Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tuổi Già Tập 1 - Simone de Beauvoir

Simone de Beauvoir (1908 - 1986) là nhà văn, nhà triết học và một nhà đấu tranh cho nữ quyền người Pháp. Là một nhà văn từng được giải Goncourt nhưng cũng là một học giả uyên bác, các tác phẩm của bà được lấy cảm hứng từ chính cuộc đời mình đồng thời đầy ắp các dữ kiện khoa học, lịch sử, thống kê… Hai tác phẩm non-fiction được biết ở Việt Nam nhiều nhất của bà là Giới tính thứ nhì và Tuổi già. Giới tính thứ nhì (xuất bản năm 1949), được xem là một trong những quyển sách hay nhất của thế kỷ 20, là một cuốn bách khoa toàn thư về các giai đoạn của cuộc đời phụ nữ từ lúc sinh ra, dậy thì, lấy chồng, làm mẹ; đồng thời vạch ra con đường giành quyền lợi cho nữ giới. Với tác phẩm này, bà được xem là “Bà mẹ của phong trào nữ quyền". Tuổi già được viết lúc Beauvoir hơn 50 tuổi, mô tả chi tiết cuộc sống của người già và đấu tranh giành quyền cho họ. Người ta chỉ có thể hiểu được thân phận người già khi ở tuổi đó. “50 tuổi, tôi giật nảy mình khi một nữ sinh viên Mỹ kể lại với mình câu nói của một cô bạn: "Nhưng Simone de Beauvoir là một bà già chứ sao!" Cả một truyền thống dồn cho từ ngữ này một cái nghĩa xấu; nó vang lên như một lời thoá mạ. Vì vậy, người ta phản ứng, thường bằng giận dữ, khi nghe người khác bảo mình già. Tôi có biết nhiều người phụ nữ được biết tuổi tác của mình một cách khó chịu qua một kinh nghiệm giống như kinh nghiệm Marie Dormoy: một người đàn ông, bị vẻ trẻ trung của hình bóng bà đánh lừa, đi theo bà trên đường phố; đến khi đi vượt qua bà và trông thấy gương mặt bà, thì thay vì bắt chuyện, ông ta rảo bước.” "Bạn có biết khuyết tật nào lớn nhất trong các khuyết tật không? Đó là tuổi trên 55" – Tourgueniev. Vào tuổi 55, Trotsky phàn nàn người mệt mỏi, mất ngủ, hay quên; ông có cảm giác sức lực sút kém; và lo lắng. Ông gợi lại quá khứ: "Anh buồn bã nhớ lại tấm ảnh của em, tấm ảnh của chúng ta, trong đó chúng ta trẻ trung biết chừng nào”. Già đi – đó là một điều không thể tránh khỏi và cũng là một quá trình chấp nhận đầy đau đớn. "Wagner kinh hãi thấy mình già đi, 80 tuổi, ông viết: “Hình hài tôi làm người ta khiếp sợ và khiến tôi u sầu một cách xót xa”. Sự suy sụp về thể chất khiến người già không còn có thể tham gia sản xuất hay xây dựng, do đó họ bị xem như gánh nặng, phải phụ thuộc vào người khác. Beauvoir viết về những trại dưỡng lão ở ngoại ô Paris với những người già như bị xã hội bỏ quên, sống mòn mỏi chờ đợi những cuộc viếng thăm của con cháu. Theo Beauvoir, đối đãi công bằng với người già là cách ứng xử có trước có sau mà nếu khác đi là làm lung lay gốc rễ của xã hội hiện đại. *** Khi còn là thái tử Siddharta, bị vua cha nhốt trong một tòa lâu đài tráng lệ, nhiều lần Thích Ca trốn đi dạo chơi bằng xe ngựa trong vùng. Trong lần dạo chơi đầu tiên, thái tử gặp một người tàn tật, tóc bạc, răng rụng, da nhăn nheo, cúi gập người trên một cây gậy, miệng lập cập, hai tay run rẩy. Chàng lấy làm ngạc nhiên và người xà ích giải thích đó là một ông già. Thái tử liền thốt: “Những kẻ hèn yếu và dốt nát, chuếnh choáng vì niềm kiêu hãnh của tuổi trẻ, không thấy được tuổi già. Khốn khổ biết chừng nào! Hãy trở nhanh về nhà thôi. Các trò chơi và niềm vui mà làm gì, vì ta là nơi ẩn náu của tuổi già mai sau”. Qua một ông già Thích Ca nhận ra số phận của chính mình, sinh ra để cứu vớt loài người, Thích Ca muốn chia sẻ hoàn toàn với số phận của họ. Và về điểm này, Người khác họ: họ lẩn tránh những gì không làm họ vui lòng. Và đặc biệt là tuổi già. Châu Mỹ đã loại trừ ra khỏi từ vựng của họ từ: người chết: mà chỉ nói người khuất bóng thân yêu; cũng giống như vậy, họ tránh liên hệ tới tuổi già. Ở nước Pháp ngày nay, đó