Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tiếu Vong Thụ

Tiếu Vong Thụ (Cây Quên Cười). Tôi là một gốc hợp hoan sinh trưởng ở đài ngắm sao núi Kỳ Bàn, đã được 400 cái xuân xanh. Vốn dĩ tôi là vô tính, nhưng từ năm hai trăm ba mươi hai tuổi, khi đó thấy một đôi nam nữ đứng trước mặt thề non hẹn biển, tôi đã quyết tâm thân này từ đây về sau là thân con gái. Đầu hạ năm ấy, chính là thời điểm tốt nhất trong năm, cành lá xanh màu phỉ thúy, hoa hồng nhạt ánh lên tựa lông vũ, như ráng mây trời, cả người tràn hương hoa. Tôi hít ngập tràn hương núi rừng mát lạnh trong bầu không khí tĩnh mịch, ngắm nhìn rạng mây trên bầu trời đang đổi màu huyền ảo, bên tai lại nghe tiếng chim tước hót ríu rít. Trong lòng ngập tràn cảm giác biết ơn và thỏa mãn, bản thân đã được thiên nhiên ưu đãi biết bao, để tôi có thể sinh ra ở nơi phong cảnh đẹp mà tao nhã đến vậy. Đang mơ mộng, bỗng thấy từ trong làn gió ấm áp xuất hiện hai bóng người đang chậm rãi đi lên núi, quần áo tung bay, ánh mắt có ẩn tình. Từ xa đã nghe thấy một giọng nói rất đáng yêu vang lên: “Anh họ, anh xem cây hợp hoan kia đẹp chưa kìa”. Chàng trai mặc bộ đồ màu trắng ngẩng đầu liếc nhìn tôi một cái, rồi lại cúi đầu cười trả lời: “Em họ, em mới là đẹp nhất.” Con ngươi đen như mực chỉ chăm chú ngắm nhìn mỗi đôi mắt của cô gái áo xanh kia mà thôi. Người kia nói vậy, cô em họ quay mặt cúi đầu mỉm cười thẹn thùng. Gò má bạch ngọc ửng màu hồng nhạt, giống như khi nắng mai chiếu xuống tàng hoa hợp hoan. Sống suốt hai trăm ba mươi hai năm nay, lần đầu tiên tôi phát hiện rằng gương mặt của người thiếu nữ khi vui vẻ ngượng ngùng lại xinh đẹp đến vậy, không khỏi ước ao mình sẽ được như thế, thì ra một người con gái chỉ cần chàng trai mình yêu khen nàng đẹp, thì nàng sẽ trở nên xinh đẹp đến vậy. Cặp trai gái này ở trước mặt tôi trao lời yêu thương lâu thật lâu, khiến tôi vừa cảm động nhưng lại vừa cảm thấy hoang mang. Theo lão thổ địa thì những lời thề non hẹn biển, ông ta luôn bảo những lời ấy rất không tin được, chính là những lời thề son sắt lại khiến tâm tình xôn xao. Còn đối với thân cây như tôi thì đây chính là lần đầu tiên chứng kiến cảnh tình cảm của con người, từ đó về sau liền tự nhủ với lòng, sau này nhất định tôi sẽ trở thành con gái. Bởi lẽ tôi cũng muốn sẽ có người đối xử tình cảm với mình như ở đây. Tôi khi đó cũng sẽ trở thành một thiếu nữ xinh đẹp rạng rỡ, không gì sánh bằng. Cây tùng đối diện và thổ địa núi Kì Bàn luôn nói tôi thật kiêu ngạo. Nhưng mà chao ôi, có nhan sắc chẳng lại không tốt hay sao, nếu có thể tự mình chọn lựa, có người nào lại không muốn mình xinh đẹp từ mới sinh ra? Tôi dù trẻ tuổi nhưng chỉ thích nói lời ngay thật mà thôi. Đài ngắm sao nơi này thật ra cũng chỉ có một cái bàn đá và hai gốc cây mà thôi. Nghe theo lời lão thổ địa kể lại, ngàn năm trước có thần tiên ghé qua ngắm sao, vì thế nơi đây được đặt tên. Tiếc là tôi thân sinh ra ở đây, đừng nói là thần tiên đắc đạo, ngay đến cả yêu quái cũng chẳng có một bóng. Tuy nhiên, thổ địa thì cũng được coi như một tiểu tiên. Tiếc là lão chỉ có thể ngày ngày chôn chân ở núi Kì Bàn này, không thể như các vị tiên khác, tiêu diêu tự tại. Chính vì thế tính tình cũng có chút kì dị, lúc nào cũng luôn mồm bảo tôi ăn nói lanh chanh, khiến tôi ban đầu vốn là cây nhỏ ngây thơ lại suy xét hết bao tâm tư. Lão còn bảo, việc này có ích cho sự trưởng thành của tôi. Trong lòng thì lại buồn bực: nói lời khiến người khác vui vẻ bản thân mình cũng cao hứng, thế không phải không tốt hơn sao? Phía đối diện là một cây tùng lớn hơn tôi 200 tuổi. Tính cách cũng lập dị chẳng kém. Một lòng một dạ muốn tu hành! Tôi nghĩ lí tưởng của anh ta vĩ đại quá mức, chẳng lẽ một thân cây mà cũng có thể tu thành tiên thật sao? Tôi lại không dám hỏi thẳng, sợ sẽ đả kích lòng tự tôn của y. Thật ra mỗi lần nhìn thấy anh ta chăm chỉ tu luyện, tôi đều nghẹn đến nỗi nội thương, một phần luôn thích nói lời thật thà trong tôi chỉ muốn mở miệng bảo y đừng làm trò ngốc nữa, phần lương thiện khác thì khuyên tôi nhịn xuống, không nói. Cứ bị giày vò như thế quả thật đã rèn luyện tính bình tĩnh và khả năng nhẫn nại của tôi ra trò. Từ đó về sau khi gặp chuyện, khả năng giả vờ nhìn không thấy, nói không biết của tôi rất cao siêu. Buổi tối là lúc chúng tôi gồm một vị tiên hai gốc cây bên đài ngắm sao ngồi tán dóc nhau nghe. Lão thổ địa bình thường đều lấy cầm theo một bầu rượu nhỏ ngồi bên đài uống giải sầu, thỉnh thoảng qua về phía Kiến Mộc và tôi bày tỏ cảm xúc, khi hùng hồn, lúc cô đơn, căn bản là cứ nhìn vào số rượu lão uống nhiều hay ít mà định. Kì thật lão thì có tâm sự gì chứ, không phải là do không thể vân du tứ hải đấy sao, tôi đây thậm chí còn không thể di chuyện được đây này! Có thể thấy so với lão tôi kiên cường, lạc quan hơn biết là bao nhiêu. Trong lòng tôi còn cho rằng là do lão ngâm bài thơ mới nên mới vờ nói chuyện buồn thế thôi. Nếu là một anh chàng trẻ tuôi phong lưu phóng khoáng đang cau mày hình chữ xuyên (川) thì người ta còn có thể động tình, đằng này lão đã là một ông già, tính cách lại còn khác người thì sao có thể khiến tôi đây thẹn với chả thùng thế nào cho được. Nhưng mà dù sao tôi cũng bốn trăm tuổi rồi mà, cuối cùng cũng hiểu được rằng thích ăn ngay nói thật đúng là một tính tốt, nhưng tùy lúc mà đem lời thật lòng nhịn xuống không nói ra lại càng là một phẩm chất đáng quý hơn nữa. Cây tùng đối diện tôi tên là Kiến Mộc. Đối với chuyện hơn tôi hai trăm năm, tôi rất tò mò. Vì thế nhân lúc khi thổ địa đi ngủ, anh ta lén nói cho tôi nghe, khiến tôi cũng xấu hổ thay cho lão một hồi. Năm đó khi tôi còn chưa có mặt trên đời, phóng mắt ra khắp ngọn Kì Bàn này, chỉ có một gốc cây hai trăm tuổi có thể nghe hiểu lời nói của lão, lão già cô đơn cuối cùng cũng có người để dốc bầu tâm sự, hết vừa khóc vừa cười với gốc tùng, ôm cây thật chặt rồi chây trét nước mũi lên vỏ cây, gọi cho cây cái tên Tiểu Tùng. Một tiếng Tiểu Tùng gọi Kiến Mộc hai