Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tuổi Già Tập 1 - Simone de Beauvoir

Simone de Beauvoir (1908 - 1986) là nhà văn, nhà triết học và một nhà đấu tranh cho nữ quyền người Pháp. Là một nhà văn từng được giải Goncourt nhưng cũng là một học giả uyên bác, các tác phẩm của bà được lấy cảm hứng từ chính cuộc đời mình đồng thời đầy ắp các dữ kiện khoa học, lịch sử, thống kê… Hai tác phẩm non-fiction được biết ở Việt Nam nhiều nhất của bà là Giới tính thứ nhì và Tuổi già. Giới tính thứ nhì (xuất bản năm 1949), được xem là một trong những quyển sách hay nhất của thế kỷ 20, là một cuốn bách khoa toàn thư về các giai đoạn của cuộc đời phụ nữ từ lúc sinh ra, dậy thì, lấy chồng, làm mẹ; đồng thời vạch ra con đường giành quyền lợi cho nữ giới. Với tác phẩm này, bà được xem là “Bà mẹ của phong trào nữ quyền". Tuổi già được viết lúc Beauvoir hơn 50 tuổi, mô tả chi tiết cuộc sống của người già và đấu tranh giành quyền cho họ. Người ta chỉ có thể hiểu được thân phận người già khi ở tuổi đó. “50 tuổi, tôi giật nảy mình khi một nữ sinh viên Mỹ kể lại với mình câu nói của một cô bạn: "Nhưng Simone de Beauvoir là một bà già chứ sao!" Cả một truyền thống dồn cho từ ngữ này một cái nghĩa xấu; nó vang lên như một lời thoá mạ. Vì vậy, người ta phản ứng, thường bằng giận dữ, khi nghe người khác bảo mình già. Tôi có biết nhiều người phụ nữ được biết tuổi tác của mình một cách khó chịu qua một kinh nghiệm giống như kinh nghiệm Marie Dormoy: một người đàn ông, bị vẻ trẻ trung của hình bóng bà đánh lừa, đi theo bà trên đường phố; đến khi đi vượt qua bà và trông thấy gương mặt bà, thì thay vì bắt chuyện, ông ta rảo bước.” "Bạn có biết khuyết tật nào lớn nhất trong các khuyết tật không? Đó là tuổi trên 55" – Tourgueniev. Vào tuổi 55, Trotsky phàn nàn người mệt mỏi, mất ngủ, hay quên; ông có cảm giác sức lực sút kém; và lo lắng. Ông gợi lại quá khứ: "Anh buồn bã nhớ lại tấm ảnh của em, tấm ảnh của chúng ta, trong đó chúng ta trẻ trung biết chừng nào”. Già đi – đó là một điều không thể tránh khỏi và cũng là một quá trình chấp nhận đầy đau đớn. "Wagner kinh hãi thấy mình già đi, 80 tuổi, ông viết: “Hình hài tôi làm người ta khiếp sợ và khiến tôi u sầu một cách xót xa”. Sự suy sụp về thể chất khiến người già không còn có thể tham gia sản xuất hay xây dựng, do đó họ bị xem như gánh nặng, phải phụ thuộc vào người khác. Beauvoir viết về những trại dưỡng lão ở ngoại ô Paris với những người già như bị xã hội bỏ quên, sống mòn mỏi chờ đợi những cuộc viếng thăm của con cháu. Theo Beauvoir, đối đãi công bằng với người già là cách ứng xử có trước có sau mà nếu khác đi là làm lung lay gốc rễ của xã hội hiện đại. *** Khi còn là thái tử Siddharta, bị vua cha nhốt trong một tòa lâu đài tráng lệ, nhiều lần Thích Ca trốn đi dạo chơi bằng xe ngựa trong vùng. Trong lần dạo chơi đầu tiên, thái tử gặp một người tàn tật, tóc bạc, răng rụng, da nhăn nheo, cúi gập người trên một cây gậy, miệng lập cập, hai tay run rẩy. Chàng lấy làm ngạc nhiên và người xà ích giải thích đó là một ông già. Thái tử liền thốt: “Những kẻ hèn yếu và dốt nát, chuếnh choáng vì niềm kiêu hãnh của tuổi trẻ, không thấy được tuổi già. Khốn khổ biết chừng nào! Hãy trở nhanh về nhà thôi. Các trò chơi và niềm vui mà làm gì, vì ta là nơi ẩn náu của tuổi già mai sau”. Qua một ông già Thích Ca nhận ra số phận của chính mình, sinh ra để cứu vớt loài người, Thích Ca muốn chia sẻ hoàn toàn với số phận của họ. Và về điểm này, Người khác họ: họ lẩn tránh những gì không làm họ vui lòng. Và đặc biệt là tuổi già. Châu Mỹ đã loại trừ ra khỏi từ vựng của họ từ: người chết: mà chỉ nói người khuất bóng thân yêu; cũng giống như vậy, họ tránh liên hệ tới tuổi già. Ở nước Pháp ngày nay, đó là một đề tài cấm kỵ. Khi bắt buộc phải vi phạm điều cấm kỵ ấy, tôi đã bị người ta la ó! Chấp nhận mình đã bước vào ngưỡng cửa của tuổi già, tức là cho rằng nó rình rập tất cả mọi người phụ nữ, rằng nó đã tóm cổ nhiều người. Với thái độ dễ thương hay giận dữ, nhiều người, nhất là người già, không ngớt nhắc đi nhắc lại với tôi rằng làm gì có tuổi già! Có những người không trẻ bằng những người khác, chỉ thế thôi! Đối với xã hội, tuổi già xuất hiện như một điều bí ẩn đáng xấu hổ, mà nói tới là điều khiếm nhã. Trong mọi lĩnh vực, văn học viết rất nhiều về phụ nữ, về trẻ em, về thiếu niên; ngoài các công trình chuyên môn, người ta rất ít ám chỉ tới tuổi già. Một tác giả băng hoạt hình đã phải làm lại cả một loạt tác phẩm vì trước đó ông ta đã đưa vào trong số các nhân vật một cặp vợ chồng đáng tuổi làm ông làm bà: “Hãy loại bỏ người già đi!” - người ta hạ lệnh cho ông ta[1]. Khi tôi nói mình viết một cuốn tiểu luận về tuổi già, người ta thường thốt lên: “Sao lại kỳ thế!... Bà đâu có già!... Đề tài ấy, ngán lắm...” Chính vì lý do ấy mà tôi viết cuốn sách này: để phá tan sự đồng tình im lặng. Theo Marcuse, xã hội tiêu thụ đem một ý thức tốt đẹp thay thế cho ý thức xấu xa và bài xích mọi ý nghĩ tội phạm. Cần khuấy động sự yên ổn của nó. Đối với người có tuổi, nó chẳng những là phạm tội, mà còn là một tội ác. Ẩn náu phía sau các huyền thoại bành trướng và phong túc, nó cho người già là những kẻ khốn cùng. Ở Pháp, nơi tỷ lệ người già cao nhất thế giới - 12% dân số trên 65 tuổi - họ bị dồn vào cảnh khốn cùng, cô đơn, tàn tật, thất vọng. Ở Mỹ, số phận của họ cũng không sung sướng hơn. Nhằm dung hòa sự man rợ này với thứ đạo lý nhân văn chủ nghĩa mà họ thuyết giáo, giai cấp thống trị có cách đơn giản là không xem họ là những con người; nếu nghe tiếng nói của họ, người ta bắt buộc phải thừa nhận đó là một tiếng nói của con người; tôi sẽ buộc độc giả của mình nghe tiếng nói ấy. Tôi sẽ miêu tả hoàn cảnh của họ và cách họ sống; tôi sẽ nói những gì diễn ra thực sự trong đầu óc và trong con tim họ - những thứ bị dối trá, huyền thoại và những lời sáo rỗng của nền văn hóa tư sản xuyên tạc. Vả lại, thái độ của xã hội đối với họ mang tính chất đồng lõa sâu sắc. Nói chung, xã hội không coi tuổi già là một lớp tuổi rõ rệt. Cuộc khủng hoảng về tuổi dậy thì cho phép vạch ra giữa một thiếu niên và người trưởng thành một đường ranh giới chỉ mang tính võ đoán trong những giới hạn chật hẹp; ở tuổi 18, 21, thanh niên được chấp nhận vào xã hội con người. Hầu như bao giờ xung quanh sự thăng tiến ấy cũng có những “nghi thức chuyển giai đoạn”. Còn thời điểm bắt đầu tuổi già thì không được xác định rõ rệt, nó thay đổi theo từng lúc, từng nơi. Không ở đâu, người ta bắt gặp “nghi thức chuyển giai đoạn” thiết lập một quy chế mới[2], về chính trị, suốt đời, cá nhân giữ nguyên những quyền lợi và nghĩa vụ giống nhau. Luật Dân sự không mảy may phân biệt giữa một cụ già trăm tuổi và một người tuổi bốn mươi. Các nhà làm luật cho rằng ngoài những trường hợp bệnh lý ra, trách nhiệm hình sự của người có tuổi cũng hoàn toàn đầy đủ như của thanh niên[3]. Trong thực tiễn, người ta không coi họ là một lớp người riêng, vả lại, họ cũng không muốn như vậy; có sách, báo, sân khấu, những buổi truyền hình và truyền thanh dành cho trẻ em và thiêu niên: còn đối với người già thì không[4]. Trên tất cả những bình diện này, người ta đồng hóa họ với lớp người lớn tuổi trẻ hơn. Nhưng khi quyết định quy chế kinh tế của họ, hình như người ta cho là họ thuộc một lớp người xa lạ: họ không có những nhu cầu cũng như những tình cảm giống như những người khác, nếu chỉ cần ban cho họ một chút bố thí khốn khổ là cảm thấy hết nợ đối với họ. Các nhà kinh tế học, các nhà làm luật tin vào cái ảo ảnh thuận tiện ấy khi phàn nàn cái gánh nặng những người không hoạt động gây nên cho những người hoạt động: như thể những người này không phải là những người không hoạt động trong tương lai và không bảo đảm chính ngày mai của mình trong lúc xây dựng việc nhận lấy trách nhiệm đối với những người có tuổi. Còn các nhà hoạt động công đoàn thì không nhầm lẫn: khi đưa ra những đòi hòi, bao giờ họ cũng coi trọng vấn đề hưu trí. Những người già không tạo nên một lực lượng kinh tế nào thì không có cách gì để đòi hỏi quyền lợi của mình: lợi ích của những kẻ bóc lột, là tiêu diệt tình đoàn kết giữa người lao động và người không sản xuất, sao cho không một ai bênh vực những người này. Những huyền thoại và lời sáo rỗng theo tư duy tư sản tìm cách chỉ ra một con người khác trong người già. “Chính với những thiếu niên sống khá nhiều năm mà cuộc đời tạo nên lớp người già” - Proust từng nhận định như vậy - họ giữ lại những nết tốt và những tật xấu của con người trong họ. Điều đó, dư luận không muốn biết tới. Nếu biểu thị những ham muốn, những tình cảm, những đòi hỏi giống như những người trẻ tuổi, thì người già làm