Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Ngôi Nhà Mũi Tên

Bà Harlowe - một người phụ nữ giàu có qua đời. Di chúc của bà không hề đề cập đến người em rể. Như một lẽ tất nhiên, người đàn ông này bực tức cáo buộc người thừa kế - Betty Harlowe, đã giết bà Harlowe nhằm chiếm đoạt tài sản. Jim Frobisher, cộng sự tại công ty, lập tức đến Pháp để bảo vệ quyền lợi cho Betty. Tham gia cùng anh còn có thám tử Hanaud lừng danh của Sở Cảnh sát Pháp. Liệu tất cả mọi chứng cứ được phơi bày có giống như vẻ bề ngoài của nó? Liệu đây có đơn thuần chỉ là một vụ tống tiền lộ liễu hay là một âm mưu được dàn dựng công phu? Liệu Hanaud danh nổi như cồn đó có hoàn thành sứ mệnh của mình một cách xuất sắc giống như mọi người vẫn hằng khen ngợi?... *** Review: Ngôi nhà mũi tên - A.E.W.Mason Dịch giả: Nguyễn Thành Long Người viết Hà Quang Huy #trinh_thám_cổ_điển #ngôi_nhà_mũi_tên Nếu các bạn thích trinh thám cổ điển thì không nên bỏ qua cuốn này, cái twist khá ấn tượng . Cái thủ pháp thấy tuy là đơn giản, nhưng ngộ ra nó quả là cao siêu khó lường  Mở đầu là cái chết của bà Harlowe - người phụ nữ giàu có ra đi không để lại tý di chúc nào cho ông em rể, ông ta liền viết thư tống tiền trắng trợn cho Haslitt đồng thời đâm đơn kiện Betty bé nhỏ đã đầu độc bà Harlowe. Nhận được thư, Haslitt điều phụ tá của mình là Jim đến bảo vệ quyền lợi cho thân chủ là Betty xinh đẹp quyến rũ. Hanaud - vị thám tử trứ danh của sở cảnh sát Pháp được đặc quyền điều tra vụ án khó khăn nhất trong cuộc đời của ông. Một vị thám tử toát lên vẻ trang nghiêm, chói loà rất thân thiện ân cần và khâm phục trước vị thần May Rủi. Căn biệt thự được thiết kế tinh xảo trang nhã lại ẩn giấu âm mưu u tối xám xịt chết chóc lạnh lẽo. Một tội ác đã xảy ra trong ngôi nhà bất hảo vào cái đêm 27/4 định mệnh dưới bàn tay của "Kẻ gieo tai hoạ". Thứ thuốc độc quỷ quyệt hoang dã giết người không để lại dấu vết được trưng bày qua bao năm tháng đã phát tác mạnh bạo. Hanaud cùng Jim lần mò trong bóng tối mờ mịt vô phương để tìm ra mạnh mối, giải đáp các bí ẩn dưới đôi bàn tay tội lỗi...Những gì ông cần làm đều đã được đào tạo qua đấu trường bò tót, ông đã quá chai sạn với những bất ngờ, điều khiến ông bất ngờ chỉ là thần May Rủi. Ông đã sống trong thế giới tội ác và tội phạm nên ông hiểu chúng một cách thanh tao, nhìn thấu chúng bằng ánh mắt lạnh lùng sắt đá. Bằng suy luận sắc bén của một kẻ lập dị ông phải diễn trò trên cái sân khấu bất đắc dĩ để lấp đầy nỗi buồn chán và cô độc của bản thân! Đánh giá khách quan: 8.5/10 *** Trong số các thân chủ của công ty Frobisher & Haslitt, một công ty tư vấn luật nằm tại mạn đông quảng trường Russell, rất nhiều người sở hữu doanh nghiệp tại Pháp; và họ rất lấy làm tự hào về điều ấy. “Nhờ đó mà chúng tôi trở nên có chỗ đứng trong lịch sử,” ông Jeremy Haslitt vẫn hay nói. “Mọi chuyện bắt đầu từ năm 1806, khi ông James Frobisher, cộng sự cấp cao rất nhiệt huyết thời bấy giờ của chúng tôi, đã tổ chức cho hàng trăm công dân Anh bị giam giữ theo sắc lệnh của Napoleon Đệ Nhất thoát khỏi Pháp. Công ty được Chính phủ bệ hạ bày tỏ lòng cảm ơn và vẫn may mắn duy trì được mối quan hệ ấy. Tôi đích thân coi sóc mảng đó của công ty.” Bởi thế, trong số thư từ ông Haslitt nhận được hàng ngày, lúc nào cũng có một lượng lớn thư dán con tem xanh thẫm của Pháp trên phong bì. Tuy nhiên, vào buổi sáng đầu tháng Tư hôm nay, chỉ có duy nhất một bức như vậy. Chữ viết trên đó trông ngoằn ngoèo, nguệch ngoạc, và ông Haslitt không nhận ra là chữ ai. Nhưng nó mang dấu bưu điện Dijon, thế nên ông Haslitt nhanh chóng xé bao thư ra. Ông có một thân chủ ở Dijon, một góa phụ, bà Harlowe, và như ông nghe kể thì tình trạng sức khỏe của bà đang tệ lắm. Chắc chắn bức thư được viết tại nhà bà ấy, biệt thự Grenelle, nhưng không phải do đích thân bà viết. Ông lật sang phần chữ ký. “Waberski?” Ông vừa nói vừa cau mày lại. “Boris Waberski?” Và rồi ông thốt lên ngay khi nhận ra người viết thư, “À, phải rồi, phải rồi.” Ông ngồi xuống ghế và đọc. Phần đầu của bức thư chỉ đơn thuần là mấy câu văn hoa và khen ngợi, nhưng đọc được đến nửa trang hai thì mục đích của nó trở nên vô cùng rõ ràng. Đây là thư yêu