duy nhất một động tác buồn bã mênh mông, ngài căng cái khuôn mặt phồng to, xệ xuống, thêm nữa, ngài ngước cái đầu có chiếc mũ kỳ quái, lấc cấc về phía sau, rồi ngài treo ánh mắt của mình vào một cành cây ngang tầm mắt, như móc manh áo rách rưới thảm hại, nhưng vẫn sẵn sàng dâng hiến sự phục vụ. Rồi chúng tôi dừng lại giữa chừng như thế, câm lặng, tôi trong luồng thôi miên của ngài, còn ngài, tiến sĩ Obláth, của cây rừng, tôi có cảm giác, mình sắp làm nhân chứng cho một phát ngôn cực kỳ tin cẩn sắp phát ra của ngài; đúng vậy, vì sau cùng, tiến sĩ Obláth lên tiếng, ngài bảo, ngài nói rằng, ngài cảm thấy điều đã xảy ra, hay nói đúng hơn, điều chưa xảy ra, là cơ hội bị bỏ lỡ, có nghĩa là ngài nghĩ không phải đến việc nối dõi, mà đến một điều mang chút tính trừu tượng, và cần phải thú thực rằng, về bản chất cũng là niềm an ủi làm khuây khỏa con người, trong trường hợp ngài đã đáp ứng được – đúng hơn, và chính vì điều này, không đáp ứng được, công việc cá nhân và trên cả cá nhân ở thế gian này, nói cách khác, ngoài sự tồn tại ra, còn cần đảm bảo cuộc sống tiếp tục, sự thoát chết, những thứ được kéo dài và nhân rộng bởi chính các thế hệ tiếp theo, đó là (ngoài sự tồn tại ra) trách nhiệm, có thể nói, mang tính tiên nghiệm, nhưng lại vô cùng thực tiễn của con người đối với cuộc sống, để mình không cảm thấy là què cụt, là dư thừa, và nước đường cùng, là liệt dương bất lực; và ngài cũng không nghĩ đến những viễn cảnh đang đe dọa của tuổi già không nơi nương tựa, không, thực ra ngài sợ cái khác kia, sợ "sự vôi hóa tình cảm”, ngài nói như thế, tiến sĩ Obláth sử dụng đúng những từ này, khi giữa chừng, ngài tiến bước có vẻ như về phía điểm tựa của chúng tôi, phía căn nhà nghỉ mát, nhưng thực ra bây giờ tôi đã hiểu, là về phía sự vôi hóa tình cảm. Và trên con đường này của ngài, tôi lẽo đẽo theo ngài như một kẻ tháp tùng trung thành, trong trạng thái tâm hồn bị khuấy động đến độ thích đáng bởi những từ ngữ đầy khích động của ngài, nhưng tôi không chia sẻ nỗi sợ hãi với ngài, cái mà, tôi e rằng (chính xác hơn là tôi tin rằng, thậm chí tôi biết chắc chắn rằng) chỉ là phút chốc, và, tuy trong mọi trường hợp đều thiêng liêng, nhưng trong hiện thực vĩnh cửu, vẻn vẹn chỉ là nỗi sợ hãi cần được nhúng vào chậu nước thánh mà thôi, vì khi nó xuất hiện, chúng ta không còn sợ nó nữa, không còn nhớ thứ mình đã sợ, bởi vì nó đã lấy đi sức mạnh trên chúng ta, và chúng ta ngập tận cổ trong nó, nó đã là của chúng ta và chúng ta là của nó. Bởi vì đấy cũng chỉ là nhát cuốc vào cái hố, cái hố chôn, mà tôi đang đào vào không khí (vì ở đó tôi nằm xuống thoải mái hơn), cho nên, tôi nói, không phải với nhà thông thái, chỉ với bản thân, rằng đối với sự vôi hóa tình cảm, không cần phải sợ, mà cần phải tiếp nhận nó, ngay cả khi không chào đón trực diện, như chào đón bàn tay cứu vớt hướng về phía chúng ta, bàn tay hiển nhiên giúp chúng ta đi về phía nấm mồ, chắn chắn: vì thưa ngài Kappus, thế giới này không chống lại chúng ta, và nếu nó mang nhiều nỗi hiểm nguy đi chăng nữa, chúng ta hãy cần thử yêu lấy chúng, nếu như, tôi nói xen vào, nhưng không phải với nhà thông thái, cũng không phải với ngài Kappus – anh chàng may mắn đã nhận biết bao thư từ Rainer Maria Rilke – tôi nói với bản thân, là tôi chỉ yêu những nỗi hiểm nguy này, và tôi nghĩ, tuy vậy điều này có gì đấy chưa hợp lý, trong nó cũng có cái gì đấy không thực, mà tôi lúc nào cũng không ngừng nghe thấy, kiểu như một vài nhạc trưởng nghe thấy lập tức cái nốt nhạc kèn đồng, do lỗi in ấn, thổi cao hơn nửa âm. Cái âm thanh giả này, không chỉ từ trong bản thân tôi, mà xung quanh tôi, trong không gian, có thể nói, vũ trụ hạn hẹp hoặc rộng lớn của tôi, lúc nào tôi cũng không ngừng nghe thấy, ngay cả trong khung cảnh thiên nhiên đáng ngờ này, với rừng (sồi, hay phong) còi cọc, với lạch nước hôi hám và bầu trời u ám xỉn màu, lộ ra khỏi hàng cây hom hem, tại nơi, thưa ngài Kappus thân mến, kiểu gì tôi cũng không nghe thấy tiếng gọi thôi thúc của ý nghĩ "trở thành Tạo hóa, để sản sinh, để sáng tạo”, cái ý nghĩ đó, đúng không, chẳng đạt được điều gì trong thế giới nếu không kiểm chứng liên tục và biến nó thành hiện thực to lớn, sẽ chẳng thành gì, nếu thiếu sự đồng thuận của hàng nghìn âm thanh vang lên từ các loài vật và các vụ việc. . . Đúng thế, bởi vì vô ích chúng làm cụt hứng chúng ta (về điều này, tôi chỉ nói có thế), trong bí mật, nếu chúng ta thầm lặng và kỹ lưỡng theo rõi sự tuần hoàn của máu, và những giấc mơ kinh hãi của chúng ta, có nghĩa là, trong bí mật – tôi chỉ trong bí mật này, mới cảm thấy sự đồng thanh của hàng ngàn giai điệu vang lên từ mọi vật và mọi người – chúng ta luôn luôn và khăng khăng muốn sống, một cách rũ rượi, vô hồn, một cách bệnh hoạn, đúng thế, kể cả khi sống như thế này, cũng không được, như thế kia, cũng không xong… Chính vì vậy, hãy đừng mắc kẹt vào cái trạng thái tình cảm này, hay đúng hơn, vào gần như tất cả các trạng thái, hoặc ít nhất, trong tất cả những trạng thái mà tôi cũng tham dự, tôi lại nghe thấy âm thanh sai điệu của chiếc kèn đồng, tôi đặt cho ngài một câu hỏi đụng chạm mạnh đến chuyên môn của ngài, mang tính chất bác học, nhưng tuyệt đối không phải là một câu hỏi thông thái, rằng tại sao cái điều này lại như vậy? toàn bộ đây là sự ốm yếu?, rằng rốt cuộc ở đâu và khi nào "chúng ta đã làm đổ bể những cái quyền của mình”? rằng tại sao, một cách không thể thay đổi được và không gì có thể lay chuyển nổi, chúng ta vĩnh viễn không thể biết cái chúng ta biết? và cứ thế, cứ thế, như thể tôi không biết cái tôi biết, nhưng do bị bắt buộc phải lên tiếng, cái thái độ bất khả kháng, như nỗi sợ hãi nào đấy, kiểu như ngài đang ở giữa đồng hoang ma quỷ: thế là trên khuôn mặt tiến sĩ Obláth, quay trở lại cái nét mặt của nhà thông thái hành chính vùng núi trung nguyên Hungary, nét mặt của kế sinh nhai hạng trung, nét mặt của tầng lớp trí thức hạng trung với những quan điểm hạng trung, vóc dáng hạng trung, tuổi tác hạng trung, tương lai hạng trung, những nếp nhăn của nụ cười thỏa mãn, hạnh phúc, hoàn toàn nuốt chửng đôi mắt ti hí của ngài. Giọng nói của ngài ngay lập trở lại khách quan, thậm chí, cụ thể rành mạch, cái giọng mà đã quen với lối nói bóng nói gió trơn tru, vốn dĩ đầy tự tin, và mới đó vài giây còn thoáng run nghẹn bởi sự đe dọa gần kề của các sự việc rất thực tiễn cuộc sống. Thế là chúng tôi thong thả rảo bước quay về, hai kẻ ăn mặc gọn ghẽ, được nuôi nấng no đủ, tư thế chỉnh chu, hai trí thức thường thường bậc trung, trạc ngoại tứ tuần, quan điểm trung lưu, hai kẻ sống sót theo hai kiểu riêng của mỗi người, hai kẻ vẫn đang tiếp tục sống, hai kẻ đã chết một nửa, và trò chuyện, về những gì có thể trò chuyện, giữa hai kẻ trí thức và hoàn toàn vô bổ. Chúng tôi thảo luận, một cách ôn hòa, nhạt phèo, tại sao không thể tồn tại; bản thân sự tồn tại của cuộc sống, nói cho cùng là một sự vô lại, bởi vì, từ góc độ cao hơn, trong ý nghĩa cao hơn, không được phép tồn tại, đơn giản vì các sự kiện cứ lặp đi lặp lại, ta hãy bằng lòng như thế, lý do để ngao ngán có đủ; chưa nói đến việc đã từ lâu, những tư tưởng tân tiến hơn cũng không cho phép đồng nhất sự hiện diện với sự tồn tại. Chúng tôi đề cập – tất nhiên, tôi không thể nhớ ra tất cả, bởi có hàng trăm đề tài tương tự, vang lên, đúng hơn là kêu boong boong từ cuộc nói chuyện lộn xộn và vô tình này, như một ngàn đêm yêu đương hồi sinh từ quên lãng, với bậc vua chúa, trải dài bằng duy nhất một ý nghĩ sáng tạo – quả thật, tôi không nhớ ra tất cả, nhưng tôi tin: có chăng – toàn bộ bộc lộ vô thức hướng về sự hiện diện của tồn tại, khác xa dấu hiệu của nỗi ngây thơ vô vị, nói như vậy hơi quá, và thực ra không tồn tại – trái lại, đây là triệu chứng cho thấy cần phải tiếp tục, cần diễn biến một cách vô thức, nếu mọi giá cần phải tiếp tục. Và, nếu khả năng sống sót không thành công, điều mà tất nhiên ở mức độ cao hơn (tiến sĩ Obláth), lúc đó không chỉ những biểu hiện mơ hồ được bộc lộ, mà thậm chí sự trái ngược của nó cũng phơi bày, rơi vào vô thức một cách rõ ràng…và tiếp tục, sự vô thức này được biết đến như những nỗi phân tâm… Nhưng, theo những điều trên, để đạt đến sự cảm nhận của nhân loại (tôi) và sự hiện hữu của nó (tiến sĩ Obláth), là trạng thái mà nhân loại luôn cố gắng vươn tới, là niềm tin, là nền văn hóa, và những nghi lễ khác, ngày nay thuần túy là một tai họa… Vì vậy, chúng tôi lại tiếp tục, tiếp tục thổi tiếng kèn đồng lạc điệu, giữa lúc sương mù xanh mỏng hoàng hôn bắt đầu phủ kín ngọn những rặng cây cao đứng sừng sững, che kín một đám đông đang ẩn náu trong khu nghỉ mát, như mầm cây chen chúc dưới lòng đất sâu, nơi bàn đã phủ khăn và bữa tối đang chờ đợi, dao dĩa kêu leng keng, cốc tách chạm nhau tanh tách, đám đông đó đang trò chuyện rì rào, từ nơi đang diễn ra sự thật trần trụi này, tiếng kèn đồng lạc lõng cũng vang lên; vì không thể tự phơi bày bản thân, cuối cùng tôi cũng không rút lui, để thoát khỏi tiến sĩ Obláth: có trời