Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Chuyện Ma Ám Ở Trang Viên Bly

“Tôi nhớ rằng mọi chuyện bắt đầu với một loạt thăng trầm trong cảm xúc, một chút bấp bênh của hồi hộp lo sợ” Một cô gái trẻ nhận được công việc đầu tiên trong đời là làm gia sư cho hai đứa trẻ xinh đẹp, trong sáng và lặng lẽ đến dị thường tại toà dinh thự Bly cô độc, bị bủa vây trong cái ác rình rập. Những bóng người ẩn hiện từ toà tháp tối tăm và ô cửa sổ bụi bặm, các bóng ma xấu xa lặng lẽ tiến đến ngày một gần. Với nỗi kinh hoàng lớn dần, cô gia sư bất lực nhận ra những sinh vật tàn ác đó nhắm đến bọn trẻ, rắp tâm xâm chiếm cơ thể, tâm trí và cả linh hồn các em… Nhưng không ai ngoài cô nhìn thấy những bóng ma ấy. Phải chăng những ám ảnh kia được gợi lên từ chính trí tưởng tượng của cô gia sư, hay sự thật còn chứa đựng nhiều hơn thế? HENRY JAME (1843 - 1916) Là nhà văn người Mỹ, một trong những người sáng lập và dẫn đầu trường phái hiện thực trong văn hư cấu. Ông sống phần lớn cuộc đời tại Anh và trở thành công dân Anh không lâu trước khi qua đời. Ông được biết tới chủ yếu nhờ một loạt tiểu thuyết đồ sộ miêu tả sự giao thoa giữa Mỹ và châu Âu. Truyện của ông xoay quanh mối quan hệ cá nhân, cách sử dụng quyền lực đúng mực trong các mối quan hệ đó, và nhiều vấn đề đạo đức khác. Phương pháp viết của ông lấy góc nhìn của một nhân vật trong truyện, cho phép ông khám phá các hiện tượng ý thức và nhận thức, phong cách viết trong các tác phẩm về sau của ông từng được so sánh với tranh trường phái ấn tượng. Henry James kiên định tin rằng các nhà văn ở Anh và Mỹ nên được tự do tối đa trong việc thể hiện thế giới quan của mình, giống như các nhà văn Pháp. Chất sáng tạo trong thủ pháp sử dụng góc nhìn, độc thoại nội tâm và người trần thuật không đáng tin cậy trong các câu chuyện và tiểu thuyết của ông mang lại chiều sâu và sự hấp dẫn mới cho thể loại hư cấu hiện thực, và báo hiệu sự đổi mới trong văn học của thế kỉ hai mươi. Là một nhà văn có bút lực phi phàm, bên cạnh số lượng tác phẩm hư cấu đồ sộ, ông còn xuất bản báo, sách du lịch, tiểu sử, tự truyện, phê bình văn học, và kịch. Một số vở kịch của ông được biểu diễn lúc sinh thời và đạt được thành công nhất định. Tác phẩm kịch của ông được cho là có ảnh hưởng sâu rộng tới truyện và tiểu thuyết của ông sau này. Henry James từng được đề cử giải Nobel Văn học vào các năm 1911, 1912, và 1916. Từ khi xuất hiện lần đầu vào năm 1898 đến nay, CHUYỆN MA ÁM Ở TRANG VIÊN BLY đã được mệnh danh là một trong những truyện ma nổi tiếng nhất thế giới, là nguyên tác và nguồn cảm hứng cho hàng loạt các tác phẩm chuyển thể cũng như sản phẩm làm lại thuộc nhiều loại hình khác nhau: phim điện ảnh, phim truyền hình, opera, kịch, balê “Một câu chuyện nhỏ độc hại đến sửng sốt, và cũng tuyệt diệu nhất.” – OSCAR WILDE - “CHUYỆN MA ÁM Ở TRANG VIÊN BLY là một trong những câu chuyện ma rùng rợn nhất từ trước đến nay, phần lớn là vì nó khó nắm bắt theo cách quá hấp dẫn.” – GILLIAN FLYNN - *** Chúng tôi quây quần quanh lò sưởi, nín thở lắng nghe câu chuyện, nhưng ngoài lời nhận xét hiển nhiên rằng nó rất ghê rợn, mà chuyện kinh dị vào đêm giáng sinh trong một ngôi nhà cũ thì tất phải ghê rợn, tôi nhớ rằng không ai lên tiếng bình luận gì cho đến khi có người tình cờ nói rằng anh ta từng gặp duy nhất một trường hợp tương tự, xảy đến với một đứa trẻ. Tôi xin nói thêm rằng trường hợp đó là về hồn ma trong một ngôi nhà cũ giống như ngôi nhà chúng tôi đang tụ tập vào dịp này - một vụ hiện hồn kinh khủng, xảy đến với một cậu bé đang ngủ trong phòng với mẹ. Cậu bé đã đánh thức người mẹ trong cơn khiếp hãi; nhưng trước khi người mẹ kịp xua tan cơn sợ và dỗ dành cậu ngủ tiếp, bản thân bà cũng chứng kiến cảnh tượng khiến cậu run rẩy. Nhận xét này đã khơi gợi lời hồi đáp từ Douglas - không phải ngay lúc đó, mà vào tối muộn - dẫn đến một kết quả thú vị khiến tôi chú ý. Câu chuyện người khác đang kể chẳng hấp dẫn lắm, và tôi nhận thấy anh không chú ý lắng nghe. Tôi cho đó là dấu hiệu thể hiện rằng bản thân anh có chuyện muốn kể và chúng tôi chỉ cần chờ đợi. Quả thực chúng tôi đã đợi đến hai đêm sau; nhưng vào tối hôm đó, trước khi chúng tôi giải tán, anh đã nói ra ý nghĩ trong đầu mình. “Tôi đồng ý - về hồn ma của Griffin, hay dù nó là gì đi nữa - rằng việc nó xuất hiện cho cậu bé nhìn thấy trước, ở cái tuổi dễ tổn thương như vậy, đã thêm điểm nhấn cho câu chuyện. Nhưng đây không phải lần đầu tôi nghe về kiểu chuyện hấp dẫn này liên quan đến trẻ con. Nếu một đứa trẻ đã thêm nhát búa chát chúa cho hiệu quả câu chuyện, thì các vị nói sao với haiđứa trẻ…?” “Tất nhiên chúng tôi sẽ bảo rằng chúng mang đến hai nhát búa! Và rằng chúng tôi muốn nghe chuyện về chúng,” có người thốt lên. Tôi vẫn còn có thể hình dung ra Douglas đứng quay lưng về phía ngọn lửa, hai tay đút túi, nhìn xuống những người đang trò chuyện với mình. “Cho đến giờ, chưa có ai ngoài tôi từng nghe chuyện này. Câu chuyện có phần quá kinh khủng.” Câu này đương nhiên là đã được vài người nói ra để tạo hiệu quả tối đa cho câu chuyện của mình, và người bạn của chúng tôi, với nghệ thuật kể chuyện tinh tế, chuẩn bị cho chiến thắng của mình bằng cách đưa mắt nhìn chúng tôi rồi nói tiếp: “Vượt ra ngoài tất cả. Tôi chưa từng biết đến thứ gì có thể chạm tới câu chuyện này.” “Về mặt đáng sợ ư?” Tôi nhớ mình đã hỏi như vậy. Dường như anh muốn đáp rằng không chỉ đơn giản như vậy; như thể anh thực sự không tìm được từ thích hợp để miêu tả. Anh đưa tay xoa mắt, khẽ nhăn mặt. “Về độ kinh hoàng!” “Ôi, hấp dẫn quá đi mất!” Một người trong cánh phụ nữ kêu lên. Anh không hề chú ý đến cô ta; anh nhìn tôi, nhưng như thể thay vì tôi, anh đang nhìn thấy thứ mình nói đến. “Về sự xấu xa dị hợm nói chung, về nỗi khiếp sợ và đau đớn.” “Chà,” tôi bảo, “thế thì hãy ngồi xuống và bắt đầu kể ngay đi.” Anh quay về phía ngọn lửa, đưa chân gẩy một khúc gỗ, ngắm nhìn chốc lát. Rồi anh quay lại đối mặt với chúng tôi: “Tôi chưa bắt đầu kể được. Tôi phải gửi thư vào thành phố đã.” Một loạt tiếng ca thán vang lên, kèm theo trách móc; sau đó anh liền giải thích, vẫn với vẻ lơ đãng: “Câu chuyện đã được ghi lại và cất giữ trong ngăn kéo suốt nhiều năm. Tôi có thể viết thư và gửi kèm chìa khóa cho người của mình; anh ta sẽ gửi bưu kiện tới đây khi tìm thấy nó.” Cá nhân tôi cảm thấy dường như anh chủ động đề xuất việc này - có vẻ anh gần như kêu gọi mọi người giúp anh thôi do dự. Anh đã phá vỡ một lớp băng dày tích tụ qua nhiều mùa đông; anh