là một đề tài cấm kỵ. Khi bắt buộc phải vi phạm điều cấm kỵ ấy, tôi đã bị người ta la ó! Chấp nhận mình đã bước vào ngưỡng cửa của tuổi già, tức là cho rằng nó rình rập tất cả mọi người phụ nữ, rằng nó đã tóm cổ nhiều người. Với thái độ dễ thương hay giận dữ, nhiều người, nhất là người già, không ngớt nhắc đi nhắc lại với tôi rằng làm gì có tuổi già! Có những người không trẻ bằng những người khác, chỉ thế thôi! Đối với xã hội, tuổi già xuất hiện như một điều bí ẩn đáng xấu hổ, mà nói tới là điều khiếm nhã. Trong mọi lĩnh vực, văn học viết rất nhiều về phụ nữ, về trẻ em, về thiếu niên; ngoài các công trình chuyên môn, người ta rất ít ám chỉ tới tuổi già. Một tác giả băng hoạt hình đã phải làm lại cả một loạt tác phẩm vì trước đó ông ta đã đưa vào trong số các nhân vật một cặp vợ chồng đáng tuổi làm ông làm bà: “Hãy loại bỏ người già đi!” - người ta hạ lệnh cho ông ta[1]. Khi tôi nói mình viết một cuốn tiểu luận về tuổi già, người ta thường thốt lên: “Sao lại kỳ thế!... Bà đâu có già!... Đề tài ấy, ngán lắm...” Chính vì lý do ấy mà tôi viết cuốn sách này: để phá tan sự đồng tình im lặng. Theo Marcuse, xã hội tiêu thụ đem một ý thức tốt đẹp thay thế cho ý thức xấu xa và bài xích mọi ý nghĩ tội phạm. Cần khuấy động sự yên ổn của nó. Đối với người có tuổi, nó chẳng những là phạm tội, mà còn là một tội ác. Ẩn náu phía sau các huyền thoại bành trướng và phong túc, nó cho người già là những kẻ khốn cùng. Ở Pháp, nơi tỷ lệ người già cao nhất thế giới - 12% dân số trên 65 tuổi - họ bị dồn vào cảnh khốn cùng, cô đơn, tàn tật, thất vọng. Ở Mỹ, số phận của họ cũng không sung sướng hơn. Nhằm dung hòa sự man rợ này với thứ đạo lý nhân văn chủ nghĩa mà họ thuyết giáo, giai cấp thống trị có cách đơn giản là không xem họ là những con người; nếu nghe tiếng nói của họ, người ta bắt buộc phải thừa nhận đó là một tiếng nói của con người; tôi sẽ buộc độc giả của mình nghe tiếng nói ấy. Tôi sẽ miêu tả hoàn cảnh của họ và cách họ sống; tôi sẽ nói những gì diễn ra thực sự trong đầu óc và trong con tim họ - những thứ bị dối trá, huyền thoại và những lời sáo rỗng của nền văn hóa tư sản xuyên tạc. Vả lại, thái độ của xã hội đối với họ mang tính chất đồng lõa sâu sắc. Nói chung, xã hội không coi tuổi già là một lớp tuổi rõ rệt. Cuộc khủng hoảng về tuổi dậy thì cho phép vạch ra giữa một thiếu niên và người trưởng thành một đường ranh giới chỉ mang tính võ đoán trong những giới hạn chật hẹp; ở tuổi 18, 21, thanh niên được chấp nhận vào xã hội con người. Hầu như bao giờ xung quanh sự thăng tiến ấy cũng có những “nghi thức chuyển giai đoạn”. Còn thời điểm bắt đầu tuổi già thì không được xác định rõ rệt, nó thay đổi theo từng lúc, từng nơi. Không ở đâu, người ta bắt gặp “nghi thức chuyển giai đoạn” thiết lập một quy chế mới[2], về chính trị, suốt đời, cá nhân giữ nguyên những quyền lợi và nghĩa vụ giống nhau. Luật Dân sự không mảy may phân biệt giữa một cụ già trăm tuổi và một người tuổi bốn mươi. Các nhà làm luật cho rằng ngoài những trường hợp bệnh lý ra, trách nhiệm hình sự của người có tuổi cũng hoàn toàn đầy đủ như của thanh niên[3]. Trong thực tiễn, người ta không coi họ là một lớp người riêng, vả lại, họ cũng không muốn như vậy; có sách, báo, sân khấu, những buổi truyền hình và truyền thanh dành cho trẻ em và thiêu niên: còn đối với người già thì không[4]. Trên tất cả những bình diện này, người ta đồng hóa họ với lớp người lớn tuổi trẻ hơn. Nhưng khi quyết định quy chế kinh tế của họ, hình như người ta cho là họ thuộc một lớp người xa lạ: họ không có những nhu cầu cũng như những tình cảm giống như những người khác, nếu chỉ cần ban cho họ một chút bố thí khốn khổ là cảm thấy hết nợ đối với họ. Các nhà kinh tế học, các nhà làm