người ta công phẫn; ở họ, tình yêu nam nữ, lòng ghen tuông hình như là bỉ ổi hay lố bịch, còn tình dục thì đáng ghê tởm và bạo lực thì chẳng có nghĩa lý gì. Họ phải là tấm gương về mọi đức tính. Trước hết, người ta đòi hỏi ở họ sự thanh thản; người ta khẳng định họ có lòng thanh thản ấy, nên cho phép người ta không quan tâm tới nỗi bất hạnh của họ. Cái hình ảnh người ta tô vẽ về họ là hình ảnh một nhà Hiền triết trong ánh hào quang của một mái tóc bạc trắng, giàu kinh nghiệm và khả kính, vượt lên rất xa thân phận con người; nếu rời khỏi hình ảnh ấy, là họ rơi xuống phía dưới; cái hình ảnh đối lập với hình ảnh trên đây, là hình ảnh một lão già điên lẩm cẩm, lố lăng, bị trẻ em chế giễu. Dẫu sao, do đức độ hay do sự đê tiện của họ, họ ở ngoài nhân loại. Vì vậy, người ta có thể không ngại ngần khước từ đối với họ những gì tối thiểu được coi là cần thiết cho một cuộc sống con người. Người ta đẩy xa sự loại thải này tới mức làm cho nó quay trở lại chống chính bản thân mình; người ta sẽ không công nhận bản thân mình trong hình ảnh ông già mà chính mình là ông già đó. Proust nhận xét một cách xác đáng: “Trong mọi hiện thực, (tuổi già) có lẽ là hiện thực mà chúng ta giữ lại một khái niệm thuần túy trừu tượng lâu bền nhất trong đời”. Tất thảy mọi người đều khả tử: họ nghĩ tới điều đó. Nhiều người trong số họ trở thành người già: hầu như không một ai hình dung trước sự biến đổi ấy. Người ta không chờ đón, không dự kiến một cái gì khác ngoài tuổi già. Khi được hỏi về tương lai của họ, thanh niên, nhất là nữ thanh niên, cho đời mình kéo dài nhiều nhất đến tuổi 60. Một số cô gái bảo: “Em không chờ đến ngày ấy, em sẽ ra đi trước đó”. Và thậm chí, một vài cô nói: “Em sẽ tự sát trước ngày ấy”. Người trưởng thành hành động như thế không bao giờ phải trở thành người già. Thông thường, người lao động kinh hoàng khi điểm giờ nghỉ hưu: thời hạn nghỉ hưu vốn đã được ấn định trước, người đó biết thời hạn ấy, nhẽ ra họ phải chuẩn bị sẵn. Sự thật là sự hiểu biết ấy vẫn xa lạ đối với họ cho tới giây phút cuối cùng - trừ phi nó thực sự mang tính chất chính trị. Đến ngày đó, và khi đã bước tới gần, thông thường, người ta thích tuổi già hơn là cái chết. Tuy vậy, đứng cách xa, người ta xem xét cái chết sáng suốt hơn cả. Cái chết nằm trong phạm vi những khả năng trực tiếp của chúng ta, uy hiếp chúng ta ở mọi lứa tuổi; có lúc chúng ta suýt chết; thông thường, chúng ta sợ chết. Con người ta không trở nên già nua trong chốc lát; ở tuổi thanh niên hay lúc tráng niên, chúng ta không nghĩ là tuổi già tương lai đã tiềm ẩn trong con người mình như Thích Ca: tuổi già ấy cách xa chúng ta tới mức khoảng cách ấy lẫn lộn trước mắt mình với sự vĩnh hằng: tương lai đối với chúng ta như thể phi hiện thực. Vả lại, cái chết không là gì cả; người ta có thể cảm thấy một nỗi bàng hoàng siêu hình trước cái hư vô ấy, nhưng bằng một cách nào đó, nó làm người ta yên lòng, nó không đặt thành vấn đề. “Ta sẽ không còn nữa”. : ta giữ hình tích của mình trong sự tiêu vong ấy[5]. Ở tuổi 20, hay 40, tôi nghĩ mình già, tức là nghĩ mình là người khác. Trong mọi sự biến đổi, đều có một cái gì đó khủng khiếp. Ở tuổi ấu thơ, tôi bàng hoàng, và thậm chí kinh hoàng khi hiểu ra sẽ có ngày mình sẽ trở thành người lớn. Nhưng ý muốn mình vẫn là bản thân mình, thường được bù đắp ở buổi thiếu thời bởi những lợi thế của quy chế người trưởng thành. Còn tuổi già thì xuất hiện như một nỗi bất hạnh: ngay cả ở những người mà người ta cho là vẫn giữ được vẻ quắc thước, sự suy sụp về thể chất mà tuổi già kéo theo cũng vẫn lồ lộ trước mắt. Vì ở loài người, sự đổi thay do năm tháng là nổi bật nhất. Loài vật thì gầy đi, yếu đi, nhưng không biến đổi. Còn con người thì có. Người ta se lòng khi nhìn thấy bên cạnh một thiếu phụ trẻ, phảng phất trong gương hình ảnh chính mình những năm tháng sau này: tức là mẹ mình. Theo Lévi-Strauss, người Da đỏ Namblikwara chỉ có một từ để nói “trẻ và đẹp” và một từ để nói “già và xấu”. Trước hình ảnh người già gợi ý với chúng ta về tương lai của mình, chúng ta không tin; một tiếng nói nội tâm thầm thì một cách phi lý với chúng ta rằng điều đó sẽ không đến với mình: sẽ không còn là chúng ta nữa khi điều đó xảy tới. Trước khi nó ập xuống chúng ta, tuổi già là cái chỉ liên quan tới ngườl khác. Vì vậy, có thể hiểu