có những lí do riêng để giữ im lặng lâu như vậy. Những người khác bất mãn với sự trì hoãn, nhưng chính những trăn trở của anh đã hấp dẫn tôi. Tôi yêu cầu anh viết thư để gửi ngay chuyến bưu chính đầu tiên và anh đồng ý cho chúng tôi nghe chuyện sớm; rồi tôi hỏi anh trải nghiệm mà anh nói đến có phải của chính bản thân anh hay không. Với câu hỏi này, anh trả lời ngay tức khắc. “Ôi, ơn Chúa, không!” “Vậy còn bản ghi chép là của anh? Anh đã ghi lại câu chuyện đó?” “Tôi không ghi lại gì ngoài ấn tượng về nó. Tôi ghi khắc vào đây,” anh vỗ lên tim mình. “Tôi chưa từng quên.” “Vậy bản ghi chép…?” “Là một bản thảo cũ kĩ, đã phai màu mực, bằng bút tích đẹp nhất trên đời.” Anh lại quay về phía ngọn lửa. “Bút tích của một phụ nữ. Cô đã qua đời hai mươi năm rồi. Cô gửi cho tôi những trang giấy ấy trước khi chết.” Lúc này tất cả bọn họ đều đang lắng nghe, và tất nhiên có người tỏ ý trêu chọc, hay ít nhất là rút ra suy diễn. Nhưng anh bác bỏ suy diễn một cách nghiêm túc, dù cũng không tỏ vẻ bực bội. “Cô là một người hết sức duyên dáng, nhưng cô lớn hơn tôi mười tuổi. Cô là gia sư của em gái tôi,” anh lặng lẽ nói thêm. “Cô là người phụ nữ đáng mến nhất tôi từng biết ở địa vị đó; dù làm bất cứ nghề nghiệp gì, cô cũng sẽ là một người đáng kính, chuyện đã lâu lắm rồi, và câu chuyện kia còn lâu hơn nữa. Khi ấy tôi đang học ở trường Trinity, tôi gặp cô khi về nhà vào mùa hè năm thứ hai. Năm ấy tôi ở nhà khá nhiều - một mùa hè đẹp. Chúng tôi đã đi dạo và nói chuyện vài lần trong vườn vào giờ nghỉ của cô - những cuộc trò chuyện khiến tôi phát hiện cô cực kỳ thông minh và dễ mến. Ô đúng vậy; đừng cười: tôi yêu quý cô rất nhiều và đến tận hôm nay vẫn lấy làm vui mừng khi nghĩ cô cũng quý mến tôi. Nếu không thì cô đã không kể với tôi rồi. Cô chưa từng kể với bất cứ ai. Không chỉ vì cô nói vậy, mà tôi biết là thực sự cô chưa từng kể. Tôi không chỉ biết chắc; tôi thấy rõ như vậy. Các vị sẽ dễ dàng rút ra kết luận ngay khi nghe chuyện.” “Bởi vì câu chuyện ấy quá đáng sợ?” Anh tiếp tục nhìn chăm chú về phía tôi. “Các vị sẽ tự rút ra kết luận,” anh nhắc lại. “Anh sẽ tự rút ra kết luận.” Tôi cũng nhìn anh không chớp. “Tôi hiểu rồi. Cô ấy đang yêu.” Anh bật cười lần đầu tiên. “Anh nói đúng đấy. Phải, cô đang yêu. Đúng hơn là đã từng yêu. Điều đó thể hiện rõ ràng - cô không thể kể câu chuyện của mình mà không biểu lộ điều đó. Tôi đã thấy, và cô thấy rằng tôi đã thấy; nhưng không ai trong chúng tôi nhắc đến. Tôi nhớ như in thời gian và địa điểm - nơi góc thảm cỏ, dưới bóng râm của hàng sồi lớn và buổi chiều mùa hè dài nóng bức. Đó không phải khung cảnh thích hợp để nghe chuyện kinh dị; nhưng ối chao…!” Anh rời bỏ lò sưởi và thả mình lại ghế ngồi. “Anh sẽ nhận được bưu kiện vào sáng thứ Năm?” Tôi hỏi. “Chắc phải đến chuyến bưu chính thứ hai.” “Vậy thì, sau bữa tối…” “Các vị đều sẽ gặp tôi ở đây?” Anh lại nhìn khắp lượt chúng tôi. “Sẽ không có ai rời đi chứ?” Giọng điệu anh gần như mong đợi. “Tất cả mọi người đều sẽ ở lại!” “Tôi sẽ ở lại” và “Tôi sẽ ở lại!” là tiếng kêu của những quý cô đã định sẵn ngày rời đi. Tuy nhiên bà Griffin tỏ ý muốn biết thêm. “Cô ấy đang yêu ai?” “Câu chuyện sẽ nói rõ,” tôi tranh lời đáp. “Ôi, tôi nóng lòng nghe chuyện quá!” “Câu chuyện sẽ không nói rõ đâu,” Douglas nói; “không nói theo một cách lộ liễu, sỗ sàng.” “Thế thì thật đáng tiếc. Tôi chỉ hiểu được theo mỗi cách ấy.” “Anh cũng không nói ư, Douglas?” Một người khác hỏi. Anh lại đứng bật dậy. “Có - ngày mai. Giờ thì tôi phải đi ngủ thôi. Chúc ngủ ngon.” Rồi anh nhanh chóng vớ lấy một ngọn nến, và bỏ lại chúng tôi trong ngỡ ngàng. Từ đầu bên này của hành lang màu nâu rộng lớn chúng tôi nghe thấy tiếng chân anh bước lên cầu thang; khi đó bà Griffin nói: “Chà, nếu tôi không biết cô ấy đang yêu ai, thì tôi cũng biết anh ấy yêu ai.” “Cô ấy già hơn mười tuổi,” chồng bà đáp lại. “Càng thêm lí do… ở cái tuổi ấy! Nhưng anh ấy giữ kín lâu như vậy cũng khá là đáng quý.” “Bốn mươi năm!” Griffin nói thêm. “Rốt cuộc bảy giờ cũng vỡ oà ra.” “Sự vỡ oà này,” tôi đáp lại, “sẽ biến tối thứ Năm thành một dịp đặc biệt.” Và mọi người đều đồng ý với tôi rằng, trước tình huống này, chúng tôi đều đã mất hứng thú với mọi câu chuyện khác. Câu chuyện cuối cùng, dù không hoàn chỉnh và chỉ như mở đầu của một loạt truyện dài kì, đã được kể ra; chúng tôi bắt tay và “bắt nến”, như một người nói, rồi đi ngủ. Ngày hôm sau, tôi biết rằng một lá thư kèm theo chìa khoá đã được gửi đến căn hộ của Douglas ở London vào chuyến bưu chính đầu tiên. Nhưng dù tin đó đã bị lan truyền cho mọi người, hay phải chăng chính vì lẽ đó, chúng tôi để anh yên cho đến sau bữa tối, thực tế là tới tận khi đã khuya đến mức thích hợp với bầu không khí mà kỳ vọng của chúng tôi tạo lập nên. Khi đó anh trở nên cởi mở đúng như chúng tôi mong muốn và cho chúng tôi lí do chính đáng nhất về thái độ cởi mở đó. Một lần nữa chúng tôi tụ tập trước lò sưởi trong đại sảnh để nghe anh kể, giống như tối hôm trước, khi chúng tôi bị anh khơi gợi tâm trí. Có vẻ như bản tường thuật mà anh hứa sẽ đọc cho chúng tôi nghe thực sự cần một lời mở đầu thích đáng. Tôi xin được nói rõ rằng bản tường thuật mà tôi trình bày dưới đây được lấy từ bản chép nguyên văn do chính tôi ghi lại nhiều năm sau đó. Douglas tội nghiệp đã gửi bản thảo cho tôi trước khi chết - khi anh thấy rõ cái chết sắp đến gần. Bản thảo đến tay anh vào ngày thứ ba của cuộc tụ tập và vào đêm thứ tư, tại đúng chỗ hôm trước, với sự truyền cảm mạnh mẽ, anh bắt đầu đọc trước đám đông quây quần. May thay, các quý cô hôm trước hứa sẽ ở lại cuối cùng lại thất hứa: họ đã rời đi theo lịch trình định sẵn, mang theo lòng hiếu kì sôi sục mà anh đã gợi lên trong tất cả chúng tôi, theo như lời họ thừa nhận. Nhưng điều đó chỉ khiến đám đông thính giả cuối cùng của anh thêm thu gọn và có chọn lọc, chia sẻ một đam mê chung, vây quanh ngọn lửa. Những dòng đầu tiên cho biết rằng bản ghi chép này được thực hiện tại thời điểm sau khi câu chuyện đã bắt đầu. Theo đó, người bạn cũ của Douglas - cô con gái út của một mục sư nông thôn nghèo - ở tuổi hai mươi, đã đến London để nhận công việc dạy học đầu tiên. Lòng đầy hồi hộp, cô tới gặp mặt trực tiếp người đăng quảng cáo tuyển dụng mà trước đó cô đã trao đổi qua thư. Khi cô trình diện tại ngôi nhà đồ sộ và bề thế trên phố Harley, ông chủ tương lai thể hiện mình là một quý ông độc thân lịch thiệp đang tuổi tráng niên; hình tượng như vậy chưa từng xuất hiện, trừ trong mơ hay tiểu