cầu vay năm trăm bảng. Ông Haslitt mỉm cười và tiếp tục đọc, vừa đọc vừa độc thoại với người viết. “Tôi đang rất cần chỗ tiền đó,” Boris viết, “và…” “Hẳn là như thế rồi,” ông Haslitt nói. “Bà chị yêu quý của tôi, Jeanne-Marie…”, bức thư ghi tiếp. “Chị dâu,” ông Haslitt chỉnh lại. “… không thể sống lâu hơn được nữa, mặc dù tôi đã cố gắng chăm sóc chị ấy hết mực,” Boris Waberski tiếp tục trình bày. “Chắc hẳn ông cũng đã biết, chị ấy đã để lại cho tôi một phần lớn gia sản của mình. Vậy tức là nó đã thuộc về tôi rồi, đúng không? Có nói như vậy thì cũng sẽ không bị ai hiểu lầm ý cả. Chúng ta phải nhìn thẳng vào sự thật. Bởi vậy, xin hãy ứng trước cho tôi bằng thư đảm bảo một khoản nhỏ từ phần vốn đã thuộc về tôi, và cho tôi xin được gửi lời chào trân trọng nhất.” Nụ cười của Haslitt nở rộng hẳn ra. Bên trong chiếc hộp thiếc của ông là một bản sao tờ di chúc của Jeanne-Marie Harlowe, được công chứng viên người Pháp của bà tại Dijon viết lại theo đúng thể thức. Theo di chúc, mọi gia sản bà sở hữu sẽ được truyền lại vô điều kiện cho cháu gái chồng bà và con gái nuôi của bà, Betty Harlowe. Jeremy Haslitt thiếu chút nữa thì đã đem bức thư đi hủy. Ông gập nó lại; ngón tay giật giật trên nó; thậm chí phải đến khi xuất hiện cả một vết rách bên mép mấy tờ giấy thì ông mới đổi ý. “Không,” ông tự nhủ. “Không! Với cái tay Boris Waberski này thì không ai mà lường trước được,” và ông nhét bức thư vào một ngăn trong két riêng, sau đó khóa lại. Ba tuần sau, ông rất lấy làm mừng vì đã làm như vậy. Đó là lúc ông đọc được mẩu tin thông báo bà Harlowe đã qua đời trong cột cáo phó của tờ The Times, và nhận được một tấm thiệp lớn với viền đen rất đậm theo phong cách Pháp từ Betty Harlowe, ngỏ ý mời ông đến dự đám tang tại Dijon. Tấm thiệp mời này chỉ mang tính hình thức. Ông sẽ chẳng thể nào đến kịp Dijon để tham dự, kể cả nếu có khởi hành ngay tức khắc. Ông chấp nhận chỉ viết một vài dòng thành kính phân ưu với cô gái, và gửi một bức thư đến cho ông công chứng viên người Pháp, ghi rằng công ty ông sẽ hỗ trợ Betty. Thế rồi ông đợi. “Mình sẽ lại nghe tin từ cái tay Boris kia cho xem,” ông nói, và nội trong tuần đó, ông lại nhận được thư. Chữ viết trong thư thậm chí còn loằng ngoằng và nguệch ngoạc hơn hồi trước; sự hoảng hốt và phẫn nộ đã khiến cho câu từ của Waberski loạn hết cả lên; đồng thời hắn đã đòi lượng tiền lớn gấp đôi. “Thật không thể nào tin nổi,” hắn viết. “Chị ấy chẳng để lại chút gì cho người em trai tận tụy của mình. Có trò gì đó đang diễn ra, và tôi không ưa chút nào. Giờ số tiền sẽ phải là một ngàn bảng, gửi theo đường thư đảm bảo. ‘Boris tội nghiệp của chị, em luôn bị cả thế giới này quay lưng,’ chị ấy nói trong lúc mắt ngấn đầy lệ. ‘Nhưng chị sẽ bù đắp cho em trong di chúc.’ Và giờ thì chẳng có gì cả! Tất nhiên, tôi đã nói chuyện với cô cháu gái của tôi; ôi, con bé thật cứng đầu! Nó búng ngón tay vào mặt tôi! Hành xử theo cái thể thống gì vậy cơ chứ? Một ngàn bảng, thưa ông! Bằng không là sẽ có chuyện khó xử xảy ra! Vâng! Không ai búng ngón tay vào mặt Boris Waberski mà không trả tiền cả. Thế nên hãy trả tôi một ngàn bảng gửi theo đường thư đảm bảo, không là sẽ có chuyện khó xử”; và lần này Boris Waberski không buồn gửi lời chào nào đến cho ông Haslitt cả, cho dù có là trân trọng nhất hay không, chỉ đơn giản ký bằng một nét bút ngoáy tít, nhập nhằng khắp mặt thư. Ông Haslitt không mỉm cười với bức thư này. Ông nhẹ nhàng xoa hai lòng bàn tay vào với nhau. “Thế thì chúng ta đành phải để cho chuyện khó xử xảy ra vậy,” ông nói nhanh, và rồi cất bức thư thứ hai vào cùng chỗ với bức thư thứ nhất. Nhưng ông Haslitt cảm thấy hơi khó tập trung vào công việc. Bên trong cái ngôi nhà to lớn tại Dijon là một cô gái đơn côi, và không có người đồng hương nào ở bên cô ấy cả! Ông bất chợt đứng dậy khỏi ghế và băng qua hành lang, vào trong văn phòng của người cộng sự cấp thấp. “Jim, mùa đông này cậu đã đi Monte Carlo nhỉ,” ông nói. “Đi một tuần,” Jim Frobisher đáp. “Tôi nhớ mình có nhờ cậu đến thăm một thân chủ của chúng ta, người sở hữu một biệt thự ngoại ô tại đó - bà Harlowe.” Jim Frobisher gật đầu. “Tôi đã ghé. Nhưng bà Harlowe ốm rất nặng. Có một cô