luật tin vào cái ảo ảnh thuận tiện ấy khi phàn nàn cái gánh nặng những người không hoạt động gây nên cho những người hoạt động: như thể những người này không phải là những người không hoạt động trong tương lai và không bảo đảm chính ngày mai của mình trong lúc xây dựng việc nhận lấy trách nhiệm đối với những người có tuổi. Còn các nhà hoạt động công đoàn thì không nhầm lẫn: khi đưa ra những đòi hòi, bao giờ họ cũng coi trọng vấn đề hưu trí. Những người già không tạo nên một lực lượng kinh tế nào thì không có cách gì để đòi hỏi quyền lợi của mình: lợi ích của những kẻ bóc lột, là tiêu diệt tình đoàn kết giữa người lao động và người không sản xuất, sao cho không một ai bênh vực những người này. Những huyền thoại và lời sáo rỗng theo tư duy tư sản tìm cách chỉ ra một con người khác trong người già. “Chính với những thiếu niên sống khá nhiều năm mà cuộc đời tạo nên lớp người già” - Proust từng nhận định như vậy - họ giữ lại những nết tốt và những tật xấu của con người trong họ. Điều đó, dư luận không muốn biết tới. Nếu biểu thị những ham muốn, những tình cảm, những đòi hỏi giống như những người trẻ tuổi, thì người già làm người ta công phẫn; ở họ, tình yêu nam nữ, lòng ghen tuông hình như là bỉ ổi hay lố bịch, còn tình dục thì đáng ghê tởm và bạo lực thì chẳng có nghĩa lý gì. Họ phải là tấm gương về mọi đức tính. Trước hết, người ta đòi hỏi ở họ sự thanh thản; người ta khẳng định họ có lòng thanh thản ấy, nên cho phép người ta không quan tâm tới nỗi bất hạnh của họ. Cái hình ảnh người ta tô vẽ về họ là hình ảnh một nhà Hiền triết trong ánh hào quang của một mái tóc bạc trắng, giàu kinh nghiệm và khả kính, vượt lên rất xa thân phận con người; nếu rời khỏi hình ảnh ấy, là họ rơi xuống phía dưới; cái hình ảnh đối lập với hình ảnh trên đây, là hình ảnh một lão già điên lẩm cẩm, lố lăng, bị trẻ em chế giễu. Dẫu sao, do đức độ hay do sự đê tiện của họ, họ ở ngoài nhân loại. Vì vậy, người ta có thể không ngại ngần khước từ đối với họ những gì tối thiểu được coi là cần thiết cho một cuộc sống con người. Người ta đẩy xa sự loại thải này tới mức làm cho nó quay trở lại chống chính bản thân mình; người ta sẽ không công nhận bản thân mình trong hình ảnh ông già mà chính mình là ông già đó. Proust nhận xét một cách xác đáng: “Trong mọi hiện thực, (tuổi già) có lẽ là hiện thực mà chúng ta giữ lại một khái niệm thuần túy trừu tượng lâu bền nhất trong đời”. Tất thảy mọi người đều khả tử: họ nghĩ tới điều đó. Nhiều người trong số họ trở thành người già: hầu như không một ai hình dung trước sự biến đổi ấy. Người ta không chờ đón, không dự kiến một cái gì khác ngoài tuổi già. Khi được hỏi về tương lai của họ, thanh niên, nhất là nữ thanh niên, cho đời mình kéo dài nhiều nhất đến tuổi 60. Một số cô gái bảo: “Em không chờ đến ngày ấy, em sẽ ra đi trước đó”. Và thậm chí, một vài cô nói: “Em sẽ tự sát trước ngày ấy”. Người trưởng thành hành động như thế không bao giờ phải trở thành người già. Thông thường, người lao động kinh hoàng khi điểm giờ nghỉ hưu: thời hạn nghỉ hưu vốn đã được ấn định trước, người đó biết thời hạn ấy, nhẽ ra họ phải chuẩn bị sẵn. Sự thật là sự hiểu biết ấy vẫn xa lạ đối với họ cho tới giây phút cuối cùng - trừ phi nó thực sự mang tính chất chính trị. Đến ngày đó, và khi đã bước tới gần, thông thường, người ta thích tuổi già hơn là cái chết. Tuy vậy, đứng cách xa, người ta xem xét cái chết sáng suốt hơn cả. Cái chết nằm trong phạm vi những khả năng trực tiếp của chúng ta, uy hiếp chúng ta ở mọi lứa tuổi; có lúc chúng ta suýt chết; thông thường, chúng ta sợ chết. Con người ta không trở nên già nua trong chốc lát; ở tuổi thanh niên hay lúc tráng niên, chúng ta không nghĩ là tuổi già tương lai đã tiềm ẩn