Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Thanh Lâu - Tập 1

Tôi là người phụ nữ khổ nhất thế giới (Tự bạch của nhân vật chính) Tôi sinh ra vào thời kỳ đầu những năm 30 trong cuộc hỗn chiến quân phiệt. Vừa sinh ra cõi đời, tôi hoàn toàn không được lựa chọn, phải sống cảnh đói nghèo, khổ nạn và gian nguy. Bảy tuổi mất mẹ, tôi thành cô nhi, chín tuổi bị bán vào công quán làm kẻ hầu hạ, mười tuổi lưu lạc làm ăn xin, mười một tuổi vào đại vũ đoàn Hóa Nghinh tập võ học kịch, mười hai tuổi làm con dâu, mười bốn tuổi bị người ta gạt bán vào kỹ viện làm kỹ nữ. Tuy thân mang tuyệt kỹ, cũng từng thi triển võ công để phản kháng, nhưng tôi không thể thoát khỏi hắc động của xã hội ghê gớm đó. Trong cuộc sống bán thân bán nụ cười, tôi bị người ta bán như bán súc vật, từ Thành Đô đến Bảo Kê, đến Lan Châu, chuyển bán qua ba thành phố lớn, bốn kỹ viện. Tôi, thân nô lệ phải theo họ của chủ nhân, từng có sáu cái tên: Lưu Hồng Chi, Khang Tiểu Muội, Tô Thu Chi, Điền Thanh Đệ, Mã Hương Ngọc, Thù Hương Ngọc. Trong sáu tên này, thời gian gọi tên Khang Tiểu Muội là dài nhất, vì lúc này tôi mười một tuổi tập võ học kịch, trưởng đoàn ban ân, cho tôi giả làm cháu của Khang Tử Lâm thuộc hàng thái sơn bắc đẩu của võ học Tứ Xuyên. Tôi từng tiếp khách là sĩ quan Mỹ, cũng từng tiếp qua nhân vật trọng yếu của Quốc Dân Đảng là Hồ Tông Nam, Mã Bộ Phương. Cuối cùng tôi theo Ngụy Sấu Bằng lớn hơn tôi ba mươi tám tuổi, là thư ký của tướng quân Phùng Ngọc Tường. Từ đó tôi thoát khỏi hầm chông sống đời hoàn lương. Tháng 8 năm 1949, Lan Châu giải phóng, tôi bước lên bến bờ mới, làm lại con người mới, cũng từ đây tôi chính thức có một cái tên công dân thuộc về mình, trong nước Trung Quốc mới – Khang Tố Trân. Nhớ lại chuyện cũ, những chị em trong thanh lâu đã tử nạn luôn sống trong lòng tôi. Tôi vừa học văn hóa, vừa tập luyện võ công, tôi muốn tra tìm hung phạm để báo thù cho chị em tử nạn, nhưng tâm nguyện lớn nhất của tôi chính là viết một quyển sách, đem những chuyện bi thảm của chị em chúng tôi viết ra, truyền lại đời sau. Mùa xuân năm 1951, Sấu Bằng đi Tây An công tác, ông đưa tôi đến những nơi tôi từng chịu khổ: Bảo Kê, Thành Đô để khảo sát thực địa. Ở Tây An, tôi làm quen Điền Cửu Hồng là danh kỹ Tây An mà tôi gọi là cô cô. Cô cô giúp tôi tích lũy tài liệu phong phú hơn cho việc viết sách sau này. Năm 1957, tôi từ biệt Tây Bắc, theo người chồng đã về hưu trở lại quê hương làng Mộc Điếm, huyện Thúc Lộc (nay là thành phố Tân Tập) tỉnh Hà Bắc. Thoái ẩn điền viên, vốn muốn luyện võ viết sách, thay đổi nhanh chóng cuộc đời, tôi đến vùng đất công nghiệp Hải Hà, rèn luyện trong lao động gian khổ. Tôi dần mất đi hương thơm và dịu dàng của nữ tính, tay chân tôi trở nên thô kệch. Hàng ngày tôi cùng các dân công vật lộn trong con kênh mới đào, tôi có thể vật ngã hàng mấy thanh niên hai mươi mấy tuổi khỏe mạnh. Ngày tháng sau này là thời kỳ khốn khó: lũ lụt dìm huyện Thúc Lộc, thiên tai vừa qua, lại gặp phải cách mạng văn hóa. Tôi và Sấu Bằng cùng chịu đả kích trở thành phản cách mạng, bị nhốt vào chuồng bò. Hơn một trăm ảnh của chị em mà tôi trân quí cất giấu gần như toàn bộ bị Hồng Vệ binh lục xét tịch thu, coi là văn hóa phẩm độc hại, thảy vào lửa đốt. Sấu Bằng bị đàn áp đến nhảy giếng tự tử. Tôi cũng ba lần cải giá, từ Mộc Điếm đến Hình Gia Trang đến Quách Tây. Tôi chịu khổ tận cùng bị chồng đánh đập tàn nhẫn. Sau đó, tôi kiên quyết ly hôn, may là cán bộ của Quách Tây cho tôi con đường sống, cho tôi làm cấp dưỡng của đội sản xuất, chuồng bò trở thành nhà chính thức của tôi... Mãi đến sau đại hội toàn Tam Trung, tôi mới được giải phóng lần thứ hai. Ngày giờ vừa thong thả, giấc mộng cao xa mà tôi chôn vùi bao năm nay dần dà sống lại trong lòng tôi. Đúng lúc này, tôi nghe người ta đồn rạp phim Tân Tập đang chiếu bộ phim “Vọng hương”, tả lại cuộc sống của kỹ nữ, thế là tôi xin nghỉ phép một ngày vào thành phố xem phim. Quyết tâm viết sách lại sôi sục như núi lửa phun trào, tôi nghĩ rằng chuyện của tôi và các chị em so với “Vọng hương” của Nhật Bản phong phú hơn nhiều lắm, màu sắc hơn nhiều lắm. Người ta có thể quay thành phim, tôi không thể viết một quyển sách sao? Sau khi về làng, tôi lập tức đến quầy hàng mua giấy bút. Nửa đêm ở trong chuồng bò, bên cạnh ánh đèn dầu leo lét và đám bò ngựa hiền hòa, tôi âm thầm viết lại cuộc đời mình: Tôi không biết viết tiểu thuyết, chuyện xưa theo máu và nước mắt của tôi và các chị em mà chảy ra, khóc khóc viết viết, viết viết khóc khóc. Mặc dù viết đầy chữ sai tôi cũng viết xong mấy quyển lớn. Tôi nhảy lên xe đạp, đạp cả hai mươi lăm cây số, giao bản thảo cho Phòng Văn hóa huyện. Sau đó tôi biết bản thảo ấy như muối liệng vào biển. Tôi lại lần nữa chết cả lòng... Tháng 5 năm 1985, Liên hiệp Văn hóa thành phố được thành lập (năm 1986 Tân Tập được nâng thành thành phố cấp huyện). Đảng và Chính phủ giúp tôi cầm lại bút. Cấp trên cử người giúp tôi chỉnh bản thảo thành tiểu thuyết. Sự tích tôi “viết sách” từng vang dội một thời và việc người khác chỉnh lý bản thảo giúp tôi biên tập thành tiểu thuyết cũng gây xôn xao mấy năm. Nhưng khi đó tôi không xác định được rốt cuộc ai có thể đem cuộc đời truyền kỳ của tôi viết thành một bộ toàn tập có phong cách thống nhất, chân thực, cảm động lòng người. Mãi đến năm 1995, tôi mới biết hai bộ “Thanh lâu hận” và “Thanh lâu hận tục tập” có ảnh hưởng tương đối lớn. Vương Diên Niên là tác giả chấp bút cho tôi hoàn thành bộ tiểu thuyết này. Tuy ông đã chuyển sang viết trường thiên tiểu thuyết khác nhưng tôi nghĩ mình không thể mất đi người này. Tôi kiên trì trong một tháng viết cho ông ba bức thư. Tôi muốn ông tiếp tục viết toàn tập cho tôi. Đáng tiếc, tôi khổ nhọc viết mười năm, gần hai trăm quyển viết tay của tôi thất lạc trong dân gian tìm lại không được. Mùa đông năm 1996, tôi u uất thành bệnh. Tôi dự cảm mình sắp làm “láng giềng” của Diêm vương rồi. Tối rất sợ một khi tôi xuôi tay nhắm mắt thì chuyện kể đầy lòng của tôi sẽ chui vào quan tài. Thời gian không cho phép chậm trễ, tôi lập tức nhờ chồng sau của tôi là Dã Hoài Khởi gửi thư cho Vương Diên Niên mời ông đến giường bệnh của tôi. Tôi đem một phần hình ảnh tư liệu quý giá cất giấu bấy lâu giao hết cho ông, ủy thác ông viết toàn tập cho tôi, tuy bản thảo viết tay thất lạc khó tìm lại được nhưng chuyện kể chân thật nhất nằm trong tim tôi. Đối diện với Vương Diên Niên cũng bằng như đối mặt với hàng ngàn hàng vạn độc giả trên xã hội, tôi muốn tố cáo với mọi người, muốn đem cả cuộc đời mình dùng chân tình, dùng nước mắt kể ra, khóc ra, ngâm ra, hát ra... Mở đầu của câu chuyện chính là năm đại tai nạn mà tôi ra đời. *** Năm 1931, huyện An Nhạc, tỉnh Tứ Xuyên lại hạn hán mất mùa. Đời sống của nông dân quá khó khăn, cha mẹ tôi phải rời quê nhà ở làng Hoàng Giác đi bộ đến Thành Đô, sống nhờ vào ông nội và bác tôi. Khi đó tôi còn nằm trong bụng mẹ. Ông nội và bác tôi bán đậu hủ ở Hậu Tể Môn, mua gánh bán bưng nên nuôi không nổi một nhà ba miệng ăn chúng tôi (sắp thành bốn miệng). Cha mẹ tôi lưu lạc đến kênh Đại Dương. Kênh Đại Dương là khu dân nghèo nổi tiếng ở Thành Đô, một con kênh nước đen hôi thối dài 1,5 cây số. Trên mặt nước đen lềnh bềnh rêu xanh. Suốt ba mùa xuân, hạ, thu ruồi muỗi ken dày. Có ba cây cầu ván bắc qua kênh. Hai bên bờ là những dãy nhà được dựng lên bằng cỏ sơ sài. Bảo trưởng Phan Điền Hải chuyên cho người nghèo chạy nạn thuê phòng, cũng chính mùa đông năm này mẹ sinh ra tôi trong một gian nhà cỏ. Vừa đến thế giới hắc ám, ác ôn, hôi thối này tôi liền nếm đủ mùi bần cùng đói rét khủng khiếp. Tôi chưa từng biết đường có vị ngọt, thịt là thơm. Mẹ tôi giặt quần áo cho Phan bảo trưởng, cha tôi thì kéo xe cho nhà Trần dinh trưởng. Cha mẹ làm việc quần quật nhưng chúng tôi vẫn thường chịu đói rách. Tôi nhớ lại, hưởng thụ lớn nhất là tết mỗi năm mẹ tôi bẻ mấy cây mía lau từ vùng ven về cho chúng tôi nhai nhóp nhép. Những ngày đông giá là những ngày tháng hành hạ chúng tôi khổ sở nhất, gió bấc lùa qua khe ùa vào nhà tranh, cả nhà bốn người đắp chung chiếc mền bông rách vá chằng vá đụp. Tôi lớn được năm sáu tuổi vẫn phải ở trần không có áo mặc. Ban ngày để lưng trần đen thui, cầm cái kẹp sắt nhỏ đi theo anh lùng sục khắp hang cùng ngõ hẻm để bới rác, lượm thức ăn giống như hai con chó hoang nhỏ. Cuộc sống khốn khổ đã thế mà cha tôi lại lao vào hút thuốc phiện, tiền kéo xe kiếm được càng lúc càng ít đem về nhà. Về sau hiếm hoi ông mới về nhà, nếu có về thì cũng say bét nhè, vừa đặt chân vào cửa đã nổi