Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Nàng Lolita

Lolita là tiểu thuyết của Vladimir Nabokov. Tiểu thuyết được viết bằng tiếng Anh và được xuất bản vào năm 1955 ở Paris, sau đó được chính tác giả dịch ra tiếng Nga và được xuất bản vào năm 1967 ở New York. Tiểu thuyết nổi tiếng cả ở phong cách mới lạ lẫn nội dung gây ra các tranh cãi do nhân vật chính của tiểu thuyết tên Humbert Humbert, một người khá nhiều tuổi có sự ám ảnh về tình dục với một cô gái mười hai tuổi tên Dolores Haze. Sau khi được xuất bản, tiểu thuyết trở thành một tác phẩm kinh điển và là một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất và gây ra nhiều tranh cãi nhất trong nền văn chương thế kỷ 20. Cái tên "Lolita" đã đi vào văn hoá phổ thông như là một từ để mô tả cô gái trẻ phát triển sớm về giới tính. *** Chắc một số bạn yêu văn học đã biết đến vụ tranh luận liên quan đến việc dịch giả Dương Tường dịch sai, “đạo” chú thích Lolita trong thời gian vừa qua. Người phản biện trực tiếp các lỗi sai của cụ Dương Tường là chị Haze Dolores (nick facebook). Chị đã viết rất nhiều bài chỉ ra các lỗi sai của cụ Dương Tường và đã dịch lại hoàn toàn tác phẩm khó này, một việc có thể nói là “Ăn cơm nhà vác tù và hàng tổng” bởi vì bản quyền đã bị Nhã Nam mua đứt. Như các thành viên TVE đều hiểu, dịch và phát tán như thế này thực chất là vi phạm luật bản quyền. Người dịch chỉ làm vì niềm đam mê với tác phẩm chứ không được lợi lộc gì. Dù đây là bản "dịch lậu", nhưng rất nhiều người đọc, trong đó có mình, nghĩ rằng độc giả có quyền tiếp cận với một bản dịch tốt và đúng, nhất là trong hoàn cảnh Nhã Nam chưa tỏ ra có trách nhiệm gì trước việc tác phẩm bị dịch “sai hàng ngàn lỗi” thế này. Một số bạn có thể phản ứng với cụm từ “sai hàng ngàn lỗi”, cho rằng mình nói quá, cũng như nhiều người đã phản ứng với Haze khi chị chê trách dịch giả Dương Tường rất mạnh mẽ, cho rằng Haze không tôn trọng người lớn tuổi. Có lẽ ngôn ngữ của chị có một chút mỉa mai cay độc khiến người ta phải tức khí chăng? Nhưng mình là người đã theo dõi những bài phân tích của Haze qua FB của anh Gaup – cũng là một người rất giỏi ngoại ngữ và biên phiên dịch* - thì mình nghĩ rằng chị Haze không hề nói quá về chất lượng bản dịch của Dương Tường. Chưa kể cụ còn đạo văn cuốn chú thích Lolita và lên báo tự nhận công sức tìm tòi chú thích là của mình. Điều này làm mình rất thất vọng, bởi vì mình từng rất ngưỡng mộ cụ bắt đầu từ khi đọc “Cuốn Theo Chiều Gió” do cụ dịch. Nhưng thời nay, internet ở khắp mọi nơi và nếu dịch giả không cố gắng, không trung thực, sớm muộn gì người đọc cũng nhận ra. Mình post đường link blog của chị Haze ở đây với mong muốn các bạn có thể đọc và cảm nhận sự khác biệt giữa 2 bản dịch. *Note: anh Gaup có một bài viết rất giá trị chừng 10 năm trước là “Học, đọc, viết như thế nào” liên quan đến việc học ngoại ngữ (Gaup bỏ dở phần cuối là “Viết”, nhưng thế cũng đủ). Bạn nào quan tâm có thể tìm lại trên mạng.  Lời giới thiệu của anh Gaupvn trên FB: Một người bạn lâu năm của mình là chị Haze đã bỏ ra hai năm để hoàn thành bản dịch cuốn Lolita mà trước đây cụ Dương Tường đã dịch và Nhã Nam đã xuất bản nhưng như chị Haze đã chỉ ra bản dịch của cụ Dương Tường có hàng nghìn lỗi sai. Chị Haze đã tham khảo bản tiếng Anh, tiếng Nga, và nhờ các bạn bè giúp tham khảo cả các bản tiếng Trung, Pháp. Chị đã bỏ rất nhiều công sức và thời gian để hoàn thành bản dịch này và mình tin rằng đây là bản dịch tiếng Việt tốt nhất trong hàng chục năm tới nếu không nói là sẽ không bao giờ có bản dịch tiếng Việt nào tốt hơn bản dịch này. Người đặc biệt như chị Haze vừa có tài lại vừa có đam mê lại có đủ điều kiện để bỏ 2 năm cuộc đời ra làm việc vác tù và hàng tổng hiếm có lắm, chắc là chỉ có một mình chị. Tuy thế là người khiêm tốn chị không cho rằng bản dịch của chị là không có lỗi và luôn mong người đọc tinh mắt để ý và thông báo cho chị biết về các lỗi nếu họ thấy để giúp cho việc chỉnh sửa về sau. Vấn đề bây giờ là quyền dịch và xuất bản Lolita sang tiếng Việt hình như đã được bán đứt cho Nhã Nam và vì thế con đường xuất bản chính thức của bản dịch tuyệt vời tốt nhất hiện tại này là không thông. Chị Haze đã quyết định sẽ để kệ mình quyết định và mình sẽ xuất bản bản dịch qua đường vui là chính. Mình ủng hộ chị bằng cách đặt mua 100 bản đặc biệt, đóng bằng tay, có chữ ký của chị và mình sẽ tặng 90 bản cho các bạn trong friendlist của mình.  Rất mong các bản sách sẽ về với những người chủ thực sự quan tâm, sẽ đọc, và nâng niu quý mến cuốn sách để xứng công chị Haze dành thời gian làm việc công ích miễn phí cũng như mình đưa sách gửi tặng bạn bè.  Bạn nào quan tâm nhận sách xin để lại tên ở đây. Nếu có nhiều hơn 90 bạn mình sẽ để Excel lựa chọn ngẫu nhiên. Sách sẽ được chuyển đến tận tay các bạn ở Việt Nam. Bạn nào ở nước ngoài khi có sách mình sẽ liên hệ để xem chuyển cách nào đến bạn là nhanh và đỡ tốn kém nhất. Cảm ơn sự ủng hộ của các bạn. *** Vladimir Nabokov (1899-1977), tiểu thuyết gia, nhà phê bình văn học, dịch giả, nhà nghiên cứu về thể loại văn học của nước Mỹ, sinh ra tại nước Nga. Nabokov học thức uyên bác, tài hoa đa diện, cuộc đời sáng tác cực kỳ phong phú đa dạng, bao gồm: Thơ, kịch, tiểu thuyết, truyện ký, phiên dịch, cờ tướng và các luận văn về côn trùng học, song ông nổi tiếng thế giới vìtiểu thuyết, như: “Lolita”, “Puning”, “Ngọn lửa đìu hiu” (Pale Fire), “Ada”, “Vật thể trong suốt”, v.v… đều là những danh tác được mọi người biết đến. Ngoài tiểu thuyết và thơ, ông còn công bố bình luận về Gogol, phiên dịch và viết chuyên luận về bộ sách 4 quyển của Pushkin “Napalese Onegin”. Thập niên 70 của thế kỷ 20, danh tiếng của ông đạt tới tột đỉnh, được tôn vinh là “vua tiểu thuyết đương đại”. *** Lời nói đầu “Lolita” hay “Lời xưng tội của một gỡ đàn ông da trắng góa vợ”, ấy là hai cái đầu đề của tập bản thảo kì lạ được gửi đến người viết những dòng này làm mào đầu cho nó. “Humbert Humbert”[1], tác giả của nó, đã chết trong tù