trong con người mình như Thích Ca: tuổi già ấy cách xa chúng ta tới mức khoảng cách ấy lẫn lộn trước mắt mình với sự vĩnh hằng: tương lai đối với chúng ta như thể phi hiện thực. Vả lại, cái chết không là gì cả; người ta có thể cảm thấy một nỗi bàng hoàng siêu hình trước cái hư vô ấy, nhưng bằng một cách nào đó, nó làm người ta yên lòng, nó không đặt thành vấn đề. “Ta sẽ không còn nữa”. : ta giữ hình tích của mình trong sự tiêu vong ấy[5]. Ở tuổi 20, hay 40, tôi nghĩ mình già, tức là nghĩ mình là người khác. Trong mọi sự biến đổi, đều có một cái gì đó khủng khiếp. Ở tuổi ấu thơ, tôi bàng hoàng, và thậm chí kinh hoàng khi hiểu ra sẽ có ngày mình sẽ trở thành người lớn. Nhưng ý muốn mình vẫn là bản thân mình, thường được bù đắp ở buổi thiếu thời bởi những lợi thế của quy chế người trưởng thành. Còn tuổi già thì xuất hiện như một nỗi bất hạnh: ngay cả ở những người mà người ta cho là vẫn giữ được vẻ quắc thước, sự suy sụp về thể chất mà tuổi già kéo theo cũng vẫn lồ lộ trước mắt. Vì ở loài người, sự đổi thay do năm tháng là nổi bật nhất. Loài vật thì gầy đi, yếu đi, nhưng không biến đổi. Còn con người thì có. Người ta se lòng khi nhìn thấy bên cạnh một thiếu phụ trẻ, phảng phất trong gương hình ảnh chính mình những năm tháng sau này: tức là mẹ mình. Theo Lévi-Strauss, người Da đỏ Namblikwara chỉ có một từ để nói “trẻ và đẹp” và một từ để nói “già và xấu”. Trước hình ảnh người già gợi ý với chúng ta về tương lai của mình, chúng ta không tin; một tiếng nói nội tâm thầm thì một cách phi lý với chúng ta rằng điều đó sẽ không đến với mình: sẽ không còn là chúng ta nữa khi điều đó xảy tới. Trước khi nó ập xuống chúng ta, tuổi già là cái chỉ liên quan tới ngườl khác. Vì vậy, có thể hiểu vì sao xã hội có thể khiến chúng ta không coi người già là đồng loại của mình. Thôi, chúng ta đừng tự lừa dối mình nữa; ý nghĩa cuộc sống chúng ta nằm trong tương lai đang đón đợi mình; chúng ta không biết mình là ai, nếu không muốn biết mình sẽ là người thế nào: chúng ta hãy tự nhận biết mình ở ông lão kia, ở bà già nọ. Cần phải như vậy nếu chúng ta muốn đảm nhận thân phận con người của mình một cách trọn vẹn. Chỉ có như vậy, chúng ta mới không còn chấp nhận một cách thờ ơ nỗi bất hạnh của lứa tuổi cuối cùng, chúng ta sẽ cảm thấy mình ở trong cuộc: và quả chúng ta ở trong cuộc. Nỗi bất hạnh ấy tố cáo một cách vang dội chế độ bóc lột chúng ta đang sống. Người ta không thể tự mình thỏa mãn nhu cầu của mình, bao giờ cũng bị coi là một gánh nặng. Nhưng trong những tập thể có một sự bình đẳng nào đó - trong lòng một cộng đồng nông thôn, ở một số dân tộc nguyên thủy - người đứng tuổi, tuy không muốn biết, vẫn biết ngày mai thân phận của mình sẽ là thân phận mà ngày hôm nay người đó quy cho người già. Đấy là ý nghĩa truyện cổ tích của Grim, được thuật lại ở mọi miền thôn dã. Một gã nông dân bắt người cha già ăn riêng, trong một cái máng gỗ nhỏ; hắn bất chợt thấy đứa con trai đang ghép những miếng ván. Nó bảo ông bố: “Cho bố đấy, khi bố về già”. Thế là ông già lại ngồi vào bàn ăn cùng cả nhà. Trước lợi ích lâu dài và lợi ích trước mắt, các thành viên còn hoạt động trong tập thể sáng tạo nên những sự thỏa hiệp. Tình trạng cấp bách của nhu cầu buộc một số người nguyên thủy giết chết bố mẹ, dù về sau, có phải chịu một số phận như thế. Trong những trường hợp ít căng thẳng hơn, sự phòng xa và tình cảm gia đình chế ngự tính ích kỷ. Trong thế giới tư bản, lợi ích dài hơn không còn tác dụng: những kẻ có đặc quyền và quyết định số phận của đám đông không sợ phải nếm trải số phận ấy. Còn những tình cảm nhân văn chủ nghĩa thì không bao giờ can thiệp tới, mặc dù những lời huyênh hoang dối trá. Cơ sở của nền kinh tế là lợi nhuận; trên thực tiễn, toàn