biết tại sao, từ sự trống rỗng, che đậy bằng nỗi bị thôi miên và lối chuyện trò bắt buộc, tôi luôn luôn cảm thấy buồn phiền (kinh tởm), tôi ở lại đến cùng với ngài tiến sĩ để khỏi nghe, khỏi thấy, khỏi nói về điều cần nói, thậm chí, ai mà biết được, cần viết. Đúng thế, và màn đêm đã trừng phạt – hay tặng thưởng?, – vì tất cả những điều này, mang đến một bước ngoặc, một cơn giông bất ngờ ập đến, những tiếng sấm rền trên bầu trời, và chớp giật từng hồi, từng hồi, khắp vũ trụ, rồi lắng xuống, rõ ràng, khúc chiết, ít nhất đối với tôi, những chữ cái rành rọt xuất hiện, và… "Không!” – tôi nói, bởi vì quá tất yếu, những bản năng của chúng ta hoạt động chống lại bản năng, có thể nói, những bản năng chống đối của chúng ta hoạt động thay những bản năng thuần tính. "Không!” – một cái gì đó tru lên, rền rĩ trong tôi, ngay lập tức, chính lúc đó, nỗi ca thán đã gọt rũa, sau rất nhiều năm trôi qua, biến thành nỗi đau da diết, câm lặng, khi chưa qua đi, nó âm ỉ và nhức nhối, như một căn bệnh đang ủ, khắc vào trong tôi một câu hỏi – rằng, con sẽ là một cô bé mắt đen chăng? xung quanh chiếc mũi bé nhỏ của con sẽ là những chấm tàn hương mơ hồ chăng? Hay con sẽ là một cậu bé bướng bỉnh? Đôi mắt vui tươi và ngỗ ngược của con sẽ giống như những viên sỏi xám nhỏ xinh chăng? – đúng, cuộc đời của ta sẽ chính là khả năng tồn tại hiện hữu của con. Cả đêm hôm đó ta chỉ nghiền ngẫm câu hỏi này, lúc dưới ánh chớp chói lòa, khi với cặp mắt hoa lên trong màn đêm, trong khoảnh khắc nén thở, ta như nhìn thấy câu hỏi này khắc trên tường. Những câu chữ tôi viết ra trên giấy, giờ đây, cần coi như tôi đã viết ra hồi đêm, dù trong đêm, tôi sống, đúng hơn là viết, tôi đã trải qua, hay đúng hơn, những nỗi đau khác nhau của tôi, nhất là của những kỷ niệm đã vật vã (với nửa lít rượu cô nhắc). Có thể, tôi ghi bừa vài câu rối rắm vào sổ tay, vào tập giấy trắng luôn bên mình, những câu chữ sau đó tôi không thu thập lại, hoặc nếu có, tôi cũng không hiểu, rồi quên đi. Chỉ sau nhiều năm, đêm hôm đó mới sống lại trong tôi, để sau nhiều năm nữa, giờ đây tôi thử ghi lại, những gì đáng lẽ lúc ấy tôi phải viết ra, vì một đêm quá ngắn ngủi, với những gì cần viết, nếu tôi định viết. Nhưng sao viết được, bởi đêm hôm đó mới là sự mở đầu, có thể không phải sự mở đầu sớm nhất, nhưng chắc chắn là một trong những bước đi đầu tiên của nỗi tỉnh ngộ chín chắn, hay đúng hơn, sự sám hối lâu dài, ai mà biết, dài đến bao giờ, là nhát bổ đầu tiên để đào nấm mồ, cho bản thân tôi – không còn nghi ngờ gì nữa – tôi sẽ trải giường vào những đám mây. Câu hỏi này – cuộc đời của ta chính là khả năng cho sự tồn tại hiện hữu của con – có vẻ đi đúng hướng, đúng vậy, như thể bằng bàn tay bé bỏng, mảnh khảnh, con dắt, kéo ta đi trên đường, mà tận cùng đường chẳng dẫn đến đâu, cùng lắm dẫn đến sự nhận biết vô ích và không thể thực hiện được của bản thân, con đường chỉ đẩy lùi những trở ngại và chướng ngại vật mới tiếp tục tiến bước. Cái gì "có thể?” thậm chí "cần!” không mang ý nghĩa gì hết. Đầu tiên, phải chặn đứng cái thể chất trí thức bậc trung của tôi lại, phải dứt tận gốc rễ, kể cả khi thể chất này, chỉ được tôi sử dụng như bao cao su tránh thai, như thể tôi là một kẻ tình dục bừa bãi, cần thận trọng trong môi trường chứa bệnh AIDS. Chính xác hơn, tôi đã như vậy, bởi từ lâu, tôi không còn là một trí thức bậc trung, tuyệt đối không phải là một trí thức, tôi chẳng là cái gì, tôi sinh ra làm một con người tự thân, ngài J.W.G. từng nói thế, tôi là một kẻ sống sót tự thân, tôi nói, cùng lắm là nhà dịch thuật, đại loại như thế, một khi tôi đã xuất hiện và cần phải tồn tại. Là gì đi nữa, trái với hoàn cảnh đe dọa này, tôi đã tẩy hết thể chất đáng hổ thẹn của một nhà văn Hung thành đạt trên mình, vợ tôi (người từ lâu đã là vợ kẻ khác) bảo: mọi đặc tính của anh đều toát lên thể chất đó (lúc đó, khiến tôi hơi hoảng), nàng không bảo, vợ tôi nói, tôi phải từ bỏ những quan điểm nghệ sỹ, hoặc gì gì của tôi đi, nàng chỉ bảo, vợ tôi nói, tôi đừng tự ti như thế, có nghĩa là nếu anh càng (từ bỏ những quan điểm nghệ sỹ, hoặc bất kỳ lí thuyết gì) anh sẽ càng phải quan tâm đến nó, nghĩa là rốt cuộc, anh phải tự thực hiện bản thân mình, tóm lại phải đạt được thành công, vợ tôi bảo, bởi vì ai cũng cố gắng đạt điều ấy, kể cả nhà văn vĩ đại nhất thế giới, anh đừng tự lừa dối mình, vợ tôi nói, nếu anh không thích sự thành công, thì anh viết để làm gì cơ chứ? nàng hỏi, thật là một câu hỏi độc đáo, nhưng lúc đó tôi chưa có dịp lảng tránh; điều đáng buồn, có thể nàng đã nhìn thấu ruột gan tôi, có thể nàng nói hoàn toàn đúng, có thể tôi có – đã từng có – đủ tư chất, xứng với thể trạng đáng hổ thẹn của một nhà văn Hung thành đạt, tôi có – đã từng có – khả năng bẩm sinh. Nếu không có , tôi phải tạo ra – cần tạo ra, để toàn bộ nỗi do dự và sợ hãi sinh tồn của tôi, có thể biến thành sự ngưỡng mộ bản thân giản dị, mù quáng, không giới hạn, đầy say mê, nếu không đầy lôi cuốn, chí ít cũng hoành tráng, nếu tôi biến nó thành bệnh hoang tưởng đạo đức, và thành một chiến dịch kết tội liên tục, chống những người khác; Mời các bạn đón đọc Kinh cầu cho một đứa trẻ không ra đời của tác giả Imre Kertesz.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Bông Hồng Vàng - K. G. Paustovsky
K. G. Paustovsky (1892 – 1968) là một trong những nhà văn Nga xuất sắc nhất của thế kỷ hai mươi, mang tầm vóc quốc tế. Những tác phẩm của ông đã được dịch sang nhiều ngôn ngữ khác nhau trên thế giới và được bạn đọc khắp năm châu vô cùng ngưỡng mộ. Chính vì vậy ông đã từng được đề cử để trao giải Nôben về văn học.  Ngay từ khi mới xuất hiện trên văn đàn Nga, Paustovsky đã làm cho bạn đọc và giới phê bình chú ý, bởi một giọng văn hết sức độc đáo giàu chất thơ đến mức nồng nàn, càng đọc càng thấm thía sâu xa về cuộc đời, về những nét rung động tinh tế nhất của tâm hồn trước tình người hồn hậu, trước thiên nhiên Nga bình dị mà tráng lệ và vô cùng quyến rũ. Tác phẩm của Pauxtốpki có một ma lực khổng lồ quyến rũ bạn đọc đến với những điều tưởng chừng nhỏ nhặt mà ẩn giấu trong đấy bao ý nghĩa lớn lao về cuộc đời. Người ta thường gọi ông là nhà thơ bị đóng đinh trên cây thánh giá của văn xuôi. Văn của ông là tiếng nói tâm hồn nồng cháy đến mức tột cùng của ông đối với Tổ quốc Nga Xô Viết.  Từ xưa tới nay khi viết truyện ngắn hay tiểu thuyết, các nhà văn đều chú ý đến việc xây dựng cốt truyện sao cho hấp dẫn. Riêng truyện ngắn và truyện vừa của Paustovsky lại không chú ý đến cốt truyện, mà đọc lại rất hấp dẫn. Ông viết truyện theo cốt cách và bút pháp của một nhà thơ, tiêu biểu như tác phẩm “Bông hồng vàng”. *** Cơn bão tuyết tràn vào thành phố từ chập tối. Tắt ánh mặt trời là nhiệt độ hạ xuống đột ngột. Khi cơn bão ập tới, nhiệt độ còn xuống nữa. Không khí khô đến khó thở. Từ trong nhà nhìn ra chỉ thấy trời đất trắng bệch một màu bạc xỉn của băng bụi. Gió quyện chúng quẩn quanh trên mặt đường, xếp thành từng đống ở chân tường. Không một bóng người bóng vật ngoài phố. Thỉnh thoảng mới thấy một chiếc xe tải, chăn trấn thủ bọc kín máy, lạc lõng chạy qua, bụi trắng cuồn cuộn dưới gầm xe. Tì tay trên bậu cửa sổ, tôi bần thần nhìn ra những ngọn đèn đường vàng ệch trong bóng tối nhuốm màu trắng phản chiếu của tuyết già mà rùng mình cảm trước thấy chiều dài ghê gớm của thời gian một đêm mất ngủ. Guenađy Shpalikov, bạn cùng phòng với tôi, nhà thơ chưa được ai biết đến trong những năm xa xôi ấy, quẳng cho tôi một cuốn sách dày cộp, bìa bọc simili: - Đọc đi! Những đêm như đêm nay mà đọc Paustovsky thì đúng lúc lắm. Nếu cậu thích, có thể coi như mình tặng cậu. Đây là tuyển tập. Mình đã đặt mua toàn tập hôm qua rồi. Tôi ngần ngại nhìn cuốn sách dày cộp. Nhưng chỉ vừa đọc mấy chục trang đầu, tôi đã hiểu ngay rằng không gì có thể bắt tôi gấp cuốn sách lại chừng nào tôi chưa đọc xong. Và thế là đêm đó – một đêm giá lạnh mùa đông năm 1956 ở Moskva – tôi đã gặp Paustovsky. Từ những hàng chữ in bình thường trên trang giấy xanh lên màu chao đèn ngủ, những nhân vật sống bước ra, đi lại, làm việc, yêu, ghét, đau khổ, vui, buồn, trong những câu chuyện đầy tình cảm của những xúc động thường là thầm kín và cao cả, trên nền phong cảnh Nga với những hàng bạch dương run rẩy trong gió, những vì sao trong vũng nước đêm, mùi lá mục trong rừng… Tôi nghiễm nhiên trở thành người chứng kiến, người tham gia vô vàn chuyện đời chuyện người, rất thường mà rất lạ, không sao quên được. Là nhờ Konstantin Paustovsky. Và tôi thật sự đã không quên, bởi vì, hơn là những chuyện kể mà ta có thể nghe ở bất cứ ai, trong một đêm đó Paustovsky đã giúp tôi sống một đoạn đời tính bằng nhiều năm, mà là những năm giá trị, khi con người bỗng nhận ra rằng mình không thể giản đơn tồn tại, mà phải được sống thực, sống đầy đủ, với những rung cảm thực, cái duy nhất làm cho cuộc sống của ta phong phú thêm và vì thế có ý nghĩa hơn. Đọc Paustovsky tôi bỗng hiểu tôi hơn, tôi bỗng hiểu mọi người hơn. Và, đây mới là cái chính: tôi chợt