thuyết, trước một cô gái đầy xúc động, hồi hộp, đến từ một ngôi nhà của mục sư vùng Hampshire. Mẫu người như anh không bao giờ lỗi thời. Điển trai, bạo dạn và nhã nhặn, tự nhiên, vui vẻ và nhân từ. Tất nhiên anh gây cho cô ấn tượng lịch thiệp và phong nhã, nhưng điều chinh phục cô hơn cả và cho cô lòng dũng cảm mà cô thể hiện về sau là việc anh đã coi toàn bộ công việc của cô như một ân huệ, một trách nhiệm mà đáng lẽ anh phải vui lòng đảm đương. Cô nhận thấy anh giàu có, nhưng cũng xa hoa đến khiếp đảm - cô đã thấy anh trong trang phục đắt tiền hào nhoáng, trong diện mạo đẹp đẽ, trong những thói quen đắt đỏ, trong vẻ phong lưu trước mặt phụ nữ. Nơi ở tại thành phố của anh là một ngôi nhà rộng lớn chứa đầy chiến lợi phẩm và đồ lưu niệm từ du lịch và săn bắn; nhưng nơi anh muốn cô đến ngay lập tức là ngôi nhà ở quê, một biệt thự cổ của gia đình tại Essex. Anh bị trao quyền giám hộ hai đứa cháu một trai một gái, con của người anh trai trong quân ngũ, sau cái chết của cha mẹ chúng tại Ấn Độ vào hai năm trước. Với một người đàn ông ở địa vị của anh - độc thân, không có cả kinh nghiệm lẫn chút ít kiên nhẫn nào - bọn trẻ là gánh nặng rất lớn. Điều này gây ra nỗi lo lớn cùng một loạt sai lầm, hẳn nhiên là từ phía anh, nhưng anh vô cùng xót thương bọn trẻ tội nghiệp và đã làm tất cả những gì có thể. Cụ thể thì anh đã gửi chúng về ngôi nhà khác của mình ở nông thôn, là môi trường thích hợp dành cho chúng, và để chúng ở đó với những người tốt nhất mà anh tìm được để chăm nom chúng, anh thậm chí đã cử chính những người hầu của mình đi phục vụ chúng, và về thăm chúng mỗi khi có thể. Điều khó xử là chúng không còn người thân nào khác, mà việc riêng của anh đã chiếm dụng toàn bộ thời gian. Anh đã cho chúng sở hữu Bly, một nơi an toàn và lành mạnh, đồng thời cử bà Grose, một người phụ nữ xuất sắc, làm người đứng đầu tại dinh cơ nho nhỏ của chúng. Bà Grose từng là hầu gái cho mẹ của anh và anh tin chắc vị khách của mình sẽ quý mến bà. Hiện giờ bà là quản gia và cũng tạm thời đóng vai trò chăm nom bé gái; may mắn thay, bà cực kỳ yêu quý cô bé, vì bản thân bà không có con cái. Còn có nhiều người giúp việc khác, nhưng tất nhiên cô gái trẻ chuẩn bị đến đó làm gia sư sẽ nắm quyền hành tối cao. Vào các kỳ nghỉ, cô cũng sẽ phải trông nom bé trai, cậu bé đã đi học được một kì - dù tuổi hơi nhỏ, nhưng còn cách nào khác đâu? - và chuẩn bị về vì kỳ nghỉ sắp bắt đầu. Trước đó từng có một cô gái khác trông nom hai đứa trẻ nhưng cô ta không may đã mất. Cô ta làm việc khá xuất sắc - là một người hết sức đáng kính - cho đến khi qua đời, dẫn đến tình huống khó xử khiến cho Miles bé nhỏ không còn lựa chọn nào khác ngoài trường học. Kể từ đó, bà Grose đã phụ trách dạy dỗ Flora trong khả năng của mình, về mặt phép tắc và lễ nghi. Ngoài ra còn có một đầu bếp, hầu gái, người phụ nữ phụ trách việc bơ sữa, một con ngựa lùn già, cùng người giữ ngựa, và một người làm vườn già, tất cả đều vô cùng đáng kính. Sau khi Douglas trình bày bối cảnh đến đây, có người đặt câu hỏi. “Thế cô gia sư trước chết vì cái gì? Chết ngộp trong đáng kính chắc?” Bạn tôi trả lời ngay tức khắc. “Sau này sẽ nói. Tôi không báo trước.” “Xin lỗi, tôi nghĩ báo trước chính là việc anh đang làm.” “Đứng từ vị trí của người kế nhiệm cô ta,” tôi gợi ý, “tôi sẽ muốn được biết nếu công việc đi kèm với…” “Nguy hiểm đến tính mạng?” Douglas nói tiếp suy nghĩ của tôi. “Cô ấy quả thực muốn biết, và cô ấy đã biết. Ngày mai anh sẽ được nghe chuyện gì cô ấy đã biết. Còn trước mắt, tất nhiên, viễn cảnh đối với cô có vẻ ảm đạm. Cô còn trẻ, thiếu kinh nghiệm, đầy lo lắng: một viễn cảnh với nhiều trách nhiệm và ít bầu bạn, cùng nỗi cô đơn to lớn. Cô do dự - mất vài ngày đắn đo cân nhắc. Nhưng mức lương được trả cao hơn hẳn mức sống đạm bạc của cô. Cô đã nhận lời vào buổi phỏng vấn thứ hai.” Và đến đây, Douglas tạm dừng, khiến tôi góp lời thay mặt cho mọi người… “Mà cốt lõi của việc này tất nhiên là sức quyến rũ của chàng thanh niên phong nhã. Cô ấy đã bị chinh phục.” Anh đứng dậy và, như đã làm vào đêm hôm trước, bước về phía lò sưởi, dùng chân gẩy một thanh củi, rồi đứng quay lưng về phía chúng tôi trong chốc lát. “Cô chỉ gặp anh ta hai lần.” “Đúng vậy, nhưng điều đó càng nói lên tình cảm của cô ấy.” Tôi hơi ngạc nhiên khi Douglas nghe vậy và quay về phía tôi. “Chính là như thế. Có những người khác,” anh nói tiếp, “không bị chinh phục. Anh ta đã nói thành thật với cô mọi khó khăn của mình - rằng một số ứng viên khác cho rằng điều kiện công việc quá khắt khe. Vì lẽ nào đó họ thực sự e ngại. Công việc này nghe có vẻ tẻ nhạt - có vẻ kỳ quặc; và hơn hết là do điều kiện chính anh ta đặt ra.” “Đó là…?” “Là cô không bao giờ được làm phiền anh ta - tuyệt đối không bao giờ: dù là để yêu cầu, than phiền, hay vì bất kể lý do gì; cô chỉ có thể tự mình giải quyết mọi vấn để, nhận mọi khoản tiền từ luật sư của anh ta, đảm nhận toàn bộ trách nhiệm và để anh ta yên. Cô hứa sẽ làm như vậy, và cô kể với tôi rằng cô đã cảm thấy được đền đáp khi anh ta nắm lấy tay cô trong giây lát, vui mừng vì thoát khỏi gánh nặng, cảm ơn cô vì sự hi sinh.” “Nhưng cô ấy chỉ được đền đáp có như vậy thôi ư?” Một người trong cánh phụ nữ hỏi. “Cô ấy không bao giờ gặp anh ta nữa.” “Ôi!” Người phụ nữ nọ đáp. Và đó là từ duy nhất góp thêm vào chủ đề này, khi bạn chúng tôi lại một lần nữa lập tức bỏ chúng tôi mà đi, cho đến đêm hôm sau, bên góc lò sưởi, trong chiếc ghế thoải mái nhất, anh mở tấm bìa đỏ phai màu của một cuốn sổ mỏng viền vàng cũ kĩ. Cả câu chuyện mất hơn một đêm để kể, nhưng ngay khi có cơ hội, vẫn người phụ nữ hôm trước đặt một câu hỏi nữa. “Đầu đề anh đặt cho câu chuyện là gì?” “Tôi chưa đặt.” “Ôi, tôi thì có!” Tôi thốt lên. Nhưng Douglas không để ý đến tôi và bắt đầu đọc bằng giọng rành rọt như thể biểu đạt với tai người nghe vẻ đẹp của bút tích tác giả. Mời các bạn đón đọc Chuyện Ma Ám Ở Trang Viên Bly của tác giả Henry James & Nguyên Hương (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Ván Cờ Đổi Mạng