trăm tuổi này cũng khiến tôi nổi hết da gà, đã thế lão tới đây hằng đêm, một đêm gọi tên không dưới ba trăm năm mươi lần. Trong lòng tôi thầm nghĩ hèn chi vỏ cây của Kiến Mộc sần sùi, ra là đã bị gọi là Tiểu Tùng suốt hai trăm trời. Kiến Mộc tu hành suốt hai trăm rốt cuộc cũng có thể mở miệng nói chuyện, câu đầu tiên nói với lão chính là: Gọi tôi là Kiến Mộc. Lão già cưới hắc hắc: “Nếu không phải do lão đây ngày ngày tới nôn mửa, thì sao chú mày chỉ mới 400 tuổi mà có thể nói chuyện được sao, hừ.” Phương cách khích lệ của lão cũng đặc biệt quá đi! Sau tôi lại hỏi nhỏ anh: “Vậy sau này anh không muốn trở thành nữ sao?” Kiến Mộc thở dài: “Anh bị lão thổ địa ôm ấp như thế, còn có thể chọn làm nữ được sao?” Tôi không nói gì, đem ý tưởng từng muốn cùng anh ta trở thành chị em gái chốn khuê phòng, an ủi nhau nơi núi rừng hiu quạnh mà hung hăng đè nén. Sau này còn có cây hợp hoan tôi đây, sống vô tư lự đến hai trăm tuổi, hấp thụ tinh hoa nhật nguyệt, linh khí đất trời, cuối cùng cũng có thể giác ngộ, tâm tình cũng được khai sáng, có thể nghe hiểu tiếng người. Lão đang vui vẻ một hồi, bừng bừng chí văn chương rồi lấy cho tôi một cái tên là Hợp Hoan. Khi ấy tôi không thể nói được, nhưng có thể trao đổi với Kiến Mộc. Tôi mừng khấp khởi hỏi Kiến Mộc tên này có hay không? Kiến Mộc cười lạnh lùng: “Lão thấy cho gọi Tiểu Cẩu, gặp kêu Tiểu Miêu, nhìn cây tùng bảo Tiểu Tùng. Em nói tên Hợp Hoan này vậy có được hay không?” Nhưng mà lúc đó tôi vừa có một cái tên nên thấy rất mừng, không nhìn thấy Kiến Mộc là đang xoi mói. Cứ như thế vui vẻ mà dùng cái tên ấy đến tận ngày hôm nay. Tôi biết được khi Kiến Mộc bốn trăm tuổi là có thể mở miệng trò chuyện, trong lòng tôi khấp khởi mừng thầm, bởi vì nay tôi cũng đến số tuổi ấy rồi. Lòng kiên nhẫn chờ đợi, một ngày lại một ngày có thể mở miệng nói chuyện, nhưng mãi chỉ có tiếng gió thổi nghe tiếng lá cây xào xạc mà thôi. Tôi còn chưa hề nản lòng mất lòng tin thì lão thổ địa đã hầm hầm bước về phía này, hay tay chống nạnh sấn sỉa vào người tôi hệt mũ đàn bà đanh đá: “Hợp Hoan, thấy lão đây hằng ngày đều uống rượu tới sáng dễ lắm sao? Có chút thời gian ban ngày đi ngủ một lúc, sao cô lại giày vò lão thế hả.” Tôi sững sờ một lúc, sợ hãi hỏi Kiến Mộc: “Em nói lớn tiếng đến vậy cơ à?” Kiến Mộc nhìn tôi, suy nghĩ một hồi, khách sáo nói: “Nói to chút thì cũng không sao đâu, miễn là êm tai chút là…” Kiến Mộc nói lời đâm chọt hơn so với lão thổ địa nhiều, chỉ trích thẳng vào lòng người ta, anh ta không biết điều đó sao? Tôi im lặng, trong đầu có phần nhụt chí. Lão thương hại nhìn tôi: “Cô cùng Kiến Mộc học hành, nó mỗi ngày tu hành thì cô lại cho là đang ngủ gật sao. Chao ôi, tuy là môi trường sinh dưỡng là như nhưng không ra được cùng loại cây nha.” Tôi nhìn sang Kiến Mộc, lần đầu tiên tin tưởng vào chuyện tu hành của anh ta, nhưng chỉ là có thể mở miệng nói dóc mấy câu thôi. Nếu là có thể tu hành đắc đạo, đánh ngất tôi cũng chả tin. Mời các bạn đón đọc Tiếu Vong Thụ của tác giả Thị Kim.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Gió Ngừng Thổi, Tình Còn Vương
Bạn đang đọc truyện Gió Ngừng Thổi, Tình Còn Vương của tác giả Diệp Lạc Vô Tâm. Cũng là lần đầu tiên hắn nhìn kĩ một nữ nhân, nước mắt kia như trận bão vô cùng, cuốn qua toàn thân, khiến hắn ướt đẫm, thiên địa cũng không còn sắc màu nào khác... Nàng lần đầu tiên nhìn thấy hắn, là lúc hắn đang cười, ánh hoàng hôn rực rỡ kia trước nụ cười của hắn càng ảm đạm, tiếng lả tả xung quanh cũng dường như lặng yên. Cũng là lần đầu tiên nàng nhìn kĩ một nam nhân, hắn như là mây là khói trên đỉnh Hoa Sơn cao vời, gió thu se lạnh cũng vì nụ cười hắn mà trở nên ấm áp… Tình là thứ động lòng người nhất, nàng tên là Mạc Tình nhưng cả đời lại khổ vì tình. Nếu là fan của Diệp Lạc Vô Tâm, bạn có thể đọc thêm Hồ Ly Biết Yêu hay Sợi Khói Mỏng Lạc Giữa Trần Ai. *** Tình là thứ động lòng người nhất, nàng tên là Mạc Tình nhưng cả đời lại khổ vì tình. Chàng tên là Tần Phong - Gió là thứ vô tình nhất nhưng lại vì tình mà dừng bước, cuối cùng tan biến trong không khí... Người trong nhân thế đều biết tình ái nơi cõi trần là điều đau khổ nhưng có bao nhiêu người thật sự hiểu thấu được nó? Nếu đã bước vào hồng trần, chi bằng hãy dốc hết lòng mà yêu. Bất luận là tình sâu hay duyên mỏng, chỉ mong đời này không hối hận. ~~~~~ Không chỉ khoác lên mình tấm áo mới mà tác phẩm “Nửa kiếp hồng trần, một khúc du ca” còn có tên mới là “Gió ngừng thổi, tình còn vương”. *** Có người nói: hễ nơi nào có người thì sẽ có giang hồ.  Bạch Hiểu Sinh- người thông hiểu mọi chuyện trên giang hồ lại nói: nơi nào có tình yêu thì sẽ có hồng trần, nơi nào có dục vọng thì sẽ có giết chóc, nơi nào có những chuyện truyền kỳ thì mới là giang hồ thật sự...  Giang hồ thật sự không thể nhìn thấy bằng mắt nhưng nó tồn tại mà không có ranh giới. Người ta sẽ không biết được khi nào thì mình bước vào, cũng không biết được khi nào mới có thể thoát ra. Nó thoạt nhìn rối ren, hỗn loạn nhưng thật ra lại có một trật tự nhất định. Giữa chính và tà dường như có một ranh giới không thể vượt qua nhưng không ai biết được điểm khác nhau thật sự của chính và tà là đâu.  Trong chốn giang hồ bấp bênh vô chừng ấy cũng có rất nhiều kiếm khách đứng ngoài sự tranh đấu giữa các môn phái. Thỉnh thoảng họ lại vung kiếm bước vào giang hồ, thỉnh thoảng lại tắm mình trong gió tanh mưa máu vì cái mà mình cho là chính nghĩa nhưng cũng nhanh chóng tách mình ra khỏi đó. Người trong giang hồ đặt cho kiểu người này một danh xưng rất đặc biệt: lãng tử.  Tuy trong mắt rất nhiều kẻ tự xưng là danh môn chính phái, những người này không đáng được nhắc tới nhưng họ chính là nhân tố khiến cho giang hồ trở nên muôn màu muôn vẻ, và họ đã được viết thành truyền kỳ.  ____________________  1-1-2022  Hoa bỉ ngạn có hoa không có lá  trái tim nàng sắt đá chẳng có ta... Mời các bạn mượn đọc sách Gió Ngừng Thổi, Tình Còn Vương của tác giả Diệp Lạc Vô Tâm.