cơn ghiền, bắt buộc mẹ đưa tiền. Mẹ khóc lóc chống đối thì bị cha đánh đập, cuối cùng ông cũng giật nốt chút xíu tiền trong nhà rồi bỏ đi. Trước nay tôi không nhớ cha quan tâm tôi như thế nào. Những năm tháng đó, chết chóc là chuyện bình thường, cái chết như hình bóng bám sát con người, đặc biệt là người nghèo. Lũ quỷ Nhật xâm chiếm hơn phân nửa Trung Quốc, móng vuốt ma quỷ của chúng tuy chưa thò đến Thành Đô nhưng máy bay của giặc Nhật thường quần đảo trên không, ném bom xuống Thành Đô. Tôi nhớ có một chiều thu, tôi theo anh đi đường Nam Phủ lượm rau vụn. Cảnh báo vang lên, đông đảo người đi đường nhốn nháo cuống cuồng như chim sợ ná. Chớp mắt, máy bay địch quần đảo giống như bầy diều hâu hung hăng thả bom xuống liên hồi. Tiếng nổ ầm đùng vang không ngớt, khói bụi mịt mù, đất đai rung chuyển, tường ngã nhà sập. Tôi và anh kinh sợ chui vào trong một cái hầm chờ chết, cảm thấy lục phủ ngũ tạng sắp bị xé toang ra. Sau oanh tạc, không gian yên tĩnh khoảnh khắc rồi khắp đường phố vang rân tiếng khóc la. Tôi và anh từ trong hầm bò lên, đường Nam Phủ đã hoàn toàn biến dạng. Trong hố bom chằng chịt là ngổn ngang thi thể không toàn vẹn, đầy máu, trên cây cháy nám treo lòng thòng ruột người, trên tường đổ nát dính máu thịt óc của người, thật thê thảm! Không lâu, chính phủ Quốc Dân phái người tới, hai chiếc xe hơi xuyên qua đám cảnh sát da vàng chạy đến hiện trường. Họ đào từ một hầm phòng không đã bị sập bịt kín, lôi ra từng xác chết ngộp, lột tiền bạc, đồng hồ, dây chuyền... những vật đáng tiền trên thi thể cho vào một bao tải ném lên xe rồi chạy mất. Giữa ranh giới của sự sống và cái chết đó, tôi lây lất đến bảy tuổi. Con gái phải có áo che chỗ xấu hổ. Một tối, mẹ tôi gương mặt tiều tụy ôm tôi vào lòng, vuốt lưng trần của tôi, nói: — Tiểu Muội, con ráng lượm ve chai nhiều nghe, bán có tiền mẹ mua cho con một cái áo đầm bông. Tôi mừng nhảy tưng tưng như gặp chuyện vui nhất trong đời. Tôi muốn có áo đầm bông mới để mặc, thế là tôi cố sức lượm ve chai, tôi thức dậy sớm hơn cả anh mình. Chạng vạng hôm đó tôi vác một bao tải hí hửng đi về nhà. Đến kênh nước thối, xa xa nhìn thấy cửa nhà đông người chen chúc, tôi đoán trong nhà đã xảy ra chuyện lớn vội xoải bàn chân đen thui loạng choạng chạy vào nhà cỏ. Mẹ nằm trên giường, gương mặt trắng nhợt, mắt nhắm nghiền, miệng rên nho nhỏ, thân dưới của bà máu tuôn dầm dề. Anh đang ở bên cạnh mẹ khóc nức nở. Hàng xóm tốt bụng đứng chung quanh chắt lưỡi hít hà. Tôi ngơ ngác không biết đã xảy ra chuyện gì. Thì ra cha tôi lại về nhà, cha và mẹ gây một trận um sùm rồi cha gom đi hết hai đồng cuối cùng của mẹ. Mẹ không trả được tiền nhà tháng này cho Phan bảo trưởng. Phan bảo trưởng mang đôi giầy bốt màu đen, đội nón sa đen, giắt bên mình cây côn màu đen, đến nhà đòi nợ. Mẹ tôi nhỏ nhẹ xin khất. Phan bảo trưởng nổi lòng tà dâm, thô bỉ trêu chọc, mó máy tay chân nhưng mẹ tôi hết sức phản kháng. Phan bảo trưởng thẹn quá hóa giận giơ chân mang đôi giầy bốt đá vào bụng hơi nhô lên của mẹ khiến mẹ ngất xỉu tại chỗ, hạ bộ chảy đầy máu. Nhìn thấy mẹ gặp thảm cảnh như vậy nhưng tôi không khóc cũng không bi thương vì tôi cho rằng mẹ sẽ mau chóng mở mắt ra gọi tên tôi, mẹ đã hứa mua áo đầm mới cho tôi mà! Lúc này người tôi hận nhất chính là cha, chính cha đã gây nên đại nạn như vậy cho cả nhà, không biết cha lại chui vào tiệm hút nào nữa rồi? Mẹ rên rỉ hấp hối đến nửa đêm thì chết thật! Trong chiếc quần tuôn đầy máu, còn đẻ non một bé gái mới thành hình, nó là em gái của tôi. Khi tôi biết mẹ thật sự bỏ chúng tôi đi rồi, tôi mới bật gào khóc, thạm chí phát điên! Hôm sau, ông nội, bác trai, bác gái tôi đều đến. Ông nội và bác muốn tìm Phan bảo trưởng nói lý lẽ, muốn thưa kiện tên ác ôn này. Hàng xóm vừa nghe có thưa kiện ai nấy len lén tản đi, ngay cả thím Lưu nhân chứng cũng không thấy bóng dáng. Bác gái khẽ giật chéo áo bác trai ngăn cản: — Ôi, có bầu trời không có mặt trời, cáo trạng, nha môn chỉ mở ra cho kẻ có tiền! Chỉ nội hai con chó lông vàng to như trâu của nhà họ Phan thôi, anh cũng đừng mơ bước được vào cửa, trước mắt lo chuyện chôn người kìa! Bác trai thở dài ai oán, ông nội trợn mắt nhìn trời, miệng run run phún máu tươi. Ông nội kéo tôi và anh dập đầu với những chòm xóm