Cuốn tiểu thuyết kể câu chuyện về cuộc đấu tay đôi đến chết của một trò chơi cờ vua vẫn chưa kết thúc trong hơn 50 năm. Khi một doanh nhân người Đức bị phát hiện đã bị bắn chết, một bí ẩn mở ra cho người đọc về sự ganh đua của người đàn ông này với một cầu thủ cờ vua Do Thái xuất chúng và mở ra bí ẩn trong quá khứ của họ. *** Mở đầu quyển sách đúng là một vụ án. Một doanh nhân thành đạt đồng thời cũng là một kỳ thủ có tiếng một thời bị chết. Thi thể ông ta nằm ngửa trong vũng máu của chính ông ta, ở chính giữa mê cung, khẩu súng ngắn quân dụng cũ của ông ta được tìm thấy cách đó vài bước. Khẩu súng được lắp ống giảm thanh và đã không ai nghe thấy tiếng nổ. Họ tìm thấy trên bàn làm việc của ông ta là một bàn cờ vua được sắp xếp trong thế trận phức tạp của một ván cờ đang chơi dở. Đó là một bàn cờ rất lạ: những mảnh vải xơ xác cả sáng lẫn sẫm màu được khâu lại với nhau. Những chiếc khuy áo có kích cỡ khác nhau đại diện cho các quân cờ, biểu tượng của mỗi quân được vạch một cách thô sơ lên mặt khuy, có lẽ bằng đinh. Nhưng các bạn chớ có tìm hung thủ làm gì, cũng đừng trông mong gì những pha đấu trí nghẹt thở hay những cuộc phiêu lưu điều tra phá án của một vị thám tử tài ba mà ta thường thấy trong các tác phẩm trinh thám. Hay tìm thấy những khiếm khuyết trong tâm hồn của các nhân vật bị tổn thương về tâm lý trong các tác phẩm trinh thám mà thiên về tâm lý của tội phạm. Bởi cái chết của ông sẽ đưa bạn trở về một thời kỳ mà mỗi lần nhắc lại người ta không khỏi rùng mình. Thời kỳ mà người ta đã phải thốt lên rằng sao nỡ ăn thịt đồng loại của mình. Cái thời kỳ mà Đức Quốc Xã bài trừ người Do Thái, đưa họ đến những trại tập trung, đày đoạ họ, biến người Do Thái thành trò chơi, trò tiêu khiển, mạng họ trở thành ván cược trong một trò chơi rồi sau đó là những vụ thảm sát hàng loạt đẫm máu. Không chỉ là ván cờ thông thường mà đó là ván cờ cuộc đời, ván cờ đổi mạng. Binh Boog *** Người ta nói rằng cờ vua được sinh ra trong đổ máu. Truyền thuyết kể lại khi trò chơi này lần đầu tiên được ra mắt trước triều đình, nhà vua quyết định thưởng cho người phát minh vô danh của nó bằng cách đáp ứng bất cứ sở nguyện nào của ông ta. Phần thưởng nhà phát minh thỉnh cầu có vẻ thật khiêm nhường: tổng số lượng gạo gộp lại khi đặt một hạt gạo lên ô đầu tiên trong số 64 ô của bàn cờ, rồi hai hạt lên ô thứ hai, bốn hạt lên ô thứ ba, cứ như thế. Thoạt đầu, nhà vua vui vẻ đồng ý, song đến khi nhận ra tất cả các kho lương vựa lúa trong vương quốc của mình, hay có khi cả thế gian, cũng không thể cung ứng đủ lượng gạo như thế, ông ta thấy tốt hơn nên giải thoát cho mình khỏi thế khó bằng cách cho chém đầu người phát minh khốn khổ. Truyền thuyết không nhắc tới chuyện nhà vua sau đó còn phải trả cái giá đắt hơn, ông ta bị trò chơi mới mê hoặc tới mức mất trí. Hóa ra chỉ có sự tham lam của chính trò chơi ấy mới bì kịp lòng tham của người phát minh trong truyền thuyết. Các báo ra hôm nay thuật lại cái chết của một người đàn ông tại một ngôi làng nằm cách Vienna không xa. Hôm qua, sáng Chủ nhật, một người có tên Dieter Frisch chết vì bị bắn. Báo cáo pháp y cho biết thời gian tử vong là khoảng 4 giờ sáng, kết quả của một phát đạn súng ngắn ở cự ly rất gần, viên đạn xuyên qua vòm họng và vọt ra qua thùy chẩm. Bài tường thuật trên báo đi kèm một bức ảnh mới chụp gần đây của người chết, cho thấy ông ta đang thư thái ngoài khu sân vườn ngôi biệt thự của mình như một điền chủ miền quê vừa trở về sau cuốc đi dạo thường ngày. Mặc đồ vải lanh sáng màu, ngồi duỗi trên chiếc ghế đan bằng liễu gai, vẻ như ông ta đang chìa bàn tay ra vuốt ve một trong hai con chó cuộn tròn dưới chân. Tôi đã xem bức ảnh đó và thấy thật khó nhận ra khuôn mặt, vì nó bị chìm dưới bóng cái vành một món đội đầu trông giống mũ Panama nhẹ. Chẳng lẽ diện mạo của một con người chỉ đơn thuần là tổng hòa của hình khối và trọng lượng, là những đường nét của một cấu trúc cơ thịt? Hay còn có thứ gì khác lâu bền hơn, nằm bất biến dưới những lớp thời gian tàn nhẫn? Ẩn dưới cái tên và diện mạo đó có khi nào là người tôi quen biết? Chỉ sau một hồi tập trung, những nét mặt đuợc luu giữ thật sâu trong trí nhớ tôi lại hiện lên, nhu một tấm hình trong suốt áp chồng lên khuôn mặt đã bị thời gian bào mòn song trông vẫn còn trẻ một cách ngoan cường đó. Các hàng tít nói nhiều tới sự ra đi của “nhân vật xuất chúng” này, song không hề nói xem chuyện này xảy ra như thế nào. Dưới sức ép từ gia đình nạn nhân, kiên quyết bác bỏ giả thuyết tự sát, gần nhu tất cả các tờ báo đều nhắc đến một “tai nạn”, “sự cố” hay cái chết trong “tình huống khó hiểu”. Cho dù bằng chứng có là gì đi nữa, nó cũng trở nên vô giá trị khi thiếu vắng một động cơ hợp lý. Tất cả những ai từng biết ông ta dường như đều sẵn sàng thề rằng ông ta hoàn toàn không có bất cứ lý do nào để tự kết liễu đời mình. Ông ta chưa bao giờ bị trầm cảm hay tỏ ra chán đời. Lần kiểm tra cuối cùng, mới gần đây, cho thấy sức khỏe ông ta hoàn toàn bình thường, và ông ta có phom dáng đáng để thèm muốn: ở tuổi sáu mươi tám, ông ta vẫn tích cực chơi các môn thể thao ưa thích, tennis và cưỡi ngựa, dù vẫn hơi tập tễnh kể từ cuộc phẫu thuật sau chấn thương do ngã ngựa. Cũng không hề có bất cứ dấu hiệu nào của rắc rối tài chính. Trên thực tế, chỉ vài ngày trước đó ông ta vừa giành được một hợp đồng xây dựng trị giá nhiều triệu đô la từ Bundesbank. Frisch là một trong những người dường như được vận may mỉm cười trong mọi lĩnh vực. Ông ta kết hôn với một người thừa kế giàu có và có bốn con trai, tất cả giờ đây đều có địa vị nổi bật trong xã hội. Ông ta có một cuộc sống ngăn nắp bình lặng, tuần dành ra bốn ngày ở Munich để điều hành việc làm ăn và quay lại Vienna vào thứ Sáu để được lái xe đưa tới nơi ông ta thích rồi dùng toàn bộ thời gian tự do của mình ở đó: một biệt thự nằm giữa khu tư viên mênh mông, bao quanh là khu săn bắn rộng 125 mẫu. Khu tư viên, được xây dựng từ cuối thế kỷ mười tám, từ lâu đã trở thành một điểm thu hút khách du lịch, được mở cửa vào mùa hè. Khách tới thăm được phép tham quan trại nuôi ngựa và tản bộ khắp khu đất, một kiệt tác thực thụ về nghệ thuật làm vườn và điều tiết nước, được thiết kế từ hơn một thế kỷ trước. Điểm nhấn là một mê cung đồng tâm được tạo thành từ những hàng rào cây cao ba mét dẫn tới một khoảng trống hình bàn cờ lát những phiến cẩm thạch vuông màu trắng và đen. Ở hai đầu đối diện của bàn cờ, các quân cờ đã được cẩn thận tạo nên bằng cách xén tỉa những cái cây tán rậm cao bằng người thật. Các quân đen được tạo thành từ thủy tùng, quân trắng từ hoàng dương. Như phần lớn những người ở tuổi mình, Frisch sống nề nếp. Một tuần ba ngày ở biệt thự, đúng 7 rưỡi sáng ông ta dậy và dành ra đúng năm phút dưới bể bơi nước lạnh trong nhà, tiếp đó là vài động tác thể dục mềm dẻo và tiến trình chỉnh trang mặc đồ tỉ mẩn như một nghi lễ. Đến khoảng 8 giờ, đã ăn vận chỉnh tề, ông ta sẽ đi xuống phòng ngồi chơi