vì chứng nghẽn động mạch vành vào ngày 16 tháng Mười một năm 1952, ít hôm trước khi bắt đầu phiên tòa xử ông ta. Khi yêu cầu tôi biên tập những trang này, luật sư của ông ta, Ngài Clarence Choate Clark, nay là thành viên của luật sư đoàn Washington D.C, cũng là bạn và bà con của tôi, dựa trên một điều khoản trong di chúc của thân chủ của ông trao toàn quyền cho người anh họ lỗi lạc của tôi tiến hành mọi sự chuẩn bị cần thiết cho việc in ấn cuốn “Lolita”. Quyết định của ông Clark có thể là do người biên tập mà ông chọn vừa được tặng giải thưởng Poling về một tác phẩm khiêm tốn (“Do the Senses Make Sense?”) trong đó có bàn đến một số trạng thái bệnh hoạn và loạn dâm. Nhiệm vụ của tôi hóa ra đơn giản hơn là cả hai chúng tôi đã dự liệu. Ngoại trừ việc sửa những lỗi cú pháp quá hiển nhiên và thận trọng lược bỏ một số chi tiết mà bất chấp những cố gắng của “H. H.” vẫn dai dẳng lưu tồn trong văn bản của ông ta như những tấm biển báo và những tấm bia mộ (chỉ rõ những nơi hoặc những người mà lẽ ra nên giấu đi cho nhã, hoặc nên thương tình bỏ qua), tập hồi ức này được giới thiệu nguyên vẹn. Biệt danh kì dị của tác giả là do chính ông ta đặt; và dĩ nhiên, chiếc mặt nạ này - qua đó, dường như rực lên hai con mắt thôi miên – vẫn được để nguyên không cắt bỏ, theo đúng ý nguyện của người mang nó. Trong khi “Haze” chỉ vần với họ thật của nữ nhân vật chính thôi, thì tên cô[2] lại quyện chặt vào thớ cảm xúc sâu kín của cuốn sách đến độ không cho phép ơi thay đổi nó; vả chăng cũng chẳng có lí do thực tiễn nào (như độc giả sẽ tự thấy) khiến ta thấy cần phải làm thế. Những ai tò mò muốn tìm hiểu kĩ có thể truy cứu các tư liệu liên quan đến tội hình sự của “H. H.” trên các báo hằng ngày trong tháng Chín năm 1952; nguyên nhân và mục đích của tội đó ắt sẽ tiếp tục là một bí mật hoàn toàn nếu số phận không mang tập hồi ức này đến đặt dưới ngọn đèn biên tập của tôi. Để phục vụ các độc giả cựu trào muốn theo dõi số phận của những con người “có thực” bên ngoài câu chuyện “thật”, xin cung cấp một số chi tiết do ông “Windmuller” ở “Ramsdale” chuyển tới, ông này muốn giữ kín nhân thân để “cái bóng dài lê thê của câu chuyện thảm hại và nhớp nhúa này” khỏi chạm tới cái cộng đồng mà ông hãnh diện được là một thành viên. Con gái ông, “Louise”, hiện là sinh viên đại học năm thứ hai. “Mona Dahl” cũng là sinh viên ở Paris. “Rita” vừa mới kết hôn với một chủ khách sạn ở FIorida. Bà “Richard F. Schiller”[3] chết cả hai mẹ con trên bàn đẻ vào đúng hôm Giáng sinh năm 1952 ở Gray Star[4], một khu định cư ở miền Tây Bắc cực kì hẻo lánh, cái thai chết là một bé gái. “Vivian Darkbloom” vừa viết xong một cuốn tiểu sử nhan đề “My Cue”[5] sẽ xuất bản nay mai, và những nhà phê bình đã đọc bản thảo đều cho đó là cuốn sách hay nhất của bà ấy. Những người trông coi các nghĩa trang có liên quan tới câu chuyện cho biết không thấy bóng ma nào hiện về. Xét đơn thuần như là một tiểu thuyết, “Lolita” đề cập đến những tình huống và những cảm xúc mà nếu thể hiện nhờ nhạt bàng các thủ pháp né tránh vô vị thì trước sau chỉ khiến người đọc thấy mơ hồ đến phát cáu. Đúng là người ta không tìm thấy một từ tục tĩu nào trong toàn bộ tác phẩm; quả thật, kẻ phàm tục kiên cường được những ước lệ hiện đại luyện cho quen thói chấp nhận không chút đắn đo hàng loạt chữ tục trắng trợn tràn ngập trong những cuốn tiểu thuyết tầm thường, ắt sẽ phẫn nộ khi không thấy chúng ở đây. Nhưng nếu để chiều theo cái kẻ làm ra vẻ tiết hạnh một cách ngược đời ấy, một biên tập viên tìm cách pha loãng hoặc tước bỏ những cảnh mà một loại đầu óc nào đó có thể gọi là “kích dục” (về phương diện này, xin xem phán quyết trọng đại do Ngài John Woolsey tuyên đọc ngày 6 tháng Chạp năm 1933 đối với một cuốn sách khác còn thẳng thừng hơn nhiều[6]), thì tất phải từ bỏ hoàn toàn việc xuất bản “Lolita” vì chính những cảnh mà người ta có thể kết tội quàng xiên rằng tự thân chúng chứa một hiện sinh nhục cảm, lại đích thị là những cảnh có tác dụng triệt để nhất trong diễn biến của một câu chuyện bi thảm luôn kiên định hướng tới tôn vinh đạo đức. Kẻ khuyển nho có thể nói rằng loại văn chương “con heo” thương mại cũng lập luận tương tự, nhà học giả có thể phản bác bằng cách khẳng định rằng lời thú tội tâm huyết của “H. H.” chỉ là cơn bão trong ống nghiệm; ràng ít nhất 12%[7]  đàn ông trưởng thành ở Mĩ - một ước tính “dè dặt” theo tiến sĩ Blanche Schwarzmann[8](thông báo miệng) - năm nào cũng thưởng thức theo cách này hay cách khác các trải nghiệm đặc biệt mà “H. H.” mô tả một cách tuyệt vọng đến thế; rằng nếu vào cái mùa hè định mệnh năm 1947 ấy, người viết hồi ức điên khùng của chúng ta tìm đến một bác sĩ bệnh lí - tâm thần giỏi, thì chắc đã chẳng xảy ra tai họa; nhưng nếu vậy thì cũng chẳng có cuốn sách này. Kẻ viết những dòng bình luận này xin mạn phép được nhắc lại một điều hắn thường nhấn mạnh trong các cuốn sách và bài giảng của mình, cụ thể rằng “gây sốc” nhiều khi chỉ là một từ đồng nghĩa với “khác thường”; và một tác phẩm nghệ thuật lớn, dĩ nhiên, bao giờ cũng độc đáo, và như vậy, bởi chính bản chất của nó, ắt tạo nên một bất ngờ ít nhiều gây sốc. Tôi không hề có ý định ca ngợi “H. H.”