nghèo xin giúp đỡ. Làng xóm giúp chúng tôi chôn mẹ trên một bãi tha ma phía tây bắc kênh nước thối. Gió thu hiu hắt thổi mấy tờ giấy tiền bị đốt bay lên trời. Tôi mơ hồ nhớ năm đó mẹ khoảng hai mươi tám tuổi, đôi má đầy đặn đôi mắt to vô cùng xinh đẹp. Tôi và anh từ đó thành cô nhi. Cùng lúc này chú họ từ quê hương chạy nạn cũng đến Thành Đô, vừa thấy tình cảnh trước mắt chú họ quyết định đến Trùng Khánh, đồng ý mang anh theo. Tôi bảy tuổi chỉ còn nước theo nội và bác. Bác gái mặt không vui, giật mạnh vạt áo bác trai một cái đề nghị cho tôi cùng đi Trùng Khánh, nhưng ông nội giữ tôi lại, ông đưa bàn tay thô ráp như cây táo già ôm tấm lưng trần của tôi, hai mắt đầy nước mắt, kiên quyết nói: — Cháu ngoan, cháu sẽ chẳng đi đâu, có gì ăn ông cháu ta cùng ăn. Anh ôm tôi khóc lóc đau khổ một hồi rồi thiểu não đi Trùng Khánh. Tôi theo ông nội, lần đầu giống một con người, mặc được bộ đồ vải thô mà ông mua cho tôi trong tiệm cầm đồ, chân cũng được mang đôi giày cỏ. Nhà ông nội lại thêm một miệng ăn, chân mày bác gái rõ ràng càng nhíu chặt. Bác gái là một phụ nữ thấp bé, chân nhỏ nhanh nhẹn, trên gương mặt nhỏ trắng trẻo suốt ngày giống như phủ lớp băng, trong đôi mắt to khá đẹp giống như có băng tuyết lấp lánh. Cứ nhìn sắc mặt và ánh mắt của bác gái là tôi liền luống cuống. Từ khi có tôi, ngày ngày cứ nửa đêm là đã nghe giọng nói lanh lảnh của bác gái dội vào cái ổ nhỏ của tôi: — Thức dậy! Thức dậy làm đậu hủ! Đông người ăn cơm như vậy ông trời không có rớt bánh, xuống đâu. Tôi đang mơ mơ màng màng vội dụi hai mắt, mặc đồ vào đi giúp ông nội, bác trai nấu đậu hủ. Bận rộn cho đến khi nấu đậu hủ thành hai sọt lớn, thừa lúc còn nóng ông nội và bác trai mỗi người gánh một gánh, trời còn tờ mờ phải đến được đại lộ Hậu Tể Môn, gõ thanh tre rao bán. Còn tôi ư, cũng bắt đầu đi lượm rau cải vụn, lượm ve chai. Con không mẹ muốn đáng thương cỡ nào thì có đáng thương cỡ đó, bác gái keo kiệt rất ghét tôi. Bà thường giấu đồ ăn chỉ cho tôi một ít nước rau, lại hay dùng ánh mắt sắc lạnh lườm nguýt tôi, riết róng: — Trong bụng mầy bộ có máy xay hả? Nhỏ mà không làm chỉ có nước ăn xin! Bác trai tốt bụng nhưng không dám hó hé với bác gái, có thể thương yêu tôi chỉ có ông nội. Tôi thường thấy đói, ông nội mò trong ngực áo lấy ra khi củ khoai lang, khi cái bánh nướng nóng mua trên chợ mang về lén lút giấm giúi vào tay tôi. Chưa bao lâu, một tai nạn lại rơi vào gia đình này cướp đi người thân duy nhất của tôi. Ông nội bị người ta đánh! Hai cảnh sát của Hậu Tể Môn lấy mấy miếng đậu hủ của ông nội mà không trả tiền. Chúng dùng báng súng đập ông một trận tàn nhẫn. Ông nội hơn bảy mươi tuổi được người ta cõng về nhà, nằm sóng soài trên giường. Ông vừa tức vừa giận thổ ra máu tươi, không mấy chốc ông nhắm mắt từ bỏ thế giới bất công này. Không có ông nội việc mua bán đậu hủ càng sa sút, bệ rạc. Bác gái đối với tôi càng thêm vô tình. Chúng tôi chịu đựng qua mùa đông khắc nghiệt. Đến năm sau, mùa xuân ấm áp hoa nở có người tìm được công việc lao công trong phi trường cho bác trai, bác gái, thế là tôi đi theo bác trai, bác gái dời đến một nơi gọi là Sa Hà Phố. Nơi đó có một khoảng rừng trúc nhỏ, trong rừng trúc có mấy căn nhà tranh. Đến hoàn cảnh mới, bác gái giỏi tính toán tuyệt đối không nuôi tôi ăn cơm suông, bảo bác trai làm một cái chuồng thỏ đặt chỗ râm mát trong vườn, mang về hai mươi thỏ con, tiếp theo ném cho tôi một cái liềm nhỏ, sầm mặt ra lệnh: — Cắt cỏ đi, hai mươi con thỏ này giao mầy nuôi. Thỏ no thì mầy no, đừng có làm biếng! Thân thể gầy gò của tôi vác cái sọt tre to đùng đi ra vùng ven trong ngày xuân. Trước kia, cắt rau dại chỉ cần dùng cái dao nhỏ, cắt cỏ phải dùng liềm. Đây là lần đầu tôi sử dụng liềm. Tôi cắt xuống dưới, cái liềm cắm vào trong đất giật lên trên, lưỡi liềm lướt trên rễ ngọn cỏ mà không cắm xuống dưới nên cứa vào ngón tay tôi, máu tươi chảy tuôn ra. Tôi đau quá gọi: — Mẹ ơi! Tôi xé một miếng vạt áo quấn ngón tay. Ngón tay bị thương làm việc không tiện, đến trưa về nhà chỉ cắt được một lớp cỏ. Bác gái thấy thế, miệng ngoác ra cười mỉa mai, oang oang nói: — Ồ, giỏi quá nhỉ! cắt thật không ít, đủ nuôi cào cào rồi. Ra công không chịu ra sức, mầy nói bữa cơm này mầy ăn thế nào đây? Tôi nín thinh gục đầu ôm