vì sao xã hội có thể khiến chúng ta không coi người già là đồng loại của mình. Thôi, chúng ta đừng tự lừa dối mình nữa; ý nghĩa cuộc sống chúng ta nằm trong tương lai đang đón đợi mình; chúng ta không biết mình là ai, nếu không muốn biết mình sẽ là người thế nào: chúng ta hãy tự nhận biết mình ở ông lão kia, ở bà già nọ. Cần phải như vậy nếu chúng ta muốn đảm nhận thân phận con người của mình một cách trọn vẹn. Chỉ có như vậy, chúng ta mới không còn chấp nhận một cách thờ ơ nỗi bất hạnh của lứa tuổi cuối cùng, chúng ta sẽ cảm thấy mình ở trong cuộc: và quả chúng ta ở trong cuộc. Nỗi bất hạnh ấy tố cáo một cách vang dội chế độ bóc lột chúng ta đang sống. Người ta không thể tự mình thỏa mãn nhu cầu của mình, bao giờ cũng bị coi là một gánh nặng. Nhưng trong những tập thể có một sự bình đẳng nào đó - trong lòng một cộng đồng nông thôn, ở một số dân tộc nguyên thủy - người đứng tuổi, tuy không muốn biết, vẫn biết ngày mai thân phận của mình sẽ là thân phận mà ngày hôm nay người đó quy cho người già. Đấy là ý nghĩa truyện cổ tích của Grim, được thuật lại ở mọi miền thôn dã. Một gã nông dân bắt người cha già ăn riêng, trong một cái máng gỗ nhỏ; hắn bất chợt thấy đứa con trai đang ghép những miếng ván. Nó bảo ông bố: “Cho bố đấy, khi bố về già”. Thế là ông già lại ngồi vào bàn ăn cùng cả nhà. Trước lợi ích lâu dài và lợi ích trước mắt, các thành viên còn hoạt động trong tập thể sáng tạo nên những sự thỏa hiệp. Tình trạng cấp bách của nhu cầu buộc một số người nguyên thủy giết chết bố mẹ, dù về sau, có phải chịu một số phận như thế. Trong những trường hợp ít căng thẳng hơn, sự phòng xa và tình cảm gia đình chế ngự tính ích kỷ. Trong thế giới tư bản, lợi ích dài hơn không còn tác dụng: những kẻ có đặc quyền và quyết định số phận của đám đông không sợ phải nếm trải số phận ấy. Còn những tình cảm nhân văn chủ nghĩa thì không bao giờ can thiệp tới, mặc dù những lời huyênh hoang dối trá. Cơ sở của nền kinh tế là lợi nhuận; trên thực tiễn, toàn bộ nền văn minh phụ thuộc vào nó: người ta chỉ quan tâm tới tập thể người trong một doanh nghiệp trong chừng mực tập thể ấy có lợi. Sau đó, họ bị vứt bỏ. Tại một hội nghị gần đây, tiến sĩ Leach, nhà nhân chủng học ở Cambritgiơ tuyên bố: “Trong một thế giới đang chuyển động, trong đó máy móc có những cuộc đời rất ngắn ngủi, con người không nên phục vụ quá lâu. Tất cả những gì vượt qua 55 năm tuổi đều phải loại bỏ”[6]. Cái từ “đồ bỏ đi” nói đúng điều nó muốn nói. Người ta kể lể với chúng ta rằng nghỉ hưu là thời gian của tự do và giải trí; có những nhà thơ ca ngợi “lạc thú nghỉ ngơi”. Đó là những lời dối trá vô liêm sỉ. Xã hội áp đặt cho số đông người già mức sống khốn khổ tới mức từ ngữ “già nua và đói nghèo” trở thành hầu như một từ thừa (pléonasme); ngược lại, số đông người bần cùng là người già. Nhàn rỗi không mở ra cho người nghỉ hưu những khả năng mới; vào lúc cá nhân, đến phút cuối cùng, được giải thoát khỏi những sự ràng buộc, người ta tước đoạt của họ mọi phương tiện sử dụng quyền tự do. Họ buộc phải sống lay lắt trong cô đơn và phiền muộn, như một vật phế thải không hơn không kém. Khi trong mười lăm hay hai mươi năm cuối đời, một con người chỉ còn là một vật chẳng ai đoái hoài, thì đó là sự thất bại của nền văn minh chúng ta: sự thật hiển nhiên ấy khiến chúng ta nghẹn ngào nếu chúng ta coi người già là những con người từng có một cuộc sống con người phía sau họ, chứ không phải là những xác chết dật dờ. Những ai tố cáo cái chế độ đọa đày vốn là chế độ chúng ta, phải đưa điều điếm nhục ấy ra ánh sáng. Chính bằng cách tập trung nỗ lực của mình vào thân phận những người xấu số nhất, người ta có thể làm lay chuyển một xã hội. Để phá hủy hệ thống đẳng cấp, Gandhi tìm cách giải quyết thân phận tầng lớp Tiện dân (parias); nhằm tiêu hủy gia đình phong kiến, nước Trung Hoa cộng sản giải phóng phụ nữ. Đòi hỏi con người cứ phải là con người ở lứa tuổi cuối cùng của họ bao hàm một sự đảo lộn triệt dể. Không thể thu được kết quả ấy với một vài cải cách hạn hẹp không đụng chạm tới hệ thống: chính nạn bóc lột người lao động, chính quá trình phân hủy xã hội và sự khốn cùng của một nền văn hóa chỉ dành riêng cho tầng lớp quan lại, dẫn tới những cảnh già nua phi-nhân văn ấy. Chúng chỉ ra rằng cần làm lại tất cả, từ đầu. Chính vì vậy, vấn đề này bị nhấn chìm trong im lặng hết sức kỹ lưỡng; và chính vì vậy, cần phá tan sự im lặng ấy: tôi mong đợi độc giả giúp đỡ tôi trong công việc này.   Mời các bạn đón đọc Tuổi Già Tập 1 của tác giả Simone de Beauvoir.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Lối Sống Tối Giản Của Người Nhật
