Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Người Bí Ẩn Khoác Áo Hồng Y

"Người bí ẩn khoác áo Hồng y là tác phẩm được nhà văn Alexandre Dumas viết vào giai đoạn cuối cùng của văn nghiệp. Tác phẩm kể về chuyện xảy ra ở triều đại Louis XIII, vào thời điểm nối tiếp sau câu chuyện về những nhân vật có lẽ chẳng còn xa lạ với độc giả: hiệp sĩ d'Artagnan cùng ba người bạn thân của chàng, Athos,vPorthos và Aramis. Lẽ cố nhiên, bạn đọc sẽ không tìm thấy những chàng hiệp sĩ ấy ở truyện này nữa, tuy vẫn còn đó hai con người quan trọng: Hồng y De Richelieu và Quốc vương Louis XIII. Khung cảnh của chuyện cũng hoàn toàn đổi khác, thay cho bầu không khí sôi nổi của những người cầm kiếm là chuỗi màn đấu trí gay cấn giữa những người mưu sâu kế hiểm. Trong truyện này, bạn đọc sẽ gặp gỡ Bá tước Moret, chàng hoàng tử hào hoa, lãng mạn, một nhân vật mà thời lượng nhà văn dành cho chàng là bằng ngang với Hồng y De Richelieu. Tác phẩm này, vì vậy, ở những lần xuất bản khác nhau tại Pháp cũng được biết đến với tựa đề Bá tước Moret. Là tác phẩm tiểu thuyết lịch sử, đa phần nhân vật trong truyện đều là những tên tuổi có thật thời bấy giờ, được hư cấu tài tình vào cốt truyện đậm tính hấp dẫn, sống động và khôi hài đặc trưng của nhà văn Dumas. “‘NGƯỜI BÍ ẨN KHOÁC ÁO HỒNG Y’ quả là một tuyệt tác! Vô số âm mưu hiểm độc và những màn lật ngược tình thế, những cuộc đấu tay đôi, niềm đam mê, lãng mạn, yêu thương và thù hận, đầy chất thơ và cũng không kém phần gay cấn. Chưa bao giờ người đọc lại cảm thấy dễ bị cuốn hút đến như vậy.” - Trang đánh giá Historical Novels Review “‘NGƯỜI BÍ ẨN KHOÁC ÁO HỒNG Y’ như được phủ lên mình một sức sống mới và tỏa sáng lộng lẫy trong phiên bản này. Những màn tranh đấu kịch tính đi kèm với sự hóm hỉnh nhưng cũng đầy châm biếm sâu cay. Phiên bản mới sẽ khiến người đọc phải thay đổi cách nhìn về nó: Một tuyệt tác cũ nay đã được nâng lên một tầm cao hoàn toàn mới.” - Tổ chức tin tức Quốc tế Christian Science Monitor" *** Lời giới thiệu Độc giả yêu văn học chẳng mấy ai chưa từng biết đến đại văn hào người Pháp Alexandre Dumas cùng những tác phẩm để đời của ông, Bá tước Monte Cristo và Ba chàng lính ngự lâm. Hẳn bạn đã đọc Ba chàng lính ngự lâm hay chí ít cũng đã xem qua một trong nhiều phiên bản của truyện này phỏng dựng thành phim điện ảnh hoặc phim truyền hình, và rất đỗi quen thuộc với chàng d’Artagnan dũng cảm cùng những vị bằng hữu: Athos, Porthos, và Aramis. Có lẽ bạn biết rằng bộ truyện ấy đã đưa đến sự ra đời của biết bao chuyện kể tiếp nối theo sau, mà đỉnh cao là tác phẩm lừng danh nhất từ trước đến nay, truyện Người đàn ông mang mặt nạ sắt, một tác phẩm đã được chuyển thể thành phim khá nhiều lần. Vậy thì, lý do gì mãi tận ngày nay bạn vẫn chưa hề nghe đến cái tên ‘Người bí ẩn khoác áo Hồng y’, nhất là vào khi nó được cho là “câu chuyện nối dài của Ba chàng lính ngự lâm” như những gì đã quảng cáo? Để tôi kể bạn nghe một chuyện. Nhân vật chính trong chuyện của chúng ta là một người đàn ông có sức sống mãnh liệt và tài năng xuất chúng, một nhân vật mà tầm vóc và sự nghiệp của ông đã vang danh trên thế giới. Ông sống hào hoa và yêu không giới hạn, dồn dập mang về của cải rồi ném cả vào nhà hát và nhà xuất bản, phí hoài cho lâu đài và cho cả mỹ nữ nhân tình, hân hoan trong cuộc đời đầy biến đổi, đắm chìm vào thú ẩm thực xa hoa, và say sưa làm chính trị. Tên của ông, tất nhiên rồi, là Alexandre Dumas. Bắt đầu sự nghiệp cầm bút vào cuối những năm 1820, chàng trai trẻ Dumas khi ấy vừa