Hóa Ra Bản Vương Mới Là Thế Thân
Hóa ra bản vương mới là thế thân Tác Giả: Tả Ly Thanh Số chương: 122 chương + 9 phiên ngoại Thể Loại: ngôn tình, ngược tâm, cung đình hầu tước, cường cường, HE Editor: Ji Ji Beta-er: Yui Design bìa: Tôm Nướng – Châu Về Hợp Phố Nguồn convert: Wiki Dịch *Copy nhớ ghi nguồn giúp mình* LƯU Ý: CÁC BẠN ĐỌC NỘI QUY NHÀ TRƯỚC KHI ĐỌC TRUYỆN GIÚP MÌNH NHA — Ba năm trước đây, Tề Vương Hoàn Huyên giận dữ chạy ra nơi biên quan xa xôi chỉ vì người con gái thanh mai trúc mã của mình gả cho Thái tử. Ba năm sau, hắn quay về cùng một cô bé mồ côi của thợ săn, diện mạo tương tự với người trong lòng đến sáu – bảy phần. Đêm mà người trong lòng thành hôn, hắn nhận nàng làm ngoại thất. Nàng yêu hắn đến thảm thương, thậm chí vì hắn mà lấy thân mình chắn tên. Cuối cùng cũng có một ngày, hắn mới nhớ rõ tên của nàng là Tùy Tùy nhưng nàng bỗng nhiên mất hút, chỉ để lại một bộ trang phục nhuộm đầy máu. Cho đến lúc này, Hoàn Huyên mới phát hiện trái tim mình như bị khoét mất một khoảng lớn. Hắn tựa như tên điên đi tìm nàng khắp nơi trong vô vọng. … Hai năm sau, Tiết độ sứ mới nhậm chức ở Tam Trấn Hà Sóc vào Kinh Thành nhận phong hào, hắn đến cổng thành đón tiếp. Nàng là chiến thần Đại Ung thống lĩnh hơn hai mươi vạn tinh binh. Cũng là vị hôn thê của trưởng huynh đã mất sớm của mình. Hóa ra hắn mới là kẻ thế thân chân chính. *** Văn án | Edit bởi Châu Về Hợp Phố: Khắp thành Trường An đều biết trong lòng Tề vương Hoàn Huyên ôm ấp một hình bóng, chính là Thái tử phi đương triều. Hắn vì nàng mà mãi chưa chịu cưới vợ. Lại còn mang một người con gái có dung mạo tương tự nàng từ biên quan về. Ai cũng tưởng đó chẳng qua chỉ là một thế thân không hề quan trọng. Ngay chính Hoàn Huyên cũng nghĩ thế. Mãi đến một ngày. Người con gái nọ bỗng dưng mất tích. Chỉ để lại một biển lửa và một xác cháy. Tất thảy mọi người đều nghĩ nàng đã chết. Duy có Hoàn Huyên không tin. Tim hắn như bị khoét đi một miếng. Hắn nguyện đổi hết những gì mình có, chỉ cần có thể tìm lại đôi mắt dịu dàng như nước hồ thu, sáng lấp lánh như sao trời kia. Tìm lại Tùy Tùy của hắn. Hắn tìm nàng đến phát điên. Nhưng mãi vẫn không thấy bóng nàng. Mãi đến hai năm sau, khi Tam trấn Tiết độ sứ vào kinh nhận sắc phong, rốt cuộc hắn cũng gặp lại nàng. Nàng ngồi trên lưng ngựa, thản nhiên nhìn hắn như nhìn kẻ xa lạ: “Mơ luôn phải tỉnh.” Nàng là chiến thần Đại Ung, thống lĩnh hai mươi vạn quân tinh nhuệ. Cũng là thê tử đã cưới hỏi đàng hoàng của người anh ra đi khi tóc còn xanh của hắn. Hóa ra hắn mới là kẻ thế thân. Hóa ra trong đôi mắt kia, hắn chưa bao giờ là chính mình. Tay hắn cầm lưỡi dao nàng, kề sát mặt mình, để mặc máu chảy đầm đìa: “Bây giờ không giống nữa rồi.” Giới thiệu trong một câu: Nam nữ chính đều xem nhau là thế thân của người khác, dỗ vợ thừa sống thiếu chết. Ý chính: Tình yêu đòi hỏi sự công bằng. *** Cuối thu, cây lá xào xạc. Thành bắc của Trường An, bụi đất cuồn cuộn trên đường lớn, một nhóm người lẫn ngựa xuất hiện từ phía xa. Hàng chục binh lính tinh nhuệ mặc áo giáp đen, cưỡi ngựa tiên phong dọn đường, tựa như cưỡi mây từ trên trời xuống. Người đi đường cùng xe ngựa xung quanh lần lượt tránh sang một bên, khẽ bàn luận: "Thấy đoàn hắc kị binh cùng hắc mã đó không? Đó chính là Thần Dực Quân của Tề Vương đấy." "Đúng thật là uy phong lẫm liệt!" "Chẳng phải Tề Vương mấy năm nay đều trấn thủ ở biên quan sao? Vì sao đột nhiên hồi kinh vậy?" "Đại hôn của Thái tử, huynh đệ ruột thịt dù sao cũng phải có mặt chứ." "Không phải nói Tề Vương và vị Thái tử phi kia...!Khụ khụ...!Gặp lại chẳng phải quá xấu hổ..." "Suỵt...!coi chừng rơi đầu!" "Có cái gì, trong thành ai mà không bàn tán..." Chuyện huynh đệ Thái tử và Tề Vương tranh giành một nữ nhân, mọi người trong kkinh thành đều biết. Mà đối tượng bọn họ tranh đoạt, chính là tam tiểu thư Nguyễn Nguyệt Vi của phu nhân Ninh Viễn Hầu phủ. Nguyễn Nguyệt Vi là cháu gái ruột nhà mẹ đẻ của Thái Hậu, từ nhỏ đã được nuôi dưỡng trong cung Thái Hậu, là thanh mai trúc mã với Tề Vương Hoàn Huyên. Nàng sinh ra đã hà tư nguyệt vận với danh xưng đệ nhất mỹ nhân kinh thành, lại có tình cảm cùng lớn lên, Tề Vương đối với nàng đương nhiên nảy sinh tình cảm