hiểu rằng mỗi con người, dù người đó là ai, là nhà bác học, nhà thơ, là ông thợ mộc bình dị…, tất cả, đều là một thế giới phong phú. Thế giới ấy không lồ lộ dưới ánh sáng mặt trời, và ta không thể thấy được nó, càng không thể nhìn rõ nó, bằng cặp mắt lười biếng. Mỗi dòng chữ của Paustovsky nói với chúng ta một cái gì rất mới về cái thế giới không dễ thấy ấy. Tôi đọc mê mải, không biết rằng cơn bão tuyết đã lặng từ lâu, có lẽ từ nửa đêm, và khi tôi gập sách lại thì ánh bình minh màu trắng đục của riêng những chân trời phương Bắc đã tràn ngập khắp phòng. Ngọn đèn đêm vẫn cháy, nhưng ánh sáng màu xanh lơ của nó nhợt nhạt hẳn. Qua một đêm, tuyết đã xếp thành những vồng trắng mịn màng trên bậc cửa sổ. Tôi trở dậy, mở một cánh cửa, lặng ngắm những bông tuyết đang sà xuống. Chúng bay chậm, đung đưa trong gió nhẹ, rồi từ từ đậu xuống những đống tuyết lớn. Tôi chìa tay ra đón tuyết. Lúc đầu, tôi có cảm giác những bông tuyết lảng tránh tay tôi. Nhưng có những bông bạo dạn hơn đến gần, ngập ngừng trong giây lát, rồi mới nhẹ nhàng đáp xuống. Khi tôi thu tay về thì trong lòng bàn tay chỉ còn mấy vệt ướt: tuyết đã tan rồi. Trong khoảnh khắc ấy tôi chợt hiểu rằng tôi đã bỏ qua rất nhiều, nhiều lắm, cái đẹp trên những con đường mà tôi đã đi qua, tính cả về không gian lẫn thời gian. Cũng như trước cái đêm đáng nhớ ấy tôi đã không biết đến cái đẹp của những bông tuyết này, chỉ vì tôi không biết nhìn, chưa biết đến niềm mê say mà cái đẹp mang tới. Paustovsky chỉ cho tôi thấy cái mất mát ấy. Như một người bạn rất gần gụi với ta, như một người thân của ta, Paustovsky bước vào tâm hồn ta rồi ở lại đó, ông thủ thỉ với ta những chuyện tâm tình. Nghe xong những câu chuyện ấy, ta cảm thấy tâm hồn ta lớn thêm, rộng thêm, nhẹ hơn. * * * Văn của Paustovsky, cũng như sự tiếp nhận cuộc đời ở trong ông, những suy ngẫm của ông, mang một sắc thái đặc biệt. Lần đầu đọc Paustovsky, trong cái đêm bão tuyết không ngừng gào thét, tung băng bụi ra khắp nơi và trùm lên tất cả, khi ngọn đèn đêm tỏa ánh sáng nhè nhẹ mơ hồ lên những trang giấy, trong cái thời gian mung lung làm cho con người dễ đi vào mình hơn cả, tôi cảm thấy cuộc sống vụt ngưng lại, nhưng bên cạnh nó lại hiện ra một cuộc sống khác, với đầy đủ đường nét, màu sắc, âm thanh và tình người. Cuộc sống ấy rõ nét đến nỗi ta có thể nhìn thấy, nghe thấy, cảm thấy tất cả những gì thuộc về nó. Nhưng đồng thời nó cũng mơ hồ, huyền ảo, như một cái gì không thực, không dễ có thực, nhưng nó làm ta tin ngay rằng nó thật sự hiện hữu, sung sướng để mà tin. Bởi vì những cái đó đúng là có thực, nhưng lại là những cái, tiếc thay, ta không thể thấy được dễ dàng. Có lẽ, tôi đã nói điều mâu thuẫn. Nhưng, thú thật, tôi không biết diễn tả thế nào những cảm giác mới sinh mỗi lần đọc Paustovsky. Nguyễn Khải nói với tôi về Paustovsky thế này: “Hình như Paustovsky thích thả sương mù vào truyện của ông ta. Cái đó làm người đọc nhiều lúc tưởng những điều ông ta nói giống như những giấc mơ, để rồi sau khi suy nghĩ kỹ, mới tin là chúng có thật, lúc đó họ mới phát hiện rằng mình đã lớn thêm một chút trong tâm hồn”. Tôi thấy đó là một nhận xét xác đáng. Cái hư mà thực, thực mà hư trong Paustovsky là thế. Nói cách khác, trong văn ông thực hư lẫn lộn – trong thực có hư, trong hư có thực. Để làm được việc đó, nhà văn phải rất dày công nghiên cứu cuộc sống, nghiên cứu thật tỉ mỉ, đến chân tơ kẽ tóc, nhập tâm cuộc sống mà mình quan sát, rồi hòa mình vào nó, sống thực với nó. Đến khi ngồi vào bàn viết thì cuộc sống ấy đã thành của mình, còn hơn của mình nữa, vì nó được nghiên cứu, được suy ngẫm, để cuối cùng bật ra chỉ những đường nét chính, những màu sắc chính mà thôi. Đó là cuộc sống trong sự biểu đạt tiết kiệm, được đưa lên giấy chỉ những gì cần thiết nhất, tinh chất nhất, đẹp đẽ nhất. Cách biểu đạt này của Paustovsky giống phong cách làm việc của những họa sĩ Trung Hoa cổ trong trường phái quốc họa. Khác với bạn đồng nghiệp phương Tây, những họa sĩ quốc họa Trung Hoa không bao giờ làm phác thảo cho những bức tranh sẽ vẽ. Họ an nhiên sống trong đời, lặng lẽ quan sát nó, lặng lẽ thu nó vào lòng, nói cách khác, họ sống như mọi người, nhưng chăm chú quan sát cuộc sống đến mức thuộc lòng nó, chỉ đến lúc ấy họ mới nhả tinh chất của nó ra trên giấy trên lụa. Cuộc sống được biểu đạt theo cách ấy hiện ra ở những điểm tập trung nhất, dường như không còn lệ thuộc chủ đề. Những gì không cần thiết, những tạp chất, đều bị họ gạt bỏ không thương tiếc. Nhưng khoan, cũng không hẳn là thế. Bên cạnh những cái thuộc tinh chất ta lại bắt gặp những nét tưởng chừng chẳng có liên quan gì tới chủ đề, có vẻ như thừa. Nhưng thử bỏ những cái thừa ấy đi mà xem – tác phẩm sẽ mất đi vẻ đẹp mà ta đã được thấy. Tức là, chúng là những cái thừa cần thiết, những cái thừa có chọn lọc bằng vô thức, những cái thừa xét cho cùng là cố ý của tác giả. Thiếu những cái thừa đó văn hết là văn. Nó thành xác chết. Tôi sẽ không chứng minh điều này. Nó vô ích như khi ta cố chứng minh vẻ đẹp của một buổi bình minh chẳng hạn. Mà cũng đừng hoài công kể lại những truyện ngắn của Paustovsky. Chúng ta hãy thử nhớ lại “Chú Bé Chăn Bò”, “Gió Biển”, “Chuyến Xe Đêm”, “Người Đầu Bếp Già”… Liệu có thể kể lại những câu chuyện trong những truyện ngắn đó không nhỉ? Có người đã kể, kể rất hay, nhưng nghe xong, tôi nghĩ rằng sự mất mát trong câu chuyện được kể lại có thể tính bằng số bách phân là 90 phần trăm. Paustovsky có thể từ một chi tiết rất nhỏ mà dựng thành một truyện ngắn. Nhưng qua truyện ngắn đó ta được biết không phải một người – nhân vật chính – mà nhiều người, và hơn thế nữa, dấu vết của cả một khoảng thời gian. Cái “hư” trong văn Paustovsky có một đặc tính được nhiều người nhận xét. Dường như ông khám phá được trong tâm hồn ông, và trong tâm hồn người nói chung, sự ưa thích bản năng những cái không bình thường. Cho nên nói về cái bình thường bằng con đường tìm kiếm, lựa chọn để rồi đưa ra cái có vẻ không bình thường lại là con đường ngắn nhất của sự biểu đạt cái đẹp. Nhưng nếu cái không bình thường ấy quá xa lạ với trí tưởng tượng của người đọc thì cũng hỏng, người đọc sẽ đẩy nó ra và người viết thế là hoài công. Cần phải chọn cái không bình thường bình dị, nghĩa là cái có thể có, có thể xảy ra, dường như người đọc có thể thấy nó, nhưng do vô tình đã đi lướt qua nó, đi lướt qua cái đẹp, một cách hững hờ, và giờ đây, khi được nhà văn chỉ cho thấy, mới biết ra để mà nuối tiếc. Khả năng nhìn thấy cái không bình thường trong cái bình thường ở trong ông làm nên nét độc đáo của văn ông. Paustovsky thú nhận rằng khả năng đó bắt nguồn từ tính chuộng lạ vốn có trong ông từ thuở thiếu thời. Ông thuật lại: “Thế giới sặc sỡ của những cái lạ chỉ tồn tại trong trí tưởng tượng của tôi”. “Môn học mà tôi thích nhất ở trường trung học là môn địa lý. Môn này khẳng định với tôi rằng trên trái đất có những xứ sở kỳ lạ. Tôi biết rằng cuộc sống nghèo nàn và vất vưởng của gia đình tôi hồi ấy không thể cho phép tôi nhìn thấy những xứ sở ấy. Mơ ước của tôi không thể thực hiện được. Nhưng không phải vì thế mà nó chết dần chết mòn đâu”. “Tâm trạng tôi khi ấy có thể định nghĩa bằng hai từ: hào hứng và buồn rầu. Hào hứng trước cái thế giới mà mình tưởng tượng ra, buồn rầu vì không thể nhìn thấy nó. Hai cảm giác ấy chiếm thế thượng phong trong những vần thơ thuở thiếu thời của tôi và trong những tác phẩm văn xuôi đầu tiên còn non nớt của tôi”. “Những năm tháng qua đi và dần dần tôi rời bỏ tính chuộng lạ, vẻ diêm dúa, hương vị làm ta mê mẩn, chất bốc của nó và thái độ dửng dưng đối với con người bình dị, không có gì đáng chú ý. Nhưng trong một thời gian dài, trong những truyện dài và truyện ngắn của tôi vẫn cứ còn rơi rớt những sợi chỉ mạ vàng của nó.” Paustovsky kể rằng lần cắt đứt quyết liệt và cuối cùng với tính chuộng lạ ở trong ông xảy ra trong lần ông đi xem nhà chiếu hình vũ trụ Moskva. Cũng như mọi người, ông bị lóa mắt bởi sức sáng tạo của con người với những máy móc kỳ diệu đó. Ông ra về khi trời đã khuya. Một buổi tối tháng Mười với mùi lá rụng trên đường. Paustovsky ngẩng đầu lên. Ông bàng hoàng. Tưởng chừng ông được trông thấy,lần đầu tiên trong đời, một bầu trời thực sự – một bầu trời sống – với muôn vàn vì sao lấp lánh. “Và thế là tôi thấy tất cả những gì tôi viết từ trước tối hôm đó chỉ là giả tạo, hệt như cái nhà chiếu hình vũ trụ với những chòm sao giả của nó”. Sau đêm đó, ông vội vã hủy đi một số truyện ngắn quá diêm dúa và giả tạo mà trước kia ông thích thú. Tuy nhiên, không phải cái gì khác, mà chính lòng ham mê cái lạ trong buổi thiếu thời đã dạy cho ông biết cách nhìn thấy những nét đẹp, và hơn nữa, những nét hoàn toàn không dễ thấy đối với người khác, trong những sự vật tầm thường. Những nét đẹp đó chúng ta gặp luôn luôn trong những tác phẩm của ông, hầu như trên mỗi trang giấy. Chúng làm nên cái thần thái đặc sắc của văn ông. Ngay ở trong những truyện dài “Những Kẻ Lãng Mạn”, “Những Vầng