rộng thênh thang dùng bữa sáng thanh đạm được bưng ra trên những món đồ sứ tinh xảo: tách cà phê đen không đường và ít bánh mì nướng làm hoàn toàn từ bột mì cùng xíu mứt cam. Sau đó, ông ta sẽ lui vào phòng làm việc và dành thời gian còn lại của buổi sáng cho niềm đam mê lớn của bản thân, cờ vua. Ông ta sở hữu tất cả sách vở tài liệu về chủ đề này và tự hào về một bộ sưu tập quý giá những bộ cờ vua cổ. Cho dù đã nhiều năm không thi đấu, ông ta vẫn thuộc hàng kiện tướng và là chủ bút của một tạp chí uy tín về cờ vua. Mọi bằng chứng cho phép phỏng đoán là đã không có gì tác động đến thời gian biểu thường quy của ông ta cho tới tối thứ Sáu cuối cùng. Lái xe đến đón ông ta tại nhà ga ở Vienna như thường lệ. Họ chỉ trao đổi với nhau vài lời trên đường quay về biệt thự, và về tới đó lúc nửa đêm - chính xác là 1 giờ 45 phút. (Người lái xe luôn cẩn thận tính toán thời gian chuyến đi.) Frisch ra khỏi xe, và như thường lệ, trước hết đi tới khu chuồng chó, vuốt ve từng con trong số “cún con” của mình, đáp lại màn chào đón hân hoan của chúng. Sau đó ông ta vào nhà. Như tất cả những thứ Sáu khác. Nhưng ngay sáng sớm thứ Bảy bà hầu phòng lớn tuổi đã để ý thấy một điều lạ lùng trong cách cư xử của ông chủ. Frisch trông có vẻ như đã ngủ rất ít và không ngon giấc. Trên thực tế, bà sẵn sàng thề rằng kể cả có lên giường nằm, ông ta cũng không buồn cởi đồ. Vốn quen lấy thời gian biểu thường quy chính xác như đồng hồ của ngôi biệt thự làm niềm khuây khỏa lớn lao nhất, bà này rất lo lắng trước sự thay đổi đột ngột trong thói quen của ông chủ. Tuy nhiên, là một người làm công tận tụy hết lòng, bà cảm thấy ở vị trí của mình bà không nên nói gì với ai, thậm chí cả với những người làm khác. Bà cũng không báo với vợ Frisch, một phần vì vợ chồng ông ta ở các khu khác nhau của biệt thự và trên thực tế là sống đời riêng, chỉ xuất hiện cùng nhau ở những dịp lễ lạt hiếm hoi có tính nghi thức. Theo lời kể của bà hầu phòng, Tiến sĩ Frisch không hề ăn sáng ngày hôm đó, và bữa trưa của ông, được bưng tới vào giờ thường lệ, còn nguyên trên khay không được đụng đến. Ông ta dường như đã trải qua cả ngày một mình trong nhà, không tiếp vị khách nào. Chỉ khi nhân chứng của chúng ta mang bữa tối tới cho ông ta trong phòng làm việc, bà mới để ý thấy một ngọn đèn đã được bật lên. Nó vẫn bật khi bà đi ngủ vào khoảng 2 giờ sáng. Chủ nhật, quá 8 giờ sáng rất lâu mà vẫn chưa thấy bóng dáng Frisch. Lo lắng trước sự chậm trễ khác thường này, bà hầu phòng lên lầu tới phòng ngủ. Thấy trong phòng không có ai, giường chiếu phẳng phiu, thoạt đầu bà nghĩ ông chủ đã ngủ qua đêm ở nơi khác, dù đó không phải là thói quen của ông ta. Bà bắt đầu nghi ngờ khi thấy không thiếu chiếc xe nào trong gara. Sau đó, bà liên tục gõ cửa phòng làm việc, lớn tiếng gọi tên ông chủ. Không thấy ai trả lời, bà quyết định vào trong phòng, nhưng không có ai trong đó. Đến lúc này, bà cảm thấy mình không có lựa chọn nào khác ngoài đánh thức vợ Frisch, một nước đi không phải không có rủi ro, vì bà chủ nhà bị chứng mất ngủ hành hạ và vào thời điểm đó rất có thể đang tận hưởng thời khắc nghỉ ngơi đầu tiên của mình. Toàn bộ người làm nhanh chóng được huy động để tìm kiếm khắp hai mươi tám căn phòng, các hầm, khu dành cho khách, cuộc tìm kiếm được mở rộng ra tận khu tư viên xung quanh nhưng vẫn công cốc. Cuối cùng, một người nghĩ tới chuyện đưa mấy con chó của ông chủ tới. Hai con chó chăn cừu Đức yêu quý của ông ta đã sủa liên tục suốt buổi sáng. Khi con thứ nhất được thả ra, nó lao thẳng tới chỗ mê cung trong vườn; con thứ hai, được tròng dây, lập tức dẫn họ tới nơi. Thi thể Frisch, nằm ngửa trong vũng máu của chính ông ta, ở chính giữa mê cung; khẩu súng ngắn quân dụng cũ của ông ta được tìm thấy cách đó vài bước. Khẩu súng được lắp ống giảm thanh, và đã không ai nghe thấy tiếng nổ. Họ tìm kiếm xem có lời nhắn nào không nhưng vô ích, tất cả những gì họ thấy trên bàn làm việc của ông ta là một bàn cờ vua được sắp xếp trong thế trận phức tạp của một ván cờ đang chơi dở. Đó là một bàn cờ rất lạ: những mảnh vải xơ xác cả sáng lẫn sẫm màu được khâu lại với nhau. Những chiếc khuy áo có kích cỡ khác nhau đại diện cho các quân cờ, biểu tượng của mỗi quân được vạch một cách thô sơ lên mặt khuy, có lẽ bằng đinh. Trong tất cả các tờ báo tường thuật lại hiện trường được những nhân chứng tìm thấy, chỉ có một bài, trên một tờ báo tỉnh lẻ rất có thể thiếu thông tin trực tiếp, là bình luận về chi tiết có vẻ vặt vãnh này. Bài báo kết luận: “Sẽ không ai biết được vì sao Tiến sĩ Frisch lại chọn một mảnh giẻ rách như thế thay vì bộ sưu tập quý giá nổi tiếng của ông. Có lẽ nó chỉ được dùng cho ván đấu cờ cuối cùng của ông, với cái chết.” Mời các bạn đón đọc Ván Cờ Đổi Mạng của tác giả Paolo Maurensig.
Đốt Cháy Băng Giá
Nếu bạn là cô gái Dusty, nghe tiếng con trai lạ mặt tự nhận là người anh trai Josh mất tích bấy lâu của mình, bạn sẽ hoảng loạn và gọi điện cho cảnh sát? Bạn sẽ khóc oà và chạy vào phòng bố? Bạn sẽ cố ngủ vùi để quên đi giọng nói đầy ám ảnh? Bạn sẽ chạy thẳng vào trong cơn bão tuyết để rồi bị nhấn chìm trong màn đêm đen thẳm? Hay là... Đợi chờ tới đêm mai, Giữa màn đêm mịt mùng, khi bão tuyết gào rú, Chuông điện thoại lại reo... Và người con trai lạ mặt ấy, vẫn đợi bạn...! Sự xuất hiện của cậu bé kì lạ với cuộc điện thoại mỗi đêm khuya đã làm thay đổi cuộc đời Dusty. Những nghi ngờ và rượt đuổi, những bí mật kinh khủng được giấu kín, những sự thật không ai muốn phơi bày, sự sống dậy của một linh hồn tội lỗi... Tất cả cùng cuốn theo mạch câu chuyện để rồi ẩn số tưởng chừng không thể được giải mã dần hé lộ trong ánh sáng ảm đạm của buổi sáng mùa đông sau cơn bão tuyết điên cuồng... Không chỉ là một chuỗi kịch tính khiến bạn chẳng thể rời khỏi trang sách, Đốt Cháy Băng Giá còn mang một ý nghĩa nhân văn to lớn, mà chỉ đến những tình tiết cuối cùng người đọc mới nhận ra. Được thừa nhận về mặt ý tưởng cũng như cách kể chuyện lôi cuốn, Đốt Cháy Băng Giá của tác giả trẻ Tim Bowler đã gặt hái được rất nhiều giải thưởng về Sách hàng đầu như: Giải thưởng Sách Hull 2007, Giải thưởng Sách Highland 2007, Giải thưởng Sách Redbridge 2007, Giải thưởng Sách Trường Stockport 2007, Giải thưởng Sách Teen South Lanarkshire 2008, Giải thưởng Trường Sách Southern 2009, v.v. ... Nếu bạn là một tín đồ của viễn tưởng và kinh dị, Đốt Cháy Băng Giá chính là lựa chọn hàng đầu cho các bạn độc giả trẻ tuổi. Nếu tiết trời đang rét buốt, tốt thôi, hãy chuẩn