cháu gái, nhưng cô ta lúc ấy đang đi vắng.” “Thế tức là cậu không gặp ai cả?” Jeremy Haslitt hỏi. “Không, không phải,” Jim chỉnh lại. “Tôi thấy một nhân vật kỳ lạ ra mở cửa và xin lỗi thay bà Harlowe. Một ông người Nga.” “Boris Waberski,” ông Haslitt nói. “Đúng cái tên đó rồi.” Ông Haslitt ngồi xuống một cái ghế. “Kể cho tôi nghe về ông ta đi, Jim.” Jim Frobisher nhìn vào hư vô một vài giây. Anh là một thanh niên hai mươi sáu tuổi, mới chỉ tham gia làm cộng sự kể từ năm ngoái. Mặc dù rất nhanh nhẹn khi cần hành động gấp, anh lại hết sức cẩn trọng khi đánh giá bản chất người khác; và anh còn rất kính nể ông Jeremy Haslitt già, thế nên cứ mỗi khi làm gì liên quan đến công việc của công ty là lại cẩn trọng gấp đôi. Một lúc sau anh trả lời. “Ông ta là một người cao lớn, đi đứng trông có vẻ nặng nhọc, bên trên một vầng trán ngắn và một cặp mắt hoang dại là một mớ tóc bạc dựng thẳng đứng như dây kẽm gai. Ông ta gợi cho tôi nhớ đến một con rối không được gắn dây tử tế lên chân tay. Tôi tin con người này có bản chất khá ngông cuồng và dễ bị kích động, ông ta cứ liên tục miết bộ ria mép với mấy ngón tay dài ngoằng, ố màu thuốc lá. Đây là cái kiểu người có thể nổi điên bất cứ lúc nào.” Ông Haslitt mỉm cười. “Đúng như những gì tôi nghĩ.” “Ông ta gây rắc rối gì cho ông à?” Jim hỏi. “Chưa đâu,” ông Haslitt nói. “Nhưng bà Harlowe đã chết, và tôi tin rằng rất có khả năng ông ta sẽ giở trò gì đó. Ông ta có hay bài bạc gì không?” “Có, chơi rất khát,” Jim nói. “Tôi đoán là ông ta sống bám vào bà Harlowe.” “Tôi cũng nghĩ thế,” ông Haslitt nói, và ông im lặng ngồi đó một lúc. Thế rồi ông nói: “Thật đáng tiếc là cậu không được gặp Betty Harlowe. Tôi từng một lần ghé thăm Dijon trên đường đi qua miền Nam nước Pháp năm năm trước, hồi Simon Harlowe, chồng bà ấy, hãy còn sống. Betty hồi đó là một cô bé chân dài gầy gò, đi tất lụa đen, sở hữu một gương mặt trắng, sáng sủa, và mái tóc đen sẫm cùng cặp mắt lớn, xinh xắn lắm.” Ông Haslitt dịch người trên ghế một cách không thoải mái. Cả một ngôi nhà cổ với khu vườn lớn đầy dẻ và sung, trong khi cô gái kia thì một thân một mình, sống cùng với một tay đầu óc có vấn đề, đang bực bội và muốn gây chuyện khó xử cho cô. Ông Haslitt không thích cái hình ảnh đó chút nào! “Jim,” ông bất chợt nói, “cậu có thể thu xếp công việc sao cho nếu cần thiết thì sẽ có thể rời đi ngay lập tức được không?” Jim ngước nhìn lên, tỏ vẻ ngạc nhiên. Loạn cào cào, như kiểu dân sân khấu hay nói, không phải là chuyện hay xuất hiện tại công ty Frobisher & Haslitt. Dù cho đồ nội thất của họ hơi xỉn màu, tác phong của họ rất trang nghiêm; thân chủ có thể gặp chuyện khẩn, nhưng vội vã và gấp gáp là những từ công ty không bao giờ sử dụng. Chắc chắn đâu đó quanh đây sẽ có một luật sư chịu hiểu cho họ. Ấy nhưng giờ đây, đích thân ông Haslitt, cùng với mớ tóc bạc trắng và gương mặt tròn trịa khác thường, nửa trẻ con, nửa thông minh xuất sắc, lại đang đề nghị cộng sự cấp thấp của mình chuẩn bị sẵn sàng để đi thẳng sang đại lục châu Âu ngay khi có lệnh. “Tôi chắc chắn có thể làm vậy,” Jim nói, và ông Haslitt nhìn anh với vẻ hài lòng. Jim Frobisher sở hữu một nét tính cách rất khác người. Ngay cả người quen của anh, cho dù có là bạn bè thân thuộc, cũng mới chỉ từng biết đến các dấu hiệu anh để lộ ra bên ngoài. Anh là một người cô độc. Cho tới nay, anh chỉ quan tâm đến một số rất ít người, và ngay cả những người ấy anh cũng chẳng thiết tha gì mấy. Đam mê của anh là được cảm thấy rằng cuộc đời mình và ý nghĩa cuộc đời mình không phụ thuộc vào người khác. Trong những tháng được rảnh rang, anh luôn theo đuổi dam mê ấy. Một chiếc thuyền buồm nửa boong* chỉ cần một người lái, một cây rìu phá băng, một khẩu súng trường, một vài cuốn sách dài bất tận, chẳng hạn như Chiếc nhẫn và cuốn sách*. Đó chính là những người bạn đồng hành của anh trên biết bao chuyến thám hiểm cô đơn, bên cạnh các vì sao và những suy tư của riêng mình. Hệ quả là anh đã tự tạo cho bản thân mình một vẻ lạnh nhạt khác thường, khiến cho anh lập tức trở nên nổi trội giữa đám đông. Đây là một diện mạo đầy vẻ dối lừa, bởi lẽ nó dễ gợi lên sự tin tưởng cho người khác, mặc dù có khi chẳng có