sâu đậm. (Ji: Hà tư nguyệt vận - phong thái thanh lịch, đẹp đẽ của giới quý tộc) Nhưng lúc bàn đến chuyện hôn thú, đột nhiên trong cung có chuyện lớn, đích trưởng Thái tử bỗng nhiên bệnh nặng hoăng thệ, Nhị hoàng tử trở thành chủ Đông Cung, chuyện thứ nhất sau khi hắn vào Đông Cung chính là hướng Ninh Viễn Hầu cầu thú Nguyễn Nguyệt Vi. Ninh Viễn Hầu quyết định rất nhanh, Nguyễn tam nương liền định hôn với Thái tử. Người trong lòng bỗng trở thành tẩu tẩu, Tề Vương giận dữ chạy đến Tây Cương. Chớp mắt đã ba năm, đại hôn của Thái tử sắp tới, Hoàng Đế hạ chỉ triệu Tam Hoàng tử hồi kinh để bịt miệng dân chúng - vì một nữ nhân mà náo loạn, ngay cả đại hôn của huynh trưởng cũng không lộ diện, chẳng phải khiến thiên hạ chế giễu hay sao. Kháng chỉ không tuân coi như mưu phản, dù cho Hoàn Huyên không tình nguyện cũng chỉ đành hồi kinh tham dự đại hôn. Xe ngựa tấp nập qua lại, không ai để ý trong đó có một chiếc xe ngựa nhỏ rèm xanh lướt qua. Trong xe ngựa, tỳ nữ Xuân Điều xoa đôi chân đang tê rần, thỉnh thoảng dùng khóe mắt liếc sang nữ tử trẻ tuổi bên cạnh. Nữ tử khoảng hơn hai mươi, mặc chiếc váy màu xanh bình thường, không tô son điểm phấn cũng không đeo trang sức vàng ngọc, mái tóc dài chỉ dùng cốt trâm búi gọn trên cao. Nàng là chủ nhân nhưng quần áo cùng cách trang điểm còn giống nô tỳ hơn cả nô tỳ. (Yu: cốt trâm là trâm được làm từ xương động vật, thường là xương bò) Nàng nghiêng người dựa vào thành xe, lồng ngực theo hô hấp phập phồng nhẹ nhàng, hiển nhiên là ngủ rồi. Xuân Điều cũng có chút bội phục nàng, tiếng vó ngựa cùng tiếng bánh xe ầm ầm như thế mà có thể ngủ được, tâm này cũng quá lớn đi. Đúng lúc này, xe ngựa bỗng lắc mạnh. Nữ tử hơi cau mày, hàng mi dài run run, chậm rãi mở mắt, ánh hoàng hôn xuyên qua khe hở của rèm chiếu trên mặt nàng, đôi mắt màu hổ phách lấp lánh ánh vàng, xinh đẹp đến dị thường. Nàng ngáp một tiếng, lười nhác vươn vai, vốn là một động tác lỗ mãng nhưng khi nàng làm lại có dáng vẻ tuyệt đẹp như vậy, tựa như con báo lười biếng đang vươn mình. Xuân Điều thầm nghĩ, ở cạnh nàng ấy hơn nửa năm nhưng đôi lúc không cẩn thận vẫn bị lóa mắt trước nhan sắc này. Làm sao một cô gái xinh đẹp tựa châu ngọc lại không thể làm vui lòng Tề Vương điện hạ chứ? "Chưa tới trạm dịch à?" Giọng nói của nữ tử không chuẩn lắm, pha lẫn khẩu âm nồng đậm vùng biên quan, hơn nữa thanh âm còn trầm thấp hơn những tiểu cô nương khác, có chút khàn khàn, làm người nhớ đến làn gió đầu xuân thổi qua cánh đồng bát ngát. "Cô nương, sắp tới rồi." Xuân Điều đáp, "Người muốn uống trà không?" Nữ tử vừa mới tỉnh giấc vẫn còn mơ màng, nàng lắc đầu, mí mắt lại cụp xuống: "Ta đây tiếp tục..." Không đợi nàng nhắm mắt, một chiếc túi da đựng đầy nước đã đưa đến bên miệng nàng. "Cô nương uống một ngụm trà cho tỉnh đi." Xuân Điều nói, "Nếu ban ngày ngủ nhiều, ban đêm sẽ khó vào giấc." Nữ tử nhận lấy túi nước uống một ngụm, nước trà pha lâu nên có vị đắng chát, nàng cau mày: "Đắng quá." "Đắng mới tỉnh được." "Đổi cho ta một bình rượu." Xuân Điều nhíu chặt mày: "Hết rượu rồi." "Nhanh hết vậy sao?" "Bình rượu đã cạn lâu rồi." Xuân Điều hơi lộ ra bất mãn. Tiểu cô nương nhà người ta uống rượu đều là chỉ rót một ly uống làm dáng, chưa từng thấy ai như nàng, mỗi lần uống đều là một ngụm một chén. Nàng không nhịn được, bèn khuyên nhủ: "Khuê tú trong kinh thành đều uống trà, hiện giờ cô nương vào kinh, phải học nhập gia tùy tục mới tốt." "Học thế nào chứ, cũng không thể biến đắng thành ngọt được." Nữ tử ngoài miệng thì ghét bỏ, nhưng vẫn nhịn không được miệng lưỡi khô khốc, nàng ngửa cổ uống vài ngụm rồi trả lại túi nước, còn vô tâm vô phế nói: "Lại nói ta cũng đâu phải khuê tú, học mấy thứ vô ích này làm gì." Xuân Điều nhất thời á khẩu không trả lời được. Đúng là nàng không có chút liên quan nào đến khuê tú. Nàng họ Lộc, tên là Tùy Tùy, là con gái nhà thợ săn. Nửa năm trước, Tề Vương dẫn binh đến Tần Châu dẹp loạn, vào núi truy đuổi phản quân thì tình cờ cứu được nàng. Cả gia đình Tùy Tùy đều chết dưới lưỡi đao của phản quân, bản thân nàng cũng bị trọng thương, khó khăn lắm mới nhặt được mạng về. Mời các bạn mượn đọc sách Hóa Ra Bản Vương Mới Là Thế Thân của tác giả Tả Ly Thanh.