ngón tay bị đứt, nước mắt rơi lộp độp. Bác trai ra mặt giải vây cho tôi: — Được rồi, được rồi, nó mới tám tuổi, lại chưa làm qua chuyện này, vào nhà ăn cơm, chiều cắt thêm. Vì để không bị mắng, vì để được ăn cơm no, tôi gắng sức tìm kiếm khắp nơi để cắt cỏ, cỏ cắt càng lúc càng nhiều nhưng tôi vẫn thường bị đói. Bác gái bủn xỉn luôn luôn tiếc không cho nhiều cơm. Tôi ăn cơm bằng một chén gỗ nhỏ, không chờ tôi ăn xong một chén bác gái đã giật lấy bới thêm cơm, cơm còn lại trong nồi thì vét hết cho bác trai, khi tôi muốn ăn thêm trong nồi chỉ còn một lớp nước cơm. Từ từ tôi tìm được một cách, lần đầu tôi chỉ bới nửa chén, ăn nhanh cho xong rồi mới bới đầy chén, chỉ có ăn cơm no mới có đủ sức cắt cỏ nhiều. Sáng hôm nay, tôi cắt được đầy một sọt cỏ non xanh mướt, lưng đẫm mồ hôi vác nó về nhà. Nhưng chờ đón tôi là hai cánh cửa tre đan mắt cáo đã đóng chặt, được khóa bằng ống khóa lớn. Lúc này tôi mới hay trời đã quá trưa, bác gái chắc đi đưa quần áo cho phi trường rồi. Không có chìa khóa tôi không vào nhà được, bụng đói cồn cào, thế là tôi quyết định nhấc cánh cửa lên. Tôi đặt sọt xuống, nhấc trục cánh cửa lên, quả nhiên mở được một cánh. Tôi vào nhà, trước tiên chạy đến chuồng thỏ, hai mươi con thỏ như nước lũ tràn ra giành ăn cỏ xanh tôi đổ xuống. Tôi không màng rửa tay chạy ngay vào nhà bếp giở nắp nồi lên. Tôi chưng hửng, trong nồi trông trơn không còn một hột cơm. Tôi bất giác tức uất đến ngực đập thình thịch, bác gái nhẫn tâm không chừa cho tôi một chút cơm. Sục sạo khắp nơi cũng không tìm được chút thức ăn, cuối cùng tôi lôi ra được một cái khạp nhỏ cạnh bàn, bên trong còn phân nửa gạo trắng. Người đói khát cái gì cũng ăn được, tôi bốc gạo sống trong khạp nhét vào miệng giống như súc vật nhai nhóp nhép. Chạng vạng bác gái phát hiện trong khạp mất gạo, bà dằn mạnh nắp khạp, rít giọng: — Ồ... hay quá nhỉ... Gạo trong khạp đãi chuột rồi, một con chuột to! Bác trai nghe vậy hỏi thẳng tôi: — Cháu à, là cháu làm à? Tôi cũng tình thực kể buổi trưa tôi không có cơm ăn. Lần này chọc giận bác gái, đôi chân nhỏ của bác từ trong ngạch cửa nhảy phóc một cái xông tới mặt tôi xỉa xói: — Mầy là đứa mất dạy chết mẹ. Mầy dám nói dóc nói láo, nói tao không cho mầy ăn cơm, mầy ói đồ ăn ra đây xem, mầy ói ra đây cho mau! Bác gái gầm lên, ánh mắt lạnh băng, thuận tay chụp cây sào bên cửa đuổi đánh tôi, vừa đánh vừa rít: — Mầy ăn không ăn ói ra cho tao coi... Bác trai chạy qua giật lấy “hung khí” của bác gái, hét vào bộ mặt giận dữ của bác gái: — Bà không được đánh nó. Nó là đứa con mất mẹ. Bác gái lại nghiến răng ken két nói: — Không mẹ nhưng nó có cha, bảo nó đi tìm cha nó đi! Bác trai xuống giọng: — Thôi dừng gây nữa, không sợ người ngoài cười sao? Bác gái càng rống lên tru tréo: — Cười hả? Đứa nào cười đứa đó là con hà mã. Hỏi trời này, hỏi đất này, hỏi lương tâm của nó, hồi mẹ nó còn nó có được mặc áo không? Nó có được một ngày ăn ba bữa cơm không? ông thử thịt trên người nó là mập hay ốm? Được, tôi không thèm quản nữa, máu thịt họ Khang ông thì ông thương đi tôi không quản nữa. Bác gái quay ngoắt người phe phẩy đi ra trước cửa nhà ngồi phịch trên ngạch cửa, bù lu bù loa kể lể. Bảc trai vừa gấp vừa giận vừa bó tay đi loanh quanh hai vòng, cố gắng dằn cơn giận, lựa lời khuyên giải bác gái. Tôi âm thầm chảy nước mắt, căm hận người cha hút thuốc phiện của tôi. Vì để nuôi được bản thân, tôi chỉ đành nhẫn nhịn đi cắt cỏ nuôi thỏ. Có một ngày vì đói quá tôi cắt cỏ không nhiều về đến nhà ánh mắt lạnh băng của bác gái chiếu vào sọt tre của tôi mấy lượt, hừ một tiếng, cố ý không nói, liếc bác trai ra dấu xử lý tôi. Bác trai đang ngồi hút thuốc trước cửa sổ quả nhiên lên tiếng: — Cháu à, sao cắt ít cỏ vậy, ham chơi phải không? Tôi không dám nói đói, mím miệng cúi gục đầu. Bác gái trái lại giả làm người tốt: — Bỏ đi, ngày mai cắt nhiều một chút, chắc đã đói rồi mau ăn cơm thôi. Cháu nè, bưng cơm trên lò ra bàn đi. Tôi vừa nghe bác gái nói, nhất thời có vẻ được thương yêu mà hết hồn vội chạy thẳng vào lò mà bưng cơm. Cơm trong nồi đất chỉ là cơm cháy mà bác gái đem từ nhà ăn phi trường về, thêm nước nấu thành một nồi lớn. Tôi dùng sức bưng mép nồi đi ra ngoài bàn, chợt phát giác nồi cháo quá nóng giống như bưng phải sắt nung