là thi sĩ vừa là kịch tác gia; vở kịch Melo đầu tay của ông sáng tác vào năm 1829 đã gây hiệu ứng đủ mạnh giúp ông dấn bước hẳn vào con đường văn nghiệp, để rồi suốt những năm 1830 ông sáng tác hết vở kịch này sang vở kịch khác, vở sau bao giờ cũng gây bất ngờ và tỏa sức hấp dẫn át hẳn vở trước. Ban đầu, kịch của ông lấy bối cảnh đương đại, nhưng sau đó ông chuyển sang dùng các nguồn sử liệu để sáng tác, và đến cuối thập niên 30 ông lại đổi hướng thành văn xuôi. Thời bấy giờ, những tập san phát hành tiểu thuyết dài kỳ đã bước vào giai đoạn thịnh hành, và hình thức viết theo kết cấu chương hồi là mảnh đất màu mỡ để kẻ vốn điêu luyện với văn phong biên kịch như Dumas thỏa sức sáng tạo nên những khung cảnh sống động, được điểm tô bằng lời thoại ngắn gọn mà hàm chứa ý tưởng dồi dào. Sau vài thành công khiêm tốn với truyện văn xuôi dài kỳ, năm 1844 ông cho ra đời tuyệt tác Ba chàng lính ngự lâm, và năm sau đó là Bá tước Monte Cristo. Cả hai tác phẩm này đã gây tiếng vang rộng khắp trên thế giới, và suốt mười lăm năm tiếp theo ông đều đặn hái quả ngọt từ sức sáng tác không hề biết đến sự mệt mỏi; ông viết truyện sau tiếp lấy thành công từ truyện trước, trong đó phải kể đến những tiểu thuyết lừng danh như Huynh đệ người Corsica, Cuộc chiến giữa những người đàn bà, Chuỗi hạt của vương hậu, Hoa tulip đen, bộ ba tác phẩm về dòng họ Valois, và một truyện mang tựa đề Bóng chim câu, viết về Bá tước Moret, người em chung nửa huyết thống của Quốc vương Louis XIII. Những tác phẩm này đã được dịch ra hàng chục thứ tiếng và được độc giả ở mọi thị trường xuất bản mến mộ, gồm cả Vương quốc Anh và đặc biệt là Hoa Kỳ. Nhưng Dumas là người giao du rộng rãi ngoài xã hội, kẻ không sao ngăn được mình đừng dính líu vào đời sống chính trị; và tài nói chuyện hài hước vừa sắc sảo vừa không kiêng dè khiến ông chuốc lấy thù oán với nhiều người. Năm 1851, người đỡ đầu của ông là Vua Louis-Philippe bị truất ngôi bởi Louis-Napoléon Bonaparte; mà vị tân Tổng tài này của nước Pháp thì không có thiện cảm với Dumas, nên nhà văn tính chuyện tốt nhất là rời bỏ đất nước để tìm sang xứ khác. Ông sang sinh sống ở nước Bỉ, rồi lại lạc bước đến nước Nga, và cuối cùng là nước Ý, nơi đây ông lại xía vào bầu không khí náo nhiệt của phong trào độc lập Italia. Ông không hề ngừng viết, có điều sản phẩm của ông được đón nhận càng ngày càng ít đi, thậm chí tại nước Pháp doanh thu từ sách của ông đã suy giảm đến mức chỉ còn nhỏ giọt. Ở đất nước quê hương, kẻ một thuở danh nổi như cồn nay đã trở thành… một gã lỗi thời. Năm 1864, ông trở về Paris, lòng quyết tâm tìm lại tiếng tăm và sự giàu có. Bấy giờ tuy đang viết về những cuộc hành trình đến nước Nga và nước Ý, ông vẫn cho rằng mình nên quay lại những câu chuyện phiêu lưu lịch sử, vốn là nguồn thành công lớn nhất của ông. Năm 1865, chủ bút tuần báo Les Nouvelles là Jules Noriac ướm hỏi Dumas về một bộ truyện dài kỳ thăm lại bối cảnh trong tác phẩm hút khách đầu tay của ông là Ba chàng lính ngự lâm. Dumas, còn chưa nguôi niềm mê say với vương triều Louis XIII cùng vị Hồng y Tể tướng Richelieu, nghe vậy liền sốt sắng nhận lời. Thế là ra đời một thiên truyện nhiều kỳ với nhan đề Bá tước Moret, một câu chuyện phiêu lưu kể về Quốc vương Louis, về người em cùng cha khác mẹ và ưa thích phiêu bồng của ông là Moret, về người tình Isabelle de Lautrec của chàng Moret, và về vị chính khách lỗi lạc là Hồng y Richelieu. Đặc biệt là Hồng y Richelieu; nhân vật được cuốn tiểu thuyết đề cập ở mật độ ngang bằng với