Nghe Quân Về
Bạn đang đọc truyện Nghe Quân Về của tác giả Mễ Hoa. Sau này Thái tử mưu phản, hắn quyết tâm muốn lôi ta cùng chết.   Ta ôm eo hắn khóc rất to: "Thái tôn! Em không muốn chết! Người lấy oán trả ơn!"   Biển lửa hừng hực ánh vào vẻ mặt của hắn, trông lộng lẫy mà tàn khốc đến cực điểm: "Em là nữ nhân duy nhất của cô, cô ở đâu, đương nhiên em phải ở đó."   Nếu yêu thích truyện ngôn tình, bạn có thể đọc thêm Nàng Tựa Mật Đào hay Ngọn Sóng Không Tên. *** Lần đầu tiên gặp hoàng thái tôn ta chỉ mới mười tuổi, khi ấy ta là một tiểu cung tỳ được lão ma ma trong lãnh cung nuôi lớn. Lãnh cung ở lối giữa của Tây Lục Viện, là một nơi hoang vu tràn đầy âm u và trầm lặng. Năm ấy ta vẫn đang múc nước giặt quần áo trong Nghi Môn Viện như thường lệ, chợt thấy trong hành lang mọc đầy cỏ dại kia có một vị tiểu công tử đang từ xa đi tới. Tuổi tác của tiểu công tử không lớn, người mặc áo gấm, thân như trúc xanh. Mà ở đằng sau hắn, có một con chó ngao to khổng lồ đang hung dữ đuổi theo. Khoảnh khắc nhìn thấy hắn, nửa xô nước ta vất vả lắm mới kéo lên được lại đột nhiên rơi cái bịch vào đáy giếng theo chuyển động của chiếc trục cán bánh xe cũ kĩ. Sau đó ta quát to một tiếng, cầm chiếc gậy gỗ trong chậu ra rồi chạy qua đánh chó. Hôm đó là tết Thượng Tị. Dân gian có tục chơi xuân và tắm rửa trừ tà bên bờ sông, vị Trương quý phi trong cung kia còn cử hành thêm cả yến tiệc tế thần. Thái tôn bị chó cắn một phát, ta cũng xui xẻo bị nó cắn cho một miếng, sau đó nó đã bị thủ lĩnh của đội thị vệ tuần sát trong cung chạy đến bắn chết. Đó là một con chó ngao, nghe nói nó được tộc phiên ở phía bắc mang đến cống nạp, xưa nay vẫn luôn được nuôi dưỡng ở Khu Vạn Sinh. Con có ngao có bộ lông dài đen nhánh, ngoại hình dũng mãnh, hung ác hơn mấy con chó được nuôi trong kinh kỳ nhiều. Càng quan trọng hơn là răng nanh của nó có độc. Hoàng thái tôn không bị sao cả, bởi vì hắn mặc áo giáp phòng thân ở bên trong. Ta thì không được như thế, suýt chút nữa đã đi tong một cái mạng. Lúc sau mãi mới nhặt được một cái mạng về, ta vừa tĩnh dưỡng được hơn một tháng thì đã bị gọi đến Điện Trọng Hoa ở Đông Cung. Năm đó hoàng thái tôn mười hai tuổi, hắn ngồi ngay ngắn trên cao đường, mặt mày bén nhọn, khí thế khiếp người. Ta dựa theo lời ma ma đã dặn trước đó, hai tay xếp lại trên mặt đất, quỳ xuống dập đầu không dám nhìn hắn. Cung điện cao lớn, nguy nga túc mục, chỉ nghe thấy thiếu niên lạnh lùng đầy uy nghiêm kia trầm giọng hỏi ta: "Tại sao lại muốn cứu cô?" Ta vốn định dựa theo lời ma ma đã dặn, trả lời hắn một câu [Thái tôn điện hạ là chủ tử, nô tỳ hộ chủ là việc nên làm.] Nhưng hết lần này tới lần khác do lo lắng quá nên ta lỡ quên béng hết lời bà ấy dặn. Thái tôn thấy ta không đáp lời, giọng nói không khỏi lại nghiêm khắc vài phần: "Ngẩng đầu lên, cô đang tra hỏi ngươi đấy!" Ta vội vàng ngẩng đầu, bất chợt bắt gặp đôi mắt đen nhánh kia của hắn, cả người bỗng nhiên sửng sốt cực kỳ. Hoàng thái tôn là hậu duệ quý tộc, khí phách trên người sinh ra đã có. Trông hắn còn tuấn tú đẹp trai như thế, làn da trắng như tuyết, ngũ quan đoan chính, mặt mày sắc bén, sống mũi cao thắng, màu môi hơi nhạt. Ta nhìn hắn, đầu óc đột nhiên quay cuồng, chợt buột miệng nói: "Điện hạ trông xinh đẹp." "Cái gì cơ?" "Điện hạ trông xinh đẹp." Ta lặp lại một lần nữa, vô cùng nghiêm túc: "A Ôn cũng xinh đẹp, hồi còn bé mỗi lần tổ chức tế thần vào ngày lễ Thượng Tị, mẹ ta đều sẽ mặc cho ta bộ quần áo nhìn hệt như long nữ để đi hội chùa. Chính là long nữ và đồng tử ở dưới tòa của Bồ Tát đó, được rất nhiều người khiêng lên đi trên phố, mẹ ta nói chỉ có người nào xinh đẹp thì mới được ngồi ở trên đó thôi." Trong lời nói không dấu được vẻ đắc ý. Thái tôn nghe vậy thì lại mím môi, hồi lâu sau mới lên tiếng hỏi ta: "Ngươi là con gái út nhà quận trưởng của huyện Tiêu ở Dự Châu sao?" "Đúng vậy, cha ta tên là Văn Túc, ta tên là Văn Sênh, nhưng sau khi vào cung bọn họ nói ta không thể lại dùng tên cũ nữa, cho nên bây giờ ta tên là A Ôn." Ta thành thật trả lời. Văn Sênh vào cung năm sáu tuổi, trước đó cũng là tiểu thư cành vàng lá ngọc được nuông chiều của nhà quan lại nơi quê quán. Năm Cảnh Thọ thứ năm, Hoàng đế đi tuần ở phía nam, lúc đi ngang qua huyện Tiêu ngắm đèn thì bị ám sát dẫn đến việc Hiếu Văn hoàng hậu tạ thế. Hiếu Văn hoàng hậu là vợ cả của Cảnh đế, hai người tình cảm thâm hậu, khi ấy hoàng đế cực kỳ bi ai, huyện Tiêu máu chảy thành sông. Thích sử của Dự Châu và các quan viên địa phương đều bởi vì không kịp thời hộ chủ nên cả nhà đều bị lưu đày, duy chỉ có mấy cô bé còn nhỏ thì bị bắt vào cung làm nô. Ta từng tên là Văn Sênh, ngay từ ngày thơ bé đã không giống với người khác, đến ba tuổi rưỡi rồi mà còn không thể mở miệng nói chuyện. Cha ta thường gọi ta là bé ngốc. Ông ấy thờ phụng đạo Năm đấu gạo (*), từng mời một đạo sư tới đoán mệnh cho ta. (*) Thiên sư Đạo, còn gọi là Ngũ Đấu Mễ Đạo (đạo Năm đấu gạo), Chính Nhất Đạo, Chính Nhất Minh Uy Chi Đạo, là một giáo phái ra đời trong giai đoạn đầu của Đạo giáo, tức cuối đời Đông Hán trong lịch sử Trung Quốc, do Trương Lăng sáng lập. Ban đầu, tôn giáo này không có tên gọi chính thức, thường được gọi là Ngũ Đấu Mễ Đạo do khi các tín đồ nhập giáo đều phải nộp 5 đấu gạo, do đó mà thành tên. Đạo sư nói mệnh của ta là đồng nữ mạng quý, tuy rằng tâm trí trẻ con nhưng lại cao quý hơn người thường. Cái miệng lưỡi dẻo quẹo của ông ta dỗ dành đến nỗi cha ta lại giao thêm vài chục đấu gạo nữa. Tội nô thì có mạng quý gì chứ. Trên đường bị áp giải về kinh ta lại ngã bệnh một hồi, sau đó bọn họ phát hiện ra rằng ta chỉ là một kẻ ngốc nên vừa vào cung thì vú già quản sự đã lập tức ném ta cho mấy lão ma ma trong lối giữa của lãnh cung. Chỉ để lại một câu ---- "Có sống được hay không thì phải xem mệnh của nó, nếu chết thì thông báo cho Lưu Xuân một tiếng, cuốn vào cái chiếu rồi ném ra bên ngoài chôn đi." Các ma ma đều đã lớn tuổi, thiện tâm. Ta còn nhỏ tuổi, mạng cứng. Cứ như vậy, ta sống trong lãnh cung đến năm mười tuổi. Hoàng thái tôn hỏi ta có bằng lòng ở lại Cung Trọng Hoa không. Ta trả lời không hề do dự: "Bằng lòng." Ta nghĩ sở dĩ hắn lên tiếng để cho ta ở lại Cung Trọng Hoa thế này, một là bởi vì ta cầm gậy đánh chó, còn hai nhất định là bởi vì gương mặt ta trông giống đứa bé ở trên bức tranh tết bằng gỗ trong đào hoa ổ ở dân gian. Các ma ma luôn nói như vậy, họ còn nói do hoàng thái tôn thấy ta ngoan ngoãn, lại còn trông xinh đẹp đáng yêu nên mới cố gắng giữ ta lại. Quế Hoa ma ma nói: "Nếu thái tôn bằng lòng giữ con lại thì con phải đồng ý ngay." "Sao phải thế ạ?" "Tiểu A Ôn, con nhìn khu vực lối giữa này mà xem, trừ mấy bà lão như chúng ta thì chỉ toàn là những phi tần bị phế kia, người bị điên, kẻ bị bệnh, chết thì cũng chết cả rồi. Còn có cả cái loại dơ bẩn như Lưu Xuân ở đây, chúng ta có thể che chở con mấy năm nữa đâu, bị nhốt ở nơi này thì vĩnh viễn sẽ không có đường ra. Nếu có thể đến chỗ của thái tôn thì đó chính là mệnh của con." Mời các bạn mượn đọc sách Nghe Quân Về của tác giả Mễ Hoa.