. Rõ ràng, ông ta thật gớm ghiếc, ông ta thật bỉ ổi, ông ta là một thí dụ nổi bật về chứng phong hủi đạo đức, một hỗn hợp của tàn bạo và đùa cợt mà ẩn sau đó, có lẽ là một nỗi khốn khổ cùng cực song chẳng khiến ai đồng cảm. Tính khí ông ta vừa thất thường vừa tẻ ngắt, ông ta phát biểu văng mạng nhiều ý kiến nhố nhăng về con người và phong cảnh đất nước này. Một mạch thành thật tuyệt vọng đập chộn rộn suốt dòng tâm sự ăn năn, song nó không thể xá được cho ông ta khỏi những tội lỗi xảo trá quỉ quyệt, ông ta bất bình thường, ông ta không phải là người hào hoa phong nhã. Nhưng cây vĩ cầm réo rắt của ông ta có cái ma lực gợi nên một niềm trìu mến và thương cảm đối với Lolita, khiến ta mê mẩn với cuốn sách, đồng thời kinh tởm tác giả của nó! Với tư cách là một hồ sơ bệnh án[9], “Lolita” chắc sẽ trở thành một tư liệu kinh điển trong giới y học tâm thần. Với tư cách là một tác phẩm nghệ thuật, nó siêu vượt trên khía cạnh chuộc tội của nó; và đối với chúng tôi, điều còn quan trọng hơn cả ý nghĩa khoa học và giá trị văn học, là tác động đạo lí mà cuốn sách sẽ tạo nên đối với độc giả nghiêm túc; vì trong nghiên cứu cá nhân xót xa này, ẩn chứa một bài học phổ quát; đứa trẻ ngang ngạnh, người mẹ ích kỉ, gã quỉ ám hổn hển, không phải chỉ là những nhân vật sống động trong một câu chuyện duy nhất; họ cảnh báo ta về các khuynh hướng nguy hiểm; họ chỉ ra những cái xấu đầy cường lực. “Lolita” khiến tất cả chúng ta - những người làm cha mẹ, những nhà hoạt động xã hội, những nhà giáo dục - phải dốc sức, với tinh thần cảnh giác cao hơn nữa và sáng suốt hơn nữa, vào nhiệm vụ nuôi dạy một thế hệ tốt hơn trong một thế giới an toàn hơn. Widworth, Mas. Tiến sĩ John Ray, Jr[10]   5 tháng Tám năm 1955 Mời các bạn đón đọc Nàng Lolita (Tiếng Việt) của tác giả Vladimir Nabokov & Dương Tường (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Ngôi Nhà Vui Vẻ - Gong Ji Young
Ngôi nhà vui vẻ là cuốn tiểu thuyết được lấy cảm hứng từ cuộc sống của chính tác giả Gong Ji-Young qua góc nhìn của nhân vật chính - cô bé Wi Nyeong mười tám tuổi. Trước khi học lên lớp 12, cô đã chuyển về sống cùng mẹ đẻ sau nhiều năm sống cùng cha và mẹ kế. Bằng giọng văn chân thực, mạnh mẽ và sáng tạo của Gong Ji Young, câu chuyện sẽ góp phần an ủi, sẻ chia và làm ấm trái tim những người cô đơn. Qua nỗi tổn thương mà Wi Nyeong đã phải chịu đựng vì gia đình, nỗi đau tột cùng khi bị cự tuyệt tình yêu thương cũng như hành trình tìm lại bản thân mình, tìm lại tình yêu đã mất từ hai tiếng “gia đình”, người đọc có thể nhìn lại giá trị của gia đình và tình yêu nơi mỗi con người một lần nữa. Từ cổ chí kim, gia đình luôn đóng vai trò là nền tảng của xã hội, nhưng trong cuộc sống hiện đại bộn bề, gia đình và các mối quan hệ huyết thống đang dần lung lay theo nhiều cách khác nhau. Gia đình vốn là biểu tượng của hòa hợp, của chung tay góp sức đắp xây, của tấm lòng hi sinh vì nhau giữa các thành viên dưới một mái nhà chứ không phải mối khác biệt giữa cá nhân với mọi người. Vậy mà giờ, chúng ta đang đối mặt với một thực tế: Quan niệm gia đình biến đổi khiến những người thân thuộc “dù có ở cạnh nhau nhưng vẫn xa cách, tách biệt nhau” (trích Ngôi nhà vui vẻ ). Đặc biệt, từ nhiều nguyên nhân mà gia đình cũng dần trở nên khác trước, việc ly hôn khiến gia đình không còn nguyên vẹn như xưa, thiếu vắng ba hoặc mẹ, cuộc sống của các bà mẹ đơn thân trở nên phổ biến hơn... Bởi vậy, tác phẩm mà bạn đọc đang cầm trên tay chính là một làn gió mới nếu được đặt cạnh ý niệm cũng như ý nghĩa về gia đình truyền thống. Giờ đây, chúng ta cần có cái nhìn bao dung hơn về “gia đình” và “tình yêu”. Có thể nói, Ngôi nhà vui vẻ là một trong những tác phẩm xuất sắc của nhà văn Gong Ji Young. Ngay sau khi phát hành, cuốn tiểu thuyết này đã nhận được sự ủng hộ nhiệt tình của độc giả Hàn Quốc bởi những nhận thức, quan điểm mới mẻ, phù hợp với xã hội hiện đại mà ta đang sống. Xuất phát từ những nét tương đồng về văn hóa cũng như xã hội, hẳn độc giả Việt Nam sẽ tìm thấy niềm đồng cảm, và đâu đó trong cuốn sách, ta sẽ thấy bóng dáng ai đó xung quanh mình. Như chia sẻ của tác giả: “Mỗi người trong chúng ta đều có hoàn cảnh gia đình khác nhau nên tôi mong cuốn sách sẽ mang lại chút hi vọng nào đó cho tất cả những người cảm thấy khó khăn”. Chúng tôi hi vọng bạn đọc sẽ nhận tìm được ý nghĩa vốn có của tình cảm gia đình, biết trân trọng và nâng niu nhau hơn. Bên cạnh đó, trong bối cảnh “hợp tác chiến lược Việt - Hàn” trên nhiều lĩnh vực, cuốn tiểu thuyết có thể là nguồn tư liệu cho những người nghiên cứu cũng như những ai quan tâm đến xứ sở kim chi. Trần Hải Dương (Giảng viên khoa Ngôn ngữ và Văn hóa Hàn Quốc Trường ĐHNN - ĐHQGHN) *** Khi đó tôi chín tuổi. Xúng xính trong chiếc váy thêu màu xanh da trời tiến vào lễ đường để biểu diễn dương cầm thay lời chúc phúc tôi muốn gửi tới ba tôi. Tôi vốn là một đứa bé ghét đến lớp học dương cầm nên dù được học, tôi vẫn chẳng có chút tiến bộ nào, nhưng với khúc nhạc này tôi đã thực sự luyện tập rất chăm chỉ. Bởi vì hôm nay có cả ba mẹ tôi tham gia, hơn nữa việc được đảm nhận vai trò quan trọng tại hôn lễ như thế này tựa như có một điều gì đó đang thực sự diễn ra và có phần thú vị hơn việc đóng vai ba hay mẹ trong trò chơi với búp bê, trò chơi buôn hàng của lũ trẻ thường ngày. Khi tôi nói với cô giáo dạy dương cầm của tôi rằng: “Đây là bản nhạc con sẽ chơi trong ngày cưới của ba con” dường như cô ngạc nhiên đến mức không thể khép miệng lại, cô chỉ có thể lắp bắp vài lời hỏi lại: “Ba dượng con ư?” “Không ạ. Là ba con. Lần này là ba con sẽ kết hôn”. Một thoáng cô giáo nhìn tôi, tôi đang đứng trước những đứa trẻ khác mà như thế này thì không được, một người nếu đã quyết tâm thì phải luôn khí thế, tôi giả bộ nở một nụ cười rạng rỡ sau khi đã tạo dáng như đang nghĩ ngợi điều gì đó, tôi dõng dạc: “Vậy đi, chúng mình hãy cùng nhau luyện tập chăm chỉ một lần. Dù vậy đừng quá say mê tập luyện đấy”. Khi tôi nói thế, những đứa trẻ nhìn tôi giả bộ cười, điều ấy cũng chẳng còn xa lạ. Vốn dĩ chúng luôn nhìn tôi với ánh mắt đầy tò mò và thương hại như nhìn một đứa mồ côi tội nghiệp. Nhờ chút thương hại đó, tôi nghiễm nhiên được miễn bị phạt, đương nhiên chỉ là những hình phạt đơn thuần, nhưng điều đó chẳng bao giờ trở thành mảng ký ức tươi sáng trong tuổi thơ tôi. Hay nói một cách nặng nề hơn, đúng hơn là một ký ức buồn. Dẫu sao thì tôi nhất định sẽ biểu diễn bản nhạc Ngôi nhà vui vẻ của tôi trong hôn lễ của ba tôi. Dù có đến bất cứ đâu nơi tràn ngập tiếng cười và hạnh phúc Nơi bình yên nhất chỉ có thể là ngôi nhà yêu dấu của tôi Thiên đường của tôi, niềm vui của tôi, điểm dừng chân của tôi Chỉ có thể là ngôi nhà của tôi - nơi hoa thơm đua nở với tiếng chim hót véo von. ... Mời các bạn đón đọc Ngôi Nhà Vui Vẻ của tác giả Gong Ji Young.