đỏ, tôi mau chân bước, cháo trong nồi sóng sánh trào ra hai lưng bàn tay đau như bị đốt, tôi giật mình “Cảng” nồi cháo rớt xuống đất bể tan tành thành đông vụn. Lần này bác gái nhảy nhổm lên: — Coi kìa, coi kìa, mầy làm chút việc cũng hư hỏng! Tụi tao hôm nay ngán đến tận cổ rồi. Bác trai lần đầu nổi giận, mặt hầm hầm xông vào tôi quát: — Làm gì vậy hả? Mầy thật không nên thân! Bác gái ở bên cạnh “đổ thêm dầu vào lửa” nói: — Hôm nay rớt nồi, ngày mai đập nồi. Tao có được cơm này dễ lắm hả? Tao phải dày mặt gọi người ta bằng ông bằng bà mới xin về đó... Mời các bạn đón đọc Thanh Lâu - Tập 1 của tác giả Vương Diên Niên.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Người Chưa Bao Giờ Thấy Biển - Jean-Marie Gustave Le Clézio
Daniel hầu như ko nói chuyện với ai và cũng ko có bạn bè. Người ta thấy nó thường mơ mộng với đôi mắt mở to. Nó có dáng vẻ như đến từ nơi khác. Đáng lẽ nên gọi nó là thuyền trưởng Sinbad, bởi nó đọc nhiều những chuyện phiêu lưu ấy, và đó là cuốn sách duy nhất nó thuộc nằm lòng: mắt nó sáng rỡ chỉ khi nói chuyện về biển cả và việc du hành. Nhưng, nó chưa bao giờ nhìn thấy biển. Rồi một ngày tháng mười một, chẳng bảo ai, nó ra đi và không bao giờ trở lại… *** Jean-Marie Gustave Le Clézio, một trong những nhà văn lọt vào danh sách để xét giải Nobel văn học năm 1999, đã thành danh từ khá sớm. Những năm 60 của văn học Pháp là những năm khó khăn với các cuộc tìm tòi thí nghiệm, những quan niệm mới và những khuynh hướng mới. Chính vào thời kỳ ấy, cụ thể là vào năm 1963, “một chàng trai trẻ, cao lớn, đẹp trai, có mái tóc vàng”, ít nói, đã "trình làng" với cuốn tiểu thuyết Biên bản (Le Procès - verbal), in tại Gallimard, một nhà xuất bản lớn hàng đầu, có uy tín ở Pháp. Cuốn tiểu thuyết lập tức thu hút sự chú ý của bạn đọc cũng như giới phê bình không những vì nó đoạt giải thưởng Renaudot, mà chủ yếu vì nó đã đặt ra nhiều vấn đề lý thú cho thể loại tiểu thuyết dường như đang ngắc ngoải. Thế là, mặc dầu anh còn quá trẻ (23 tuổi) để thành tên tuổi, người ta vẫn cứ “xếp hạng” và anh “có chỗ” trong làng văn Pháp đương đại đang khá là nhốn nháo. Tính đến nay, cầm bút được hơn 30 năm, Le Clézio đã có 47 đầu sách gồm tiểu thuyết, truyện ngắn, tiểu luận và dịch thuật, trong đó có 4 cuốn viết chung. Ðó là chưa kể đến rất nhiều bài viết ông đăng trên các tạp chí, các báo... và hoạt động giảng dạy của ông ở các trường đại học tại Pháp, Mỹ, Mexique, Thái Lan.   Bảo vệ xuất sắc khoá luận cao học về H.Michaux vào năm 1964, sau đó Le Clézio bảo vệ luận án tiến sĩ về Lautréamont. Le Clézio và những tác phẩm của ông đã là đề tài nghiên cứu của 21 cuốn sách và 29 luận án cao học và tiến sĩ (riêng ở Nice, thành phố quê hương ông có 7 luận án). Năm ông 49 tuổi (1989) tạp chí Sud đã ra số chuyên san về sự nghiệp sáng tác của ông. Năm 1994, tạp chí Lire mở cuộc điều tra xã hội học với câu hỏi “Ai là nhà văn Pháp ngữ lớn nhất trong số hiện đang còn sống?” đã có 13% độc giả trả lời đó là Le Clézio.   Cùng một số nhà văn khác, Le Clézio đã làm cho bức tranh toàn cảnh của văn học Pháp thế kỷ XX đỡ màu ảm đạm: “Suốt cả thế kỷ, người ta nói đến “cái chết của văn học”, bị giết bởi báo chí, điện ảnh, truyền hình, những trò giải trí đại chúng v.v… Vậy mà, nó không chết. Người ta viết và công bố nhiều hơn. Thành công của những tác phẩm cách tân, những tác phẩm hay và có giá trị (chúng đa dạng biết bao) của Claude Simon hay Marguerite Duras, của Jean-Marie Gustave Le Clézio hay Georges Perec đã làm cho chúng ta trở nên lạc quan”.   Thói quen của các ngòi bút phê bình nghiên cứu hay dẫn chúng ta đến việc “xếp loại” “sắp đặt” các nhà văn ngồi chỗ này, chỗ kia... hoặc thuộc trường phái này, khuynh hướng nọ... Đối với Le Clézio và các sáng tác của ông, việc này quả là không dễ dàng (có thể nói là không thể). Bởi vì, hình như ông thuộc về nhiều trường phái và hình như cũng chẳng thuộc về khuynh hướng nào cả.   