bị một tách trà thật nóng, một góc quán thật tĩnh mịch, để hoà mình vào từng nhịp thở dồn dập của Đốt Cháy Băng Giá bạn nhé. Và nhớ là: Đốt Cháy Băng Giá không dành cho những cô nàng yếu tim! *** Sinh: 14 tháng 11, 1953 (tuổi 62), Leigh-on-Sea, Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland Tác giả Tim Bowler là nhà văn người Anh chuyên viết truyện cho lứa tuổi thanh thiếu niên. Ông đã có 19 tác phẩm được xuất bản, đoạt 15 giải thưởng, trong đó có giải thưởng danh giá Carnegie Medal cho tác phẩmCậu bé của sông phát hành vào tháng 8 vừa qua. Nếu như Cậu bé của sông là sự khám phá kỳ diệu, mãnh liệt về những tình cảm gắn bó của một cậu bé mới lớn với người ông bẳn tính thì trong Những cái bóng vừa được phát hành vào đầu tháng 12, Jamie, một cầu thủ quần vợt 17 tuổi luôn tự tìm cách để thoát khỏi cái bóng của cha tồn tại trong cuộc sống của cậu. *** “Tôi sắp chết rồi,” giọng nói lạ cất lên. Dusty siết chặt cái điện thoại. Cô không biết người này là ai. Một tên con trai chạc tuổi cô, căn cứ vào tiếng nói của hắn ta - khoảng chừng mười lăm, mười sáu tuổi, có lẽ lớn hơn một chút. “Có ai ở đầu dây không?” tên đó thì thào. Giọng hắn líu nhíu giận dữ. Cô liếc nhìn đồng hồ. Hai mươi phút nữa là tới nửa đêm. Cô đã trả lời điện thoại ngay lập tức vì nghĩ là ba gọi về báo ông bị kẹt vì tuyết rơi nhưng đang trên đường về. Cô không ngờ lại là tên con trai này. “Có ai ở đó không?” hắn hỏi. “Anh là ai?” Chỉ có tiếng ho khan đáp lại. “Và làm thế nào anh có số điện thoại này?” cô hỏi. “Chúng tôi không nằm trong danh bạ điện thoại.” Lại một tiếng ho nữa nhưng lần này hắn trả lời. “Tôi chỉ nghĩ đại ra một số điện thoại và quay số thôi.” Cô nhăn mặt. Đây hẳn là một trò chơi khăm rồi. Tối thứ Sáu, đêm giao thừa. Một tên con trai nào đó đang chọc phá bạn bè. Nếu lắng nghe thật kỹ, có lẽ cô sẽ nghe thấy được cả tiếng cười thầm bị nén lại ở đằng đó. Nhưng tất cả âm thanh cô nghe thấy là hơi thở khò khè nặng nhọc của hắn ở đầu dây bên kia. Cô nghĩ đến ba đang ở Beckdale hẹn hò. Cô đang vui vẻ ở nhà một mình lần đầu tiên sau nhiều tuần lễ, đặc biệt sau tất cả rắc rối mà cô đã bày ra để khiến ba đi đến cuộc hẹn, nhưng giờ cô ước gì ông mau chóng về nhà. “Cô có nghe tôi nói không?” hắn luống cuống nói. “Tôi đã nói tôi sắp chết mà.” Cô biết đó không phải sự thật. Nếu tên này thật sự gặp nguy hiểm thì hắn ta không thể nào nghĩ đại ra một con số rồi gọi nó. Hắn sẽ gọi 999. “Anh nên gọi cảnh sát,” cô nói. “Tôi không muốn cảnh sát.” “Thế thì là xe cứu thương.” “Tôi không muốn xe cứu thương.” “Nhưng anh nói là anh sắp chết mà.” “Tôi sắp chết đây.” “Thế thì anh cần gọi...” “Tôi không cần gọi bất cứ ai cả. Tôi đã nói tôi sắp chết mà. Tôi không nói là tôi muốn sống.” Một khoảng im lặng nặng nề mà cô chẳng thích thú gì. “Tôi vừa mới dùng thuốc quá liều,” hắn nói. Cô cắn môi, không chắc chắn phải tin vào điều gì nữa và miễn cưỡng bị lôi kéo sâu hơn vào thế giới của tên con trai này. Có thể hắn đang nói thật, có thể không, nhưng cho dù rắc rối của hắn là gì đi nữa thì đó cũng không phải là chuyện người khác có thể giải quyết được. “Tôi không thể giúp anh,” cô nói. “Cô có thể. Tôi chỉ muốn nghe một giọng nói thân thiện thôi. Ai đó để nói chuyện trong khi tôi lịm dần đi.” “Anh cần thành viên của hội bác ái chứ không phải tôi. Tôi sẽ cho anh số của họ.” “Tôi không cần hội bác ái,” hắn nói. “Tôi cần cô.” Chuyện này đang bắt đầu sởn gai ốc rồi đây. Tất cả bản năng của cô mách bảo cô hãy dập điện thoại ngay. Nhưng trước khi cô kịp làm vậy hắn lại nói. “Cô bao nhiêu tuổi?” “Không phải chuyện của anh.” “Cô nghe chừng khoảng mười lăm.” Cô không nói gì. Hắn ta đã đoán trúng, có lẽ chỉ là ăn may nhưng nó vẫn khiến cô lúng túng. “Cô tên gì?” hắn hỏi. “Đấy cũng không phải chuyện của anh.” “Sao cô không cho tôi biết nhỉ?” “Bởi vì nó không liên quan đến anh.” “Tên tôi là Josh.” Cô siết chặt máy điện thoại. Josh - trong tất cả những cái tên nó đã được chọn. Hắn lại nói. “Tôi đã nói tôi tên Josh mà.” “Không, đó không phải tên anh.” Cô đáp. Cô thầm cầu nguyện là mình đã đúng. Cô không muốn bất cứ ai tên là Josh cả. Một khoảng im lặng, rồi hắn nói. “Cô nói đúng. Nó không phải tên tôi. Nhưng cô có thể gọi tôi là Josh nếu cô muốn. Ý tôi là chỉ cần cho tôi có một cái tên là được.” “Tôi không hứng thú với việc đặt tên cho anh.” “Tùy ý cô thôi.” Hắn ta ngừng một chút. “Còn cô thì sao?” “Tôi thì sao cơ?” “Hãy cho tôi một cái tên để tôi có thể gọi cô. Bất cứ cái tên nào cô thích.” Lại một lần nữa bản năng trong cô gào thét bắt cô dập máy. Mấy cái trò tên tuổi này khiến cô cảm thấy dễ tổn thương, đặc biệt là chuyện nói về Josh. Cô bắt đầu cảm thấy thắc mắc về tên này. Hắn hoàn toàn là người xa lạ đối với cô, nhưng lại chọn ra một cái tên vô cùng có ý nghĩa với cô. Có thể đây là một sự trùng hợp ngẫu nhiên. Nhưng cũng có thể hắn biết cô là ai, nơi cô sống và ngay lúc này đang theo dõi nhà cô. Cô liếc mắt nhìn ra phòng khách. Đấy là căn phòng duy nhất trong nhà đang bật đèn sáng, nếu hắn đang quan sát từ bên ngoài, hắn chắc chắn đang nhìn chăm chăm vào ô cửa sổ này. Cô mừng là rèm cửa đã được kéo vào rồi. Nhưng điều đó không khiến cô cảm thấy an toàn hơn. Bản thân Thorn Cottage là một ngôi nhà duyên dáng đẹp đẽ. Vùng ngoại ô của Beckdale cách đó vài dặm về bên phải và không có gì ở bên trái ngoại trừ công viên Stonewell và khu đồng hoang Kilbury, xa xa là cái hồ và những đồi dốc đá, ở đây ít được bảo vệ. “Tôi không phải đang theo dõi qua cửa sổ đâu,” hắn đột nhiên nói. “Tôi không biết cô là ai và sống ở đâu.” Cô rùng mình. Dường như hắn có thể nói ra từng nỗi sợ hãi đang lướt qua tâm trí cô lúc này. Nhưng điều tiếp theo hắn nói mới càng làm tăng thêm nỗi lo sợ của cô. “Daisy à?” Cô cứng đờ người. “Anh nói gì cơ?” “Daisy. Tôi đang cố đoán tên cô. Thứ gì đó đại loại như Daisy.” Cô nuốt khan và lại thấy ánh mắt mình đang liếc về phía những tấm rèm cửa. “Tôi đã bảo rồi,” hắn nói. “Tôi không phải đang theo dõi ngoài cửa sổ đâu.” Bây giờ thì cô hoảng sợ thật sự. Tên con trai này dường như biết mọi điều cô đang làm và đang nghĩ. Cô cố gắng lý trí hơn. Có thể chuyện đó với hắn ta không khó khăn gì. Hắn chắc phải biết một cô gái trẻ trong hoàn cảnh thế này sẽ sợ hãi, nhận ra cô đang thắc mắc hắn ở đâu và có thể đang liếc nhìn ra cửa sổ. Nhưng cái tên Josh, rồi còn... Daisy nữa chứ. Nó không chính xác nhưng cũng gần đúng. “Tôi không phải tên Daisy,” cô chậm rãi nói. “Tôi không nghĩ cô tên đó,” hắn