mật độ dành cho Bá tước Moret, và cuối cùng thì tác phẩm này được người ta biết đến nhiều hơn với cái tên là Người bí ẩn khoác áo Hồng y. Sự chú ý được dồn vào vị Hồng y lý giải vì sao ở truyện này Dumas từ chối đưa vào sự hiện diện của d’Artagnan cùng ba vị ngự lâm quân bạn thân của chàng, khi mà họ rõ ràng chẳng có gì để lưu luyến với cốt truyện nơi đây. Vả chăng, Dumas đã sáng tác dễ đến cả triệu từ về d’Artagnan cùng đồng đội, ông đâu cần phải nói đi nói lại những gì mình đã viết cả rồi. Thế là Dumas trở lại thời của triều đình Louis XIII và bắt tay vào viết. Cảm hứng tuôn trào, qua sáu tháng ông đã nặn ra một truyện về phiêu lưu, chính trị luận và tình cảm lãng mạn mang phong cách cổ điển nhưng thời gian qua nhiều chục năm đã trở thành gánh nặng tuổi tác, người văn sĩ nay là kẻ đau ốm già nua, còn tờ Les Nouvelles thì số ra như nấc cụt rồi dừng hẳn. Câu chuyện bấy giờ cũng vậy: sau khi viết được chín phần mười, Dumas không bao giờ xong nốt phần còn lại. Người đời sẽ cho rằng sau biết bao khắc khoải, và sau quá nhiều thành công lẽ ra Dumas đã có thể tập trung nỗ lực để hoàn tất bộ truyện ngõ hầu giúp nó tìm đến sự xuất bản, giống như rất nhiều tác phẩm trước đó. Song ông chỉ đơn giản là mãi mãi không tìm ra một cái kết cho truyện này. Đó là sự suy đoán nhìn từ góc độ của người làm công việc biên tập cuốn sách đang nằm trên tay bạn, nhưng riêng tôi thì cho rằng mình biết được một lý do hấp dẫn lý giải vì sao. Theo cách nghĩ của tôi thì vấn đề ấy Dumas vốn đã giải quyết từ lâu, khi ông viết truyện Bóng chim câu vào mười lăm năm trước đó. Trong truyện kể riêng lẻ, hoàn chỉnh ấy, ông đã trình bày phần kết cho câu chuyện về Richelieu, về Bá tước Moret cùng người tình Isabelle de Lautrec của chàng. Bóng chim câu, tuy ít người biết đến vì dung lượng truyện quá ngắn nên khó lòng được xuất bản, song đã mang đến cho số phận của Moret và Isabelle một cái kết có hậu. Vậy thì ông đã làm xong điều ấy. Tại sao ông phải lặp lại những gì mình vốn đã viết ra? Trong ấn bản này, lần đầu tiên độc giả có thể tìm thấy thiên tiểu thuyết vĩ đại cuối đời của Alexandre Dumas, Người bí ẩn khoác áo Hồng y trở nên trọn vẹn và hoàn chỉnh hơn khi có thêm phần ngoại truyện Bóng chim câu. Chắc chắn bạn đọc sẽ hứng thú với truyện này. *** Lời người dịch Người bí ẩn khoác áo Hồng y là tác phẩm được nhà văn Alexandre Dumas viết vào giai đoạn cuối cùng của văn nghiệp. Tác phẩm kể về chuyện xảy ra ở triều đại Louis XIII, vào thời điểm nối tiếp sau câu chuyện về những nhân vật có lẽ chẳng còn xa lạ với độc giả: hiệp sĩ d’Artagnan cùng ba người bạn thân của chàng, Athos, Porthos và Aramis. Lẽ cố nhiên, bạn đọc sẽ không tìm thấy những chàng hiệp sĩ ấy ở truyện này nữa, tuy vẫn còn đó hai con người quan trọng: Hồng y De Richelieu và Quốc vương Louis XIII. Khung cảnh của chuyện cũng hoàn toàn đổi khác, thay cho bầu không khí sôi nổi của những người cầm kiếm là chuỗi màn đấu trí gay cấn giữa những người mưu sâu kế hiểm. Trong truyện này, bạn đọc sẽ gặp gỡ Bá tước Moret, chàng hoàng tử hào hoa, lãng mạn, một nhân vật mà thời lượng nhà văn dành cho chàng là bằng ngang với Hồng y De Richelieu. Tác phẩm này, vì vậy, những lần xuất bản khác nhau tại Pháp cũng được biết đến với tựa đề Bá tước Moret. Là tác phẩm tiểu thuyết lịch sử, đa phần nhân vật trong truyện đều là những tên tuổi có thật thời bấy giờ, được hư cấu tài tình vào cốt truyện đậm tính hấp dẫn, sống động và khôi hài đặc trưng của nhà văn Dumas. Người bí ẩn khoác áo Hồng Y, nguyên