Cuốn tiếu thuyết đầu tay xuất hiện khi ông còn rất trẻ đã khiến người ta xếp ông vào “chủ nghĩa hiện thực mới”. Có lẽ đó là một cách nói để làm rõ vấn đề và để đối sánh với các khuynh hướng “Tiểu thuyết Mới” “Phê bình mới” đang rất rầm rộ lúc đương thời. Vậy thì “Chủ nghĩa hiện thực mới” của Le Clézio không phải như chủ nghĩa hiện thực thời Balzac. Muốn hiểu cho rõ ngọn ngành vấn đề này, ta không thể nói trong phạm vi một hoặc vài trang giấy. Để tham khảo, chúng tôi chỉ xin nêu ở đây ý kiến của các tác giả trong cuốn Văn học Pháp từ 1945 đến 1968. Khi viết về Le Clézio họ đã dùng một cái tít lạ thường “Cách viết địa chấn học” (Une écriture sismographique). Đó là cách viết tuân theo quy luật tự nhiên, ghi theo kiểu máy đo độ rung của trái đất, ghi lại “những độ rung nhỏ nhất của những điều nhạy cảm, đem lại sự sống náo nhiệt của thế giới”. Bởi vì theo Le Clézio, thế giới vô cũng sống động. Trong tiểu luận Thế giới sống động ông đã viết: “Đây chính là điều cần phải làm: đi về nông thôn, như một họa sĩ đi vào ngày chủ nhật, cùng với một tờ giấy lớn và bút chì. Hãy chọn một nơi thanh vắng, một thung lũng xung quanh là đồi núi, ngồi trên mỏm đá và ngắm nhìn thật lâu xung quanh mình. Và rồi, khi đã nhìn thật kỹ, cầm lấy giấy, và miêu tả bằng chữ những gì ta đã thấy”. Đó là đoạn mở đầu tác phẩm. Đọc tiếp những câu cuối, ta có cảm giác như là “nghệ thuật thơ ca” của Le Clézio, một quan niệm thật giản dị: “Đó. Thế giới sống động như thế, trong những tiếng động nhỏ xíu, những cú trượt, tiếng rả rích của dòng nước. Trong những lùm cây, trong hang động, trong đám cây cối chằng chịt, rối rắm, thế giới hát ca, cùng ánh sáng hoặc bóng tối, nó sống một cuộc sống nổ tung, không ngừng nghỉ, đầy tai biến và chết chóc. Cần phải sống cùng nó, như thế, hàng ngày, nằm áp má xuống đất, tai nghe ngóng, sẵn sàng lắng nghe tất cả những tiếng ồn ào và tất cả những tiếng thì thầm. Dây thần kinh cắm sâu vào đất như rễ cây và tự nuôi dưỡng bằng sức mạnh quật khởi khó mà hiểu nổi; cần phải uống thật lâu ở suối nguồn của sự sống và cái chết, rồi sẽ trở thành vô địch không ai thắng nổi”.   Xét về mặt nội dung các tiểu thuyết của Le Clézio đều có thể kể được, có nhân vật, cùng với các “phụ tùng” của nó: Adam Polo trong cuốn Biên bản (1963), Franois Besson trong Cơn hồng thủy (Le déluge, 1966), cô gái Lalla trong tiểu thuyết Sa mạc (Désert, 1980), tác phẩm đoạt Giải Lớn Paul Morand, Alexis trong Người tìm vàng (Le chercheur d'or, 1997) v.v... Có vẻ như những lời tuyên ngôn hùng hồn của N. Sarraute trong tác phẩm nổi tiếng Thời đại hoài nghi cùng các quan điểm cách tân táo bạo của Tiểu thuyết Mới hầu như chẳng thấy có khúc xạ nào qua sáng tác của Le Clézio.   Chính bản thân ông từng kể lại: “Khi tôi đưa bản thảo tiểu thuyết đầu tay của tôi đến Nhà xuất bản Gallimard, tôi đã nói rõ rằng tôi không có quan hệ gì với Tiểu thuyết Mới”. Thế nhưng, không phải hoàn toàn không có những điểm tương đồng nào đó giữa ông và các nhà Tiểu thuyết Mới. Thậm chí người ta còn tìm thấy sự tiếp nhận những tư tưởng từ Roland Barthes trong Lời tựa cho cuốn sách thứ hai của ông có tên là Cơn Sốt.   Trong một cuộc phỏng vấn P.Lhoste có nói với Le Clézio về những từ được lặp đi lặp lại trong các tác phẩm của ông. Nhà văn đồng ý với nhận định đó và cho rằng đó “là những điểm mốc” để có thể khẳng định là mỗi người đều có một “huyền thoại cá nhân” (mythologie personelle). Ðề cập đến vấn đề này có thể Le Clézio có liên hệ gì đó với khái “huyền thoại cá nhân” (mythe personnel) của Ch.Mauron, nhà phê bình phân tâm học đã nhấn mạnh đến việc nghiên cứu quá trình vô thức trong sáng tạo của nhà văn.   Cũng trong cuộc nói chuyện ấy, Le Clézio đã gợi lên sự hàn gắn giữa nhà văn và thầy phù thủy. Cả hai đều có một “thao tác ma thuật”, có một “mã” (code) và những ký hiệu để “hành nghề”, tất nhiên là những ký hiệu khác nhau, thầy phù thuỷ với những ký hiệu của cây lá, của rắn... nhà văn với “những ký hiệu chính xác của từ ngữ gắn bó với các hình ảnh đặc biệt sẽ cho phép độc giả thực hiện thao tác có tính chuyển đổi thành một hiện thực khác, cao hơn”. Nghe đến những “ký hiệu”, đến “mã”, chúng ta có cảm giác như lại sắp bước sang một lĩnh vực khác…   Là một người đọc rất nhiều, ngay từ đầu Le Clézio đã quan tâm đến những vấn đề thuộc lý luận văn học. Ở Lời tựa với hình thức như một bức thư nho nhỏ gửi đến bạn đọc trong tiểu thuyết Biên bản, nhà văn đã dành nhiều dòng cho độc giả, một nhân tố tạo thành quan trọng được chú ý đặc biệt ở văn học thế kỷ XX với tư cách là người tiếp nhận. Ngay cách viết Lời tựa với hình thức hoàn toàn như một bức thư gửi đến bạn đọc có lẽ cũng là một cách để nói rõ thêm quan điểm này của nhà văn.   