lý do nào để họ đặt lòng tin như vậy cả. Chính cái vẻ ngoài ấy bấy giờ đã thuyết phục ông Haslitt. “Đây đích thị là một người thích hợp để đối đầu với cái ngữ như Boris Waberski,” ông nghĩ thầm, có điều không nói hẳn ra như vậy. • Thuyền buồm nửa boong; loại thuyền half-deck, phần boong chỉ kéo dài bằng nửa thân tàu, có thể nằm ở cuối hoặc đuôi tàu. • Chiếc nhẫn và cuốn sách: tức The Ring and the Book, một tiểu thuyết dài được viết dưới dạng thơ của Robert Browning. Điều ông nói là: “Có khi cũng chẳng cần thiết phải làm vậy đâu. Betty Harlowe có một luật sư người Pháp. Chắc chắn anh ta sẽ đủ sức giải quyết. Ngoài ra…” - và ông mỉm cười lúc nhớ lại một câu trong bức thư thứ hai của Waberski - “Betty có vẻ là người rất có khả năng tự bảo vệ mình. Cứ để rồi xem.” Ông quay trở lại văn phòng của mình, và suốt một tuần liền ông không nhận được thêm bất cứ tin tức gì từ Dijon nữa. Lúc ông đã gần quên đi sự lo lắng của mình thì bất thình lình, một tin động trời xuất hiện, và nó được truyền đến thông qua một kênh rất bất ngờ. Jim Frobisher là người báo tin cho ông biết. Anh xộc vào văn phòng của ông Haslitt đúng lúc người cộng sự cấp cao đang đọc cho anh thư ký ghi lại lời phúc đáp cho mấy bức thư buổi sáng của mình. “Ông Haslitt!” Jim la lên, và ngưng bặt khi nhìn thấy viên thư ký. Ông Haslitt nhìn lướt qua gương mặt người cộng sự trẻ của mình và nói: “Godfrey, lát nữa chúng ta sẽ tiếp tục trả lời thư sau.” Viên thư ký mang cuốn sổ tay tốc ký ra khỏi căn phòng, và ông Haslitt quay sang Jim Frobisher. Mời các bạn đón đọc Ngôi Nhà Mũi Tên của tác giả A. E. W. Mason.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Những con Rồng Châu Á - Selphie & Kitaro
Bộ truyện trinh thám gồm 4 tập được bạn trẻ ham mê trinh thám đón đọc trên toàn thế giới. *** Căn cứ Rồng hiện ra trước mắt ba cô gái, mọi sinh hoạt ở đây vẫn diễn ra bình thường nhưng đối với họ thì thật là mới mẽ, mọi thứ điều lạ, họ nhớ nới này, nhớ những công việc được giao và nhớ cả người đỡ đầu, người đưa cho các cô các nhiệm vụ mới. - Chúng con chào chú a. - Oh, chào các cô con gái của ta, các con khỏe không, những ngày nghĩ êm đềm đó các con nghĩ sao ? - Chán lắm chú a., bọn cháu chỉ muốn vừa du lịch vừa phá án thôi, như thế mới hấp dẫn. Sara lên tiếng. - Thế à, biết thế chú đã tìm các cháu lâu rồi, ở đây chú rối cả lên. - Tội nghiệp chú Saro đáng thương quá. Zane lên giọng thương xót. - Mà chú Saro nè, nhiệm vụ lần này như thế nào vậy chú. Sara hỏi. - Uh nhỉ ! Gạt chuyện tư qua đi, chuyện công đây. Trên màn hình bắt đầy hiện ra những tài liệu có liên quan đến nhiệm vụ lần này, vật bị lấy là một chiếc nhẫn nạm một viên kim cương bảy màu rất đẹp, có giá trị lớn. Vụ đánh cắp đã gấy thiệt mạng hai nhân viêc giám sát. Đây là chiếc nhẫn rất quý và nó có cả giá trị về chính trị giữa ThaiLand và Singapore. Vì thế các cháu phải sang Singapore để tìm hiểu và phá vụ này. - Gay đấy, không biết quan hệ hai nước có xấu đi không nhỉ. Zane bày tỏ suy nghĩ của mình. - Em nghe nói chiếc nhẫn đó là do vua ThaiLand tặng đấy. - Sara nói đúng đó, vì thế công việc chúng ta là tìm ra thủ phạm và chiếc đem đặt lại vị trí cũ. - Chúng cháu đi Singapore hả chú Saro. Sara hỏi. - Phải, giấy tùy thân, hộ chiếu, hành lý chú điều chuẩn bị xong cho các cháu rồi. - Chú Saro này, không lẽ thủ phạm lại muốn chia rẻ sự hợp tác hai nước à, cháu không nghĩ thế đâu, quốc vương ThaiLand đâu phải là chỉ tặng riêng vật đó. Alex lên tiếng. - À, thì ra nãy giờ cháu không nói gì là để suy nghĩ vấn đề này à ? - Vâng a. - Chị Alex nè, có lẽ chiếc nhẫn ấy quý nhất thì sao ? - Nhưng họ có thể không phải là ăn trộm như những tên khác - Vì đây là vật có giá trị mà chính quốc vương tặng không chừng đó Alex ạ. Saro nói. - Như vậy tại sao họ không lấy luôn những thứ như cây gậy ngọc quý, hai mãnh da con bạch hổ ? - Chị không biết Alex ạ, đừng hỏi chị. - Chúng ta qua đó điều tra sẽ rỏ ngay thôi, ở đây doán già, đoán non cũng vô ích thôi. Sara đề nghị. - Đúng đấy, các cháu đi đi. - Vâng ạ . - Cận thẩn đó nha, lần này không nên khinh địch đó. - Yes Sir !!! ... Mời các bạn đón đọc Những con Rồng Châu Á của hai tác giả Selphie & Kitaro.