Chẳng có ai từ khi sinh ra đã có tài sản, đồ đạc gì trong tay. Vậy nên bất cứ ai khi mới chào đời đều là những người sống tối giản. Cứ mỗi lần bạn sở hữu trong tay những đồ dùng hơn mức cần thiết là một lần bạn lấy mất tự do của chính mình. Giá trị bản thân chúng ta không đo bằng những đồ dùng mà chúng ta sở hữu. Những đồ dùng này chỉ cho chúng ta một chút cảm giác hạnh phúc nhất thời mà thôi. Mang theo những đồ dùng hơn mức cần thiết sẽ lấy hết thời gian, năng lượng của bạn. Khi nhận ra được điều đó, tức là bạn đã bắt đầu trở thành một người sống tối giản. Những người sống tối giản luôn cảm thấy vui vẻ, mới lạ mỗi ngày. Cái cảm giác này, tôi nghĩ bất cứ ai cũng có thể cảm nhận được, dù bạn có phải là một người sống tối giản hay không, bởi bất cứ ai. Lối sống tối giản của người Nhật gồm có năm chương, trong đó, chương một, tác giả sẽ giới thiệu cho bạn lối sống tối giản là gì, đưa ra định nghĩa của anh về nó. Sau đó anh sẽ đưa ra lý do vì sao mình lại theo lối sống này sau nhiều năm sống trong căn phòng của bản thân. Chương hai tác giả sẽ đề cập đến tại sao sau ngần ấy năm, đồ đạc trong nhà lại chất nhiều đến thế. Những đồ đạc được tích tụ lại do thói quen hay nhu cầu của con người này mang ý nghĩa gì? Chương ba là những bí quyết để cắt giảm đồ đạc trong nhà. Tác giả sẽ đưa ra cho bạn những quy tắc cụ thể, những phương pháp để có thể giảm bớt đồ đạc trong nhà. Thêm vào đó cũng sẽ giới thiệu cho bạn danh sách bổ sung 15 điều cho những người muốn tối giản hơn nữa cùng với toa thuốc cho “căn bệnh muốn vứt bỏ”. Chương bốn, những thay đổi của chính tác giả sau khi dọn hết đồ đạc trong nhà. Kèm theo đó, anh còn phân tích và khảo sát thêm về các kết quả nghiên cứu tâm lý học. Cuối cùng chương năm, tiếp nối ý từ chương bốn, tác giả sẽ giải thích tại sao những thay đổi của bản thân lại dẫn đến “hạnh phúc”. Để hiểu sâu hơn về lối sống tối giản, bạn nên đọc hết từ chương một đến chương bốn. Tuy nhiên, bạn cũng có thể đọc riêng từng chương. Thậm chí chỉ cần đọc chương ba cũng có thể giúp bạn cắt giảm được đồ đạc của mình. Trong cuốn sách này, “lối sống tối giản” được hiểu là: 1) giới hạn tối thiểu cần thiết cho bản thân và 2) vứt bỏ tất cả mọi thứ trừ những thứ quan trọng. Và những người sống theo lối sống đó gọi là người sống tối giản. *** Trong chương một, tôi sẽ giới thiệu cho bạn lối sống tối giản là gì, đưa ra định nghĩa của tôi về nó. Sau đó tôi sẽ đưa ra lý do vì sao tôi lại theo lối sống này sau nhiều năm sống trong căn phòng của mình. Chương hai tôi muốn đề cập đến tại sao sau ngần ấy năm, đồ đạc trong nhà lại chất nhiều đến thế. Những đồ đạc được tích tụ lại do thói quen hay nhu cầu của con người này mang ý nghĩa gì? Chương ba là những bí quyết để cắt giảm đồ đạc trong nhà. Tôi sẽ đưa ra cho bạn những quy tắc cụ thể, những phương pháp để có thể giảm bớt đồ đạc trong nhà. Thêm vào đó tôi cũng sẽ giới thiệu cho bạn danh sách bổ sung 15 điều cho những người muốn tối giản hơn nữa cùng với toa thuốc cho “căn bệnh muốn vứt bỏ”. Chương bốn, những thay đổi trong tôi sau khi dọn hết đồ đạc trong nhà. Nó không đơn thuần chỉ là cắt giảm đồ đạc, mà là những mặt tích cực sau khi tôi giảm đồ đạc xuống mức tối thiểu, và những “hạnh phúc” mà tôi cảm nhận sau khi thực hiện điều đó. Kèm theo đó, tôi còn phân tích và khảo sát thêm về các kết quả nghiên cứu tâm lý học. Chương năm, tiếp nối ý từ chương bốn, tôi giải thích tại sao những thay đổi trong tôi lại dẫn đến “hạnh phúc”. Để hiểu sâu hơn về lối sống tối giản, bạn nên đọc hết từ chương một đến chương bốn. Tuy nhiên, bạn cũng có thể đọc riêng từng chương. Thậm chí chỉ cần đọc chương ba cũng có thể giúp bạn cắt giảm được đồ đạc của mình. Trong cuốn sách này, “lối sống tối giản” được hiểu là: 1) giới hạn tối thiểu cần thiết cho bản thân và 2) vứt bỏ tất cả mọi thứ trừ những thứ quan trọng. Và những người sống theo lối sống đó gọi là người sống tối giản. Mời bạn đón đọc Lối Sống Tối Giản Của Người Nhật của tác giả Sasaki Fumio..