bộ nền văn minh phụ thuộc vào nó: người ta chỉ quan tâm tới tập thể người trong một doanh nghiệp trong chừng mực tập thể ấy có lợi. Sau đó, họ bị vứt bỏ. Tại một hội nghị gần đây, tiến sĩ Leach, nhà nhân chủng học ở Cambritgiơ tuyên bố: “Trong một thế giới đang chuyển động, trong đó máy móc có những cuộc đời rất ngắn ngủi, con người không nên phục vụ quá lâu. Tất cả những gì vượt qua 55 năm tuổi đều phải loại bỏ”[6]. Cái từ “đồ bỏ đi” nói đúng điều nó muốn nói. Người ta kể lể với chúng ta rằng nghỉ hưu là thời gian của tự do và giải trí; có những nhà thơ ca ngợi “lạc thú nghỉ ngơi”. Đó là những lời dối trá vô liêm sỉ. Xã hội áp đặt cho số đông người già mức sống khốn khổ tới mức từ ngữ “già nua và đói nghèo” trở thành hầu như một từ thừa (pléonasme); ngược lại, số đông người bần cùng là người già. Nhàn rỗi không mở ra cho người nghỉ hưu những khả năng mới; vào lúc cá nhân, đến phút cuối cùng, được giải thoát khỏi những sự ràng buộc, người ta tước đoạt của họ mọi phương tiện sử dụng quyền tự do. Họ buộc phải sống lay lắt trong cô đơn và phiền muộn, như một vật phế thải không hơn không kém. Khi trong mười lăm hay hai mươi năm cuối đời, một con người chỉ còn là một vật chẳng ai đoái hoài, thì đó là sự thất bại của nền văn minh chúng ta: sự thật hiển nhiên ấy khiến chúng ta nghẹn ngào nếu chúng ta coi người già là những con người từng có một cuộc sống con người phía sau họ, chứ không phải là những xác chết dật dờ. Những ai tố cáo cái chế độ đọa đày vốn là chế độ chúng ta, phải đưa điều điếm nhục ấy ra ánh sáng. Chính bằng cách tập trung nỗ lực của mình vào thân phận những người xấu số nhất, người ta có thể làm lay chuyển một xã hội. Để phá hủy hệ thống đẳng cấp, Gandhi tìm cách giải quyết thân phận tầng lớp Tiện dân (parias); nhằm tiêu hủy gia đình phong kiến, nước Trung Hoa cộng sản giải phóng phụ nữ. Đòi hỏi con người cứ phải là con người ở lứa tuổi cuối cùng của họ bao hàm một sự đảo lộn triệt dể. Không thể thu được kết quả ấy với một vài cải cách hạn hẹp không đụng chạm tới hệ thống: chính nạn bóc lột người lao động, chính quá trình phân hủy xã hội và sự khốn cùng của một nền văn hóa chỉ dành riêng cho tầng lớp quan lại, dẫn tới những cảnh già nua phi-nhân văn ấy. Chúng chỉ ra rằng cần làm lại tất cả, từ đầu. Chính vì vậy, vấn đề này bị nhấn chìm trong im lặng hết sức kỹ lưỡng; và chính vì vậy, cần phá tan sự im lặng ấy: tôi mong đợi độc giả giúp đỡ tôi trong công việc này.   Mời các bạn đón đọc Tuổi Già Tập 1 của tác giả Simone de Beauvoir.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

8 Tố Chất Trí Tuệ Quyết Định Cuộc Đời Người Phụ Nữ - Mã Ngân Văn
Trong cuộc sống, đông đảo chị em phụ nữ tỏ ra vô cùng khâm phục nữ tỷ phú Dương Lan thùy mị đôn hậu, nhà doanh nghiệp kiệt xuất Cận Vũ Tây, nhà vô địch võ thuật Lý Diệc Phi đã vươn lên tầm cỡ hàng đầu trên thương trường, chị Ngô Sĩ Hoằng với lòng tự tin được mệnh danh là hoàng hậu làm thuê,… rồi ngẫm nghĩ về bản thân mình, không khỏi bùi ngùi, tự cảm thấy mình sao mà quá tầm thường. Vậy bạn có bao giờ đặt câu hỏi, nguyên nhân nào đã đưa đến sự khác biệt như vậy chưa? Lẽ nào đó là sự sắp đặt của số phận, nó đặt mình ở đâu thì phải ở đấy. Hoàn toàn không phải như vậy, đâu phải ông trời an bài số phận của chị em chúng mình, cũng không phải do người khác, mà là do bản lĩnh, trí tuệ bản thân mình quyết định cuộc đời của mình. Trí tuệ là gì? Con người như thế nào được coi là có trí tuệ? Nếu đem câu hỏi này đi hỏi một trăm người, thì sẽ nhận được một trăm câu trả lời khác nhau, người nhân thấy thế gọi là nhân, người trí thấy thế gọi là trí. Thực ra thì trí tuệ đâu phải là cái gì cao xa bí hiểm không thể nào dùng từ ngữ để mô tả được, ở vào những