Gã Hippi Trên Đường - James Hadley Chase
James Hadley Chase là bút danh của tác giả người Anh - Rene Brabazon Raymond (24/12/1906 – 6/2/1985), người cũng đã viết dưới tên James L. Docherty, Ambrose Grant và Raymond Marshall. Ông sinh ra ở Luân Đôn, là con của một đại tá người Anh phục vụ trong quân đội thuộc địa Ấn Độ, người dự định cho con trai mình có một sự nghiệp khoa học, bước đầu đã cho học tại trường học Hoàng gia, Rochester, Kent và sau đó học ở Calcutta. Ông rời gia đình ở tuổi 18 và làm nhiều công việc khác nhau, một nhà môi giới trong nhà sách, nhân viên bán sách bách khoa toàn thư của trẻ em, người bán sách sỉ trước khi tập trung vào sự nghiệp viết lách với hơn 80 cuốn sách trinh thám. Năm 1933, ông đã cưới Chase Sylvia Ray và có một con trai. Trong Thế chiến II, ông phục vụ trong Không quân Hoàng gia, cuối cùng đạt được thứ hạng lãnh đạo Đội tàu chiến. Chase đã biên tập Tạp chí Không quân Hoàng gia cùng với David Langdon với nhiều câu chuyện, nó được phát hành sau chiến tranh trong cuốn sách Slipstream. Chase chuyển đến Pháp năm 1956 và sau đó đến Thụy Sĩ vào năm 1961, sống một cuộc sống ẩn dật ở Corseaux-Sur-Vevey, phía bắc của hồ Geneva, từ năm 1974. Ông qua đời yên bình vào ngày 6/2/1985. *** Các tác phẩm của James H. Chase đã được xuất bản tại Việt Nam: Tỉa Dần Cái Chết Từ Trên Trời Cả Thế Gian Trong Túi Ôi Đàn Bà Cạm Bẫy Gã Hippi Trên Đường (Frank Terrell #5) Hứng Trọn 12 Viên Đam Mê và Thu Hận Tệ Đến Thế Là Cùng Mười Hai Người Hoa và Một Cô Gái Buổi Hẹn Cuối Cùng Trở Về Từ Cõi Chết Thằng Khùng Không Nơi Ẩn Nấp Đồng Tiền và Cạm Bẫy Lại Thêm Một Cú Đấm Đặt Nàng Lên Tấm Thảm Hoa Cành Lan Trong Gió Bão Những Xác Chết Chiếc Áo Khoác Ghê Tởm Món Quà Bí Ẩn Âm Mưu Hoàn Hảo Cướp Sòng Bạc Cạm Bẫy Dành Cho Johnny Những Xác Chết Câm Lặng Em Không Thể Sống Cô Đơn Thà Anh Sống Cô Đơn Buổi Hẹn Cuối Cùng Mùi Vàng Phu Nhân Tỉ Phú Giêm Tình Nhân Gã Vệ Sĩ Dấu Vết Kẻ Sát Nhân Trong Bàn Tay Mafia Này Cô Em Vòng Tay Ác Quỷ Thiên Đường của Vũ Nữ Châu Dã Tràng Xe Cát .... ***  Này, hãy nhìn bọn khốn kia kìa. - Người lái xe tải quay qua và vỗ nhẹ lên vai của Harry Mitchell và nói. Lúc này Harry Mitchell đang ngả lưng trên ghế nệm của cabin xe. Nghe vậy, anh giật mình nhìn về phía trước thấy một tốp Hippy đang đứng long nhong bên lề đường. Bên cạnh chúng ngổn ngang những đồ dùng, nổi bật là mấy cây đàn ghita. - Bọn khốn kiếp! - Người lái xe có vẻ khó chịu rồi nói tiếp. - Tương lai của xã hội đấy, nhưng chúng có thể giết ngay cả cha mẹ của chúng khi lên cơn ghiền ma túy. Bỗng trước mặt có ba đứa con gái mặc sơ mi và quần jean xanh, bọn chúng đưa tay ngoắc xe dừng lại. - Đồ điếm nhóc! Mới tập tễnh mà bày đặt. - Lần này anh khạc qua cửa sổ. - Mình hài lòng vì chưa có con, nhưng bà xã mình thì ngược lại. Thế hệ mình là đồ bỏ, nhưng còn bọn này thì... - Harry Mitchell lặng lẽ móc trong túi lấy gói Lạc Đà dẹp lép rồi mời anh lái xe, cả hai cùng đốt thuốc. Người lái xe nói tiếp: - Có phải cậu đang nghĩ là vì sao tôi cho cậu đi nhờ? Có phải cậu mới được giải ngũ không? Nhìn sơ là tôi biết ngay vì trước dây tôi cũng là lính ở Triều Tiên. Cậu mới về hả? - Đúng, tôi vừa về. - Harry lơ đãng nói. - Ờ. - Người lái xe gật đầu. - Trông chú em còn sặc mùi lính. Harry nhún vai: - Rồi tôi cũng sẽ như mọi người mà thôi. - Anh cảm thấy vui khi trở về chứ? Harry không muốn trả lời thẳng vào câu hỏi. Người lái xe tỏ vẻ thông cảm, anh ta nói như chia sẻ: - Cuộc sống ở quân đội