Bạch Nhật Đề Đăng
VĂN ÁN Trên chiến trường, Hạ Tư Mộ đang nhặt từng mảnh thi thể thưởng thức, nào ngờ lại bị người ta nhặt về nhà. Vị tướng quân trẻ tuổi nhặt nàng về thật sự nghĩ nàng một cô nương yếu đuối, mất đi người thân trong chiến tranh nên giữ nàng ở lại chăm sóc. Hạ Tư Mộ thấy vậy đành thuận theo mà diễn một vai cô nương yếu đuối. --- Trời ơi máu kìa! Ta sợ nhất là máu đó, cứ nhìn thấy máu là choáng váng. --- Chậu cây này nặng quá, ta yếu ớt thế này không bưng nổi. --- Sao các ngươi cứ đánh đánh giết giết thế, đáng sợ quá đi. Nữ võ tướng thầm mến tiểu tướng quân nhìn đến tức trào máu: “Đoạn ca ca không thích cô nương õng ẹo như cô đâu!” Hạ Tư Mộ nghiêng đầu: “Thật ư?” Một ngày nọ tiểu tướng quân vô tình mắc sai lầm trên chiến trường, khiến cho người ta có cơ hội ám hại. Hạ Tư Mộ vai không gánh được, tay không xách nổi, thấy máu thì choáng váng bèn vươn vai giãn gân cốt, thắp lên một ngọn quỷ đăng: “Để ta xem ai dám bắt nạt Đoạn tướng quân Đoàn tiểu hồ ly của chúng ta nào?” Đoạn Tư từng nghĩ, hắn không nên trêu chọc Quỷ Vương. Hắn mất một năm mới biết được tên thật của nàng là Hạ Tư Mộ. Nhưng có lẽ hắn dùng cả đời cũng chẳng thể khiến nàng ghi nhớ tên hắn suốt cuộc đời bốn trăm năm dài đằng đẵng của nàng.“Ta tên là Đoạn Tư, Tư trong phong Lang Cư Tư*” _____ (*) “Phong Lang Cư Tư” là chỉ việc Hoắc Khứ Bệnh lên núi Lang Cư Tư đắp đàn tế trời để cáo thành công, sau dùng để chỉ việc kiến lập võ công hiển hách. Về sau “phong Lang Cư Tư” trở thành một trong những vinh dự tối cao của võ tướng dân tộc Hoa Hạ. *** Gió Bắc thổi thê lương, mùa đông lạnh giá tiêu điều, thành Lương Châu chìm trong sự im lặng chết chóc. Như dự báo một điềm chẳng lành ập đến. Giờ khắc này, thành Lương Châu xác chết la liệt, máu chảy thành sông, mùi máu tanh nồng thấu tận trời xanh, cả toà thành như một nấm mộ khổng lồ, ngay cả tiếng hít thở cũng trở nên chói tai. Xa xa có một con quạ bay đến đậu trên mái hiên. Tiếng quạ quạ ghê rợn xé nát màn đêm tĩnh mịch, rồi tiếng thứ hai, thứ ba, thứ tư,… Chúng tụ lại thành đàn, bóng đen bay rợp trời, đáp xuống đường lớn ngõ nhỏ của toà thành trì, giẫm lên thi thể chất đầy đường. Một đôi giày vải màu vàng nâu giẫm lên con đường chính của thành Lương Châu, không biết lúc đó con quạ nào đã đậu xuống, chỉ biết ngay sau đó nó đã trở thành một mớ máu thịt hỗn độn. Chủ nhân của đôi giày vải là một cô gái mặt váy trắng, thoạt nhìn khoảng mười bảy, mười tám tuổi, giữa khung cảnh đỏ tươi ảm đạm này, tựa như một đoá sen trắng nở rộ giữa vũng máu. Nàng cầm một cái dây chuyền ngọc trong tay, sợi dây ngoắc ở ngón trỏ không ngừng xoay vòng, sắc xanh của ngọc bích ánh lên lấp lánh. “Xem ra là giết hết dân trong thành rồi…” Cô gái cất giọng bình thản. Nếu như là cô nương bình thường thấy cảnh tượng máu me kinh hoàng thế này, hẳn là sẽ sợ đến ngất đi, nhưng mà đáng tiếc Hạ Tư Mộ không phải cô nương bình thường. Nàng là quỷ. Khi một người nào đó chết đi mà vẫn chưa hoàn thành tâm nguyên, lưu luyến ở lại nơi trần gian thì sẽ hoá thành linh hồn lang thang không thể đầu thai, những linh hồn này ăn thịt lẫn nhau, trải qua trăm năm biến thành quỷ. Những con quỷ khát máu. Khéo thay, Hạ Tư Mộ chính là con quỷ đến đây tìm đồ ăn. Màn đêm đen kịt, giơ tay không thấy đủ năm ngón, trong thành trì, thi thể rải rác nằm chồng chất lên nhau, nhưng không thể ngăn cản bước chân của Hạ Tư Mộ, nàng di chuyển một cách linh hoạt, thuận lợi mà tìm được điểm đặt chân giữa đống thi thể. Nhưng vừa đi được sáu bước, chân nàng bị một cánh tay bắt lấy. “Cứu với…Cứu…” Hạ Tư Mộ cúi đầu nhìn, một người đàn ông bị đao đâm vào bụng, máu thịt lẫn lộn ôm chân nàng. Mặt bê bết máu chẳng nhìn rõ ngũ quan, ánh mắt tuy đã rã rời nhưng vẫn run rẩy chỉ về một phía. “Cứu… Con trai ta.. Cứu… Cầu xin ngươi” Hạ Tư Mộ nhìn sang hướng hắn ta chỉ, nơi đó có một đứa bé khoảng bảy tám tuổi bị vài xác chết đè lên chỉ nhìn thấy được khuôn mặt tái nhợt. Đứa bé này vẫn còn hơi thở yếu ớt nhưng mắt nhắm nghiền, hẳn là bị ngất. Hạ Tư Mộ nhìn lại tên đàn ông nhếch nhác đang thoi thóp dưới chân, nói: “Con trai ngươi vẫn tốt, chỉ có ngươi là sắp chết thôi.” “Cứu cứu…” Người đàn ông kia dường như không nghe thấy Hạ Tư Mộ nói gì, vẫn ngoan cố cầu xin. Vì vậy Hạ Tư Mộ ngồi xổm xuống, chống tay lên đầu gối, nhìn gã đàn ông chẳng còn sống được bao lâu: “Giờ ta ăn ngươi rồi cứu con trai ngươi ngươi có chịu không? Ngươi phải nghĩ cho kỹ, người bị quỷ ăn sẽ mất đi một hồn hoả, chuyển kiếp sẽ gặp nhiều tai ương, không biết phải luân hồi bao nhiêu lần mới khôi phục được đâu.” Người đàn ông mê man suy nghĩ một lúc mới hiểu ra, kinh hoảng trợn to đôi mắt đục ngầu, hai tay run rẩy. “Không đồng ý?” Hạ Tư Mộ quay đầu lại. Người đàn ông rùng mình trong chốc lát mới nước mắt lưng tròng thều thào: “Nguyện… Ta nguyện ý…” Hạ Tư Mộ cảm thấy thương hại, híp mắt cười: “Được rồi.” Sau đó nàng lưu loát túm tóc gã đàn ông nọ kéo lên, cắn vào cổ gã, hàm răng nanh sắc nhọn cắm sâu vào mạch máu khiến máu lập tức phun ra, bắn tung toé lên mặt Hạ Tư Mộ. Sợi dây chuyền trong tay nàng sáng lên rồi từ từ mờ đi. Cánh tay người đàn ông buông thõng xuống vũng máu, một đốm sáng từ cơ thể gã bay lên, hoà