nói. “Nhưng nó gần giống như thế, đúng không?” Cô không trả lời. “Thế... Cô nàng cá tính thì sao?” hắn lại nói. “Tôi có thể gọi cô như thế không? Tôi biết nó thật quái dị nhưng cô nghe có vẻ giống một cô nàng bạo dạn.” Cô thở gấp. Bây giờ thì nghiêm trọng rồi đây. Chỉ duy nhất một người trên thế giới này từng gọi cô là cô nàng cá tính. Đó là cách gọi thân mật người đó dành cho cô, và thật quá mức không bình thường khi hắn có thể đoán được. Anh chàng này biết cô là ai - và còn biết nhiều là đằng khác. “Josh đang ở đâu?” cô lạnh lùng hỏi. “Tôi không biết ai tên Josh cả.” “Anh ấy đâu? Nói cho tôi biết.” “Tôi không biết ai là Josh mà.” “Anh vừa mới nói cái tên Josh một phút trước còn gì.” “Tôi bịa ra thôi. Giống như tôi nghĩ đại ra số điện thoại nhà cô ấy. Và cái tên Daisy nữa.” “Cả cô nàng cá tính nữa?” “Phải. Sao nào? Có ai gọi cô bằng cái tên đó à?” Cô không trả lời, đúng hơn là không muốn trả lời. Lúc này những nghi ngờ đang chạy đua trong đầu cô. Anh chàng này biết nhiều hơn so với những gì hắn chịu thừa nhận. Cô phải tìm hiểu cho ra đó là gì. Một khuôn mặt chập chờn hiền ra trong tâm trí cô: gương mặt cô đã không được thấy từ hai năm nay nhưng nó vẫn luôn ám ảnh từng ngày, đôi khi là từng giờ, thậm chí dường như là từng phút trong đời cô. “Josh đang ở đâu?” Cô lại hỏi. “Tôi đã nói cô rồi. Tôi không biết ai tên Josh cả.” “Anh biết.” “Tôi không biết.” “Nhưng anh vừa nói...” “Tôi không quan tâm mình đã nói gì.” Giọng hắn bây giờ nghe đã có vẻ cáu kỉnh. “Tôi không quan tâm ma xui quỷ khiến thế quái nào, được chứ? Tôi đã nói điều tôi nói. Tôi không biết nó nảy nòi ra từ đâu cả.” Cô cố gắng làm mình bình tĩnh lại. Cô biết phải thận trọng, phải thăm dò tên này nhưng nếu cô dồn ép quá, hắn sẽ gác máy. “Hãy cho tôi biết tại sao anh lại chọn mấy cái tên ấy,” cô nói. Nhưng tên đó không trả lời. Thay vào đó cô nghe thấy hắn đang nôn khan ở đầu dây bên kia. Cô lắng nghe, đầu óc rối bời. Nếu trò này chỉ là diễn kịch thì nó khá là đạt đấy. Tiếng nôn ọe tiếp tục dường như một lúc lâu, rồi đột nhiên ngừng lại. “Anh ổn chứ?” cô hỏi. Không trả lời, chỉ có một tiếng động khác mà cô lập tức nhận ra nó là tiếng gì. “Anh đang uống thứ gì đó,” cô nói. “Là gì thế?” “Rượu rẻ tiền,” có tiếp đáp lại. “Mùi vị như cứt ý.” Cô nghe thấy một tiếng lọc xọc. “Gì thế?” cô hỏi. “Cái gì cơ?” “Âm thanh đó.” “Đây á?” Và cô lại nghe thấy tiếng lọc xọc đó lần nữa. “Phải rồi.” “Lọ thuốc viên,” hắn nói. “Tôi nghĩ mình có thể vật vã lần cuối nhiều nên mang thêm một ít nữa. Nếu mà tôi có thể bỏ cái nắp chết tiệt này ra.” “Nghe này,” cô bắt đầu định nói. Nhưng tên con trai kia không nghe nữa. Hắn ta hình như đã bỏ điện thoại xuống và đang đánh vật để mở lọ thuốc ra. Cô nghe tiếng hắn chửi rủa mình khi vặn cái nắp lọ. Sau đó cô nghe thấy tiếng rên rỉ hài lòng, tiếp theo sau đấy là một khoảng im lặng. “Anh còn đó không?” cô hỏi. Không có tiếng trả lời. Cô cố suy nghĩ. Bây giờ cô tin rằng tên con trai kia đã dùng quá liều thuốc và thậm chí ngay lúc này cũng đang nuốt thêm thuốc nữa. Nhưng cô cũng tin rằng hắn biết điều gì đó về Josh. Cô phải moi cho được những gì có thể từ chỗ hắn. Nhưng trước hết cô phải cứu sống hắn đã, điều đó có nghĩa là phải tìm ra xem hắn đang ở đâu. Nếu may mắn hắn sẽ nói cho cô biết. Có khả năng đây không phải là một nỗ lực tự sát mà là một lời cầu cứu. “Anh còn đấy không?” cô lại gọi.   Mời các bạn đón đọc Đốt Cháy Băng Giá của tác giả Tim Bowler.
Những Miền Linh Dị - Ấn Độ
Những trải nghiệm kinh hoàng đã chia tách hai người bạn, chỉ còn 1 người phiêu bạt sang Ấn Độ tiếp tục hành trình chân tướng. Từ đất nước của nền văn minh sông Hằng cổ xưa và huyền bí, những câu chuyện ly kỳ liên tục truyền về. Phong tục thủy táng trên sông Hằng, truyền thuyết về vua Asoka in dấu trên tám vạn bốn ngàn chùa tháp, bóng ma áo đỏ trên bãi biển Dumas và loài hoa địa ngục Manjusaka, tín ngưỡng thờ thần Silva và làng người mặt bò, thuật yoga Kundalini và người rắn bất tử, các tu sĩ Aghori chuyên ăn xác chết nổi trên sông Hằng, những bức phù điêu sắc dục trong đền thờ thần tình ái Khajuraho... Và hai người bạn lại gặp nhau trong trải nghiệm kinh hồn tại pháo đài ma ám Bhangarh Fort... *** Bộ sách Những Miền Linh Dị gồm có: Những Miền Linh Dị - Tập 1: Thái Lan Những Miền Linh Dị - Tập 2: Nhật Bản Những Miền Linh Dị - Tập 3: Ấn Độ Những Miền Linh Dị - Tập 4: Hàn Quốc ... *** Tôi nằm trên giường, nghe Nguyệt Bính kể chuyện suốt đêm. Khi Nguyệt Bính kể xong câu chuyện cuối cùng thì cậu bạn phòng bên đã mở cửa tập thể dục buổi sáng. Tôi nhìn ra cửa, đôi mắt kèm nhèm và đỏ sọng khiến tôi nhìn cậu bạn mà như nhìn qua một lớp sương mù. Nguyệt Bính nằm vật ra giường: "Mệt quá, tao ngủ tí nhé. Mày nhớ mua cơm chiều cho tao, trưa đừng có gọi tao, có gọi tao cũng chẳng bò dậy nổi." Tuy mắt tôi cũng chực sập xuống, nhưng những câu chuyện của Nguyệt Bính khiến tôi sợ hãi và ám ảnh, cứ nhắm mắt lại là những lời kể của nó lại biến thành hình ảnh hiện ra sống động trong đầu. Tôi buộc phải ngồi dậy rửa mặt, rồi đứng trước tấm bản đồ thế giới treo trên tường ngắm nghía hồi lâu. Đất nước Ấn Độ nằm trong đường viền biên giới, trông y như một viên kim cương cỡ lớn. Ấn Độ, một đất nước gây ấn tượng với người ta bởi vẻ huyền bí vô tận, bởi nền văn hoá độc đáo, bởi nền văn minh cổ đại có lịch sử lâu đời, bởi lịch sử Phật Giáo, bởi Mahatma Gandhi và thi nhân Rabindranath Tagore, nhưng những câu chuyện ly kỳ ẩn sâu trong đó thì không phải ai cũng biết... Nguyệt Bính đã kể cho tôi nghe những câu chuyện đích thân nó đã trải qua, và cả những truyền thuyết lượm lặt được trên đường lang bạt. Tuy đã trải qua những chuyện kinh tâm động phách ở Thái Lan và Nhật Bản, nhưng những câu chuyện nó kể vẫn khiến tôi phải chấn động. Có lẽ đúng như nó nói: "Khi thực sự vươn tới đỉnh cao của khoa học, mày sẽ phát hiện, tất cả những điều người bình thường không thể lý giải nổi. Người thành thị hiện đại chỉ biết đến vài cảnh chiến tranh qua phim ảnh, không bao giờ có thể cảm nhận được sự thực tàn khốc của chiến tranh. Khoảng cách giữa sự thực và hư ảo chỉ là ở chỗ, có dám đặt chân vào một thế giới khác không, có dám động chạm đến những thứ khác biệt không. Giống như hai chúng ta, sau khi bước vào thế giới này, tự nhiên sẽ nhìn thấy thứ mà người khác không bao giờ nhìn thấy, không bao giờ chạm tới." Nó nói đúng, đây chính là số mệnh của chúng tôi! Mời các bạn đón đọc Những Miền Linh Dị - Tập 3: Ấn Độ của tác giả Dương Hành Triệt.