bản tiếng Pháp, được xuất bản lần đầu vào những năm 1860 dưới dạng tiểu thuyết đăng báo dài kỳ. Sau này, người ta tìm thấy bản hoàn chỉnh trong một căn gác nhỏ sau khi tác giả qua đời. Trên tay độc giả là bản Việt dịch từ bản Anh ngữ của phiên bản ấy. Với mong mỏi mang đến với bạn đọc một tác phẩm giá trị và đặc sắc của văn hào mà tên tuổi của ông đã quá thân thuộc ở rất nhiều quốc gia trên thế giới, dịch giả cố gắng chuyển tải một cách tốt nhất ý văn của tác giả thông qua bản Anh ngữ, đối chiếu với bản gốc Pháp ngữ cho những điểm quan trọng, giữ nguyên một số thán từ bằng tiếng Pháp như chúng vốn vậy ở bản tiếng Anh, và sử dụng các đại từ đã được Việt hóa theo thời gian, nay tuy đã là từ cũ, nhưng xét thấy phù hợp cho câu chuyện thuộc khung cảnh của những năm 1600. Một bản dịch qua hai lần ngôn ngữ thì thiếu sót khách quan lẫn chủ quan hẳn nhiên là điều không tránh khỏi. Rất mong bạn đọc lượng thứ và góp ý cho một bản dịch tốt hơn sau này. Trân trọng, Nguyễn Đăng Thuần Dịch giả Mời bạn đón đọc Người Bí Ẩn Khoác Áo Hồng Y của tác giả  Alexandre Dumas & Nguyễn Đăng Thuần (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Đường Về Trùng Khánh - Han Suyin
Đường về Trùng Khánh (1973)—Destination Tchounking (1953) Tác giả Han Suyin aka Hàn Tú Anh Dịch giả Trùng Dương & Hồ Hải Nhà xuất bản Tổ Hợp Gió 1973 LỜI NGƯỜI DỊCH Qua Đường Về Trùng Khánh, người đọc có thể nhận ra những nhân vật điển hình — những diễn viên kỳ cựu — của bất cứ vở kịch chiến tranh nào xẩy ra từ trước tới nay trong lịch sử nhân loại : đó là đám nông dân cổ cày vai bừa sẽ chết, trong khi đám con cháu các gia đình khá giả lười biếng ăn chơi hay học hành tại các trường đại học và sửa soạn vào các nghề tài chánh, y khoa, hay luật sư và dĩ nhiên, cũng có những ngoại lệ và tuy thế cũng không phải là ít và thực đáng cảm động: “ Tôi không thể nào ngồi yên được nữa, tôi phải tham dự vào cuộc chiến, tôi phải tham dự vào cuộc kháng chiến của nhân dân Trung Hoa. Tôi phải về nước. Dù không làm được gì quan trọng tôi cũng phải về, tôi cần hiện diện để chia sẻ những khổ cực và gian nguy. Tôi là người Trung Hoa mà.” Đó là câu nói của nhân vật chính của tác giả, Hàn-tú-Anh, người nữ văn sĩ mang hai giòng máu Trung Hoa—Bĩ. *** Tựa Của Tác Giả Người ta đã yêu cầu tôi viết bài tựa cho cuốn Destination Tchoungking đã được xuất bản lần đầu tiên tại Anh vào năm 1942. Bằng cả tâm hồn và thể xác, tôi đã sống lùi lại mười một năm về trước, hồi còn trẻ, tại Trùng Khánh, ngập mình trong binh lửa, và thấy lại trọn vẹn cảnh tượng lúc bấy giờ: những chữ ở đây đều có một nghĩa tuyệt đối; những mục tiêu tự nó tồn tại, chính đáng và đáng kính; đạo đức và niềm tin đã chống cự lại nạn đói kém, nỗi đau khổ và sự buồn nản. Chúng tôi đã tin tưởng rằng sẽ tồn tại để cất lên tiếng cười, để tận dụng cuộc sống, mặc trạng huống hiện hữu, mặc những điệp khúc vô tận của những trận mưa bom mỗi ngày khô ráo mỗi tái diễn. Rồi thì cuối cùng mọi sự đều đã được giải quyết ổn thỏa. Tôi không có một mảy may ý định viết văn. Hồi đó tôi tập sự nghề cô đỡ tại một bảo sinh viện nhỏ dưới quyền điều khiển của Marian Manly, một nhà nữ truyền giáo Hoa Kỳ, ở Thành Đô thuộc tỉnh Tứ Xuyên. Pao, chồng tôi, đóng tại Tây Bắc, và trong thời gian chàng vắng nhà, tôi ở lại nhà thương với Marian. Cha mẹ của Marian đã từng là những nhà truyền giáo tại Trung Hoa. Chị nàng cũng thế. Chính nàng ta, một y sĩ kiêm truyền giáo, đã trải qua phần lớn đời nàng tại Trung Hoa. Nàng đã vẻ kiểu và xây lấy ngôi bảo sinh viện này, và tại đây, nàng huấn luyện các cô đỡ Trung Hoa cho đến khi những người này tốt nghiệp, gửi họ về các vùng quê, hay đưa đến những đô thị bị cô lập để làm cái việc cần thiết nhất tại Trung Hoa là giúp các sản phụ sinh nở dễ dàng và hợp vệ sinh. Một đêm nọ, tôi ngồi với nàng trong phòng nàng, trước ngọn lửa được đốt bằng củi để sưởi ấm, và chúng tôi đã thảo luận về những cuốn sách đã đọc. Nàng nói với tôi là đã nhiều lần nàng hy vọng sẽ viết một cuốn sách về tất cả những kinh nghiệm đã trải qua ở Trung Hoa trong tình thương và thông cảm. Nàng đã viết nhiều truyện ngắn và thơ nhưng chưa có được cuốn sách nào cả. Tôi đưa cho nàng xem những ghi chú và những đoạn văn mà tôi thường viết khi nhàn rỗi, cho những bạn bè ở Anh quốc muốn biết những gì đang xảy ra tại Trung Hoa. Nàng xem xong, bảo tôi: "Đây là những chất liệu quý giá có thể dùng để cấu tạo nên một cuốn truyện. Tại sao chị không viết nó thành cuốn sách nhỉ? Điều đó làm tôi run sợ. Anh văn của tôi, học từ hồi mười tuổi tại Bắc Kinh, và về sau này có được dồi dào thêm là nhờ đọc chứ chẳng phải nhờ thực tập, chắc đâu đủ để cho phép tôi viết thành một cuốn sách! Nhưng nhờ sự khích lệ nóng bỏng của Marian, tôi đã bắt tay vào việc hình thành cuốn Destination Tchoungking. Cuốn sách này đã được viết bằng những tờ rời, từng đoạn một, đôi khi vào buổi tối, dưới ánh đèn dầu trong những cái còn lại của một căn phòng sau trận oanh tạc vừa qua; đôi khi vào buổi trưa, trở về nhà sau một cuộc đỡ đẻ kéo dài từ sáng tới tối; hoặc vào khoảng giữa công việc bếp núc nhà cửa và việc quan sát những dấu vết địch quân trên trời. Tôi đã từng đem theo bản thảo Destination Tchoungking vào hầm trú ẩn trong quả đồi gần nhà, nhét giữa cái nồi thổi cơm và con gái tôi. Trong phần lớn thời gian viết cuốn sách này, Marian và tôi ở xa nhau. Tôi ở với Pao ở Trùng Khánh hoặc theo chàng xê dịch trong vùng Trung Hoa tự do. Nàng vẫn không rời bệnh viện của nàng ở Thành Đô. Tuy thế, sự hợp tác giữa chúng tôi vẫn không bị đứt khoảng, và điều này nói ra không khỏi tầm thường nhưng tôi vẫn cảm thấy phải nói, là nếu không nhờ có Marian sửa chữa, phê bình cùng tu bổ cho từng chương một, chắc chắn cuốn sách này đã không có dịp ra đời. Ngay khi vừa hoàn tất một chương, tôi gửi bằng máy bay tới Marian liền. Bản thảo bay tới bay lui giữa tác giả và đồng tác giả(co-auteur) trên vòm trời Trùng Khánh, được đánh máy trên những tờ giấy thực mỏng với tất cả thận trọng và rõ ràng để có thể nhét vào phong thơ của bưu điện hàng không. Rồi, một ngày đẹp trời nọ, nhà xuất bản nhận lời in. Tuy nhiên, vào thời đó, chưa thể tiết lộ tên tác giả được vì một lý do kỳ khôi. Hồi đó, nhờ chồng tôi nên tôi tạm thời trở thành một nhân viên ngoại giao của xứ tôi. Các bà trong ngoại giao đoàn không được phép viết văn. Nơi chúng tôi sống, người ta coi viết văn như một nghề ít phụ nữ tính và độc hại, y như nghề kịch sĩ vậy. Ngay cả cuốn tự truyện đầy sinh động và duyên dáng, Huilan Koo, của bà Wellington Koo, phu nhân của ông đại sứ Trung Hoa tại Hoa Thịnh Đốn, đã đột nhiên bị cấm lưu hành một cách bất công. Cuốn sách của tôi không bị số phận đó, nhưng trong nhiều năm, tôi khá thấu đáo về vấn đề này. Đó là câu chuyện đằng sau cuốn Destination Tchoungking của tôi. Ngoài bài mở đầu này ra, kỳ dư tôi không hề sửa đổi chi tiết nào trong cuốn sách khả dĩ khác với lần xuất bản đầu tiên, trừ vài lỗi chính tả và văn phạm. HÀN TÚ ANH Tháng 2, 1953 Mời các bạn đón đọc Đường Về Trùng Khánh của tác giả Han Suyin.