Gia Đình - Pa Chin
Pa Chin là một đại văn hào của Trung Hoa. Ông sinh năm 1905 tại Thành Đô, tỉnh Tứ Xuyên, một tỉnh hẻo lánh hiểm trở tại miền tây Trung Hoa, nơi còn giữ nhiều cổ tục trong một gia đình đại địa chủ, tôn trọng truyền thống “tứ đại đồng đường”: ông bà, cha mẹ chú bác cô dì và con cháu ở chung với nhau, tuân theo kỷ luật nghiêm khắc của đại gia trưởng. Tên thực của ông là Lý Nghiêu Đường, tự là Phế Cam. Cái bút hiệu Pa Chin của ông không có nghĩa gì, mà chỉ là do ghép vần đầu và vần cuối của hai tên nhà văn người Nga mà ông ngưỡng mộ. Đó là Bakunin và Kropotkin. Trong cuộc Cách mạng Văn hóa kinh thiên động địa của Mao Trạch Đông nhằm loại trừ các đối thủ chính trị, ông bị buộc tội đã viết “mười bốn tác phẩm độc hại,” trong đó có cuốn tiểu thuyết Gia Đình. Không những ông bị đấu tố dã man và lao động nhục nhằn vì tác phẩm của ông, mà vợ con ông cũng bị hành hạ tàn nhẫn, chỉ vì tội là vợ và con của ông. Đầu thế kỷ hai mươi là một thời kỳ đại loạn tại Trung Hoa, với một nếp sống hàng ngàn năm đang bị nhổ rễ bởi một cuộc cách mạng cực đoan. Gia Đình là một trong những tiểu thuyết nổi tiếng thời ấy, đã linh động phản ảnh cái giai đoạn đen tối ấy, và có công dụng làm căn bản để hiểu những gì xảy ra sau đó. Pa Chin viết cuốn Gia Đình năm 1931 như là phần đầu của bộ trường thiên tiểu thuyết thành công nhất của ông: Kích Lưu Tam Bộ Khúc. Bộ này gồm có ba cuốn: Gia (Gia Đình), Xuân (Mùa Xuân),  Thu (Mùa Thu). Nhiều người so sánh cuốn Gia Đình của Pa Chin với tác phẩm Hồng Lâu Mộng của Tào Tuyết Cần, vì cách mô tả tuyệt đích về đời sống gia đình và xã hội đương thời. Người ta cũng có thể coi tác phẩm Gia Đình là một cuốn tự truyện của Pa Chin. Nhân vật Giác Tuệ chính là Pa Chin, vì cả hai đều có nhiều điểm giống nhau: sinh trưởng trong một gia đình đại địa chủ, năm mười tuổi mồ côi mẹ, rồi vài năm sau mồ côi cha, sau đó lại mất người chị ruột và một người bạn gái rất thân thiết từ thời niên thiếu. Gia Đình là câu chuyện trong cái dinh cơ giầu có của nhà họ Cao, trong đó nhiều thế hệ sống chung với nhau cùng với rất nhiều gia nhân nô tỳ. Đó là một hình ảnh tương phản giữa nước Trung Hoa cổ và những đợt sóng mới trào dâng lên để hủy diệt cái xã hội cổ ấy, được biểu thị trong đời sống hàng ngày của nhà họ Cao, và đặc biệt là ba anh em nhà họ Cao còn trẻ là Cao Giác Tân, Cao Giác Dân và Cao Giác Tuệ. Tất cả là những xung đột: xung đột giữa các thế hệ và giai cấp, những mối tình tan vỡ đau thương vì bị gia đình ngăn cấm, hành động của các học sinh sinh viên chống lại chính quyền áp bức, và cuộc chiến đấu giải phóng phụ nữ. Cuốn Gia Đình có thể tạo ra cho độc giả những xúc cảm mạnh mẽ phức tạp và sầu buồn trước những kinh nghiệm tuyệt thảm nhân sầu của con người. *** Gió thổi mạnh; những bông tuyết trôi như bông gòn từ một chiếc mền bị xé rách, vật vờ rơi xuống. Từng lớp tuyết trắng chất đống tại chân tường hai bên đường, tạo ra một lề đường rộng cho lòng đường lầy lội tối tăm. Khách bộ hành và phu khiêng kiệu phấn đấu với gió và tuyết mà không có kết quả gì. Tất cả đều mệt mỏi trong khi tuyết đổ xuống mỗi lúc một nặng hơn. Tuyết tràn ngập bầu trời, tuôn xuống khắp nơi – trên dù, trên kiệu, trên áo choàng của phu khiêng kiệu, và trên mặt khách bộ hành. Gió thổi vùi dập những cây dù về mọi phía; một vài cái tuột khỏi tay người. Tiếng gió hú thê thảm, nhập với tiếng bước chân trên tuyết để làm thành một thứ âm thanh kỳ lạ khó chịu. Trận bão tuyết này sẽ ngự trị thế giới một thời gian thật lâu dài; dường như nó cảnh cáo mọi người ngoài đường rằng mặt trời ấm áp của mùa xuân sẽ không bao giờ trở lại nữa. Lúc đó gần tối rồi, nhưng đèn đường chưa thắp. Mọi vật dần dần biến mất vào một màn đêm màu xám. Nước và bùn ngập đường phố trong không khí lạnh giá buốt. Chỉ một ý nghĩ khuyến khích những người đi bộ đang phấn đấu giữa cái quang cảnh u ám này – rằng họ sắp được trở về với sự ấm áp và sáng sủa trong nhà. Một thanh niên 18 tuổi giục em, “Bước mau lên, Giác Tuệ, nếu không chúng ta sẽ về trễ bữa ăn tối.” Chàng một tay cầm dù, tay kia kéo cao mép chiếc áo bông. Bộ mặt tròn của chàng đỏ ửng vì lạnh trong khi chàng quay lại nói với người em; đôi kính gọng vàng nằm trên đầu mũi chàng. Giác Tuệ, người thanh niên bước phía sau, tuy cùng một khổ người và mặc cùng một thứ y phục, có vẻ trẻ hơn. Mặt chàng gầy hơn, hai mắt rất tinh anh. “Ðừng lo, chúng ta về gần tới nhà rồi. Anh ơi, trong buổi tập diễn hôm nay anh đóng xuất sắc nhất, tiếng Anh của anh tuôn ra tự nhiên trôi chảy. Anh đóng vai người bác sĩ thật là đúng; lời đối thoại và diễn xuất của anh rất hay.” Giác Tuệ nói một cách hứng khởi trong lúc chân bước mau hơn. Bùn bắn lên, hai ống quần của chàng đã lấm tấm vương bùn rồi. Người anh, Cao Giác Dân hơi chậm bước để chờ người em bắt kịp và nói một cách hãnh diện hài lòng: “Có gì đâu, chỉ vì tại anh bạo dạn hơn em thôi. Em quá nhút nhát, và vai Hắc Cẩu của em không đúng lắm. Hôm qua em đã học thuộc lòng vai ấy rồi mà? Tại sao em không nói được trong lúc tập diễn? Nếu không có giáo sư Chu nhắc thì em không thể đóng hết được màn đó.” Tuy người anh nói hết sức dịu dàng, không ngầm một ý chê trách, nhưng Giác Tuệ cũng mắc cở, máu dồn lên má trong lúc chàng nói một cách bối rối, như thể để tự hồi phục. “Em không biết tại sao, mỗi khi em lên sân khấu là em lại hoảng sợ; em cảm thấy như đứng trước rất đông người đang chăm chú nhìn em. Em cố gắng hết sức, em muốn nói lời đối thoại trơn chu…” ... Mời các bạn đón đọc Gia Đình của tác giả Pa Chin.