hoàn cảnh khác nhau, người nào biết cách tự thể hiện mình bằng một phong cách độc đáo, biết quan tâm giúp đỡ mọi người, được người ta khâm phục mến mộ, đó chính là người có trí tuệ. Nếu xét về góc độ phụ nữ, thì những chị em tài năng vượt trội, học rộng biết nhiều, hoạt bát cởi mở, nhiệt tình hăng hái, lạc quan tự tin, kiên cường thoáng đạt, nhu mì dễ thương, duyên dáng thướt tha, lòng dạ thơm thảo, nết na hiền thục… thì được coi là trí tuệ. Chính vì hàm ý về trí tuệ của người phụ nữ phong phú như vậy, nên có thể nói bất kỳ người phụ nữ nào cũng có khả năng trở thành một phụ nữ trí tuệ, nói cách khác, chị em nào cũng ẩn chứa trí tuệ tiềm tàng, việc phải làm là khai thác phát huy trí tuệ sẵn có trên đường đời. Vì vậy, khi đã hiểu rõ trí tuệ của mình, thì hãy tìm cách thi thố với đời, như viên ngọc quý cần được mài giũa cho nó tỏa sáng, nếu chưa phát hiện ra tài năng vốn có của mình, thì hãy vững tin rằng, bạn cũng là một phụ nữ trí tuệ, chỉ cần bạn chịu khó tìm tòi xác định được thế mạnh của bản thân, thì bạn hoàn toàn có khả năng trở thành người phụ nữ vượt trội và hấp dẫn. Trí tuệ không phải là thứ muốn là có được, cũng không thể giành được bằng cách mô phỏng kẻ khác, mà phải tự mình rèn luyện tích lũy. Hiển nhiên rèn luyện phải dựa trên cơ sở khoa học. Cuốn sách "Tám tố chất trí tuệ quyết định cuộc đời phụ nữ" tập hợp, hệ thống hóa, phân tích tám nét tâm lý quyết định thành công của người phụ nữ, đem giới thiệu với bạn đọc. Với kết cấu chặt chẽ, mới mẻ, nêu nhiều thí dụ mang tính kinh điển, hy vọng giúp các bạn độc giả dễ dàng nắm bắt tìm hiểu, sau mỗi nét trí tuệ là một dẫn chứng về một nữ nhân vật thành đạt nhờ những tố chất trí tuệ khác nhau. Không những độc giả học hỏi được nhiều điều, mà những tấm gương sáng chói đó sẽ cổ vũ động viên và mang thêm nguồn sức mạnh cho bạn. Nếu như bạn ôm hoài bão trở thành một phụ nữ trí tuệ, dùng trí tuệ để tạo dựng cuộc sống tốt đẹp, thì bạn hãy đọc kỹ và nghiền ngẫm những điều trình bày trong cuốn sách này, có lẽ nó sẽ giúp bạn thu nhận được nhiều kiến thức bổ ích! Cầu mong cho mọi phụ nữ trong thiên hạ đều trở thành mẫu người trí tuệ! Cầu mong cho mọi phụ nữ trí tuệ đều xây dựng được cuộc sống huy hoàng! Mời các bạn đón đọc 8 Tố Chất Trí Tuệ Quyết Định Cuộc Đời Người Phụ Nữ của tác giả Mã Ngân Văn.
Đừng Bao Giờ Từ Bỏ Khát Vọng - Nick Vujicic
“Khi còn là một cậu bé phải cố gắng thích nghi với những khuyết tật của mình, tôi đã thật sai lầm khi nghĩ rằng không ai trên đời này phải chịu đựng những nỗi đau như tôi và rằng những khó khăn của tôi khủng khiếp đến mức không thể vượt qua nổi. Tôi cứ nghĩ rằng sự khuyết thiếu tứ chi của tôi là bằng chứng cho thấy Đấng Sáng Tạo không yêu thương tôi và rằng cuộc đời tôi chẳng có mục đích gì hết. Tôi cũng cảm thấy rằng tôi không thể chia sẻ gánh nặng của mình – không thể chia sẻ ngay cả với những người luôn yêu thương và quan tâm đến tôi. Tôi đã lầm. Tôi không hề đơn độc trong khó khăn và đau đớn. Quả thật trên đời này có nhiều người đã và đang phải đương đầu với những thách thức lớn hơn cả những gì mà tôi đã gặp. Tôi khiếm khuyết như bất cứ ai bạn sẽ gặp trong đời. Tôi cũng có những ngày vui vẻ, những ngày tồi tệ. Những thách thức nảy sinh trong cuộc sống đôi khi khiến tôi quỵ ngã. Tuy nhiên tôi biết rằng khi chúng ta đặt niềm tin vào hành động thì không gì có thể ngăn cản được chúng ta vươn tới một cuộc sống tốt đẹp.” Tác giả Nick James Vujicic Chàng thanh niên Nick người Úc (tên đầy đủ là Nick James Vujicic), sinh năm 1982, đã bước vào cuộc sống này với hành cảnh vô cùng đặc biệt và nghiệt ngã – không có cả tay lẫn chân ngay từ lúc chào đời. Vượt lên tất cả, Nick đã sống một cuộc sống tuyệt vời, đã truyền cảm hứng và