Đôi Mắt Người Xưa - Ngọc Linh
Ngọc Linh (1935 - 2002), xã Tân Duyệt, huyện Đầm Dơi, Cà Mau. Ông từng làm thư ký tòa soạn tuần báo Nhân loại, báo Lẽ sống, mở Nhà xuất bản Phù Sa, là ký giả kịch trường và điện ảnh, thành viên hội đồng tuyển chọn tuyển chọn giải Thanh Tâm trước 1975 (sau này ông là người sáng lập và tổ chức giải thưởng Trần Hữu Trang). Ông có hơn 70 tiểu thuyết đề cao lòng yêu nước và đạo đức gia đình. Nhiều tiểu thuyết nổi tiếng được chuyển thể thành kịch bản phim, cải lương, kịch nói. Sau giải phóng, ông được phân công chỉ đạo nghệ thuật nhiều đoàn kịch nói, cải lương, là Phó Tổng biên tập tuần báo Sân khấu Thành phố Hồ Chí Minh và làm cố vấn cho tờ báo đến ngày mất. *** Trân ngừng xe cách tiệm Ngọc Thanh của Diệp Thúy chừng hơn trăm thước, rồi bảo Ngọc Dung: - Đó... Em thấy chưa? Tiệm sách kia là của bác mua cho con vũ nữ đó. Ngọc Dung đọc hiệu tiệm rồi nhìn vào trong, thấy thấp thoáng nhiều người. Nàng bảo Trân: - Em sẽ đến đó, xem có ba em không? Và xem cô ta ra làm sao? Nàng nói xong, mở cửa xe bước ngay xuống đất. Trân lúng túng chưa biết tính sao? Hắn không ngờ Ngọc Dung hành động liền như vậy. Lúc nãy, hắn đang ở trên phòng buyn đinh Rose thì Ngọc Dung đến bảo hắn đưa nàng đến chỗ nhà bác sĩ Vũ mua cho Diệp Thúy. Trân tưởng đâu Dung chỉ muốn thấy tận mắt cái nhà sách của Thúy thôi, ai ngờ bây giờ nàng lại muốn giáp mặt Vũ và Thúy. Gặp như vậy thì khó quá! Chính hắn cũng không muốn giáp mặt Thúy trong trường hợp nầy. ... Mời các bạn đón đọc Đôi Mắt Người Xưa của tác giả Ngọc Linh.