Mây Lấp Lánh”, mà ông than phiền rằng trong đó tính chuộng lạ còn để lại nhiều dấu vết, chúng ta vẫn thấy những nét đẹp nhờ lòng ham mê tính chuộng lạ mà có. Có lẽ cái hại của tính chuộng lạ chỉ ở chỗ nó dễ làm người viết ham cái bề ngoài hào nhoáng mà quên mất cái bề trong còn đẹp hơn rất nhiều của cuộc sống. Về vấn đề này Paustovsky viết: “Tôi cho rằng một trong những đặc tính thuộc sáng tác văn xuôi của tôi là cái thần thái lãng mạn của chúng”… “Cái đó, tất nhiên, là chất riêng của từng người. Đòi hỏi người nào cũng vậy, nhất là nhà văn, phải từ bỏ cái thần thái ấy là lố bịch. Chỉ có dốt nát mới đi đòi hỏi như thế”… “Cái thần thái lãng mạn không hề sống chung dưới một mái nhà với sự quan tâm cấp thiết đối với cuộc sống “thô thiển” và tình yêu đối với cuộc sống ấy. Trong hết thảy lĩnh vực của thực tại và hoạt động của con người, trừ một vài trường hợp ngoại lệ, bao giờ cũng sẵn có những hạt giống lãng mạn… Vì không nhận thấy những hạt giống ấy, người ta có thể giày xéo lên chúng, nhưng cũng có thể ngược lại, tạo điều kiện cho chúng nở rộ, cho chúng lấy mùa hoa của mình làm cho thế giới bên trong của con người đẹp thêm, cao thượng hơn.” Ông phải bộc bạch tâm sự mình như thế, ông phải lớn tiếng bảo vệ phong cách lãng mạn trong văn học như thế là để tự vệ, để chống trả sức mạnh của trào lưu thời thượng “hiện thực xã hội chủ nghĩa” muốn áp đặt phong cách của nó như là một phong cách duy nhất cho nền văn học xô-viết. Paustovsky không rời con đường riêng mà ông đã chọn. Ông cho rằng nó hoàn toàn không có gì trái ngược với con đường chung của các nhà văn của bất kỳ nước nào, bất kỳ thời đại nào, là hướng tới và vẫy gọi mọi người cùng nhau hướng tới Cái Đẹp.3 Từ lâu Paustovsky đã có ý định viết một cuốn sách về nghề văn. Không phải một cuốn sách dạy viết văn, không phải thế, ông không có ý định dạy bảo ai, mà là một cuốn khảo cứu nghiêm túc nói về lao động đặc thù của những người cầm bút và vai trò của họ trong đời sống tinh thần của cộng đồng nhân loại. Trong bài “Thơ Của Văn Xuôi” đăng trong tạp chí “Ngọn Cờ” (Znamya) số ra tháng 9 năm 1953, ông viết rằng ý sáng tác một cuốn sách về nghề văn đã nảy ra trong ông ngay từ trước Thế chiến thứ hai. Ông đã bắt đầu, nhưng chiến tranh đã ngăn trở ông hoàn thành nó. Trong một thời gian hơn mười năm Paustovsky dạy nhiều khóa học văn xuôi tại Học viện văn học Gorky. Nhiều vấn đề có liên quan tới nghề văn và tâm lý sáng tác đã được đề cập. Vì các bài giảng của thầy, cũng như những lời phát biểu của trò, đều không được ghi lại, Paustovsky lấy làm tiếc, mới nảy ra ý tập hợp những tư liệu phong phú đó, bằng hình thức này hay hình thức khác, miễn sao chúng trở thành có ích cho những người viết văn, nhất là cho những người viết văn trẻ, và cho cả những ai yêu thích văn học. Mùa thu năm 1955, tại tỉnh Dubunty, một tỉnh nhỏ nằm bên bờ vịnh Riga, Paustovsky hoàn thành cuốn sách mà ông thai nghén từ lâu. “Bông Hồng Vàng” ra mắt bạn đọc lần đầu trong tạp chí “Tháng Mười”(Oktiabr). Trong bản dịch này, giống như trong nhiều bản dịch ở các nước khác mà tôi được biết (“Bông Hồng Vàng” đã được dịch ra nhiều thứ tiếng), tôi bỏ qua hai chương “Ngôn Ngữ Kim Cương” và “Những Cuốn Từ Điển”. Tác giả dành hai chương này cho việc nghiên cứu những nét độc đáo của tiếng Nga liên quan tới sự thể hiện văn học, xem xét nhiều mặt ngữ nghĩa, các gốc từ, âm hưởng, tiết tấu… của văn ngôn tiếng Nga. Tôi rất tiếc những chương này, nhưng tôi nghĩ không có cách nào truyền đạt cái đẹp thuần khiết của từ ngữ thuộc một ngôn ngữ này bằng những phương tiện không tương thích của một ngôn ngữ khác. Nói chung, trong khi dịch cuốn sách, cảm giác đuối sức là cảm giác tôi thường gặp. Thậm chí ở một vài đoạn tôi cảm thấy hoàn toàn bất lực. Ai cũng biết rằng dịch nếu không phải là phản thì cũng là một cái gì mất mát so với nguyên bản. Trong “Bông Hồng Vàng”, sự mất mát đó không phải là ít. Khi bản dịch hoàn tất, tôi mới hiểu rằng trong việc làm này của tôi chính tác giả đã giúp tôi rất nhiều. Bởi vì mỗi lần đọc đi đọc lại một đoạn văn khó, một hình ảnh đẹp được miêu tả một cách khác thường, cần phải tìm cách để truyền đạt cho tốt nhất, tôi lại phát hiện trong lòng mình một niềm vui, niềm vui này đã giúp tôi vượt qua những khó khăn. Bởi vì trong khi dịch “Bông Hồng Vàng”, tôi hiểu thêm được rất nhiều cái lao động nặng nhọc nhưng cao quý và vi tế tuyệt đẹp của nghề văn (nếu có thể coi nó là một nghề). Tôi sẽ sung sướng nếu qua bản dịch này những ý nghĩ tốt lành của tác giả tới được với bạn đọc. Bởi vì, sau hết, tôi rất yêu Paustovsky. VŨ THƯ HIÊN Mời các bạn đón đọc Bông Hồng Vàng của tác giả K. G. Paustovsky.
Vua Mèo - Đào Hiếu
Vua Mèo là một người đàn ông trung niên, quan hệ với nhiều đàn bà nhưng suốt đời bị ám ảnh bởi kiếp người phù du. Ông là một người uyên bác nhưng lúc say lúc tỉnh, lúc thông thái lúc ngu đần. Lọ Lem là một cô gái hoang dã, vừa sống trong rừng với rắn rít vừa sống ngoài đời với loài người. Tuy nhiên dù ở môi trường nào cô cũng sống hồn nhiên như cây cỏ. Ngày kia chiếc xe của cô tình cờ đâm phải Vua Mèo khiến ông ta bất tỉnh nhiều ngày trong bệnh viện. Khi tỉnh lại, Vua Mèo chạy trốn và Lọ Lem đi tìm ông, dẫn ông vào ở chung trong khu vườn đầy rắn của mình. Vua Mèo càng lúc càng bị ám ảnh bởi cái chết và càng trở nên cô độc. Cùng lúc, Lọ Lem bị cuốn dần vào cuộc sống xô bồ ngoài phố. Vua Mèo bỏ đi tìm một thứ ảo ảnh nơi một hòn đảo huyền thoại. Khi Lọ Lem trở về thì chỉ còn ngôi nhà hoang và bầy rắn độc. Cô liều bơi ra đảo tìm Vua Mèo và họ đã gặp nhau ngoài hoang đảo ấy *** Không biết trong lý lịch nàng tên gì, nhưng mọi người gọi nàng là Lọ Lem vì thấy nàng ăn mặc xoàng xĩnh và không mấy khi nghĩ đến chuyện trang điểm. Tuy vậy, nàng là một thiếu nữ có nhan sắc. Các chàng trai thường rình mò theo dõi chỗ ở nhưng nàng lánh mặt họ một cách tài tình. Có kẻ đã theo tới sát bờ biển, bỗng thấy nàng mất hút trong một xóm chài. Có người từng ngồi đợi trên bờ biển từ năm giờ sáng đến tám chín giờ, không thấy bóng dáng, tưởng hôm đó nàng bệnh, bèn về cơ quan thì đã thấy nàng ngồi ở đó rồi. Liền hỏi. -Cô đến đây bằng lối nào vậy? -Lối thường lệ. -Nhà cô ở xóm chài phải không? -Ở dưới biển. Lọ Lem tiếp tục đánh máy chữ. Cái máy chữ lớn chạy bằng điện, mười ngón tay lướt nhẹ, tạo ra tiếng kêu lách tách. Chàng nọ bỏ đi và nói với bạn bè: -Ðó là cô tiên trên trời bị đày xuống trần gian. Bạn bè gồm bốn năm người ngồi ở quán cà phê dưới gốc những cây nhãn um tùm. Một thanh niên cao lớn ngồi lặng thinh trên chiếc ghế mây nghe chuyện một cách phớt tỉnh. Anh ta hút thuốc lá và nhìn ra phía biển. Buổi sáng trời âm u, mặt biển xám xịt, trầm lặng. Anh ta nói: -Tao có thể nói với tụi bay rằng Lọ Lem là một người cá chính cống. Chính mắt tao đã nhìn thấy cô đùa giỡn với một con cá heo ngoài khơi. Mọi người nhìn chàng trai với vẻ hoài nghi. -Mày nhìn thấy lúc nào? -Lúc chín giờ đêm. -Mày làm gì ngoài khơi lúc chín giờ đêm? -Ði câu. Một mình một xuồng nhỏ. Lúc ấy trăng bắt đầu lên và biển lặng. Không có chút gió. Bỗng tao nghe tiếng cười khúc khích của một cô gái. Tao nổi da gà, tắt phụt ngọn đèn dầu và ngồi thụp xuống quan sát chung quanh. Tự nhiên mặt biển nổi sóng, dưới ánh trăng lung linh, tao nhìn thấy cái bụng trắng ngời của con cá heo. Nó phóng lên cao, lấp lóa ánh trăng rồi nhào xuống nước mất dạng. Lúc ấy tiếng cười của cô gái lại nổi lên. Rõ ràng là giọng cười của Lọ Lem. Rồi tao thấy thân hình mềm mại của cô gái hiện ra, lướt đi trên những gợn sóng. -Thực hay đùa? -Thực trăm phần trăm. -Cô ta có mặc gì trên người không? -Hoàn toàn khỏa thân. Tóc dài, uyển chuyển trong sóng nước trông thật kỳ ảo, lạ lùng. -Nhưng có thể đó chỉ là một mỹ nhân ngư, đầu người đuôi cá. -Không phải. Một cô gái. Cô Lọ Lem chứ không ai khác. -Mày nhận ra tiếng cười à? -Ừ. Tiếng cười. -Nhưng tiếng cười có thể bị lầm lẫn. -Cả giọng nói nữa, anh chàng to lớn khẳng định. Lúc con cá heo bơi đi quá xa, cô gái bèn gọi nó: “Rita! Rita! ” rồi nàng huýt sáo, thế là con vật quay trở lại. Lúc đến gần cô gái, nó phóng lên cao che khuất mặt trăng và cái bụng trắng nõn của nó lại sáng lấp lóa. Cô gái cười khúc khích. Anh chàng vừa theo đuổi cô gái về, ngồi nghe say mê, mắt không chớp, nín thở, người chồm tới, những chàng trai khác thì thích thú quan sát chàng nọ với vẻ châm chọc. Họ không tin câu chuyện kể kia nhưng họ không bài bác, trái lại họ rất thích thú và bịa ra những chuyện khác. Ví dụ: -Cô ta là con dã tràng hóa thân. Tôi đã theo nhiều lần và thấy cô ấy đi về phía cồn cát. Khi có một cơn gió xoáy thì cô ta biến mất trong cát. Bao giờ cô ta cũng biến mất trong cát. -Chui dưới cát? -Dĩ nhiên là không. -Vậy thì làm sao mày biết cô ta biến vào cát? -Chắc chắn là cô ta biến mất trước khi ra đến biển. Lúc ấy chạng vạng tối. Thực ra thì cô ta về sớm hơn nhưng vì thấy có người theo dõi nên cô ghé chỗ này chỗ nọ. Mình không nản lòng. Cô dừng thì mình dừng, cô đi thì mình