Dưới Cánh Thiên Thần Rượu - Jerzy Pilch
LỜI NGƯỜI DỊCH Jurus, nhân vật chính của tiểu thuyết, cũng là nhân vật dẫn chuyện, là một nhà văn, một con nghiện - nghiện rượu. Nhà văn “sâu rượu” này tổng cộng đã có tới mười tám lần đến cai nghiện tại Trung tâm cai nghiện rượu. Cứ sau mỗi lần ra viện Jurus lại tái nghiện, lại say xỉn, lại bất tỉnh, và khi tỉnh dậy lại thấy mình đang ở Trung tâm cai nghiện rượu. Đến nỗi bác sĩ Granada, Giám đốc Trung tâm, không muốn nhận Jurus nữa, vì ông bất lực, cho rằng anh ta không chịu cai rượu, không thể cai rượu, lại còn bướng bĩnh, cãi lấy được - thưa bác sĩ, làm gì có chuyện sống lâu và hạnh phúc mà lại không uống rượu nào? Trung tâm cai nghiện rượu là nơi thu dung những bợm rượu, những sâu rượu “chiến tích đầy mình”, nam có, nữ có. Họ là nhà văn, giáo sư, giáo viên, doanh nhân, cử nhân, sinh viên, lái xe, thợ cắt tóc... được gán cho những biệt danh dài lê thê nghe rất kêu: Nhà Thám Hiểm Colombo, Vua Đường, Cá Nhân Lao Động Tiên Tiến, Tên Khủng Bố Hiếm Có Trên Trần Đời, Nữ Hoàng Xứ Kent... Mỗi lần bác sĩ Granada hỏi, vì sao họ lại uống rượu, thì họ đưa ra cả ngàn lý do để biện minh, khiến bác sĩ bực mình, quát lớn: Các người uống rượu, vì các người uống rượu. Rồi ông chì chiết: Không một ai trong các vị sẽ lành bệnh, không một ai trong các vị sẽ cai được rượu. Đa phần các tình tiết của tiểu thuyết diễn ra tại Trung tâm cai nghiện rượu, nơi, ngoài việc sử dụng dược phẩm, người ta còn sử dụng các liệu pháp trị bệnh, trong đó trị liệu tâm lý có vai trò cực kỳ quan trọng. Tại đây các học viên - bệnh nhân cai nghiện, hàng ngày có nhiệm vụ phải viết nhật ký cảm xúc, thực chất là những lời tự thú, tự phê về nghiện rượu, rồi đem đọc cho nhau nghe; phải lên lớp nghe giảng bài về tác hại của rượu, phải trả lời các bài trắc nghiệm, phải đối thoại trị liệu với các nữ nhân viên trị liệu, phải tham gia các cuộc họp kiểm điểm công việc thường nhật, mỗi ngày, trước khi đi ngủ phải đo nồng độ cồn bằng cách thổi vào máy thử; tuyệt nhiên không được cất giấu, sử dụng bất kỳ thứ gì có liên quan đến rượu, cồn, dù đó là nước hoa, nước khử mùi. Nghiêm ngặt đến mức các nữ nhân viên trị liệu phải thường xuyên kiểm tra tủ cá nhân của bệnh nhân-học viên cai nghiện, để tìm xem, có cồn giấu trong tuýp thuốc đánh răng, rượu trắng giấu trong vỏ chai shampoo, thuốc ngủ giấu dưới chăn, gối hay không. Cuộc “hành xác” hướng tới mục tiêu cai nghiện rượu tại trung tâm này diễn ra vô cùng cam go, cực kỳ khốc liệt, nhưng kết quả thường chẳng mấy lạc quan, vì “ngựa theo đường cũ”. Tại đây có lắm chuyện bi hài, cười ra nước mắt, chẳng hạn chuyện “đạo văn”, chuyện “người già cũng khóc” như trẻ con, chuyện trốn viện... Tuy nhiên, tất cả các bệnh nhân cai nghiện ở trung tâm, ai cũng có nét đáng yêu, đáng quý. Lại nói về nhà văn - con nghiện Jurus, nhân vật chính của tiểu thuyết. Là một nhà văn, có tài viết lách, anh được “các bạn chiến đấu” tại trung tâm quý mến, tin yêu và nhờ vả. Tại vì anh văn hay chữ tốt cho nên họ nhờ anh “viết hộ” các bài văn tự thú về nghiện rượu, để nộp, để đọc, theo yêu cầu của trung tâm. Jurus viết theo lời họ kể, hoặc phịa ra, nhưng phải là thứ văn thật bình dân, thêm mắm thêm muối cho nó thành bài văn tự thú “thứ thiệt” của học viên. “Thù lao” thường bằng hiện vật, như chuối, cam, sôcôla, thuốc lá, nước dứa hộp, đồ ăn, vài đồng zlôty lẻ hoặc các thứ vặt vãnh khác. Dẫu sao Jurus cũng có đất “dụng võ”, tha hồ “trổ tài văn chương”, tuy “nhuận bút” chẳng bõ bèn gì. Ấy vậy mà cũng nảy sinh ối chuyện rắc rối, chẳng hạn chuyện “đạo văn” gây thù oán lẫn nhau mà Jurus cảm thấy mình cũng mắc tội. Nhưng cũng có lần anh thoát hiểm. Chẳng hạn, anh bị bác sĩ trị liệu Quasi Mojzesz alias Ja Alkohol bắt quả tang đang viết hộ “nhật ký cảm xúc” cho con nghiện - lái xe, được mệnh danh là Tên Khủng Bố Hiếm Có Trên Trần Đời, vậy mà anh vẫn bình an vô sự!? Gia đình nhà văn Jurus là gia đình uống rượu truyền đời. Ông nội Stary Kubica, một điền chủ, khuynh gia bại sản vì nghiện rượu, phải bán con ngựa cái Fuchs yêu quý, thứ của nả có giá cuối cùng còn lại trong nhà. Jurus tâm sự với nàng Alberta Lulai: Anh uống rượu vì anh theo di truyền. Các cụ tổ nhà anh, tất cả đều uống rượu. Ông nội, ông ngoại anh uống rượu, bố anh uống rượu và mẹ anh cũng uống rượu. Anh không có chị, cũng chẳng có anh, nhưng anh dám chắc: nếu trên đời này có các chị của anh và các anh của anh thì có lẽ tất cả các chị của anh đều uống rượu, tất cả các anh của anh cũng đều uống rượu . Jurus là con nghiện, nghiện nặng, rượu đã ngấm vào máu thịt, cho nên đối với nhà văn này, cai rượu hầu như là chuyện viễn vông, vô vọng. Mười tám lần cai rượu bất thành tại trung tâm đã chứng tỏ điều này. Thường thì, sau khoảng sáu tuần điều trị Jurus lại ra viện, và rồi anh lại hành động như mọi khi, lại đến quán rượu “Dưới cánh Thiên thần Rượu” , lại đi thang máy lên nhà mình trên tầng mười hai, lại ngạc nhiên, ngỡ ngàng, đứng lặng người một hồi lâu ở ngưỡng cửa, khi thấy nhà cửa bẩn thỉu, bề bộn, đồ đạc bừa bãi, lộn xộn, cứ ngỡ rằng có kẻ đã đến ở và phá phách nhà mình khi anh vắng nhà. Jurus không hề nghĩ ra, tất cả mọi thứ “lộn tùng phèo” đó chính là hậu quả của say xỉn, của hôn mê, là do chính anh gây nên, trước khi anh lại được đưa đi cấp cứu và điều trị tại Trung tâm cai nghiện rượu. Đã có lúc anh bi quan tính rằng, với