vào màn đêm. Con người vốn có ba hồn hoả, hai cái ở hai bên vai và một ở đỉnh đầu, khi chết đi chúng sẽ hợp làm một, tựa như ánh sáng bay lên trời cao, như sao băng ngược dòng — Đây chính là cái chết mà chỉ có quỷ mới có thể nhìn thấy. Một ác linh cao cấp như Hạ Tư Mộ sẽ ăn hồn hoả trên đầu người. Thiếu đi một cái hồn hoả, linh hồn sẽ mờ đi rất nhiều. Chỉ vì tình cha con một đời mà phải chịu khổ bao nhiêu kiếp, chẳng lẽ lại lợi nhiều hơn mất hay sao? Thế nhưng đám phàm nhân này cứ hết lần này đến lần khác thích trao đổi như vậy. Hạ Tư Mộ dứt khoát buông tay ta, thân thể gã đàn ông rơi bịch xuống đất. Cùng với âm thanh trầm đục này, bình minh cũng dần ló dạng. Màn đêm tối đen như mực được những tia nắng đầu tiên của ngày mới chiếu lên. Dường như cảm nhận được mắt trời sắp mọc, lũ quạ lần lượt tản đi. Nàng vỗ vỗ tay, bước qua những xác chết trên mặt đất, lần theo vết máu kéo dài cả đoạn đường do người đàn ông kia bò tới, đi về hướng con trai gã. Thành thật mà nói, với năng lực của Hạ Tư Mộ, nàng có trực tiếp ăn thì gã cũng chẳng thể chống cự được. Tuy nhiên, để thành quỷ với cấp bậc như hiện tại thì nàng cũng có quy tắc riêng, Hạ Tư Mộ rất tôn trọng thức ăn của mình, một khi đã chấp nhận trao đổi thì sẽ thực hiện cho bằng được. Sau khi bước đến đống thi thể, nàng duỗi tay nhấc những cái xác đang đè lên đứa bé ra. Nào ngờ cái xác này bị thương ở cổ, vừa nhấc lên đầu đã lìa khỏi thân, cơ thể be bét máu lại rơi xuống người đứa bé. Thằng nhỏ bị nện đến nỗi mặt cắt không còn một giọt máu. Hạ Tư Mộ bất đắc dĩ cầm cái đầu bẩn thỉu, trừng mắt với cái đầu cũng đang trợn mắt do hoảng sợ mà chết. “Quân đội Đại Lương tới!” Một tiếng hét truyền tới từ cổng thành phía xa, giọng hét này có vẻ là của một lão già, phỏng chừng là dùng hết sức lực mới hét được như thế, run rẩy tưởng như sắp rách cả cổ họng. Từ xa đã nghe thấy tiếng người ồn ào và tiếng vó ngựa, hơi thở mạnh mẽ của sự sống như một cơn lốc xua tan tử khí nơi đây, xung quanh có những tiếng reo hò mừng rỡ và một vài người sống sót chui ra từ hầm trú ẩn, một đám người thê lương tụ tập lại trên con phố. Cổng thành cuối phố chậm rãi mở ra, trời quang mây tạnh, ánh ban mai lần nữa xuất hiện, vô số móng ngựa và binh lính bước vào con đường nhuốm đầy máu, trùng trùng điệp điệp nhìn không thấy cuối. Hạ Tư Mộ đảo mắt nhìn tới, lập tức chú ý nam nhân đứng ở đầu hàng. Hắn ta trông khá trẻ, vẫn là một chàng thiếu niên, cưỡi trên con bạch mã cao lớn, khoác trên người áo giáp màu bạc, đưa lưng lại với ánh sáng. Nam nhân này dáng người thon dài mà rắn chắc, lông mày sắc cạnh và sống mũi cao thẳng, đặc biệt là đôi mắt sáng ngời như sao có chút xếch lên kia. Quả là một nam nhân anh tuấn và khí phách. Hắn đứng đối diện với ánh mặt trời, tựa như lưỡi đao sắc bén chẻ đôi bóng tối. Đây là lần đầu tiên Hạ Tư Mộ gặp Đoạn Tư, bình minh ló dạng, vạn vật đều bừng tỉnh, đúng là một ngày đẹp trời, thế nhưng khung cảnh lại chẳng đẹp chút nào —- Nàng giống như đứng giữa tầng tầng thi thể, ôm đầu của một người đàn ông đã chết mà đau buồn khóc lóc. Chàng thiếu nhiên quét mắt nhìn một vòng toà thành bi thảm, hơi nhíu mày, ngước mắt nhìn về phía xa xăm. Người Hạ Tư Mộ cũng bê bết máu như những người sống sót khác nên không thu hút sự chú ý của người thiếu niên. Nàng ném cái đầu trong tay đi, tò mò nhìn về phía hắn. Chính xác thì Hạ Tư Mộ đang nhìn thanh kiếm ở thắt lưng hắn, thân kiếm dài đen nhánh, chuôi kiếm được chạm khắc bằng bạc. Thị lực của quỷ rất tốt, nhìn qua là có thể thấy hoa văn chi tiết trên thanh kiếm, Hạ Tư Mộ thấy thanh kiếm này rất quen, đã từng thấy ở đâu rồi nhỉ? Nàng lục lọi ký ức dài đằng đẵng của mình, chợt nhớ ra, đây không phải là linh kiếm Phá Vọng do dượng của nàng khi còn sống đúc ra vào hơn ba trăm năm trước sao? Phá Vọng là linh kiếm chỉ thua mỗi Bất Chu, kiếm nhận chủ, người trong tiên môn ao ước có được nó biết bao, vậy mà thiếu niên thoạt nhìn chỉ là một tướng quân bình thường, không phải người tu tiên này lại có được Phá Vọng Kiếm? “Tướng quân đại nhân, cuối cùng ngài cũng đến cứu chúng ta!” Một gã đàn ông ở bên phải Hạ Tư Mộ khóc lóc chạy qua, đụng nàng lảo đảo suýt ngã. Thấy gã kia chạy ra đường quỳ xuống mà lạy, Hạ Tư Mộ đảo mắt nhìn dân chúng xung quanh người thì buồn thảm, người thì kinh hỉ, thấy mình có vẻ lạc loài quá. Có phải nàng cũng nên khóc không? Nàng suy nghĩ một chút, cắn mạnh vào đầu lưỡi, đau đến chảy nước mắt. Nàng nước mắt lưng tròng, nở nụ cười hạnh phúc khi gặp được vị cứu tinh, xách váy đá tên đang ngáng đường trước mặt, chạy đến trước ngựa của tiểu tướng quân hô: “Tướng quân đại nhân, người Hồ Khế trước khi rút lui đã tàn sát hết người trong thành, nơi này tử thương vô số, ngài đến cứu chúng ta đấy sao!” Thiếu niên ghìm ngựa, binh sĩ phía sau hắn cũng lần lượt dừng chân. Hắn quan sát dân chúng, trên mặt là sự bình tĩnh khó có được ở độ tuổi này, dõng dạc nói: “Ta là thống lĩnh Đạp Bạch quân Đại Lương, Đoạn Tư, kẻ xâm lược đã bị đánh lui về phía Bắc sông Quan, từ nay thành Lương Châu lại thuộc về Đại Lương.” Dừng một chút, hắn tiếp: “Chỉ cần có ta ở đây, người Hồ Khế sẽ không thể vào thành Lương Châu dù chỉ nửa bước.” Dân chúng may