đi. Ðến chiều thì cô ra đến cồn cát. Gió thổi lồng lộng, mình nép vô bụi gai. Cô tưởng không còn ai theo nên đi nhanh về phía biển, ngược gió. Tóc bay tơi bời, quần áo cô dán vào da thịt, vậy mà cô lướt nhẹ như chiếc lá. Mình chạy đuổi theo, cồn cát mênh mông không một bóng cây, không một mái nhà, không một bóng người, thế mà cô ta cứ lướt đi như con diều. Có lúc mình tưởng như cô ta mất hút trong bóng chiều. Mình sợ. Nhưng không thể lui được nữa. Mình chạy bay tới, chỉ còn cách cô có vài thước. Thế là cô quay lại, cười khúc khích. Chợt đâu một cơn lốc xoáy cuộn đến, cát tung mù mịt, cát bắn vào da đau điếng. Mình phải ngồi thụp xuống ôm mặt một lúc khá lâu. Khi gió lặng, mở mắt ra thì cô gái đã biến mất, còn lại mỗi mình giữa cồn cát tối mịt. Mình cắm đầu chạy, cỏ gai cắt nát bàn chân. Gió cứ hú từng cơn. Rõ ràng là cô ta đã biến mất trong cát như con dã tràng. -Cũng có thể cô ta theo cơn lốc xoáy lên trời. -Không. Trên trời lúc ấy không có gì ngoài ráng chiều đỏ như máu. Cái màu đỏ ấy làm mình khiếp đảm. Một chàng trai khác lại nói: -Tôi thì đuổi theo tận khu rừng. Các bạn có đến đó bao giờ chưa? -Tôi nhìn thấy nó từ ngoài biển. -Tôi theo đến tận nơi những không thể xâm nhập vào khu rừng ấy được. -Vì sao? -Rắn. Ðó là giang sơn của rắn. Không phải chỉ có dưới đất. Cô ta vừa lẫn vào rừng bạch đàn là tôi bám theo liền. Bỗng nhiên từ trên cành cây thòng xuống một con rắn hổ đất. Nó thở phì phì, mang bạnh ra, vươn cổ đến sát mặt tôi. Rồi những tiếng phì phì như thế nổi lên khắp nơi. Cây cỏ xung quanh xao động. Trong bóng chiều lờ mờ tôi nhìn thấy đàn rắn độc đang trườn tới chỗ tôi đứng. Tôi quay đầu chạy. Trời ơi, thế mà cô ấy đi vào rừng thảnh thơi như không. -Thôi, đừng xạo, một chàng trai có gương mặt khắc khổ, buồn rầu nói, tất cả những gì các anh nói từ nãy giờ đều xạo hết. Lọ Lem là một cô gái bình thường như mọi cô gái, là bạn của tôi và tôi rất yêu Lọ Lem. -Nhưng vấn đề là cô ấy có yêu mày không? -Ðiều đó không quan trọng. Cũng như chuyện nàng ở đâu, con cái nhà ai đối với tôi không quan trọng. -Vậy cái gì mới là quan trọng? -Sự có mặt của Lọ Lem trên đời này là quan trọng. Cũng như sự có mặt của biển trên trái đất. Người thanh niên cao lớn lúc nãy cười khẩy, đánh một que diêm và đưa ra giữa mọi người. Anh ta nói to: -Mặc kệ các vị tin hay không tin, tôi xin thề rằng những điều tôi nói là sự thật. -Tôi cũng xin thề. -Xin thề. Mọi người đều đốt thuốc từ lửa của que diêm ấy, chỉ có chàng trai khắc khổ và si tình kia thì lẳng lặng đứng lên và bỏ đi một mình về phía biển. o O o Anh ta là một nhân viên cùng cơ quan với Lọ Lem. Nhà xa, nên buổi trưa phải ở lại. Anh đem cơm theo ăn và nghỉ trưa trên bàn làm việc. Lọ Lem thì chọn cái kho giấy. Ðó là một căn phòng rộng thênh thang, giấy cuộn chất cao như núi. Giữa những cuộn giấy khổng lồ trắng tinh ấy là những khoảng trống. Lọ Lem thích nằm ở đó vì giống như nằm trong hang đá và vì giấy có mùi thơm riêng của nó, gợi cho cô nhớ tới mùi gỗ bạch đàn trong khu rừng mênh mông của cô. Chàng trai thì nằm và nghĩ về cô gái. Chàng ít khi ngủ được và thường chỉ nằm độ mười phút là trở dậy. Cuối cùng chàng quyết định đến kho giấy để trò chuyện với Lọ Lem. Trước đây chưa bao giờ chàng dám có ý nghĩ táo bạo như thế. Chàng leo lên những cuộn giấy lớn và tìm kiếm những hang hốc. Chàng huýt sáo và nằm rạp xuống chờ đợi. Vẫn im lặng, chàng lại gọi: -Lọ Lem ơi! Lọ Lem! Vậy là nghe tiếng cười: -Xuống đây! Cô gái nói. Tôi biết chỗ anh trốn rồi. Nhưng chàng vẫn chưa phát hiện ra chỗ của Lọ Lem. Chàng nhảy liều xuống và ngạc nhiên khi thấy cô đang thay áo. Lọ Lem chẳng có vẻ gì là mắc cỡ. Cô nói: -Vô đây. Rồi cô nắm tay chàng kéo vào cái hang nhỏ xíu của mình. Cô gái mới chỉ cài được có một cái cúc áo vì thế chàng thấy thấp thoáng cái rún phẳng lặng và xinh đẹp của cô. Cô gái nói: -Tôi mắc cột tóc. Anh cài nút áo giúp tôi đi. Chàng trai run lên và không cài được cái nào cả. -Sao thế? -Sợ. -Sợ gì? -Không biết sợ gì. -Có gì mà sợ. Chàng trai nóng mặt. Lọ Lem tự cài nút áo cho mình rồi bảo chàng ngồi xuống chiếu. -Anh ăn trưa chưa? -Rồi. -Ăn thêm với tôi? Chàng trai nhìn cô gái đăm đăm và hỏi: -Người ta nói cô ăn chay phải không? -Tôi ăn uống bình thường như mọi người. -Nhà ở đâu? -Anh giữ lý lịch của tôi mà. Trong đó có ghi địa chỉ. -Nhưng cô không ở đó. Người ta nói cô ở dưới biển, có người nói cô ở trong cồn cát, người khác bảo cô ở trong rừng bạch đàn. Thế cô ở đâu? -Tôi ở nhà tôi. -Hôm nào tôi đến nhà chơi, được không? -Không được. -Sao vậy? -Tôi không thích. Cô lấy trong gói giấy ra mấy trái xoài chín. Chàng trai cúi đầu ngẫm nghĩ rồi lại đăm đăm nhìn cô gái. Lại hỏi: -Lọ Lem theo đạo Phật phải không? -Không theo đạo gì cả. -Sao ăn chay trường? -Có ăn chay đâu. Nhưng tôi thích trái cây. Chàng trai lại im lặng. Chàng thở dài, mặt buồn hiu, khốn khổ. Lại nói: -Này, Lọ Lem. -Gì vậy? -Cô có yêu ai chưa? -Yêu để làm gì? -Yêu thích lắm Lọ Lem ạ. Cũng giống như tôi yêu cô vậy. Tức là thấy nhớ. Muốn gặp gỡ nói chuyện. Nhất là nhớ. Nhớ lắm. Lọ Lem đang gọt xoài chợt ngừng tay nhìn sững chàng trai. -Sao anh không cho tôi hay? -Tôi sợ cô giận. -Không giận đâu. Có gì anh cứ nói, tôi sẽ giúp. -Vậy thì tôi yêu cầu thế này nhé, cô đừng ngồi ở góc phòng mà ra ngồi gần hành lang. -Chi vậy. -Ðể mỗi lần tôi đi ngang qua có thể nhìn cô được. -Anh thấy tôi đẹp lắm hả? -Ðẹp. -Tôi cũng thấy tôi đẹp. Cuộn giấy rung rinh, tiếng ai thở nặng nhọc. Hai người cùng ngước nhìn, thấy một cái mặt đàn bà sồn sồn khô đét hiện ra. -Ai nói chuyện gì rầm rì vậy? -Dạ em đây, chị Mỹ. Chàng trai nói. -Cậu vô kho giấy làm gì? -Em có chuyện cần bàn với cô Lọ Lem một tí. -Chuyện gì để đến giờ làm việc hãy bàn. Ðây là chỗ đàn bà con gái ta nghỉ trưa, cậu mò vô làm gì? Lọ Lem mút hột xoài, mật dính quanh mép: -Em gọi ảnh vô đấy, chị Mỹ ơi. -Tôi không nói chuyện với cô, cô bé dở hơi à. Còn bây giờ thì tôi bảo cậu đi ra. Có đi không? Chàng trai chu mỏ lại chọc quê bà và chạy trốn mất biệt sau các cuộn giấy lớn. Bà Mỹ tức điên lên, quay ngoắt người lại, cuộn giấy rung rinh và từ từ lăn đi. -Ối! Ối! Chặn nó lại, Lọ Lem ơi! Chặn nó lại giúp chị với. Lọ Lem bước đến bên cuộn giấy và thay vì chặn nó, cô cứ thong thả đi theo nó, vừa đi vừa ngắm nhìn người đàn bà đang cuống cuồng, giữ thăng bằng, cô nói: -Chị hãy tưởng tượng mình là con chuột bạch đang quay vòng, chị sẽ thấy rất thích thú. Nhanh một tí nữa nhé? Lọ Lem đẩy nhẹ một cái, vỗ tay cười như trẻ con. o O o Hôm sau chàng trai lại đột nhập vào kho giấy. Lọ Lem đi chợ chưa về nên chàng trải chiếu ra và nằm xuống, lúc ấy chàng mới biết là ngay trên đầu mình có một sợi dây căng giữa hai cuộn giấy, ở giữa treo một cái quần xoa màu đen, chàng ngắm nó rồi nghiêng người sờ soạng trong đống đồ đạc lỉnh kỉnh mà Lọ Lem vứt bừa bãi chung quanh chỗ nằm. Mấy cái cuộn tóc bằng nhựa, hộp xà bông, cái ly uống nước. Ở mép chiếu tự nhiên lòi ra mấy tờ giấy bạc. Chàng moi trong xó ra thấy rải rác chỗ này vài trăm, chỗ kia năm bảy chục, chỗ nọ vài ngàn, khi thì tiền lẻ, khi thì tiền chẵn, bạc mới bạc cũ lẫn lộn nhàu nát. Chàng gom lại được hơn bảy ngàn và bó lại một bó cất trong gối của Lọ Lem. Lúc cô đi chợ về chàng nói: -Tôi đến xem cô có tiền mượn đỡ vài ngàn. Lọ Lem đặt gói giấy xuống chiếu, moi tìm trong xó một lúc: -Tôi để lộn đâu đó, lát tìm cho. -Thế cái gì trong gối vậy? Lọ Lem cười: -A, tôi cất trong bao gối mà tôi lại quên. Cô lôi gói bạc ra, không hề ngạc nhiên. Cô tháo cọng thun, thảy xấp bạc ra chiếu. -Chắc chắn là hơn hai ngàn. Lọ Lem nói. -Tiền của cô mà cô không biết là bao nhiêu à? Lọ Lem lấy trái cây để lên chiếu rồi đưa hai ngàn cho chàng trai. Chàng bỏ tiền vào túi mình rồi lấy dao gọt vỏ trái cây. Lúc hai người đang ăn đu đủ thì phía ngoài kho giấy có tiếng bước chân đi qua đi lại và tiếng đằng hắng. Lọ Lem lấy một trái cam bảo chàng trai đem đưa cho bà Mỹ nhưng khi chàng vừa ló đầu ra khỏi những cuộn giấy thì người đàn bà đã quay mặt và bỏ đi thẳng lên lầu. Hôm sau chàng trai bỏ năm ngàn trong cái phong bì, đưa cho Lọ Lem: -Trả cô hai ngàn. Lọ Lem bỏ phong bì vào xách tay. Chàng trai hỏi cô đã đi chợ chưa. Lọ Lem bảo chưa và họ rủ nhau đi. Cô đến hàng trái cây quen thuộc và mua một ít sa-pô-chê, mãng cầu dai và hạt dẻ. Lúc tính tiền người bán hàng nói: -Cô cho hai ngàn. Lọ Lem móc cái phong bì trao cho người đàn bà rồi kéo tay chàng trai đi. Chàng hỏi: -Mua trái cây hết bao nhiêu vậy? -Hai ngàn. -Nhưng trong phong bì có năm ngàn. Chàng trai kéo tay Lọ Lem nhưng cô đã gỡ ra, nói: -Thôi đi về. Ngày mai sẽ đòi. Hai người lại chui vô cái hang của mình và ăn trưa với nhau. Ăn xong Lọ Lem bảo chàng trai kiếm cái quạt. Chàng nhìn quanh quất một lúc, cuối cùng lôi từ trong kẹt ra một cái quạt giấy. Lọ Lem nằm sấp xuống chiếu và bảo chàng trai. -Anh quạt cho tôi đi. Chàng ngồi xếp bằng bên cạnh cô gái và quạt. Chỉ một lúc sau Lọ Lem đã ngủ. ... Mời các bạn đón đọc Vua Mèo của tác giả Đào Hiếu.