thì có gì là vui, những ngày đầu ai cũng cảm thấy lẻ loi, trước kia tôi cũng như anh vậy. Anh ta hít sâu một hơi thuốc lá rồi từ từ nhả khói: - Có thật sự gian khổ như bọn nhà báo đã viết không? Harry không đáp lại và với vẻ mặt đăm chiêu anh nói: - Tôi không chịu được nỗi buồn. Anh hồi tưởng lại thời gian sống trong quân ngũ, gần kề giữa cái sống và cái chết, bây giờ anh không muốn nhắc tới nữa, với anh mọi việc vậy là đã xong. Người lái xe như đọc được ý tưởng của Harry, anh cảm thấy thất vọng vì không được nghe nói về những cuộc đụng độ, nên thở dài. Khi chiếc xe chạy qua khỏi Dayton Beach, người lái xe tên là Sam Bentz, đã cho xe dừng lại trước một quán ăn nhanh, để giải khát. Công việc của anh hiện giờ là mang trái cây từ Orangerille về miền Bắc, cứ một tuần hai lần. Đây là hành trình mà anh cảm thấy chán ngán vì có đám lưu manh đã làm bẩn con đường dẫn tới biển và mặt trời. Chúng dùng mọi cách buộc người đi đường phải cho chúng đi nhờ. ... Mời các bạn đón đọc Gã Hippi Trên Đường của tác giả James Hadley Chase.
Cảnh Sát Đặc Nhiệm Texas - Diana Palmer
Một vụ phá án của đội cảnh sát đặc nhiệm Texas lồng trong câu chuyện tình của trung úy Marc Brannon và Josette Langley, nữ điều tra viên, hai nhân vật chính của truyện. Nhiều năm trước, những éo le trong hai vụ án có liên quan nhau đã khiến họ phải đứng trước tòa ở hai phía đối lập, điều đó cũng khiến cho mối tình của họ phải tan vỡ và danh tiết của Josette bị tổn hại nghiêm trọng. Những tưởng hai người sẽ không bao giờ gặp lại nhau nữa khi mỗi bên đều chuyển công tác và chỗ cư ngụ, nhưng số phận lần nữa lại đẩy đưa họ đối mặt với nhau. Lần này, là một vụ án rất phức tạp khiến họ phải luôn sát cánh bên nhau trong công việc. Và dẫu còn đầy tổn thương vì chuyện cũ, Josette vẫn không thể tự dối lòng rằng, trái tim cô vẫn chưa thể xóa đi hình bóng của con người phụ bạc ấy. Rằng, quá khứ sâu đậm ấy giờ đây đang lên tiếng... Đây làtiểu thuyết trinh thámhình sự. Theo giới thiệu của nguyên bản, sách được xếp vào hàng best-sellers ở Hoa Kỳ với tác giả là Diana Palmer, một nữtiểu thuyếtgia nổi tiếng, có hơn 25 năm sáng tác và hơn 95 tiểu thuyết được in. Truyện có, nhiều tình tiết hấp dẫn gay cấn lồng trong một câu chuyện tình khá nóng bỏng với kết thúc có hậu. *** Tại trụ sở đội cảnh sát đặc nhiệm bang Texas ở San Antonio, trên tường nhà treo đầy những bức ảnh đen trắng được đóng khung của những thành viên cũ trong đội ngũ ưu tú đó. Những bóng ma màu nâu xám của quá khứ đang ngắm nhìn thế giới hiện đại với đầy những điện thoại, máy fax và máy tính qua những khung ảnh... Chuông điện thoại không ngừng kêu vang. Những nhân viên ngồi sau bàn làm việc của mình đang làm công việc thẩm vấn. Và như một điệu hát ru điện tử đều đặn du dương, tiếng kêu ro ro của những máy móc vẫn đều đều lấp đầy không gian. Trung úy cảnh sát Marc Brannon như bị trói chặt vào chiếc ghế xoay của mình trước một bàn làm việc chất đống tài liệu. Những lọn tóc xoăn màu hạt dẻ chen lẫn màu hoe vàng của anh ánh lên dưới bóng đèn neon. Cặp mắt nheo nheo, anh đang nghĩ đến một sự việc mới xảy ra gần đây. Vài tuần trước, một người bạn và cũng là đồng nghiệp của anh, Judd Dunn, người vừa được bổ sung tạm thời về văn phòng ở San Antonio suýt nữa đã bị một chiếc xe chạy với tốc độ cao cán vào người. Theo những lời bàn tán thì vụ việc đó không liên quan gì đến một vụ điều tra của FBI về Jake Marsh, một ông trùm mafia trong vùng. Dunn đã tham gia vào