Cô Gái Đan Mạch - David Ebershoff
The Danish girl - Cô gái Đan Mạch là một câu chuyện cảm động về người chuyển giới đầu tiên trên thế giới, một họa sĩ người Đan Mạch đã dũng cảm đối diện và tìm về với bản ngã của chính mình. Đây cũng là câu chuyện về lòng vị tha, đức hy sinh trong tình yêu. Tất cả đều được thể hiện bằng một văn phong trong sáng, đẹp đẽ. Bản dịch đã chuyển tải được sự tinh tế và thanh nhã của bản gốc để mang lại nhiều rung động cho người đọc.  Tác phẩm Cô gái Đan Mạch đã được chuyển thể thành phim và giành được nhiều tán thưởng của giới phê bình lẫn công chúng. *** David Ebershoff (sinh năm 1969) là nhà văn, biên tập viên và giáo viên người Mỹ. Tiểu thuyết đầu tay của ông, The Danish Girl (2000), đã được chuyển thể thành một bộ phim đoạt giải Oscar cùng tên vào năm 2015, trong khi cuốn tiểu thuyết thứ ba của ông, The Wife 19, đã được chuyển thể thành một bộ phim truyền hình cùng tên vào năm 2010. Ebershoff xuất bản cuốn tiểu thuyết đầu tiên của ông, The Girl Đan Mạch, vào năm 2000. Nó được lấy cảm hứng từ cuộc đời của Lili Elbe, một trong những người đầu tiên được phẫu thuật chuyển đổi giới tính. Cuốn tiểu thuyết đoạt giải thưởng Quỹ Rosenthal từ Học viện Mỹ thuật và Văn chương và giải thưởng văn học Lambda. Ngoài ra, quyển sách trở thành best-seller trên toàn thế giới. Ebershoff đã dạy văn tại đại học New York và Princeton, và hiện đang giảng dạy văn học trong chương trình MFA tại Đại học Columbia. Ebershoff đã xuất hiện hai lần trên tạp chí Out trong danh sách 100 người có ảnh hưởng đến cộng đồng LGBT. Sách của David Ebershoff đã được dịch sang hai mươi lăm ngôn ngữ. *** Họ trở về căn hộ Widow House, nhưng sau nhiều năm tòa nhà đã trở nên xập xệ. Khi còn ở Paris, Greta đã thuê một người đàn ông tên Poulsen để sửa sang lại. Mỗi tháng cô gửi thư để kiểm tra và chỉ dẫn. "Tôi nghĩ là giờ máng nước cần được làm sạch," cô viết. Hoặc, "Làm ơn tháo các cánh cửa chớp nữa." Nhưng Poulsen đã không nghe theo bất kỳ chỉ dẫn nào, chỉ dọn dẹp phòng nghỉ và đốt rác. Khi Greta và Hans lái xe về Copenhagen vào một sáng tuyết rơi lất phất, Poulsen đã biến mất. Bề ngoài căn hộ phai thành màu hồng nhẹ. Ở tầng trên, phân chim mòng biển dính trên khung cửa sổ. Một căn phòng bị thiếu mất ô cửa kính, nơi người đàn bà sốt sắng trong độ tuổi 90 đã qua đời vào ban đêm, dưới tấm chăn nhàu nhĩ. Và bụi bẩn cáu đen lại trên các bức tường cạnh cầu thang dẫn lên tầng thượng. Phải mất hai tuần Greta mới chuẩn bị xong căn hộ cho Lili. Hans cũng cùng giúp, thuê người sơn lại tường và đánh bóng sàn. "Em ấy đã bao giờ nghĩ đến việc dọn ra ở riêng chưa?" một ngày anh chợt hỏi, và Greta giật mình trả lời, "Gì cơ? Mà không có em sao?" Dần dần cô đã thả Lili vào cuộc sống nhàn hạ bên biển cảng ở Copenhagen. Vào những chiều tuyết tan, Greta nắm tay Lili và cùng nhau đi dạo qua những hàng cây bụi đã được cắt tỉa thành từng khối, xơ xác vào cuối đông trong vườn Kongens Have. Lili bước chân và chúi miệng vào chiếc khăn len cuốn trên cổ; những ca mổ đã để lại cơn đau nhói lên mỗi khi liều móc phin hết tác dụng. Greta nói, chạm nhẹ vào cổ tay Lili, "Hãy dành thêm chút thời gian đi. Khi nào em đã sẵn sàng thì cứ nói chị biết." Cô cho rằng một ngày nào đó Lili sẽ muốn tự mình ra ngoài thế giới. Greta nhìn thấy điều đó trên gương mặt Lili, như cách cô quan sát những người phụ nữ trẻ với gói bơ cuộn từ tiệm bánh trên tay, bận rộn đi qua quảng trường Kongens Nytorv mỗi sáng, đủ trẻ để những tia hy vọng vẫn còn sáng lên trong mắt họ. Greta nhận ra điều đó qua giọng nói của Lili mỗi khi cô đọc to các cáo thị hôn lễ trên báo. Greta lo sợ ngày đó sẽ tới; thỉnh thoảng cô tự hỏi mình sẽ làm gì nếu ngay từ đầu đã nhận ra, rằng mọi chuyện sẽ kết thúc với khung cảnh Lili rời khỏi căn hộ Widow House, túi hành lí nhỏ xách trên tay. Vào những ngày đầu khi mới trở về Copenhagen, Greta thỉnh thoảng vẫn tin rằng cô và Lili có thể tự mình sống ở phòng trên cùng của căn hộ, và không ai trong số họ sẽ rời khỏi đó lâu hơn một buổi chiều. Có lúc Greta và Lili cùng ngồi bên lò sưởi, cô chợt nghĩ rằng những chấn động trong nhiều năm nay đã đến hồi kết, và giờ họ có thể tiếp tục vẽ trong yên bình, dù cô độc nhưng vẫn có nhau. Đó chẳng phải cuộc đấu tranh dài vô tận đối với Greta ư? Cô luôn cảm thấy cần được ở một mình nhưng lại luôn được yêu, và chính cô cũng yêu. "Chị có cho rằng em có thể biết yêu không?" Lili bắt đầu hỏi, khi mùa xuân trở lại và vẻ xám xịt dần biến mất khỏi bến cảng, thay vào đó là màu xanh biển. "Chị có nghĩ là những điều như vậy cũng sẽ xảy đến với em không?" ... Mời các bạn đón đọc Cô Gái Đan Mạch của tác giả David Ebershoff.