Viên Tướng của Nhà Vua - Daphne Du Maurier
Tác phẩm Le Géneral du Roi (Viên tưởng nhà vua) được đề tựa là "Thiếu nữ tật nguyền thời ly loạn" khi xuất bản, đạt một con số kỷ lục về phát hành: một triệu bản bán hết sạch trong vòng ba tháng bên Hoa Kỳ và được dịch ra 20 thứ tiếng. Tác phẩm nhằm mô tả mối tình nghiệt ngã giữa một cô gái tật nguyền và một viên tướng chọc trời khuấy nước. Nhân vật trung tâm của thiên tiểu thuyết này là một cô gái sinh ra và lớn lên trong một gia đình danh giá ở Cornouailles, Anh quốc, nhưng cũng như bao gia đình khác, sớm bị cuốn hút vào cuộc nội chiến năm 1642 giữa hai phe: một bên là quân đội bảo hoàng trung thành với vua Charles Stuart, bên kia là lực lượng phiến loạn của Hội đồng Nghị Viện. Honor Harris (tên cô gái, nhân vật chính trong truyện) từ lúc quen biết với Richard Grenvile, viên tướng nhà vua ở miền tây, đã bị gia đình phê phán nghiêm khắc, vì Richard mang nhiều tai tiếng và tính khí lạ thường của ông ta không gây thiện cảm với mọi người. Gia đình ép Honor lấy một thanh niên khác, nhưng Honor nhất định cự tuyệt. Cuối cùng gia đình phải thuận cho cô ta làm lễ đính hôn với người mình yêu. Gần đến ngày đám cưới, Richard tổ chức một cuộc đi săn bằng chim ưng. Nhưng cuộc đi săn hào hứng ban đầu lại kết thúc bằng tấn thảm kịch: Honor bị ngã ngựa xuống vực và từ đó hai chân bị bại liệt vĩnh viễn. Tai nạn trên xảy ra một phần do ác ý của Gartred, em gái của Richard. Giữa Honor và Gartred có mối thù từ lâu, khi Gartred còn là chị dâu của Honor, vì Honor không thích tính tình lẳng lơ của chị dâu, ngược lại Gartred ghét tính soi mói của em chồng. Ngay sau khi bị tai nạn và phải chịu tật nguyền suốt đời, Honor trở về nhà xưa ở Lanrest và quyết không cho Richard gặp mặt nữa. Cuối năm đó, Honor được tin người yêu đi lấy vợ. Richard lấy vợ không phải vì yêu, nhưng nhắm vào gia tài của vợ để thanh toán nợ nần. Cũng vì thế họ sớm ly dị với nhau, tuy rằng đã có với nhau một trai, một gái. Đứa con trai tên Dick, ngay từ nhỏ đã chứng kiến cảnh cha mẹ ẩu đả, cảnh máu đổ, nên nó rất oán hận cha nó. Giữa hai cha con luôn xảy ra mâu thuẫn gay gắt. Người cha là hình ảnh hung thần, thích bạo lực và chém giết. Đứa con là biểu tượng của sự yếu đuối tinh thần lẫn thể xác. Năm 1642, nội chiến bùng nổ khắp nước Anh. Phe phiến loạn ủng hộ Nghị Viện do các danh tướng Fairfax và Cromwell chỉ huy dần dần thắng thế. Trong nội bộ phe bảo hoàng ủng hộ Đức Vua, tướng Richard lại không được tin dùng. Năm 1646, phe bảo hoàng bị đánh tan trên toàn cõi nước Anh. Hoàng tử de Galles cùng ban tham mưu phải lưu vong bên Pháp, mưu đồ sự nghiệp khôi phục ngai vàng. Điều đáng nói ở đây là trong cuộc nội chiến huynh đệ tương tàn này, vai trò của Honor, thiếu nữ tật nguyền, không phải là lu mờ. Trái lại chính cô là hình ảnh tiêu biểu của ngươi phụ nữ trong thời chiến với những đức tính dũng cảm, nhẫn nại và thủy chung. Chính Honor đi theo, động viên người yêu trên đường chinh chiến. Chính Honor giúp đỡ hai cha con Richard trốn thoát khỏi sự truy lùng của phe thắng thế. Chính Honor là người khích lệ, an ủi mọi người trong gia đình khi xứ sở lâm vào cảnh bị chiếm đóng. Nữ văn sĩ Daphné du Maurier khi viết tác phẩm này đã dựa trên một số tài liệu có thật, liên quan đến giòng họ Rashleig trong cuộc nội chiến 1642. Trong bối cảnh lịch sử có thật đó, bằng bút pháp chan chứa tình cảm, bà đã lồng vào một mối tình ngang trái của người thiếu nữ tật nguyền hiền lành nhưng không kém phần khôn ngoan với một viên tướng khét tiếng hung bạo, nhưng trung thành với lý tưởng. *** Tháng chín 1653. Cuối hè. Những ngọn gió lạnh đầu tiên của mùa thu. Khi tôi thức dậy, ánh sáng mặt trời không tràn vào cửa sổ hướng đông như thường lệ nữa. Vầng thái dương biếng nhác chỉ đi qua phía trên đỉnh đồi sau làn gió. Một làn sương mù trắng thường che khuất vịnh cho đến giữa trưa, tỏa vào không trung một hơi thở buốt giá. Đồng cỏ không sao khô được và đến trưa vẫn còn ướt đẫm đươi ánh nắng. Những giọt nước treo lơ lửng, bất động trên đầu các ngọn cỏ. Tôi chú ý đến thủy triều hơn. Mỗi lần biển rút xuống, bãi cát khô tỏa rộng thêm, với những đường gợn đều đặn. Trong trí tưởng tượng của tôi lại xuất hiện những giấc mơ xưa như loài sò hến cùng những tảng đá nhô mình ra khi làn nước rút xuống. Một cảm giác lạ lùng, phơi phới xâm chiếm hồn tôi khi mơ về quá khứ. Tôi không hối tiếc gì, trái lại tôi sung sướng và hãnh diện. Trên trời những đám mây đã lẫn trốn và mặt trời bây giờ đã lên cao, những tia nắng ấm chào đón thủy triều lên. Tôi có cảm tưởng vào giữa trưa biển vẫn xuống khi mà hy vọng trong lòng dâng lên cao nhất và tâm hồn tôi lắng đọng. Sau đó, tôi cảm thấy một bóng mờ tỏa lên và niềm vui tan biến. Những đám mây đầu tiên của chiều tối lại ló dạng, vươn dài những ngón tay trên bầu trời biển. Mặt nước căng phẳng, chiếm dần bãi cát. Không còn đá trắng và sò hến nữa. Bãi biển đã bị che lấp và những giấc mơ của tôi cũng bị chôn vùi cùng với màn đêm, biển đã chiếm lại những gì đã mất. Chính vào lúc này Matty đến thắp sáng các ngọn đèn, khều lửa trong lò sưởi và bận rộn với công việc. Nếu tôi trả lời vắn tắt, hay không trả lời, cô ta sẽ gật đầu, nhắc rằng mùa thu là mùa đau khổ của tôi. Nỗi sầu thu của tôi. Nhớ lại những ngày xa xưa, khi còn thanh xuân, tôi đã sớm hiểu thế nào là nỗi sầu thu trong khi Matty sừng sộ xua đuổi người khách: "Hôm nay cô Honor không tiếp khách". Gia đình đã quen để tôi yên. Bình yên! Hai chữ khá mỉa mai đủ mô tả những nổi tuyệt vọng đen tối mà tôi là nạn nhân... Quái!... Đã khá xa rồi những cơn khủng hoảng, những phút giây đau khổ thể xác mà tôi không thể tìm được thảnh thơi. Đó là những cuộc đấu tranh để sinh tồn của tuổi thanh xuân. Tôi không nổi loạn nữa. Những năm tháng đã trôi qua. Phần thưởng đã đến với sự chịu đựng. Điều bất hạnh là tôi không thể đọc sách nhiều như khi xưa nữa. Lúc còn hai mươi lăm tuổi, sách là niềm an ủi lớn lao của tôi. Là một học trò giỏi, tôi say mê học tiếng Hy lạp và tiếng La tinh. Sự học đã chiếm một phần lớn trong cuộc đời tôi. Còn bây giờ, học có ích lợi gì? Đã từng ngông cuồng khi còn trẻ, tôi e rằng sẽ còn ngông hơn theo tuổi tác. Robin cũng đoán chắc thế. Tội nghiệp Robin. Thời gian cũng không buông tha anh. Năm nay Robin đã già đi rất nhiều. Có lẽ vì lo lắng cho tôi. Tôi biết Matty và anh đã bàn bạc về tương lai khi họ tưởng rằng tôi ngủ. Tôi nghe tiếng thì thầm của hai người trong phòng khách. Nhưng mỗi khi đứng trước mặt tôi, Robin làm bộ tịch vui vẻ khiến tôi đau lòng. Ôi người anhyêu dấu của tôi. Khi anh ngồi bên tôi, bằng cái nhìn phán đoán mà tôi chỉ có đối với những người tôi thương yêu, tôi nhận thấy hai túi lệ đường nặng trỉu dưới đôi mắt anh, hai bàn tay vừa run rẩy vừa mồi ống điếu. Có phải anh đấy không, con người có trái tim thư thái và tinh thần đầy đam mê? Ai đã xông ra chiến trường, tay nắm chim ưng? Ai, mới cách đây mười năm đã cùng với Bevil Grenvile đưa quân đến Braddock Down giương lá cờ đỏ chói với ba sọc vàng óng ánh trước mắt quân thù? Anh có phải là người mà có lần tôi thấy đấu kiếm với tình địch dưới ánh trăng, chỉ vì một người đàn bà không chung thủy? Bây giờ nhìn anh thật buồn cười. Ông anh Robin đáng thương của tôi, với những lọn tóc lỏa xỏa xuống tận vai. Phải, những lo âu của chiến tranh đã để lại dấu vết trên hai chúng tôi. Chiến tranh và những người thuộc huyết thống Grenvile. Có lẽ Robin vẫn luôn gắn bó với Gartred, như tôi gắn bó với Richard. Chúng tôi không bao giờ đề cập đến những vấn đề đó. Chúng tôi chỉ còn lại cuộc sống vô vị của từng ngày. Vả lại, trọng giới hạn bạn bè của chúng tôi, ít ai mà không chịu đựng đau khổ. Có nhiều người đã khuất hoặc tan nát cửa nhà. Tôi không quên rằng Robin và tôi chỉ sống bằng tiền cứu tế. Nếu Jonathan Rashleigh không cho chúng tôi ngôi nhà này, chúng tôi không có lấy một nơi trú ngụ. Lanrest không còn nữa và Radford thì bị chiếm đóng. Jonathan có vẻ rất già và mệt mỏi, sau một năm cay nghiệt bị tù đày ở Saint - Mawes cùng với cái chết của con trai là John. Mary vẫn không thay đổi. Có lẽ phải thêm một cuộc nội chiến nữa mới mong đánh đổi được tính cương quyết trầm tĩnh và đức tin của chị ta nơi Chúa. Alice và các con vẫn ở với họ, nhưng Peter đã quên Alice và không bao giờ đến thăm cô ta nữa. Tôi nghĩ đến cái thời mà tất cả chúng tôi tụ tập trong hành lang dài. Alice và Peter cùng cất tiếng hát, John và Joan hơ tay gần đống lửa. Ai cũng trẻ trung cả! Phải nói như trẻ con! Ngay cả Gartred với ác ý có tính toán, cũng không thể phá tan bầu không khi vui nhộn của buổi tối hôm ấy.. Nhưng Richard, Richard của tôi, vừa mỉm cười, vừa đưa ra một lời nhận xét tàn nhẫn làm mọi người cụt hứng, nỗi vui tan biến. Tôi tưởng chừng căm ghét Richard nhưng hoàn toàn hiểu tính khí chàng. Ôi! Cầu Chúa xui khiến những người thuộc giống họ Grenvile này phải xấu hổ - sau này tôi nghĩ thế - khi họ chỉ gây buồn phiền cho người khác, khi chỉ cần đổi giọng họ biến vui sướng thành đau thương. Làm sao mà họ, Richard và Gartred, có thể tìm thấy được khoái cảm qua những lối nói tàn nhẫn đó? Ác thần nào đã hộ mệnh họ từ khi còn nằm trong nôi? giữa họ và Bevil khác nhau biết bao! Bevil, con người lịch sự nghiêm trang, niềm nở, đạo đức, yêu mến con mình và con người khác. Các con trai của ông ta đều xứng đáng. Jack và Bunny không hề có tật xấu. Nhưng Gartred! Đôi mắt lim dim dưới mái tóc óng ánh, cái miệng dâm đặt và hơi thô. Tôi không bao giờ ngờ rằng, ngay cả cái hồi Gartred thành hôn với Kit, cô ta có thể đánh lừa được ai. Khăn sắc của cô ta thật quyến rũ. Cha mẹ tôi như sắp mcm dưới những ngón tay nhào nặn của cô la. Còn ông anh Kit đáng thương ngay từ lúc đầu đã biến thành nô lệ, cũng như Robin sau này. Nhưng tôi không bao giờ nhường nhịn cô ta. Sắc đẹp của cô ta thật nguy hiểm và luôn luôn nguy hiểm, tôi nghĩ thế. Cô ta sẽ mang theo xuống mồ một vét sẹo dài mỏng từ mắt xuống miệng, dấu ấn của một nhát dao. Vậy mà vẫn còn được nhiều người say