việc thẩm tra ấy, trước khi yêu cầu được chuyển đến Victoria vì những lý do cá nhân. Cuộc điều tra sẽ được tiếp tục dưới sự chỉ đạo của một nhân viên khác người gốc Georgie là Curtis Russell, người trước đây từng làm việc cho Sở Mật vụ. Chính vì thế mà Marc cảm thấy hoi lạ khi anh ta làm việc cùng bộ phận với mình. Nhưng trong công việc này, mọi người thường xuyên phải thay đổi công tác. Chắc đây là một trường hợp như vậy. Trừ phi Russell chính là kẻ chuyên quấy rầy. Hai ngày trước, chưởng lý Simon Hart đã đích thân gọi điện cho Marc để phàn nàn về tính bướng bỉnh của đồng nghiệp của anh. Russell, hiện giờ đang tung hoành ở Austin và đã gây nhiều khó khăn cho những nhân viên ở đây. Sau khi đã xem xét tỉ mỉ hồ sơ của cảnh sát, anh ta đã moi ra hai vụ giết người mà theo anh ta, hai vụ này có liên quan chặt chẽ đến Marsh và maña... Cũng có thể anh ta có lý. Nhưng vấn đề là gán tội cho bọn trộm cắp thì dễ hơn nhiều việc đưa ra được bằng chứng của những tội danh đó. Jake Marsh đã được tôi luyện trong tất cả các kiểu phạm tội như đe dọa tống tiền, ma cô dắt gái hay cá độ bất họp pháp... Ngoài ra, hắn còn sở hữu một căn hộ ngay giữa Downtown, khu phố đẹp nhất ở San Antonio. Đấy chính là gót chân Âsin của hắn. Bởi vì cảnh sát có thể “hỏi thăm” hắn bất cứ khi nào khi viện dẫn luật về yếu tố gây nguy hại nơi công cộng - một loại tội phạm hình sự cho phép cảnh sát đóng cửa một địa điểm bị nghỉ ngờ là được dùng để tổ chức các hoạt động phạm tội. Cảnh sát có thể viện mọi lý do để đánh bật những tay anh chị ra khỏi hang ổ của mình. Và, nếu xét theo giá trị bất động sản của căn hộ thì Marsh rất có khả năng bị sờ gáy. Nhưng điều đó chưa đủ để bắt ông ta. Marsh rất có tài và biết cách lẩn tránh sự truy tìm của cảnh sát. Rõ ràng là sự hiểu biết pháp luật rất có lợi cho bọn tội phạm. “Đáng tiếc là người ta không thể tóm cổ những kẻ phạm tội như ở thời trước đây nữa”, - Marc suy nghĩ với một thái độ khinh bỉ. Mắt anh gắn chặt vào bức ảnh cũ, trong đó có hình một thành viên của đội cảnh sát đặc nhiệm đang cưỡi ngựa, ngạo nghễ kéo theo bằng dây thừng một tên sống ngoài vòng pháp luật bị thương, nhục nhã và người đầy bụi bặm. Anh hờ hững mân mê báng súng bằng gỗ sậm màu của khẩu colt 45 mà anh luôn đeo nó bên thắt lưng của mình. Những thành viên của đội cảnh sát đặc nhiệm không mặc đồng phục, họ được tự do chọn phục trang và mang vũ khí cho phù hợp. Nhưng phần lớn trong số họ đều chọn cho mình cùng một kiểu: sơ mi trắng, cà vạt, ủng và mũ cao bồi Stetson trắng, và cùng đeo phù hiệu - một ngôi sao trong một vòng tròn. Một cảnh sát đặc nhiệm phải luôn lịch sự, sạch sẽ, bảo thủ và chuyên nghiệp. Ngay từ đầu, Marc đã cố gắng để quen vói hình ảnh này, nhưng nay thì anh tỏ ra thận trọng và đa nghi hơn. Hai năm trước, anh đã phạm một sai lầm trong cuộc đời mình: anh đã hiểu lầm về một người phụ nữ mà anh đã từng gắn bó... còn hơn cả lý trí của mình. Em gái của anh, người biết thông tin về người phụ nữ này, đã cam đoan là người phụ nữ này không còn muốn gì ở anh nữa. Đúng là một sự giúp đỡ vô dụng. Marc không tha thứ cho mình về chuyện đó. Anh đã xin thôi việc, rời khỏi đội đặc nhiệm và bang Texas, rồi gia nhập FBI và làm việc ở đó trong hai năm. Kinh nghiệm đã dạy cho anh biết rằng, trốn chạy khỏi một vấn đề không phải là giải pháp tốt; vì người ta luôn mang theo nó bên mình như một con tim bị thương. ... Mời các bạn đón đọc Cảnh Sát Đặc Nhiệm Texas của tác giả Diana Palmer.