thái độ sống tích cực cho hàng triệu triệu thanh thiếu niên trên hành tinh này, đã là động lực giúp rất nhiều người biến ước mơ thành hiện thực. Hiện Nick là Chủ tịch và Ceo của tổ chức quốc tế Life Without Limbs và là Giám đốc công ty thái độ sống Attitude Is Altitude. Nick Vujicic được bạn đọc Việt Nam biết đến thông qua quyển sách đầu tiên của anh mang tên “Cuộc sống không giới hạn”. Quyển sách không chỉ đơn giản kể lại câu chuyện của cậu bé Nick không tay, không chân vượt qua khó khăn trong cuộc sống như thế nào, để có được cuộc sống tràn ngập tiếng cười ngày hôm nay, Nick đã có những ngày tháng đầy nước mắt như thế nào. Vượt lên trên hết là nghị lực phi thường, sự mạnh mẽ không biên giới, ý chí vượt thoát khỏi hoàn cảnh nghiệt ngã của số phận. Nick hiện tại đang vô cùng hạnh phúc bên người vợ tên là Kanae Miyahara, một cô gái xinh đẹp, hoàn toàn bình thường. “Đừng bao giờ từ bỏ khát vọng” chia sẻ với bạn đọc câu chuyện tình yêu đặc biệt đẹp như cổ tích của Nick. Vốn từng mặc cảm vì khuyết tật của mình, tưởng rằng tình yêu đó chỉ là tình yêu đơn phương nhưng cuối cùng Nick cũng đã can đảm theo đuổi tình yêu của mình và vỡ òa thành niềm hạnh phúc vô bờ khi anh nhận ra tâm hồn cả hai đã thuộc về nhau từ ánh mắt đầu tiên. Cùng với chuyện tình tuyệt đẹp này là rất nhiều câu chuyện cảm động về khả năng kỳ diệu của con người trong việc biến những khát khao, ước vọng trở thành thực tế, thông qua cách đặt niềm tin lớn lao vào hành động của mình. Và  anh cũng mong rằng bạn đọc cũng sẽ được hưởng hạnh phúc của tình yêu như Nick đang hưởng, nhưng bạn hãy nhớ chuẩn bị cho bản thân không chỉ để đón nhận tình yêu mà còn để cho đi, để hy sinh trong tình yêu một cách vô tư, không vị kỷ. “Đừng bao giờ từ bỏ khát vọng” Là quyển sách thứ hai của anh. Nguồn cảm hứng để anh viết cuốn sách này đến từ những người thuộc mọi lứa tuổi trên khắp thế giới, những người anh đã cho lời khuyên và hướng dẫn họ đương đầu với những thách thức trong cuộc sống. Từ những buổi diễn thuyết của Nick, họ biết rằng anh đã vượt qua nghịch cảnh, thậm chí vượt qua ý định tự vẫn đã thoáng hiện trong anh vài lần khi còn nhỏ, khi Nick vật vã với những câu hỏi làm thế nào để có thể tự nuôi sống mình, liệu anh có tìm được một người phụ nữ yêu anh hay không… khi anh chìm trong cảm giác buồn khổ và chán chường vì bị bắt nạt, bị chế giễu, và vì nhiều vấn đề khác, nhiều nỗi bất ổn khác bủa vây. Các chương trong “Đừng bao giờ từ bỏ khát vọng” xoay quanh những câu hỏi và những thách thức mà mọi người nêu ra khi họ nói chuyện và viết thư cho anh. Như: những khủng hoảng cá nhân, những vấn đề liên quan đến các mối quan hệ, những thách thức trong công việc và sự nghiệp, những mối quan tâm về sức khỏe và khuyết tật, những ý nghĩ, cảm xúc tiêu cực và các chứng nghiện ngập, cách tìm được sự thăng bằng về thể chất, tinh thần, trái tim và tâm hồn… Nick hy vọng rằng việc chia sẻ những câu chuyện của anh và của những người khác, những người đã kiên trì vượt qua bao khó khăn thử thách trong cuộc sống sẽ giúp ích và khích lệ các bạn vượt qua những thách thức mà các bạn đang phải đối mặt, bạn sẽ tìm thấy sự an ủi thay vì tuyệt vọng. Dịch giả Nguyễn Bích Lan là người chuyển ngữ cả hai cuốn sách về Nick: “Cuộc sống không giới hạn” và “Đừng bao giờ từ bỏ khát vọng”. Dù không phải là một người khuyết tật tay chân như Nick, nhưng Bích Lan lại cùng có một nghị lực sống phi thường. Cô bị bệnh loạn dưỡng cơ từ năm 13 tuổi, tự học Anh văn tại nhà và trở thành dịch giả sở hữu hơn 25 đầu sách dịch, được vinh danh qua giải thưởng văn học dịch của Hội Nhà văn năm 2010 với bản dịch “Triệu phú khu ổ chuột”. Mời các bạn đón đọc Đừng Bao Giờ Từ Bỏ Khát Vọng của tác giả Nick Vujicic.