mê. Người cuối cùng bị Gartrcđ hớp hồn có thể sẽ là một người thuộc giòng họ Carcy, ở Bedford gần đấy. Tôi tin điều ấy dễ dàng. Bây giờ thì mọi sự đã qua, tôi vẫn có thể khoan dung tha thứ cho cô ta phần nào. Hình ảnh cô ta bỡn cợt với George Carcy - cô ta lớn hơn Carcy hai mươi tuổi - dù sao cũng gieo một ám hiệu tươi vui trong một xã hội u ám. Thật là một xã hội ảm đạm! Những khuôn mặt buồn thảm, áo quần xốc xếch bằng vải len thô. Những năm mất mùa, kinh doanh sa sút, ai cũng nghèo hơn trước và trong dân gian là cảnh khốn cùng. Hậu quả của chiến tranh. Mật thám của viên Công tước Bảo hộ tung hoành khắp thành thị và làng xã. Người ta bỏ tù ngay bất cứ kẻ nào mà họ nghi ngờ là phản bội. Các viên trưởng lão khắt khe nắm quyền và chỉ có những kẻ biết trục lợi thành công, như Frank Buller và Robert Bennett hoặc kẻ thù xưa của chúng tôi là John Robartes. Ai cũng cố trục lợi trên sự đầy đoạ của những con người đau khổ trong xã hội. Những hành động thô bạo, thái độ lịch thiệp chỉ còn là một kỷ niệm xa xưa. Ai cũng nghi ngờ láng giềng của mình. Thật là một xã hội ghê tởm. Người Anh nào đó bảo có thể chấp nhận chế độ này, nhưng chúng tôi, người dân ở Cornouailles thì không. Họ sẽ không bao giờ cướp đoạt được độc lập của chúng tôi và trong một hoặc hai năm nữa, khi mà những vết thương đã liền da, chúng tôi sẽ nổi dậy một lần nữa. Máu sẽ chảy một lần nữa. Lại thêm những cảnh đau lòng. Nhưng chúng tôi chỉ thiếu người chỉ huy. A! Richard! Richard của tôi. Ma quỷ nào đã xui khiến chàng bất hoà với mọi người, và khiến Đức Vua trở thành kẻ thù của chàng? Lòng tôi thương xót chàng lâm vào nổi bất hạnh cuối cùng này. Tôi thấy chàng âu sầu, bị mọi người bỏ rơi, ngồi bên cửa sổ, dõi mắt nhìn trên đất nước Hà Lan bằng phẳng, đang viết hồi ký để tự bào chữa mà Bunny đã kể sơ cho tôi nghe những nét chính, sau lần đi thăm Richard. "Đừng tin tưởng vào các ông Hoàng, lẫn con cái của họ. Họ chẳng giúp ích gì cho mọi người". Những lời lẽ cay đắng, tuyệt vọng, không mang lại một điều gì hay, và chỉ là nguồn gốc của những nỗi đau mới. Vì lòng tự phụ mà ngài Richard Grenvile, bị người ta tuyên bố coi như một tướng cướp và lòng trung tín thật sự của ngài được đánh giá là một tội ác. Nếu ngài ta quả thật đáng chê trách, thì cầu Chúa hãy ban cho Đức Vua những người cố vấn trung thành, và cầu mong rằng không ai trong những người này sẽ làm điều gì trái ý Thánh Thượng và những người thuộc giòng dõi hoàng lộc. Còn về phần ngài Richard Grenvile, hãy để ngài ra đi với phần thưởng được là cựu chiến binh của Đức Vua. Bây giờ ngài không biết giúp ích được gì. Mong rằng Hội đồng cố vấn sẽ nghĩ đến ngài, khi cần đến, nếu chưa quá trễ. Biết bao cảm giác, bao tự hào và bao cay đắng cho đến lúc kết thúc. Bởi vì đã đến lúc kết thúc. Tôi biết điều ấy và chàng cũng thế. Nỗi đau không thuốc chữa chàng đã tự hại mình mãi mãi. Mọi người, bạn và thù, đều sợ và ghét chàng. Đại tướng của Đức Vua ở miền Tây, Người mà tôi yêu một thời gian ngắn sau khi đảo Sorlingues bị mất, Jack và Bunny đã đến thăm tôi. Chúng tôi đã nói về Richard và ngay lập tức Jack lên tiếng: Chú Richard của cháu đã thay đổi nhiều. Cô khó nhận ra được chú ấy. Chú ngồi hàng giờ, im lặng, nhìn mưa rơi bất tận qua của sổ của căn phòng xoàng xĩnh - Lạy Chúa! trời mưa ở Hà Lan! - và chú không muốn nhìn thấy mặt ai. Chắc cô còn nhớ khi xưa chú thích bông đùa, cười cợt với chúng cháu và giới trẻ? Còn bây giờ, nếu chú ấy nói, chỉ để chỉ trích, như một người già cau có, la rầy người khác Hoàng thượng sẽ không bao giờ dùng chú Richard nữa, và chú ấy biết thế - Bunny nói - Sự bất hòa với triều đình khiến chú bực tức. Chú ấy thật điên khùng mới khêu lại ngọn lửa thù hận xưa với Hyde. Jack sáng suốt hơn và khi nhìn thấy mắt tôi, nói rất nhanh: Chú cháu luôn luôn là kẻ thù ghê gớm nhất của ông ta. Cô Honor cũng biết điều đó, phải không? bây giờ chú ấy chỉ còn một mình. Và những năm sắp tới chỉ là trống rỗng. Chúng tôi giữ im lặng một hồi lâu. Tim tôi đau nhói vì Richard. Bọn trẻ cũng cảm biết được điều ấy. Chú ấy không bao giờ nói về Dick - Bunny tiếp tục câu chuyện, hạ thấp giọng - có lẽ chúng ta không bao giờ biết được số phận buồn thảm của Dick ra sao. Tôi cảm thấy rùng mình sợ hãi. Tôi quay mặt đi để bọn trẻ không nhìn thấy mặt tôi. không - tôi chậm rãi nói - Chúng ta sẽ không bao giờ biết. Bunny nhịp ngón tay trên bàn, còn Jack vô tình lật những trang sách. Tôi nhìn mặt nước lặng yên dưới vịnh và những thuyền nhỏ đánh cá từ Gorran Haven đến và đang từ từ vượt qua núi Đầu Đen. Trong ánh hoàng hôn, những cánh buồm mang màu vàng óng. Nếu Dick bị rơi vào tay quân thù - Bunny nói tiếp Tại sao người ta lại dấu diếm sự việc này? Tôi không trả lời. Bên cạnh tôi, Jack ngồi không yên. Có lẽ đám cưới - nó mới lấy vợ từ mấy tháng nay - khiến nó mẫn cảm hơn. Tôi hiểu rằng nó đã cảm nhận được nỗi sầu não của tôi. Trở về quá khứ thì có ích gì? - Jack nói - Chúng ta chỉ làm buồn cô Honor thôi. Ít phút sau đó, cả hai hôn tay tôi và từ giã ra về, hứa rằng sẽ trở lại thăm tôi trước khi quay về Pháp. Tôi nhìn chúng phi ngựa xa dần, dáng điệu trẻ trung, tự do, vô tư. Tương lai là của chúng. Một ngày kia, Đức Vua sẽ trở về với dân tộc đang đợi ngài. Jack và Bunny đã từng anh dũng chiến đấu vì ngài, sẽ được trọng thưởng. Người ta sẽ quên đi cuộc nội chiến, quên đi thế hệ trước chiến tranh, thế hệ đã đổ vỡ và thất bại, thế hệ không có gì có thể đền bù lại được. Tôi nằm dài trên ghế, nhìn bóng hoàng hôn xuống dần. Lúc đó Robin bước vào và đến ngồi gần tôi, hỏi thăm tôi có mệt không với vẻ ân cần trìu mến. Anh có ý tiếc vì không gặp được anh em nhà Grenvile và kể lại cho tôi nghe một vài vụ bê bối được đưa ra xử trước tòa án Tywardrcath. Tôi giả bộ lắng tai nghe, nhưng thương hại nghĩ đến tầm quan trọng mà Robin gắn cho những sự việc nhỏ nhặt thường ngày nàv. Nhớ khi xưa, anh ta cùng với các đồng đội đã để lại danh tiếng bất hủ bằng lòng quả cảm bảo vệ lâu dài Pendennis, tuy không thành công, trong nhiều tháng bi thảm của năm 1646. Lúc ấy tất cả chúng tôi đều hãnh diện vì Robin... Vây mà bây giờ anh ta cử lẩm cẩm nhắc đi nhắc lại vụ một bà góa ò St.Blazcy bị mất trộm năm con gà mái. Chính vào lúc ấy, lần đầu. Tiên tôi có ý nghĩ tự giải thoát mình khỏi gánh nặng đè nén bằng cách viết lại hồi ký của những năm mới qua đây. Chiến tranh! Chiến tranh đã thay đổi cuộc sống của chúng tôi như thế nào? chiến tranh đã xâm nhập vào chúng tôi, đã hủy diệt tâm hồn chúng tôi, đã đưa số phận chúng tôi đến chỗ bế tắc. Gartred và Robin, Richard và tôi, cả gia dinh Rashleigh, chen chúc trong ngôi nhà đầy bí ẩn này, vậy mà có ai ngờ rằng chúng tôi đã rã đám? Hiện nay, chỉ còn Robin đi dùng cơm tối ở Menabilly vào mỗi chủ nhật. Tôi không tham dự, lấy lý do vì tình trạng sức khỏe. Vì những điều tôi biết, tôi không thể trở lại nơi đó. Menabilly, nơi xảy ra thảm kịch cuộc đời chúng tôi, lại quá gần chỗ tôi đang ở chỉ cách ba dặm. Ngôi nhà vẫn trống rỗng và điêu tàn như khi xưa khi tôi gặp lại nó lần cuối cùng vào năm 1648. Jonathan không đủ can đảm lẫn tài chánh để trùng tu nó lại, khiến nó càng trở nên tồi tệ hơn trước, Jonathan và Mary cùng con cái chỉ ở một cánh nhà. Tôi cầu xin Chúa cho họ đừng biết gì đến thảm kịch cuối cùng. Chỉ có hai người sẽ mang điều bí ẩn này theo xuống mồ, đó là Richard và tôi. Chàng đang ở Hà Lan, xa tới hàng trăm dặm. Còn tôi đang yên nghĩ ở Tywardcath. Bóng tối u ám đang lượn trên đầu hai chúng tôi. Ngày chủ nhật, khi Robin đi tới Menabilly, tinh thần tôi tháp tùng anh ta. Trí lưởng tượng của tôi theo Robin băng qua hoa viên, đến những bức tường cao bao quanh ngôi nhà. Sân trống trải, mặt tiền hường tây của nhà như nhìn ngó tôi. Những tia nắng cuối cùng lọt vào căn phòng xưa của tôi, phía trên cao, bởi ví tấm rèm được kéo lên. Những cửa sổ phòng bên thì đóng kín, bên ngoài chằng chịt những mầm cây leo, rêu phủ đầy vách đá trên phía trên cửa sổ. Mặt trời biến dạng và một lần nữa mặt tiền phía tấy của ngôi nhà lại quay về với bóng tối. Chính nơi đó gia đình Rashleigh ăn ở. Họ đi ngủ dưới ánh đèn và mơ mộng. Nhưng tôi, cách đó ba dặm, ở Tywardcath, tôi giật mình thức dậy trong đêm ngỡ rằng đang nghe tiếng con trẻ gọi tôi trong nỗi kinh hoàng, ngỡ rằng nghe những ngón tay của nó cào vào vách tường và trong đem tăm tối, hình ảnh con trai của Richard hiện ra sống động. Tôi ngồi bật dậy, toàn thân ướt đẫm mồ hôi. Matty, người hầu trung tín, nghe tôi thức dậy, vội đến thắp sáng đèn. Cô ta sắc thuốc cho tôi uống, xoa bóp sống lưng đau nhức cho tôi, và choàng một tấm khăn rộng lên hai vai tôi. Trong phòng bên, Robinvẫn chìm đắm trong giấc ngủ không có chiêm bao. Tôi cố đọc, nhưng đầu óc tôi quá bị ám ảnh, không thể tìm thấy thảnh thơi. Matty mang đến cho tôi giấy và ngòi bút lông.Tôi bắt đầu viết. Tôi có nhiều điều muốn nói, nhưng thời gian còn lại của tôi có thể đếm được. Tôi không lầm đâu. Mặc dù vẻ mặt của Robin cố che đậy, nhưng bản năng riêng của tôi báo trước cho tôi biết rằng mùa thu này sẽ là mùa thu cuối cùng của tôi. Và trong khi mọi người còn tranh cãi về những lời bào chữa của Richard qua cuốn hồi ký, trong khi cuốn sách của chàng sẽ được người đời xếp cho một chỗ đứng trong văn khố của thế kỷ Mười bảy này, thì những gì tôi viết đây sẽ theo tôi xuống tận đáy mồ, và sẽ tan rã thành bụi cùng với thân xác tôi. Tôi sẽ nói vì Richard, những gì mà chàng không bao giờ nói cho chính mình. Tôi sẽ chứng tỏ rằng, mặc dù những lỗi lầm của Richard, vẫn có thể có một người phụ nữ yêu chàng bằng cả tâm hồn lẫn trí tuệ - và người đàn bà ấy chính là tôi. Tôi viết lúc giữa đêm, dưới ánh sáng ngọn đèn dầu. Chuông nhà thờ vang lên báo hiệu những giờ đầu canh. Không một tiếng động nào khác vọng đến tôi ngoài những lời than thở của gió bên ngoài cửa sổ và tiếng thầm thì của thủy triều đang dâng lên tràn ngập bãi cát đến tận vũng nước tù dưới cầu St.Blazey. Mời các bạn đón đọc Viên Tướng của Nhà Vua của tác giả Daphne Du Maurier.