Lời Cảnh Báo
Thời gian mười bốn ngày đã trôi qua quá nửa, những câu chuyện cũng ngày một đặc sắc. Sự trùng hợp kì lạ giữa những câu chuyện từ đâu mà có? Là "đạo văn" hay ẩn giấu một bí mật gì? Cậu bé lao ra từ nghĩa địa hoang vắng bị một vụ tai nạn xóa sạch mọi kí ức. Không biết chữ, không có cảm giác đau, sức khỏe phi thường, sở thích ăn thịt sống... cậu ta rốt cục là người hay ma quỷ? Trò chơi tử thần vẫn tiếp tục, điều gì đang đợi những "người chơi"? "Người tổ chức" sẽ tung thêm những "chiêu" gì mới? Mục đích của kẻ đó là gì? Bí ẩn nào sắp được hé lộ? *** Tác giả Ninh Hàng Nhất tên thật là Ninh Hàng, là nhà văn chuyên viết tiểu thuyết trinh thám kinh dị. Anh bắt đầu nghiệp viết từ năm 1999, tới nay đã là một tay bút chuyên nghiệp kiêm biên kịch phim. Tác phẩm của anh được đăng trên nhiều các tạp chí, trang mạng lớn của Trung Quốc, còn được dịch và đăng trên các tạp chí ngoại văn. Một số tác phẩm tiêu biểu có thể kể đến “Tiếng đêm”, “Hẹn với thần chết”, “Chuyến đi sống còn”, “Lời nguyền ngày tận thế”. Ninh Hàng Nhất được đánh giá là cây đại thụ trong làng tiểu thuyết trinh thám mới, là “Alfred Hitchcock” của Trung Quốc. Bộ tiểu thuyết trinh thám 1/14 Trò chơi tử thần gồm có 5 tập hiện đã được xuất bản xong tại Việt Nam, đã được khá nhiều độc giả Việt đón nhận, được đánh giá là bộ tiểu thuyết trinh thám xen lẫn kinh dị gây tiếng vang lớn. Trò chơi cấm là một trong những cuốn series trinh thám mới nhất của tác giả này được xuất bản tại Việt Nam.   Bộ 1/14 gồm có: Trò Chơi Tử Thần Khách Trọ Và Xác Sống Lời Cảnh Báo Người Thừa Thứ 14 14 Ngày Kinh Hoàng *** Cuối cùng tôi cũng hiểu ra, chỉ có người chết mới có thể rời khỏi nơi này!” Một tờ giấy được viết bằng máu, nhìn qua hệt như lá thư mời đến từ địa ngục, khiến cho mười ba tác giả tiểu thuyết kinh dị có mặt đều sốc đến sững người, toàn thân lạnh toát. Một câu đố mới đã được đặt ra. Nam Thiên hít một hơi khí lạnh - Lá huyết thư này được đặt trên ghế mà Uất Trì Thành bị hại, đây là ý gì? Còn thứ đáng ra phải ở trên ghế - xác của Uất Trì Thành - đi đâu mất rồi? Chẳng lẽ thật sự giống như tình tiết câu chuyện Dự luật xác sống của Long Mã, Uất Trì Thành đã chết rồi biến thành “xác sống”, sau đó tự mình rời khỏi căn phòng này? “Không, chuyện này không thể nào...” Long Mã vừa nãy tinh thần còn rất hăng hái, là người giành được điểm số cao nhất (9,2) tính đến thời điểm hiện tại, giờ đây sắc mặt trắng bệch, cử chỉ thất thường. Ông ta kinh hãi lắc đầu, lẩm nhẩm một mình. Uất Trì Thành đã chết thật rồi, vĩnh viễn không thể sống lại được... Trên đời này không thể thật sự có ‘xác sống’ được... Đó chỉ là hư cấu! “Long Mã! Bình tĩnh lại đi.” Một giọng nói già nua chững chạc lên tiếng nhắc nhở, “Chúng ta đều biết người chết thì không thể sống lại, tất nhiên cũng rõ ‘xác sống’ không tồn tại. Nhưng rõ ràng là có người muốn tạo ra loại ám thị này, đó là - câu chuyện của anh đã trùng khớp với chuyện xảy ra trong hiện thực - anh cũng đã phạm quy.” Long Mã nhìn sang Hoang Mộc Chu đang nói, trừng mắt, môi mím chặt. “Không phải tôi nhắc để anh biết mình đã phạm quy, mà là hy vọng anh có thể giữ cho đầu óc tỉnh táo. Long Mã, anh là người thông minh, đừng dễ dàng sa vào bẫy của đối thủ. Anh suy nghĩ cho kĩ đi, tình huống bây giờ tuy có chút kì lạ, nhưng đã cung cấp cho chúng ta một vài thông tin quan trọng.” Lời của Hoang Mộc Chu rõ ràng không chỉ nói cho mình Long Mã nghe, mà là đang nhắc nhở tất cả những người có mặt ở đây. Nam Thiên ý thức được, có lẽ Hoang Mộc Chu và mình đang nghĩ đến cùng một vấn đề. Thiếu niên thiên tài Chris cũng đã nghĩ ra. “Hoang Mộc Chu tiên sinh, thông tin quan trọng mà anh nói, là đang chỉ xác của Uất Trì Thành đã biến đi đâu mất rồi, đúng không?” Hoang Mộc Chu nhướng một bên chân mày: “Không sai.” “Các người nghĩ xác của Uất Trì Thành giờ đang ở đâu?” Goth kinh hoảng hỏi. “Ám Hỏa không phải đã nói, nửa đêm hôm qua anh ta nhìn thấy xác của Uất Trì Thành đi lại trên hành lang dưới tầng, sau đó thì biến mất trong một góc tối sao?” Hạ Hầu Thân nhìn qua Ám Hỏa, “Đúng không, anh đã nói như vậy mà.” Ám Hỏa mím chặt môi, không lên tiếng, thực tế là đã ngầm thừa nhận. “Các người tin lời nói nhảm của anh ta à? Uất Trì Thành thật sự biến thành một cái xác sống, rời khỏi nơi này?” Long Mã cố ý nói, “Theo tôi thấy, những lời anh ta nói vừa khéo chứng minh được một chuyện, đó là anh ta cố ý muốn hãm hại tôi!” “E là không chỉ đơn giản như thế.” Thiên Thu nói với Long Mã, “Nếu sự thật như lời anh nói, Ám Hỏa há chẳng phải chính là hắn - “người tổ chức” sao? Vậy thì chỉ số IQ của hắn chơi đùa với chúng ta bấy lâu nay cũng thấp quá rồi.” “Ý anh là, sau này dù người nào đó lộ rõ sơ hở hay chân tướng gì thì chúng ta cũng nhắm mắt làm ngơ à? Chỉ vì chúng ta tin chắc hắn sẽ không thể nào phạm phải sai lầm sơ đẳng, đúng không?” Long Mã châm chọc nói. “Tôi chỉ hy vọng, chúng ta không vì sự nghi ngờ với ai đó mà đưa ra cáo buộc không chính đáng với họ. Làm như vậy, chỉ đẩy chúng ta vào cục diện nghi ngờ và đối địch lẫn nhau thôi. Đây chính là chuyện mà hắn mong muốn xảy ra nhất, cũng là tình huống bất lợi với chúng ta nhất.” Thiên Thu nói thẳng. “Thiên Thu nói đúng.” Hoang Mộc Chu tiếp lời, “Nếu những gì Ám Hỏa nói là do anh ta bịa ra, vậy cái bẫy này cũng có chút quá ngu ngốc và ấu trĩ rồi.” Long Mã ngẩng đầu lên hỏi: “Hoang Mộc Chu tiên sinh, theo ý anh nói thì cái mà Ám Hỏa nhìn thấy thật sự là... Uất Trì Thành biến thành xác sống và rời khỏi đây thật sao?” “Người trẻ tuổi, trước sau gì cũng dễ mắc phải sai lầm của người trẻ tuổi.” Hoang Mộc Chu ý vị sâu xa nói, “Nóng nảy sẽ làm mất đi khả năng suy nghĩ một cách thấu đáo.” Dù gì Long Mã cũng là người thông minh, nghe được lời ám chỉ của Hoang Mộc Chu dường như đã tỉnh táo lại. Ông ta khẽ mở miệng, vẻ mặt trở nên hòa hoãn hơn, dường như đã thu lại thái độ thù địch với Ám Hỏa. “Hoang Mộc Chu tiên sinh, ý của tiên sinh là thứ Ám Hỏa nhìn thấy đêm qua, có thể là hiện tượng giả do người khác cố ý dựng lên, là cái bẫy người đó cố ý bày ra?” Nam Thiên hỏi. “Tôi chỉ có thể nói, có khả năng là vậy, khả năng này lớn hơn khả năng Ám Hỏa bịa chuyện để gạt chúng ta nhiều.” Trước sau Hoang Mộc Chu vẫn giữ tính cách cẩn trọng, không dễ dàng đưa ra kết luận. Ông ta chỉ lá huyết thư đang đặt trên ghế nói, “Nhưng sau khi tôi thấy được tờ giấy này thì gần như có thể chắc chắn được sự thật.” “Ồ, tiên sinh nghĩ chuyện này là thế nào?” Bạch Kình hỏi.   Mời các bạn đón đọc Lời Cảnh Báo của tác giả Ninh Hàng Nhất.