lượng rượu khổng lồ mà anh đã đổ vào trong bụng mình trong vòng hai chục năm qua, thì chỉ còn thiếu năm chai rượu nữa thôi là đủ lượng độc tố để thần chết lôi anh về nơi chín suối, thậm chí không cần đến năm mà chỉ cần ba chai. Nhưng mối tình, được gọi là tình yêu cuối cùng trước khi nhắm mắt xuôi tay của anh, với nữ “nhà thơ” Alberta Lulai, người đàn bà mặc váy màu vàng, sau này là áo màu đen, đã cứu nhà văn thoát khỏi vũng bùn nghiện ngập: Anh đi tìm tình yêu trước khi nhắm mắt xuôi tay, nhưng anh lại tìm được tình yêu ban cho anh sự sống... Em đến với anh vào thời khắc khi anh đặt dấu chấm hết lên đời mình... Đã có lúc anh muốn tự tử vì không bỏ rượu được...Khi anh nói, anh bỏ rượu vì em là anh nói thật lòng. Khi anh nói anh bỏ rượu vì chúng ta, là anh nói thật lòng. Vì không có em thì chẳng có anh, không có chúng ta thì chẳng có anh. Từ “anh” của anh không còn là số ít nữa rồi . Có lẽ tác giả của Dưới cánh Thiên thần Rượu muốn cho thấy sức mạnh của tình yêu, cái có thể biến điều không thể thành có thể. Sẽ không ngoa chút nào nếu nói, Alberta Lulai là bậc cứu tinh của Jurus. Nhờ có nàng mà Jurus đã tỉnh mộng, chọn đúng đường và làm được điều thoạt tiên tưởng chừng không tưởng: Nhưng cháu đang chọn sự sống, lúc này một tình yêu mãnh liệt như tiếng hát của ông đang cặp kè cùng cháu, tình yêu này đang cứu vớt cháu. Rốt cuộc anh có hầu như tất cả, cai được rượu, có tình yêu, có tác phẩm văn học và lại lạc quan, lại yêu đời. Anh khoe tiếp với ông nội quá cố của mình : Chứng nghiện rượu của chúng ta, thủ phạm đã giết ông, đang tách rời khỏi cháu, như da rắn đang tách rời khỏi thân rắn lột. Ông nội ơi, cháu thắng lợi rồi, cháu chia sẻ cùng ông thắng lợi này của cháu, cháu đang viết về ông, cháu đang viết về cháu, chẳng những để chứng tỏ rằng thiên tiểu thuyết thứ thiệt về cai nghiện rượu này không kết thúc bằng cái chết, trái lại, nó đang kết thúc bằng sự sống.... Sự xuất hiện đầy bí ẩn, y như trong thần thoại, của nhân vật Jozef Cieslar, người tự nhận là bạn đồng môn Trường Chúa Nhật của Jurus thời thơ ấu, khiến người đọc không khỏi tò mò về thực tâm và thực chất của nhân vật này. Đây là một thiên tiểu thuyết viết khá chân thật và rất thực tế, bất kể ngoa ngôn, bốc đồng và những lời mê sảng của nhân vật. Pilch đã miêu tả một cách trung thành trên giấy những suy tư, trăn trở, những dằn vặt, đau khổ của người nghiện rượu và thế giới bé nhỏ của họ. Người ta nói, trong tiểu thuyết Dưới cánh Thiên thần Rượu, tác giả là nhân vật chính, nhân vật chính là tác giả. Trong một cuộc trả lời phỏng vấn Jerzy Pilch nói rằng, ông chẳng xa lạ gì chuyện nghiện rượu. Phải chăng ông muốn viết tiểu thuyết thể loại tự sự (hay tự truyện), như là một liệu pháp cai nghiện cho bản thân mình? Trong văn học, sự thật mà không phải là sự thật, không phải là sự thật mà lại là sự thật, là chuyện thường tình. Khi bắt tay vào viết thiên tiểu thuyết này, Jerzy Pilch định xây dựng một “tác phẩm súng lục”, một “tác phẩm tối hậu thư”, cho nên ông mới tuyên bố: “tôi viết rồi tôi chết”. Ấy vậy mà thiên tiểu thuyết đã kết thúc rất có hậu, khiến người đọc lấy làm mừng, mừng cho nhân vật chính Jurus, mừng cho tác giả Jerzy Pilch. Kết thúc “có hậu” này cũng chính là nét riêng, là sự khác biệt giữa tiểu thuyết Dưới cánh Thiên thần Rượu và các cuốn tiểu thuyết khác viết về đề tài rượu, khi kết cục thường bi đát. Cho nên, tiểu thuyết Dưới cánh Thiên thần Rượu khiến người ta nghĩ tới một chức năng mới của văn học, chức năng chữa trị. Một câu hỏi được đặt ra: Phải chăng văn học là một liệu pháp? Hoặc: Phải chăng có Bộ môn tiểu thuyết trị liệu? Rượu là một thức uống hết sức gần gũi và quen thuộc với nhiều người, nhất là nam giới - Nam vô tửu như kỳ vô phong . Nói rượu là niềm vui: - đúng, bảo rượu là nỗi buồn: - không sai. Rượu là niềm vui hay nỗi buồn, điều này hoàn toàn tùy thuộc vào mỗi người chúng ta. Tuy nhiên, nghiện rượu đang là vấn đề xã hội nhức nhối, bức xúc ngang với nạn nghiện ma túy, là nỗi khổ không riêng của một quốc gia nào [1] . Cho nên, bằng việc xây dựng hẳn một thiên tiểu thuyết về uống rượu, nghiện rượu và cai rượu, Pilch đã nhằm trúng vấn đề nóng bỏng đang là mối quan tâm của mỗi nhà, mỗi cộng đồng, mỗi quốc gia và của toàn nhân loại. Với lối viết khoáng đạt, lắm khi trào lộng (chẳng hạn, máy vi tính thua con người trong cuộc đấu rượu, đến nỗi nôn thốc nôn tháo toàn bộ ổ cứng của mình...), bằng thủ pháp đồng hiện, hư hư thực thực, quá khứ và hiện tại đan xen như mắc cửi, lúc tỉnh, lúc say, lúc mê sảng, mộng mị và ảo giác, với ngòi bút điêu luyện và sắc sảo của mình, Pilch đã kể cho chúng ta nghe câu chuyện giàu tính nhân văn về sự sống và cái chết mà chính nhà văn từng dấn thân vào. Ông đã đưa người đọc vào thế giới kinh dị của Thiên thần Rượu, nơi ma men tác oai tác quái. Giải thưởng Nike 2001 (trị giá trên 30 ngàn đô la), giải thưởng văn học hàng năm danh giá nhất Ba Lan mà nhà văn Jerzy Pilch được nhận, là phần thưởng cao quý, khẳng định giá trị của tác phẩm và tài năng của nhà văn. Chỉ trong một thời gian rất ngắn sau khi xuất bản, Dưới cánh Thiên thần Rượu đã bán được trên 100 ngàn bản, tối hôm trước công bố giải thưởng, thì ngay sáng hôm sau, 15 ngàn bản của tiểu thuyết đã bán hết veo. Đây là tác phẩm bán chạy nhất trong số tất cả những tác phẩm văn học được tặng Giải thưởng Văn học Nike từ trước đến nay. Trong những năm vừa qua Dưới cánh Thiên thần rượu tiếp tục được tái bản nhiều lần, được bạn đọc Ba Lan và nước ngoài mến mộ. Lần tái bản gần đây nhất là vào tháng 2 năm 2012, do Swiat Ksiazki ấn hành, với bìa sách mới thiết kế, có hình chiếc cốc uống rượu dốc ngược. Dưới cánh Thiên thần Rượu đã được dịch ra nhiều thứ tiếng, như: Anh, Bungari, Estonia, Pháp, Hy Lạp, Hà Lan, Litva, Đức, Nga, Xlôvakia, Serbia... Năm 2003, Dưới cánh Thiên thần Rượu đã được Nhà hát mang tên Juliusz Slowacki ở thành phố Krakow đưa lên sân khấu, nghệ sĩ Rafal Sabara đạo diễn. Vở kịch độc đáo, giàu chất “men” và mới lạ này đã được dân chúng cố đô hồ hởi đón xem. Dịch tiểu thuyết Dưới cánh Thiên thần Rượu sang tiếng Việt, người dịch muốn mang đến cho bạn đọc nước nhà một thiên tiểu thuyết đương đại của Ba Lan về đề tài vốn rất gần gũi và quen thuộc đối với mỗi người chúng ta trong đời thường, nhưng lại chưa có mấy nhà văn bỏ công khai thác đến nơi đến chốn. Nếu người dịch không nhầm thì ngay tại Việt Nam ta “thơ say” thì có, nhưng “tiểu thuyết say” thì chưa. Mong rằng tiểu thuyết Dưới cánh Thiên thần Rượu của nhà văn Jerzy Pilch sẽ mang đến cho bạn đọc những gợi mở, những cảm xúc mới lạ, nhiều thú vị và bổ ích. Hà Nội, ngày 15 tháng 4 năm 2012 Nhà văn, dịch giả Lê Bá Thự Tặng Ewa-Ewenlina *** Trước khi trong nhà tôi xuất hiện toán mafia đi cùng nữ nhà thơ da bánh mật Alberta Lulai, trước khi bọn họ bứt tôi khỏi giấc mơ say và trước khi họ đòi tôi - thoạt tiên là những yêu cầu theo kiểu giả nhân giả nghĩa, sau đó là những lời đe dọa láo xược - đừng gây khó dễ cho việc in thơ của Alberta Lulai trên tờ “Tuần báo Phổ thông”, trước khi xảy ra những sự kiện bão bùng mà tôi định kể, thì đã có ngày hôm trước của những sự kiện đó, đã có buổi sáng sớm và buổi tối của ngày hôm trước, và từ sáng sớm cho đến tối ngày hôm trước đó tôi uống rượu đào. Đúng vậy, tôi uống rượu đào, khát khao cháy bỏng có được mối tình cuối cùng trước khi nhắm mắt xuôi tay, và tôi đã lún sâu vào cuộc sống suy đồi. Buổi sáng vẫn chưa có chuyện gì xảy ra, tôi vẫn kiềm chế được, thậm chí giữ được chừng mực. Tôi nằm trên sofa, đọc báo và nghe mấy đĩa nhạc của nghệ sĩ saxophone tenor người Séc, Felix Slovacek. Nhưng tới gần trưa, toàn bộ các nhạc phẩm mà Slovacek trình tấu chỉ có độc một bài lọt được vào tâm trí tôi, đó là nhạc phẩm của Karel Svoboda có tiêu đề Where’ ve you got your nest, litte bird? [1] Tôi nghe và tôi luận, trong nguyên văn tiếng Séc nó phải như thế nào “Kde je tvoje hnizdo, ptacatko?”, hay là “Kde je tvoje hnizdo, ptacku?”. Nhưng tôi không quyết định nổi, nên chọn từ nào: từ ptacku - yếu hơn, hay từ ptacatko - mạnh hơn, thì nghe hay hơn và thích hợp hơn, cũng vì cảm giác bất lực về ngôn từ (cho dù vẫn tiếp tục say mê) thỉnh thoảng tôi lại bật dậy khỏi ghế, đi ra chỗ chiếc máy hát và mở lại bản nhạc làm rung động lòng tôi. Đó là một ngày tháng bảy đẹp trời, từ tầng mười hai tôi nhìn thấy rõ những ngọn đồi bao quanh thành phố, tiếp nữa là đất bằng, đồng ruộng, cột điện, đường ray xe lửa, dòng sông sáng bạc trôi hiền hòa, những dãy núi phía chân trời, thành phố Wisla [2] tựa hòn đá trắng dưới đáy thung lũng rừng thông, quán “Piast” và khu vườn thơm mùi cỏ xén kề bên quán, ong mật, bướm, bay vù vù bên trên các vại bia. Con chó của bác sĩ Swobodziczka đang tớp suất bia của mình đựng trong chiếc nồi nhôm - ông qua đời cách đây một năm, nhưng con chó của ông quen ăn, hàng ngày vẫn lui tới quán, ở đây những con người vẫn đang sống trút bia hơi Zywiec [3] từ các cốc vại, đổ đầy nồi cho nó. Tôi đã nhìn thấy rõ mọi thứ đó, như tôi đã ở đó, cũng như tại đây, nơi tôi hiện diện, tôi nhìn thấy tất cả: cửa sổ các ngôi nhà mở toang, những chiếc ô tô kiểu cổ, thon, tròn, di chuyển trên đường phố, một người đàn bà mặc váy dây màu vàng đứng bên máy rút tiền tự động. Nhìn từ trên cao tôi có cảm giác đây là một người đàn bà thông minh và xinh đẹp. Tự dưng tôi đinh ninh trong bụng, nàng chính là tình yêu cuối cùng của đời tôi. Đó là một sự đinh ninh bao trùm tất cả, không chỉ phần say của tôi, mà cả phần tỉnh của tôi, và tuốt tuột tất các bộ phận không xác định, tất thảy các bộ phận bí ẩn về mặt tỉnh táo của tâm hồn tôi, đều có cảm giác đó. Tôi cần phải mặc quần áo ngay lập tức, xức nước hoa, không đợi thang máy, chạy bộ ngay xuống dưới nhà và đuổi theo nàng. Trong một giây lát tôi đã chần chừ vì lòng tự trọng, liệu có nên làm như vậy hay không. Thế nhưng chiếc máy rút tiền tự động, chiếc máy rút tiền tự động đã gạt phăng mối tình này của tôi. Tôi mà chạy xuống dưới nhà và đuổi theo nàng, thì chắc tôi sẽ hành động như tôi vẫn luôn luôn hành động: tôi sẽ rón rén bước theo sau nàng y như tên giết người trên phim truyền hình nhiều tập, tôi bước theo nàng, xảo quyệt và kiên tâm, tôi cứ đi như vậy cho tới khi nàng phát hiện ra tôi, nàng hốt hoảng khi nghĩ bụng, có kẻ đang bám riết nàng. Sau đó, trong chốc lát nàng nhìn tôi và để ý tôi, tiếp nữa với nỗi thất vọng của một tên vô lại đã bị bại lộ, tôi tiếp tục cuộc rượt đuổi cho đến khi sự lo lắng, nỗi sợ hãi và máu tò mò bắt đầu hòa trộn với nhau thành một thứ thuốc nổ... Lúc bấy giờ, để ngăn ngừa vụ nổ, tôi sẽ bước nhanh chân, đi ngang bằng với nàng, cúi chào nàng một cách lịch sự và cất giọng nhỏ nhẹ: ... Mời các bạn đón đọc Dưới Cánh Thiên Thần Rượu của tác giả Jerzy Pilch.