Truyện Hai Người - Vũ Bằng
Nếu người ta muốn tìm ở truyện này một truyện gì, tôi xin nói ngay truyện này không có truyện gì cả . Bạn đọc xem hết, sẽ thấy nó thường lắm, bởi vì nó xảy ra luôn và còn cứ xảy ra mãi mãi. Nhưng cái đó không quan hệ. Cái quan hệ là nhân vật. Trong rừng cây, không có hai cái lá giống nhau, thì trong rừng người, làm sao mà lại có hai người giống nhau cho được ? Vậy, cái khó của một nhà văn, phải đâu là chụp lại nhân vật để các bạn khác cùng xem. Tôi nghĩ nếu công việc của nhà văn có khó thì chính ở chỗ « sáng tạo » ra nhân vật vậy. Hai người. Hai người trong truyện này là hai kẻ bị đọa đày.  Linh hồn họ đau đớn, họ là những người đáng thương. Sự đau khổ nâng cao họ gần trời. Những người thực cao thượng đều phải thấy một cái buồn mênh mông trên trái đất. *** Một đêm mưa gió, có một người trẻ tuổi nằm không ngủ được … Kéo cái chăn chiên lên cổ, y lắng nghe cái đêm khuya rơi não nùng ở một góc vườn. Hoa rụng, gió gào. Trời sầu thảm tựa một linh hồn đau khổ. Những hạt mưa hình như mang lại những lời trối trăn cuối cùng của cây cỏ và phố xá. Không có một tiếng rao. Một đêm mưa gió, có một người trẻ tuổi nằm không ngủ được … Y vò võ nằm thu hình ở trong một cái buồng con. Bóng tối đầy thăm thẳm. Ngủ được thì thực tốt. Nhưng y không ngủ được, và y nghe thấy những tiếng động chung quanh cuộc đời của y. Y nằm cái giường của y và y nghe những tiếng động ấy, y ở cái gác của y và y nghĩ miên man đến đời của y. Một đêm mưa gió, có một người trẻ tuổi nằm không ngủ được … Ấy chính lúc ấy, y thấy hai mươi tuổi của y tiến lại trước mặt y. tại sao? Y không phải là một người ốm quay lại nhìn dĩ vãng. Nhưng mà những hạt mưa kêu lên như một linh hồn bị xiềng xích và những tiếng kêu ấy đã làm những tiếng kêu của y thức dậy. Người ta có thể bảo rằng đời người sắp xảy ra một cái nạn gì đây. Y thấy cái tuổi hai mươi của y đến ở giữa tấm lòng giá lạnh và y buồn, bởi vì hai mươi năm mà y đã trải qua không phải là hai mươi năm y ước định. Không, cái đời của y, y định nó khác lắm, chứ có đâu như thế này …. Lúc mười tám tuổi, y nghĩ: Đến hai mươi tuổi ta sẽ lập thân ta. Ta không biết rồi ta làm gì, nhưng ta biết chắc là ta làm nên to lắm bởi vì ta theo học đến tú tài mà bất cứ về môn nào ta cũng đứng hạng nhì, ba cả. Đến mười chín tuổi, y có những ý muốn rõ ràng hơn: Hai mươi tuổi, ta sẽ đổ tú tài, ta vào học thuốc, và sau dăm bảy năm theo học, người ta sẽ thấy ta đi lại ở trong tỉnh như một bức tranh nhân đạo. Nhưng chỉ ít lâu sau, y lại đổi ý kiến ngay bởi những ông bác sĩ có cái trách nhiệm nặng nề quá và chỉ vô ý một chút cũng có thể làm chết người được như chơi. Lại nữa, y có một người bạn học ở ban văn chương tìm đủ lý lẽ để cho y hiểu rằng học luật và học thuốc đều không làm gì được cả. Y bèn sang học ban văn chương và ra công khảo về Boileau, về Rouseau, vê Goethe. Văn chương có thể đưa người ta đến tất cả các nghề: nghề dạy học, nghề thư ký, nghề tham biện, và không ngăn cấm ta làm báo, làm họa sĩ, làm giáo sư âm nhạc. Những học trò tú tài ban văn chương đi riễu trong một cánh đồng đầy mộng và chứa chan hy vọng. Y chứa chan hy vọng quá thành thử những cái thích của y không bờ bến. Nhưng mà đêm nay … Một đêm mưa gió, có một người trẻ tuổi nằm không ngủ được … Tâm hồn y rung động những tiếng vang lạnh lẽo. Từ những sự rầu lòng đến hy vọng, đó là những năm tháng bị giam hãm ở bốn bức tường trường học nó kêu rên, nó đi lại, nó kể lễ những hình phạt của những ông giám thị, nó nhắc nhở một quãng đời bó buộc và buồn rầu, nó đem diễn lại những buổi chiều ngồi ngủ gật trong "ê – tuýt". ( Tiếng Pháp Étude = nơi học tập ) Ngọn đèn hoa kỳ để ở trên bàn ngủ của người trẻ tuổi chiếu một thứ ánh sáng não nùng. Người ta thấy những quyển sách viết trong bốn năm học Bưởi của y. Gió đập cửa thình thình, mưa rào rào xuống như một người khóc không bao giờ nín. Y tưởng như nghe thấy từng bài thơ của Villon, của Chénier, của Lamennais. Y nhớ lại cả những giờ toán pháp. Nằm nghe gió thỉnh thoảng rít lên, y lại tưởng như nghe thấy những chữ X,Y,Z vậy. Những chữ x,y,z ấy ở trong những bài kỷ hà học của y: thấy chúng là những kẻ khốn nạn làm ăn vất vả quá, đến tận lúc chết có lẽ cũng không được nghỉ. Việc ấy như thế này: Hồi đó, y vừa mới lên năm thứ ba. Ông cụ sanh ra y làm chánh tổng ở một làng ở Hải Dương. Một hôm, nhân dịp được nghỉ lễ, y về quê thăm nhà, và ông bố cưỡi con ngựa đèo con đi sang làng bên cạnh để khoe con mình học ở trường Cao Đẳng trên Hà Nội về chơi. Bất ngờ đến một con dốc kia, con ngựa ngã. Hai bố con văng mỗi người một nơi. Ông cụ nói: Hải ơi, con đã thấy chưa? Thầy độ này suy lắm. Gân cốt kém, mắt mũi cũng kém, thế mà con chẳng biết thương thầy, Hải ạ! Thầy cặm cụi một sương hai nắng để gửi con lên học ở Hà Thành, thầy cho con cái vốn đấy, thế mà con không chịu khó học hành gì cả. Kỳ thi nào con cũng gần bét. Con là con cả của thầy, con còn các em, con phải nhớ lời thầy bảo: Con không treo gương tốt cho các em con đâu, con ạ! Hai bố con nói thế xong rồi về, mang một khối nặng ở trong đầu. Thế rồi, cách ba tháng sau, vào giữa lúc buổi học chiều bắt đầu, người cha khốn nạn ấy không sống nữa. Một bức điện tín đến báo tin, chính ông giám thị đã mở ra đọc trước. Nước mắt không đến được, nhưng mà hình như suốt đời, ông già đã chết ấy vẫn còn nói câu này: "Con phải nhớ lời thầy bảo: Con không treo gương tốt cho các em con đâu, con ạ!". Chịu tang đâu đấy cả rồi, Hải lại quay lại sân trường cũ. Y không kể chuyện của y cho ai nghe hết, nhưng chuyện này, đầu y không theo chân y nhưng chính là đầu y theo chân y. Y xếp hai chân ngang hàng với nhau. Còn hai tay, y để vào hai thái dương. Mười ngón tay của y kẹp chặt lấy cái trán để cho những cái gì đã đọc được ở sách, bằng hai con mắt, đều phải ở lại cả trong óc, không thoát ra được ngoài. Sự thực thì cũng hơi khó khăn một chút: những bàn tay thì ở lại, nhưng hai con mắt thì vẫn để đi đâu … Tuy vậy, cuối năm y cũng được hai giải thưởng: giải thưởng cách trí và giải thưởng sử ký và địa dư. Lúc ông hiệu trưởng gọi tên y để lên trên bục nhận thưởng, y nhìn chòng chọc vào gói sách, rồi đánh đùng một cái, y hệt một cái máy nước chảy, y khóc, khóc, khóc bao nhiêu là nước mắt, đến nỗi ông hiệu trưởng phải kêu hai người học trò lớn đến dìu y ra ngoài. Người bố đã chết rồi, y mới được thưởng thực là chậm quá. Bây giờ, Hải như một người nhà quê đã cày xong thửa ruộng của mình. Một trận gió thổi ở trên những bông lúa sắp cấy, và người nhà quê ấy tìm ở trên mặt đất xem còn có gì sót lại hay không. Nhưng mà những việc chua chát ở đời bao giờ cũng có ngày mai. Một đêm mưa gió, có một người nằm không ngủ được. Y thấy cuộc đời của y bỗng có một buổi chiều chua chát. Nhà y hết tiền. Mẹ y thì già yếu. Y lại có nhiều em. Cái chí nguyện của y lại bật rễ như một cây cổ thụ, mảnh bằng tú tái mày mong mỏi bấy giờ chỉ còn lại một cái đích để không bao giờ tới nữa. Y bỏ học. Y đem mẹ và em lên buôn bán lặt vặt ở Hà Thành. Thôi thế là thôi, bao nhiêu mộng tan tành, bây giờ y chỉ là một kẻ dở dang, những đêm mưa lạnh, nằm nghĩ đến hồi đi học trông đợi ngày thi ra. Buổi sáng, y thức dậy và hỏi bốn phương trời. Y không muốn có một ý nghĩ bi quan nào cả. Đây này: khí trời buổi sáng đem bao nhiêu là sự mát mẻ ở những phương trời xa lại. Y, một người đã đỗ bằng thành chung và đã học ba năm ban tú tái! Có chức thư ký nhà nước, thăng từng trật một, mà trật nào cũng chứa một mẩu tương lai. Có chức thư ký nhà buôn, mới nghe thì tưởng chẳng nên trò gì cả, nhưng chính ra thì lương bổng hậu lắm, lấy được vợ đẹp và làm được nhà cho thuê là khác. Có chức giáo học tư gia nhàn rỗi, cơm ăn nước uống tử tế, mà mỗi tháng, nếu chịu khó thì lại con để được ra vài chục. Này này, đời nhiều hứa hẹn lắm! Chỉ sợ mình không có sức mà thôi, chứ có sức thì trăm hai mươi chỗ làm vừa Nhà nước, vừa tư gia kia kìa. Người ta không thiệt gì cả. Một ông cử nhân luật chẳng đã bảo y rằng những bực tài giỏi xưa nay đều là những hạng rẽ ngang ư? Mà chính vì có rẽ ngang như thế mà một người bạn của ông ta mới xoay làm nghề báo, mỗi năm kiếm đến vài ba nghìn đồng. Hải sống với cái tâm trạng ấy trong hai năm. Mẹ y cũng vậy, nhưng hơi lo một chút... - Đời mỗi lúc một khó khăn, con ạ. Hải cười. Y đứng lên. Mẹ ơi, cuộc đời nó có những lý luận ấy và thấy nó đi qua cửa sổ. Mẹ nghi ngờ sự thực. Hải lấy làm phiền không làm cho mẹ hiểu rõ hơn. Y có năm vạn ước vọng, mà ước vọng nào cũng bị mẹ hơi ngờ cả. Tại sao? Y cũng có những lý luận riêng. Mỗi lý luận, Y lại tìm ví dụ cho thâm cứng. Những bạn cũ của y bây giờ đều có việc làm cả. Y cũng như họ, y sẽ theo những đường mà họ đã đi. Tiện lắm. Mà y lại lợi hơn là khác: bởi vì y đi sau, y chỉ bắt chước những người đi trước, chứ không phải nghĩ ngợi mưu cơ gì cả. Bà cụ già, nghe nói mà sợ hãi thay.Gần trải hết một cuộc đời rồi, bà còn lạ gì cái nghề nghiệp nó cũng như của cải ở đời. Những người nghèo không có nghề. ... Mời các bạn đón đọc Truyện Hai Người của tác giả Vũ Bằng.