mắn còn sống sót vừa vui vừa đau lòng oà khóc, Hạ Tư Mộ cũng hét lên hai tiếng, bày ra bộ mặt cực kỳ bi ai, kéo ống tay của thiếu niên. Binh lính bên cạnh người thiếu niên rút đao, Hạ Tư Mộ run rẩy lệ nóng quanh tròng, thiếu niên liền khoát tay ý bảo bọn họ dừng tay. Sau đó rút khăn tay ra đưa cho Hạ Tư Mộ: “Lau máu đi.” Ngón tay của hắn thon dài trắng nõn, gân tay xanh tím nổi lên rõ ràng, có thể nhìn ra đây từng là một đôi tay tôn quý không đụng nước xuân, nhưng giờ đây nó đã chằng chịt vết thương, nếm đủ sương gió. Hạ Tư Mộ nín khóc, lúc nhận khăn tay còn tranh thủ sờ nắn tay hắn một phen, cúi đầu lén cười hả hê. Quả nhiên, nàng diễn một vai cô nương xinh đẹp mảnh mai thật xuất thần, vừa nũng nịu khóc đã làm người ta mềm lòng, không những không đuổi đi mà còn tặng khăn tay. Chỉ là ban nãy nàng có thử bắt mạch của thiếu niên này, hắn đúng là không có chút linh lực nào cả, là người thường. Kỳ lạ, Phá Vọng kiếm vậy mà lại ngoan ngoãn để cho một người bình thường sử dụng? Hắn là chủ nhân của Phá Vọng kiếm sao? Đang suy nghĩ miên man, Hạ Tư Mộ đột nhiên thấy hình ảnh trước mắt dần mờ đi, tự nhủ không ổn rồi, thân thể này sợ là sắp ngất. Nàng vội vàng chỉ vào đứa trẻ trong đống xác gần đó hét lên: “Giúp ta cứu đứa bé đó!” Sau đó chỉ thấy thân thể nàng nghiêng ngả, ngã xuống trước ngựa của vị tiểu tướng quân kia. Nhập vào thân xác của tiểu cô nương nũng nịu cũng có chỗ xấu, chính là thân thể này đã quen được chiều chuộng từ bé, mới một đêm không ngủ đã không chịu nổi mà ngất luôn. Hạ Tư Mộ thoát khỏi thân xác, lơ lửng giữa không trung khoanh tay thở dài. Người thường hiển nhiên không thể thấy Hạ Tư Mộ đang lơ lửng, tiểu tướng quân kia cúi đầu nhìn thoáng qua cô nương đáng thương ngã trước ngựa, nói với phó tướng phía sau: “Đưa nàng ấy xuống chăm sóc cho tốt.” Dừng một lát, hắn từ tốn nói: “Truyền lệnh xuống, hôm nay ở lại thành chỉnh đốn lại quân số, ngoại trừ canh gác quan trọng, những người còn lại tìm cách cứu những bá tánh còn sống sót. Nếu lợi dụng cơ hội trộm cắp, xử theo quân pháp.” Phó tướng nhận lệnh, Hạ Tư Mộ thấy thân thể của mình bị mấy tên lính nhấc dậy mang đi cũng nhàn nhã theo sau, vừa đi vừa lấy một viên minh châu ra, cất tiếng gọi: “Phong Di.” Viên minh châu ước chừng to bằng quả trứng bồ câu, trong suốt như pha lê, sáng lấp lánh, có thể lờ mờ nhìn thấy bên trên được khắc rất nhiều phù văn li ti. Không lâu sau, trong minh châu truyền đến một giọng nói nam nhân, tựa như vừa tỉnh ngủ, vẫn còn mơ màng ngáp. “Khách quý nha, lão tổ tông! Trời còn chưa sáng ngài tìm ta làm gì?” Hạ Tư Mộ không để ý mấy lời oán than của hắn ta, trực tiếp nói: “Giúp ta điều tra một người, là người của triều đình.” “Lão yêu ngài hứng thú với triều đình từ bao giờ thế. Là ai? “Người giữ Phá Vọng kiếm.” Nam nhân ở trong minh châu im lặng một hồi lâu, kinh ngạc nói: “Phá Vọng kiếm trở lại hậu thế rồi à? Chủ nhân của nó tên gì?” “Tên…” Hạ Tư Mộ híp mắt, quay đầu nhìn vị tướng quân trẻ đang dần đi xa. Này là vấn đề lớn nha. Hắn… tên gì nhỉ? Lúc nhìn thấy hắn, trong mắt nàng chỉ có ba chữ sáng trưng—- “Phá Vọng kiếm”, còn tên hắn là gì.. nàng không để ý. Đại khái là chết lâu quá rồi, chết rồi thì có nhiều chuyện chẳng buồn nhớ làm gì. Nam nhân trong minh châu dường như đoán được Hạ Tư Mộ không chú ý tên của người ta, cười ha hả, hình như hắn đang rửa mặt, trong minh châu truyền ra tiếng nước chảy róc rách. “Chưa bàn tới tên của hắn, ngài điều tra hắn xong thì định làm gì, đoạt lấy Phá Vọng kiếm à?” “Ta cần Phá Vọng kiếm làm gì? Ta đâu có tu tiên.” Nhìn bóng dáng thiếu niên mặc áo bào trắng dưới ánh mặt trời rực rỡ, Hạ Tư Mộ suy nghĩ một lát, nói: “Chắc là dạo này chán quá, mấy chục năm mới có cơ hội nghỉ ngơi một lần, muốn tìm vài chuyện thú vị, nếu quốc sư đại nhân cũng rảnh thì chơi với ta đi.” “Ôi chao! Lão tổ tông ơi, ngài buông tha cho ta đi, nếu ngài thăm dò được tên hắn thì ta sẽ tra cho ngài.” Minh châu loé lên một cái rồi lại mờ đi. Cái tên trong minh châu kia là Hoà Gia Phong Di, là chắt trai đời thứ hai mươi của dượng nàng đã chết cách đây hơn ba trăm năm, một tên Huỳnh Hoặc tai tinh am hiểu thuật nguyền rủa. Hắn ta giấu giếm thân phận làm việc cho triều đình, hiện tại đã trở thành quốc sư. Bấm ngón tay tính thử, dù nàng được coi là tổ tông của Phong Di nhưng cũng là tổ tông xa cách mười tám con phố, bây giờ quan hệ vẫn còn tốt như này, hơn phân nửa là nhờ nàng từ khi Phong Di còn bé đã không ngừng đến quấy rầy, đánh nhau với hắn ta. Hạ Tư Mộ cất minh châu vào trong ngực, ngẩng đầu nhìn trời, mặt trời đã lên cao, ánh nắng sáng chói ấm áp chiếu xuống vũng máu trên mặt đất phản xạ lấp lánh. Nàng chắp tay sau lưng, thong dong đi qua những con người đang khóc lóc, kẻ bi thương, phẫn nộ, người chạy tới chạy lui tìm kiếm người thân, gom nhặt thi thể của dân chúng, dương dương tự đắc tựa như một vị khách không mời mà đến. Nhân gian gặp nạn nhưng bầu trời vẫn như thế, đẹp đẽ và trong vắt. Niềm vui và nỗi buồn của vạn vật trên đời này đều khác nhau, cỏ dại vốn khô hạn nhiều ngày nay được tưới mát bởi máu tươi hẳn là cảm thấy hôm nay trời thật đẹp. Mời các bạn mượn đọc sách Bạch Nhật Đề Đăng của tác giả Lê Thanh Nhiên.