Công Thức Của Vận May - William Poundstone
Công Thức Của Vận May là một trong những cuốn sách hấp dẫn nhất của William Poundstone (tác giả cuốn sách bán chạy tại Việt Nam "Làm thế nào dịch chuyển núi Phú Sĩ?"). Tác giả tiết lộ bí mật về một công thức toán học - được gọi là "Công thức Kelly" giúp bạn nắm bắt được vận may tại sòng bạc và sàn chứng khoán. "Công Thức Của Vận May là cuốn sách vô cùng hấp dẫn kết hợp giữa cờ bạc, cá ngựa, đầu tư chứng khoán và sự chính xác của toán học, một cuốn cẩm nang cho những người muốn áp dụng công thức Kelly để làm giàu" - David Pogue, The New York Times Book Review. "Công Thức Của Vận May là một câu chuyện thú vị đối với mỗi người trong chúng ta. Nó khiến ta nhớ đến những cuốn khác như "Chống lại Đức Chúa trời" của Peter L Bernstein hay cuốn "Khi những thiên tài thất bại" của Roger Lowenstein. Tất cả đều nhằm giải thích một điều rằng, vì sao những con người thông minh lại chấp nhận những sự mạo hiểm ngu ngốc. Poundstone đã chỉ cho bạn đọc thấy Công ty LTCM (công ty quản lý vốn dài hạn) đã tránh được tai hoạ như thế nào bằng cách áp dụng phương pháp Kelly" - Peter Coy, Businessweek. *** Câu chuyện bắt đầu với một nhân viên trực máy điện báo có máu cờ bạc tên là John Payne. Vào đầu những năm 1900, John làm việc cho văn phòng của Western Union ở Cincinnati. Theo chủ trương của một trong những cổ đông lớn nhất, Western Union kiên quyết chống lại những gì liên quan đến cờ bạc. Họ áp dụng một chính sách từ chối chuyển phát những bức điện tín thông báo kết quả các trận đua ngựa. Payne bỏ việc và thành lập công ty dịch vụ điện tín Payne của mình. Mục đích duy nhất của dịch vụ mới này là thông báo kết quả trường đua cho các nhà cái. Payne bố trí một nhân viên ở trường đua ngựa của thành phố. Ngay khi có con ngựa nào về đích, người này sẽ dùng chiếc gương cầm tay để thông báo kẻ thắng cuộc cho một nhân viên khác đang "phục" ở một tòa nhà cao tầng gần đó dưới dạng mật mã. Nhân viên này lập tức báo lại cho các nhà cái theo một hợp đồng kí trước. Trong thời đại mà những chương trình tường thuật thể thao trực tiếp nhan nhản trên các phương tiện truyền thông thì bạn có thể không hiểu hết giá trị dịch vụ của Payne. Nếu không có kết quả được chuyển ngay lập tức bằng điện tín, các nhà cái sẽ phải mất vài phút mới nhận được tin tức về con ngựa thắng cuộc. Vài phút này chính là lúc để tất cả những mánh khóe "làm tiền" diễn ra. Khách hàng nào biết được con ngựa thắng cuộc trước khi các nhà cái biết có thể nhanh chân đặt cược vào con ngựa đã thắng trong vài phút quyết định đó. Dịch vụ của Payne đảm bảo cho các nhà cái giành lại được lợi thế này. Khi một khách hàng cố đặt cược vào con ngựa đã thắng cuộc, nhà cái sẽ biết ngay và từ chối vụ cá cược đó. Còn khi một người vô tình đặt cược vào con ngựa đã thua thì... tất nhiên, nhà cái sẽ chấp nhận. Phát minh ra một công cụ hay dịch vụ hữu ích nhằm hái ra tiền là ước mơ của tất cả những người dân Mỹ. Chỉ trong vài năm, dịch vụ điện báo Payne đã kiểm soát kết quả các cuộc đua ngựa trên tất cả các trường đua từ Saratoga đến Midwest. Sự ngăn cấm nghiêm khắc của chính quyền địa phương chỉ làm cho công việc kinh doanh của Payne thêm phát đạt mà thôi. Thị trưởng thành phố Chicago, Carter Harrison II - người đã ra lệnh cấm tất cả những hành vi cá cược đua ngựa trong thành phố, tuyên bố: "Tôi muốn chứng kiến môn thể thao của các vị vua chứ không muốn xem những trò xấu xa của họ." số người đến trường đua giảm hẳn, và thế là hoạt động cá cược phi pháp ngày một lớn mạnh thêm. ... Mời các bạn đón đọc Công Thức Của Vận May của tác giả William Poundstone.