Sherlock Holmes Toàn Tập - Arthur Conan Doyle (Bản Dịch Mới)
… Những bản dịch Sherlock Holmes trước đây đã tiếp cận tác phẩm lừng danh của Conan Doyle theo những phương cách khác nhau. Có bộ tuy gọi là “toàn tập” nhưng thực tế lại không dịch trọn vẹn 4 đoản thiên tiểu thuyết và 56 truyện ngắn kinh điển của Doyle. Một số truyện thậm chí là bản lược dịch hoặc dịch theo các bản rút gọn không đúng nguyên tác. Có bộ đúng là toàn tập, dịch từ nguyên tác tiếng Anh nhưng việc xử lý bản dịch lại thiếu nhất quán và không lưu tâm đến các giá trị văn học sử.  Để đáp ứng mong đợi lâu nay của nhiều bạn đọc - một là tiếp cận bộ truyện kinh điển này một cách trọn vẹn, hai là nắm bắt sự phát triển của nhân vật Sherlock Holmes qua các thời kì sáng tác của Conan Doyle - bộ sách này tập hợp đầy đủ 4 đoản thiên tiểu thuyết và 56 truyện ngắn, sắp xếp theo thời gian xuất bản.  Về mặt dịch thuật, bản dịch mới này tiếp cận tác phẩm của Doyle trên cả góc độ lịch sử và văn chương, không xem toàn tập Sherlock Holmes như những truyện trinh thám phổ thông mà là một danh tác kinh điển. Việc dịch thuật được tổ chức trên cơ sở tra cứu, tìm hiểu các thông tin liên quan đến tác giả, nhân vật lẫn thời đại và nỗ lực duy trì một phong cách nhất quán nhằm chuyển tải yếu tố văn học - đặc biệt là qua 4 đoản thiên tiểu thuyết. Một phần những thông tin đã sưu tầm, tra cứu trong quá trình dịch thuật được đúc kết thành phần dẫn nhập và một phụ lục có hệ thống, nhằm giúp độc giả hiểu rõ hơn về Sherlock Holmes, về người khai sinh ra nhân vật thám tử lừng danh và sức ảnh hưởng sâu xa của toàn tập tác phẩm này trên thế giới… *** Cái tên Sherlock Holmes đã quen thuộc khắp thế giới tới mức một người dù có thể chưa hề đọc truyện về nhà thám tử này nhưng chỉ cần nghe tên cũng biết anh ta là ai. Sherlock Holmes đã trở thành một biểu tượng của văn hóa đại chúng toàn cầu. Khác với những nhân vật thần tượng chỉ vang bóng một thời, Sherlock Holmes kể từ khi xuất hiện lần đầu tiên năm 1887 qua sáng tạo của Sir Arthur Conan Doyle vẫn sống mãi qua ba thế kỉ.  Sherlock Holmes hiện lên qua lời kể của cộng sự thân thiết và người viết tiểu sử tận tụy - bác sĩ Watson như một chân dung độc đáo, là chuyên gia số một trong lĩnh vực điều tra hình sự và khoa học suy luận, "chiến sĩ bảo vệ công lí lỗi lạc nhất" của thời đại. Trong sự nghiệp truy lùng tội phạm, vị thám tử đại tài từng trải qua nhiều thử thách gay cấn, thậm chí đã một lần chết đi sống lại, nhưng cũng chính nhờ đó, Holmes trở thành một nhân vật bất tử, được độc giả khắp thế giới yêu mến vì tài trí và chất nghệ sĩ, vì cả những nhược điểm lẫn cá tính lập dị. Bản dịch mới này tiếp cận tác phẩm của Doyle trên  cả  góc  độ  lịch  sử  và  văn  chương, không xem  toàn  tập  Sherlock Holmes như những truyện trinh thám phổ thông mà là một danh tác kinh điển. Bộ Sherlock Holmes toàn tập 3 tập, bìa mềm, hộp ngang có thêm Phụ bản in màu ở cuối tập 3 về Bảo tàng Sherlock Holmes.  *** Nội dung Tập 1 Sherlock Holmes lần đầu ra mắt công chúng trong một vụ án mạng hóc hiểm với tựa đề Cuộc điều tra màu đỏ (1887). Đây là khởi điểm của tình bạn lâu bền giữa Sherlock Holmes và bác sĩ Watson mà rồi đây sẽ làm đổi thay lịch sử loại hình tiểu thuyết trinh thám. Tiếp đó, trong Dấu bộ tứ (1890), đôi bạn Holmes và Watson tái xuất trong một vụ án mạng không kém phần li kì, phức tạp. Hai thiên truyện đầu ấy, hiện lên sinh động qua lời kể của bác sĩ Watson, không chỉ giới thiệu với độc giả phương pháp điều tra và suy luận của nhà thám tử tài ba mà còn góp phần định hình phong cách cho những truyện Sherlock Holmes sáng tác sau này.  Tập 2 Tập truyện ngắn thứ hai Những hồi ức về Sherlock Holmes (1894) mở ra cho độc giả cái nhìn toàn diện hơn về một Sherlock Holmes sở hữu nhiều năng lực xuất chúng nhưng cũng vô cùng lập dị. Cũng trong loạt truyện này, độc giả được hé lộ về vụ án đầu tiên đã tạo nên bước ngoặt đưa Holmes vào sự nghiệp thám tử; nhưng đáng nhớ nhất có lẽ là Vụ án cuối cùng, cuộc đối đầu gay cấn giữa Holmes và đối thủ nguy hiểm nhất trong giới tội phạm - giáo sư Moriarty. Tập 3 Khởi đầu từ một vụ án lắt léo tại vùng quê Anh quốc, Thung lũng Kinh hoàng (1915) đưa độc giả tới một vùng mỏ của Hoa Kì - sân khấu u ám cho những mưu mô, những cuộc đấu đá, thanh trừng, khủng bố của một băng đảng đã gieo rắc nỗi khiếp sợ cho biết bao con người. Cách dẫn dắt truyện ở đây gợi nhớ đến hai đoản thiên tiểu thuyết đầu cũng gắn với những vụ án có căn nguyên sâu xa từ hàng chục năm về trước.    Mời các bạn đón đọc Sherlock Holmes Toàn Tập của tác giả Arthur Conan Doyle.