Điện Thoại Di Động - Lưu Chấn Vân
Điện thoại đã mang lại niềm vui, mang lại tình yêu và cả sự nghiệp hưng thịnh cho người dẫn chương trình truyền hình nổi tiếng Nghiêm Thủ Nhất, nhưng cũng chính điện thoại đã làm cho cuộc hôn nhân của anh gặp phải cuộc khủng hoảng lớn. Tất cả chỉ đơn giản vì một sai lầm ngẫu nhiên: anh đã đi đến đài truyền hình, bỏ quên điện thoại ở nhà. Vợ anh đã phát hiện số điện thoại của một người phụ nữ lạ gọi vào máy anh, từ đó mọi bí mật vỡ lỡ... Câu chuyện bắt đầu - là lỗi do điện thoại di động? Hay điện thoại di động là cái cớ để đổ lỗi? *** Lão Ngưu trông coi điện thoại trên thị trấn, năm 1968 cùng với cha của Nghiêm Thủ Nhất đi buôn hành. Lão Nghiêm, cha của Thủ Nhất trước ngày đi buôn hành rất ít nói, cả ngày lão chỉ nói mươi câu. Trong mười câu thì sáu câu không nói không được, mỗi câu chỉ một tiếng, chuyện lớn là làm nhà, chuyện nhỏ là sắm thêm cái chậu đựng nước tiểu, tán thành thì lão buông một tiếng “được”, không tán thành thì “đếch gì”; bốn câu khác là than thở, dù vui mừng hay bực tức cũng đều “ối dào”. Sau ngày đi buôn hành lão trở nên nói nhiều. Đi buôn được chừng nửa năm lão có thể nói gãy gọn một câu chuyện. Thủ Nhất nhớ, hồi ấy cha cậu ta vẫn kể hai câu chuyện, một chuyện ăn viên đậu, một chuyện ăn bánh kem. Một người, tháng Chạp, lên chợ bán những lá bùa, ngồi bên cạnh là hàng bán viên bột đậu xanh. Lão mua bốn cân, người quen, cho hẳn sáu cân. Một mình lão ăn, ăn hết lúc nào không hay. Vừa đứng dậy, lão ngã bịch ngay xuống. Một người, vào mùa gặt, nhà bị mất bò, đi tìm hai hôm nhưng vẫn không thấy, bụng đói quay về, gặp ngay người đi bán bánh kem, người quen, “nào ông anh, cho tôi chịu năm cân”. Ăn xong về nhà, “mẹ, cho con hụm nước”, bịch, lại ngã. Lúc bấy giờ Thủ Nhất không thấy buồn cười, nhưng đến năm bốn mươi tuổi cứ mỗi khi nghĩ lại, đều buồn cười. Thoạt đầu, Thủ Nhất thấy cha đi bán hành quen biết nhiều người, học ăn học nói, về sau cậu mới biết, chỉ có một người dạy cha nói chuyện, ấy là lão Ngưu. Buổi tối, cả nhà quây quần bên bếp lò ăn cơm, đang ăn thì Thủ Nhất cười khúc khích, lắc đầu: - Cái nhà bác Ngưu! Thủ Nhất biết cha đang ăn cơm, lòng những muốn đi buôn hành với lão Ngưu. Lúc ấy, Thủ Nhất thấy trên đời này không gì vui bằng chuyện đi buôn hành. Tiết đông chí của năm 1968, lão Ngưu và lão Nghiêm đi bán hành ở mỏ than Trường Trị cách đấy hai trăm dặm, lúc về đi qua cửa nhà lão Nghiêm, lão Ngưu vào ngồi chơi một lúc. Trước khi gặp lão Ngưu, Thủ Nhất nghĩ ông này phải là người to cao, nói lớn, nhưng gặp rồi mới biết, lão Ngưu cao hơn cái bàn không là bao, miệng thần sấm, lúc nói giọng eo éo như đàn bà con gái. Khi trước chỉ nghe nói, bây giờ thấy, lẽ ra Thủ Nhất phải sợ, không ngờ lão Ngưu cười ngượng ngùng với Thủ Nhất, lấy cái mũ bông trên đầu xuống, dùng tai mũ lau mồ hôi trên mặt. Lão Nghiêm mời bạn vào nhà uống nước, Thủ Nhất cũng theo vào, lão đạp vào bụng con một cái: - Người bẩn thỉu tanh tưởi quá, cút! Hai người ngồi uống nước, không thấy lão Ngưu nói gì. Thỉnh thoảng mới có tiếng nói chuyện, chỉ là chuyện ăn uống dọc đường, cho con la ăn mất bao nhiêu thức ăn... Sau đấy chỉ còn có tiếng uống nước ừng ực. Lão Ngưu đánh xe đi rồi, lão Nghiêm mới nói với cả nhà: - Chuyện định nói, hôm nay lại chưa nói được. Hăm ba tháng Chạp, năm cùng tháng tận, lão Nghiêm xách theo cái chân giò sang nhà lão Ngưu chơi, nhân thể tính toán nợ nần. Buổi sáng đi mặt mày tươi tỉnh, chiều về mặt tái xanh, ngồi ở bậu cửa hút thuốc. Hút cho đến lúc sao trời ngả về Tây lão mới đứng dậy, gõ cọc cọc cái tẩu thuốc lên đầu: - Tôi còn đi bán hành nữa sẽ không là cái giống người! Mẹ Thủ Nhất chết sớm, chết đói hồi năm 1960. Hôm sau cậu ta nghe bà nói lại, lão Nghiêm và lão Ngưu trong khi tính toán nợ nần, hai người cãi cọ, to tiếng với nhau. Từ đấy, lão Nghiêm thôi không buôn bán hành mà cũng không qua lại với lão Ngưu nữa, ngồi buồn, không nói năng gì. Thủ Nhất có một người chú, em rể của mẹ, vẫn gọi là Hoàng, ông này mở hiệu nhuộm áo quần. Mùa xuân năm sau, ông Hoàng rủ lão Nghiêm đi mua vải ở các làng, lão Nghiêm lắc đầu: - Vải dễ mua, nhưng tôi không biết rao. - Bác chỉ rao thật to một câu “ai nhuộm vải không” thôi mà. Lão Nghiêm lắc đầu, không đi. Mùa xuân năm 1989, lão Nghiêm bị xuất huyết não, đâm ngớ ngẩn, liệt nửa người bên trái. Có điều khác người là, người ta bị xuất huyết não thì không nói được, nhưng lão thì lắp bắp vẫn nói được cả câu; người khác xuất huyết não thì không còn nhớ gì, nhưng lão Nghiêm lại nhớ hết mọi chuyện trong đời. Cuối năm, Thủ Nhất từ Bắc Kinh về quê ăn tết, hai cha con ngồi bên bếp lửa, lão Nghiêm người bị lệch ngồi một bên bếp, Thủ Nhất ngồi một bên, không hiểu tại sao lại nói đến chuyện lão Ngưu. Năm 1968 cùng đi buôn hành, không hiểu vì sao trở mặt. Lão Nghiêm giơ cánh tay phải không bị liệt lên, ngón tay run lẩy bẩy, miệng lắp bắp rất vất vả: - Lão ta ăn gian! Khoản... khoản... khoản... nào cũng gian, nhiều... nhiều... nhiều lắm! ... Mời các bạn đón đọc Điện Thoại Di Động của tác giả Lưu Chấn Vân.