Mang Em Trở Lại - Sharon Sala
"Một ngày nào đó anh muốn đứng trong nhà thờ và nhìn em đi về phía anh trên lối đi. Anh muốn nói với cả thế giới rằng em là của anh và anh là của em. Anh hứa sẽ ôm em và bảo vệ em trước những điều làm em sợ hãi. Anh thề bằng sinh mạng mình là sẽ không bao giờ từ bỏ em. Em có tin anh không?" "Sweet Baby là một cuốn tiểu thuyết tâm lý tuyệt vời, ở đó nhà văn đã cho độc giả thấy những chấn thương thuở nhỏ ảnh hưởng lên cuộc đời của một cô gái mảnh mai nhưng dũng cảm và người đàn ông sẵn sàng mạo hiểm mọi thứ để bảo vệ cô. Cốt truyện vừa gay cấn vừa cảm động, một đỉnh cao mà chỉ những cây bút như Sharon Sala mới đạt tới" - Harriet Klausner, Amazon.com "Một câu chuyện tình yêu tuyệt vời, và một nam chính khiến bất cứ người phụ nữ nào cũng phải ao ước. Cả người lớn lẫn trẻ em đều sẽ yêu thích tác phẩm này." - Katie Babs, Goodreads.com *** Sharon Sala là một trong những tác giả viết tiểu thuyết lãng mạn được yêu thích nhất hiện nay. Xuất bản cuốn sách đầu tiên từ năm 1991, cho đến nay bà đã có hơn 60 đầu sách và sự mến mộ của rất nhiều độc giả. Tác phẩm của bà thường xoay quanh những nhân vật chịu nhiều bi kịch trong cuộc đời, và cách mà họ vượt qua chúng để tiếp tục sống. Đó cũng là những gì mà Sharon Sala đã làm: trở thành một nhà văn nổi tiếng bất chấp những nghịch cảnh mà số phận bắt bà chịu đựng. Sharon Sala đã nhận được phần thưởng xứng đáng với những cống hiến của bà: được bình chọn là tác giả sách bán chạy trên New York Times, USA Today, Publishers Weekly; giải thưởng RITA, giải thưởng Thành tựu Sự nghiệp của tạp chí Romantic Times,... *** Tory đang đứng ở hành lang khi họ dỡ tấm ván đầu tiên trên sàn nhà. Ngay khi miếng gỗ bị kéo ra, một âm thanh như tiếng súng đanh gọn xuyên qua không khí, cô co rúm người. Và với mỗi một miếng ván được lôi ra, cô lại nghe văng vẳng tiếng Oliver Hale. Tôi đã để cô ấy dưới bồn tắm. Cô rùng mình. Người mẹ tội nghiệp của cô. Hai mươi lăm năm chờ đợi được yên nghỉ. Rồi Brett bước tới sau lưng, vòng cánh tay ôm cô. “Tory, em có sao không?” anh hỏi Sự khẩn thiết trong giọng nói của anh khó mà lầm được, và sau khám phá của cô sáng sớm nay, cô không thể đổ lỗi cho anh. Có lẽ anh đang chờ đợi cô suy sụp tinh thần. Tory cảm thấy cằm Brett đang đặt trên đỉnh đầu mình, cảm thấy ngón cái của anh đang vuốt ve mạch đập trên cổ tay mình. Ổn không ư? Chừng nào anh còn đi bên cạnh cô, cô sẽ luôn luôn ổn. “Vâng, Brett, em không sao.” Những người đàn ông mặc áo bảo hộ vàng xuất hiện ở khắp nơi. Họ kéo đinh, dỡ ván, tháo các bức tranh. Hai lần cô đã phải tránh sang bên để người ta đi qua, nhưng lần nào cô cũng trở lại chỗ ngay, không chịu từ bỏ nơi mình đang đứng. Đây đã là nhà cô và cơn ác mộng của cô. Hơn bất kỳ ai khác, cô có quyền ở đây. Trong khi việc phá dỡ căn phòng nhỏ tiếp tục, Denton Washburn ló đầu qua một cánh cửa sổ để mở bên tay phải họ và chào. ... Mời các bạn đón đọc Mang Em Trở Lại của tác giả Sharon Sala.