Bốn Mùa Cuộc Sống - Jim Rohn
“Ngày hôm đó, ta tắm mình trong cái nóng hun người của nắng tháng Tám, rồi chẳng mấy chốc, ta lại ủ mình kín mít để tránh cơn gió lạnh thấu xương của cơn bão giữa mùa đông.” Mượn ẩn dụ từ những quy luật tự nhiên, sự luân chuyển tuần hoàn vĩnh cửu của đất trời, Jim Rohn đã khai mở cho chúng ta mối quan hệ tương quan giữa cuộc đời con người và bốn mùa cuộc sống. Mùa xuân, mùa của hành động và cơ hội. Mùa hạ, mùa của nuôi dưỡng và bảo vệ. Mùa thu, mùa của gặt hái thành quả. Mùa đông, mùa của nghỉ ngơi, biết ơn và chuẩn bị cho mùa xuân mới. Bốn mùa cuộc sống đưa ra những nhìn nhận khách quan nhưng đầy minh triết về cuộc sống, những sự kiện, mục đích, cơ hội và thách thức. Bằng tài quan sát nhạy bén cùng sự trải nghiệm và khả năng cảm nhận vấn đề vô cùng tinh tế, Jim Rohn đã tìm ra những điều kỳ diệu, những giá trị cao cả ẩn giấu trong những thứ thông thường. Từ đó giúp chúng ta nhận ra những điều cần làm để tận dụng từng mùa của cuộc đời và có được thành công trong cuộc sống. “Mỗi ngày được ban cho chúng ta như một mùa xuân mới. Những suy nghĩ, hành động, mơ ước và nỗ lực của hôm nay sẽ mang lại mùa gặt ngày mai.” Mỗi một khó khăn trong cuộc sống đều mang trong mình một hạt mầm của thành công trong tương lai. Cho dù chúng ta có đang trải qua những khoảng thời gian khó khăn thì cuối cùng “mùa đông” của cuộc đời cũng sẽ phải nhường chỗ cho “mùa xuân”. Đó là quy luật của đất trời, và là định mệnh của cuộc đời. *** Thông tin tác giả: Jim Rohn (1930 – 2009) Cuộc đời Jim Rohn là câu chuyện về thành công từ tay trắng. Sinh ra trong một gia đình nông dân, bỏ học đại học chỉ sau một năm, khánh kiệt năm 25 tuổi, nhưng nhờ gặp được một người thầy tốt, ông đã trở thành triệu phú ở tuổi 31. Ông được mời chia sẻ câu chuyện thành công của mình ở khắp nơi, từ trường cấp ba, đại học, cho đến các bữa tiệc rồi các buổi hội thảo. Dần dần, ông trở thành diễn giả có ảnh hưởng nhất thế giới. Ông là thầy của Mark R. Hughes (nhà sáng lập Herbalife) và diễn giả Anthony Robbins, đồng thời có ảnh hưởng sâu sắc đến Brian Tracy, Jack Canfield, và T. Harv Eker.  *** JOHN KENNEDY TỪNG nhận xét rằng Winston Churchill “đã huy động tiếng Anh và điều ngôn ngữ ấy ra mặt trận.” Các thế hệ trước đã được nghe những lời nói hào hùng của Cicero, Daniel Webster, Disraeli, Churchill và Kennedy,… những người đã được đấng sáng tạo ban tặng khả năng sử dụng ngôn từ tài tình để thay đổi dòng chảy lịch sử nhân loại và chất lượng cuộc sống mỗi cá nhân. Jim Rohn, một người thuộc thế hệ của chúng ta, được ban tặng tài năng thiên phú đó. Những cuộc hội thảo đầy cảm hứng của ông trên khắp nước Mĩ và trên toàn thế giới đã thay đổi cuộc sống của hàng chục nghìn người. Ông có biệt tài tìm ra điều kỳ diệu ẩn giấu giữa những thứ thông thường, và khả năng dụng ngôn giàu hình ảnh gây tác động sâu sắc lên toàn bộ người nghe. Bốn mùa cuộc sống là một cái nhìn thoáng qua vào chiều sâu tính cách của Jim Rohn. Khả năng của ông trong việc khơi dậy tinh thần đang say ngủ bên trong tất cả chúng ta là điều vôcùng cần thiết trong một thời đại đầy biến động và thách thức. Đây là cuốn sách đầu tiên của Jim Rohn, nhưng chắc chắn nó chưa phải là cuốn cuối cùng. Quá trình hợp tác với ông để cho ra mắt cuốn sách đã khiến tôi nhận ra rằng người đàn ông này cần được thế giới biết đến nhiều hơn. Những tư tưởng của ông về mục đích, phát triển cá nhân, kỹ năng lãnh đạo, giá trị của truyền thông hiệu quả là những vấn đề cần thiết trong tất cả các lĩnh vực như giáo dục, điều hành, kinh doanh… và những cống hiến của ông để cải thiện chất lượng đời sống gia đình là vô cùng to lớn. Có lẽ cuốn sách này đã được số mệnh lựa chọn để trở thành một kiệt tác trong nền văn học. Mời các bạn đón đọc Bốn Mùa Cuộc Sống của tác giả Jim Rohn.