Trải Nghiệm và Khát Vọng Cuộc Sống - Anne Morrow Lindbergh
Vậy là “Trải nghiệm & khát vọng cuộc sống” đã bước vào tuổi 50. Khi mới là một cô bé 10 tuổi, tôi đã cầm ấn bản đầu tiên cuốn sách của mẹ. Và bây giờ, khi cầm ấn bản mới nhất trên tay, tôi đã là một phụ nữ 60 tuổi. Tôi đã đọc “Trải nghiệm & khát vọng cuộc sống” suốt thời gian đó và chưa bao giờ cảm thấy cuốn sách mẹ tôi viết vào năm 1955 lại lạc hậu đối với những vấn đề ngày nay. Dù đọc bất cứ dòng nào, trang nào trong “Trải nghiệm & khát vọng cuộc sống”, người ta vẫn thấy mình có thể thở nhẹ nhàng hơn và sống thoải mái hơn. Dù đọc toàn bộ hay chỉ vài dòng trong sách, bạn cũng có thể cảm thấy bình an và tự do sống theo một cách khác. Ngôn ngữ và giọng điệu của cuốn sách luôn làm tôi liên tưởng đến những chuyển động bình thường mà vĩnh hằng của biển cả. Tôi không biết mẹ đã cố ý chọn giọng văn đó hay nó đến một cách tự nhiên với bà trong thời gian bà sống ở biển để viết. Chỉ biết là sau khi đọc vài trang đầu tiên của cuốn sách, tôi đã cảm thấy có thể thư giãn trong nhịp điệu của biển, cảm thấy mình đang miên man trong những đợt sóng bềnh bồng. Cảm giác được dỗ dành và trấn an bao bọc lấy tôi. Không chỉ đem lại âm hưởng dịu dàng của cuộc sống hay cảm giác bình an từ những tiếng nói bên trong, “Trải nghiệm & khát vọng cuộc sống” còn ẩn chứa một sức mạnh phi thường. Tôi thật bất ngờ khi phát hiện ra sức mạnh đó, có lẽ vì tôi luôn nghĩ mẹ gắn liền với sự dịu dàng, cả trong tình yêu thương và trong dáng vẻ mong manh, nhạy cảm của bà. Tuy nhiên, ở góc độ khác, mẹ tôi cũng là một người thật đặc biệt. Bà là người phụ nữ đầu tiên ở Mỹ có bằng lái tàu lượn hạng ưu năm 1930. Bà cũng là người phụ nữ đầu tiên nhận Huy chương Hubbard của Hội địa lý quốc gia vào năm 1934. Năm 1938, bà nhận được giải thưởng Tác phẩm hay nhất trong năm (National Book Award) cho tác phẩm “Listen! The wind”, một cuốn tiểu thuyết về những chuyến phiêu lưu. Và điều cuối cùng: bà luôn là tác giả có sách bán chạy nhất trong suốt sự nghiệp của mình. Tôi nhớ năm 65 tuổi, mẹ vẫn cùng tôi đi trượt tuyết ở Vermont. Năm 70 tuổi, bà làm một chuyến hành trình đi bộ suốt những con đường dài dưới những ngọn núi ở Thụy Sĩ. Năm năm sau, khi đã 75 tuổi, bà đi bộ xuống miệng núi lửa Haleakala ở Maui, Hawaii để trải qua một đêm trong lòng núi cùng con cháu và bạn bè. Tôi vẫn nhớ mẹ đã từng đứng cạnh tôi trong đôi giày leo núi, nhìn lên bầu trời đêm đầy sao để dạy cho tôi tên và vị trí của các chòm sao - một trong những kiến thức bà đã học để xác định đường bay trong đêm khi tham gia khóa huấn luyện bay gần 50 năm về trước. Điều tuyệt vời nhất mà “Trải nghiệm & khát vọng cuộc sống” đem lại cho người đọc là tự do, một sự tự do tuyệt diệu. Tôi nghĩ rất khó để nhận ra hay miêu tả cảm giác tự do này, nhưng chính nó là lý do làm cuốn sách luôn được yêu mến trong suốt 50 năm qua. Sự tự do này xuất hiện khi chúng ta can đảm mở lòng với cuộc sống, như mẹ tôi đã làm, bất kể những gì mà cuộc sống đem lại cho chúng ta: niềm vui, nỗi buồn, thành công, thất bại, đau đớn, hạnh phúc, kể cả những điều nhất thời hay những thứ không bao giờ thay đổi. Bằng cách dựa vào những kinh nghiệm của bản thân, cố gắng giữ vững niềm tin và sống hết mình với hiện tại dù bất cứ chuyện gì xảy ra, mẹ tôi đã tìm được tự do cho chính mình trong suốt cuộc đời của bà. Tất cả chúng ta cũng đều có thể như thế. Với “Trải nghiệm & khát vọng cuộc sống”, mẹ tôi đã tìm ra một cách sống mới, cho chính bà và cho những người chung quanh. Mời các bạn đón đọc Trải Nghiệm và Khát Vọng Cuộc Sống của tác giả Anne Morrow Lindbergh.