Vương Quốc Sáng Tạo - Ed Catmull
Vương quốc sáng tạo là cuốn sách dành cho bất kỳ vị quản lý, lãnh đạo nào đang muốn dẫn dắt nhân viên của mình lên một tầm cao mới, là cuốn cẩm nang cho bất kỳ ai đang nỗ lực tìm kiếm yếu tố sáng tạo, độc đáo, và hơn hết là hành trình chưa bao giờ được kể vào trung tâm đầu não của Pixar Animation - các buổi họp, hội thảo, các kế hoạch mới và các buổi họp của Braintrust. Hơn tất cả, đây là cuốn sách về cách xây dựng một nền văn hóa sáng tạo, và như nhà đồng sáng lập và chủ tịch của Pixar - Ed Catmull viết “là sự diễn giải những ý tưởng mà tôi tin là đã thúc đẩy những năng lực tuyệt vời nhất của chúng tôi bừng nở”. Trong khoảng 20 năm gần đây, Pixar thống trị thế giới phim hoạt hình, sản xuất ra những bộ phim đầy giá trị yêu thương như Toy Story (Câu chuyện đồ chơi), Finding Nemo (Đi tìm Nemo), Up (Vút bay) và WALL-E. Trong cuốn sách này, Catmull sẽ tiết lộ những ý tưởng và kỹ thuật đã giúp Pixar trở nên sáng tạo và được ngưỡng mộ cũng như đem về những khoản lợi nhuận khổng lồ đến như vậy. *** Mỗi buổi sáng, khi đi bộ đến Hãng phim hoạt hình Pixar – ngang qua bức tượng điêu khắc cao khoảng 6 mét của Luxo Jr., biểu tượng chiếc đèn bàn thân thiện của chúng tôi, qua hai cánh cửa và bước vào một căn phòng trần thủy tinh, nơi đặt hai mô hình Woody và Buzz Lightyear với kích thước người thật, những bức tường Lego, bước lên cầu thang đầy những bức vẽ và phác thảo các nhân vật nổi tiếng trong 14 bộ phim của chúng tôi – tôi vô cùng ấn tượng bởi nét văn hóa độc đáo thuộc về riêng Pixar. Mặc dù đã đi qua đi lại hàng nghìn lần, lần nào tôi cũng có một cảm giác mới mẻ. Được xây dựng trên nền một nhà máy đồ hộp cũ, khuôn viên rộng hơn 60.000m2 của Pixar, chỉ cần đi qua cầu Bay từ San Francisco là tới nơi, được Steve Jobs thiết kế cả bên trong lẫn ngoài. (Trên thực tế, nó có tên là Tòa nhà Steve Jobs.) Tòa nhà có lối ra vào được thiết kế độc đáo nhằm khuyến khích mọi người tiếp xúc, gặp gỡ và giao tiếp với nhau. Bên ngoài, có một sân bóng đá, một sân bóng chuyền, một bể bơi, và một tòa nhà kiến trúc tròn gồm 600 chỗ ngồi. Thỉnh thoảng, những người đến tham quan sẽ hiểu lầm rằng nơi này được xây dựng chỉ để phục vụ sở thích nhất thời. Điều họ không hiểu đó là Steve không muốn xây dựng một nơi làm việc sang trọng, mà muốn tạo nên một cộng đồng. Steve muốn tòa nhà có thể hỗ trợ công việc của chúng tôi bằng cách tăng khả năng hợp tác giữa chúng tôi. Nhân viên ở đây được tự do, chính xác hơn là được khuyến khích trang trí không gian làm việc của mình theo bất cứ phong cách nào mà họ thích. Họ có thể làm việc bên trong ngôi nhà búp bê hồng rực, có trần được trang trí bởi những chiếc đèn chùm nhỏ, những chiếc lều có biểu tượng bùa hộ mệnh của người Maori được làm từ tre thật, và những tòa lâu đài được vẽ tỉ mỉ, những tháp canh được khắc từ đá. Một trong những truyền thống hàng năm của công ty bao gồm “Pixarpalooza,” là dịp cho các ban nhạc rock trong công ty thi đấu với nhau, cháy hết mình trên sân khấu được dựng ở bãi cỏ trước công ty. Vấn đề quan trọng là, ở đây chúng tôi đánh giá cao sự thể hiện bản thân. Điều này thường gây ấn tượng lớn với những vị khách tham quan công ty, họ thường nói với tôi rằng khi đến Pixar, họ cảm giác có chút gì đó tiếc nuối, giống như công việc của họ thiếu thứ gì đó, có lẽ là một nguồn năng lượng có thể chạm vào, một cảm giác về sự hợp tác và tính sáng tạo không ràng buộc, một cảm giác về tiềm năng mới mẻ. Tôi trả lời rằng cảm giác mà họ đang nhắc đến dù là sự phấn khởi hay sự bất kính, thậm chí thay đổi thất thường, đều rất quan trọng với thành công của chúng tôi. Nhưng cảm giác đó không phải là thứ làm cho Pixar trở nên đặc biệt. ... Mời các bạn đón đọc Vương Quốc Sáng Tạo của tác giả Ed Catmull.