Như vậy có thể thấy một quan niệm mở của Le Clézio, chấp nhận cùng lúc mọi lối biểu hiện của thực tiễn sáng tác văn học đa dạng và phong phú. Đó là xét về mặt lý luận, còn trong sáng tác, nhà văn đã thể hiện điều đó, trước hết trong tiểu thuyết. Về mặt hình thức được trình bày trên trang giấy, bản thân các tiểu thuyết của ông không phải toàn các con chữ bình thường theo lối viết xưa nay. Văn bản được gài xen vào đủ thứ: từ các bức họa, các công thức toán, lý, hoá, các con số, các đoạn thơ, nhật ký, các mẩu quảng cáo, các mẩu báo chí (có khi được in ở giữa những trang đầu hoặc cuối), có cả những đoạn chữ bị xóa vẫn còn nguyên dấu gạch chéo X… Với cách đó, dường như ông đã thu hẹp lại khoảng cách giữa hư cấu và hiện thực. Hiện thực tràn vào trang giấy bằng của bản thân nó, chứ không phải bởi uy quyền tối cao và độc đoán của nhà văn. Các sáng tác của Clézio vào những năm đầu thể hiện rõ điều này; Biên bản (1963), Cơn hồng thủy (1966), Những người khổng lồ (Les géants, 1973)... Thậm chí có những đoạn tác giả còn để nguyên tiếng Anh, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Nga, tiếng Trung Quốc xen lẫn giữa toàn bộ văn bản bằng tiếng Pháp. Những tiếng vọng đến từ xa được thể hiện thành nhiều con chữ trên mặt giấy: i i i i i i i i i i i…, woou woou woou…, hom! hom!, hom!, hom!, hom!, v.v…   Ðọc tiểu thuyết của Le Clézio chúng ta thấy ông một mặt vẫn ràng buộc với tiểu thuyết truyền thống qua những đặc điểm cơ bản nhất, mặt khác, ông đã tạo ra một lối của riêng mình. Điều đó được thể hiện không chỉ ở việc làm “vỡ tung" văn bản, thay đổi hình thức trình bày của nó, mà chủ yếu là “việc xâm nhập các thể loại trong tác phẩm” của ông, Trong tiểu thuyết của ông có cả thơ, có tiểu luận, có sử thi, huyền thoại cả cổ tích. ... Mời các bạn đón đọc Người Chưa Bao Giờ Thấy Biển của tác giả Jean-Marie Gustave Le Clézio.
Người Thầy Thuốc - Thanh Châu
Thanh Châu (1912-2007), tên thật là Ngô Hoan, là nhà văn Việt Nam thời tiền chiến. Ông là tác giả truyện ngắn "Hoa ti gôn" (1937), là truyện đã làm "khơi dậy men thơ cho T.T.Kh sáng tác bài thơ nổi tiếng: Hai sắc hoa ti gôn". Người thầy thuốc là tập truyện ngắn của ông được đăng trên Phổ thông bán nguỵệt san xuất bản năm 1938. Mời các bạn đón đọc Người Thầy Thuốc của tác giả Thanh Châu.
Cuộc Sống Trêu Chó Chọc Mèo Của Nhị Nữu - Tử Ngưng Yêu
AudioBook Cuộc Sống Trêu Chó Chọc Mèo Của Nhị Nữu   Bản giới thiệu vắn tắt của Thiên Lôi Lôi thần: “Làm đại tỷ có sảng khoái lắm không?” Sói ta: “Sảng khoái” Lôi thần: “Trêu chọc trai đẹp có thích không?” Sói ta: “Thích ~” Lôi thần: “Trêu chọc con ta có thích không?” Sói ta: “Đương nhiên thích ~~” Lôi thần: “……… Ta đánh chết ngươi!!!!!!!!” Sói ta hấp hối: “Ngươi… Cho dù ngươi có đánh ta thành ngốc, lão nương cũng sẽ không buông tha con của ngươi!” Lôi thần cười gằn: “Ta đây sẽ thỏa nguyện cho ngươi!” Đoạn này giải thích nguyên nhân vì sao nhân vật nữ bất hạnh biến thành kẻ ngốc nên mới phải chịu áp bức. Sau khi chết đi sống lại, cô khôi phục trí nhớ, cảm thấy vô cùng xấu hổ và đau đớn. Đấm ngực dậm chân – – Làm một nữ nhân xuyên không – – lại bị biến thành như vậy – – cũng quá dọa người!!! Do đó cô bắt đầu hăng hái tiến lên phía trước, tuyệt địa phản công trả thù! *** Bản giới thiệu vắn tắt của Động vật: Lúc trước, ta là một con sói uy phong lẫm lẫm! Có một ngày, bất hạnh … mất trí nhớ! Sau đó, có người nói cho ta biết …. Ngươi chỉ là một con cún con # Vì thế, ta cũng rất happy trải qua cuộc sống của một con chó nhỏ = = Mãi cho đến một ngày kia! Ta đột nhiên nhớ lại tất cả mọi chuyện!!!!!!! Ta vô cùng phẫn nộ, nhiệt huyết cứ tuôn trào trong thân thể, chạy rần rần đến mức không thể ức chế nổi. Ta ngửa đầu rống giận: “Ta là sói!!! Sói!!! Sói!!!” Lại phát hiện…. Mẹ ơi ~~~~~ Chung quanh vì sao lại xuất hiện áp khí của dã thú mạnh mẽ cỡ đó a. Được rồi, ta là cún, ta là cún, ta là cún……. T=T Mời các bạn đón đọc Cuộc Sống Trêu Chó Chọc Mèo Của Nhị Nữu của tác giả Tử Ngưng Yêu.
Tuyển Tập Erich Maria Remarque
Erich Maria Remarque (22 tháng 6, 1898 – 25 tháng 9, 1970), tên khai sinh Erich Paul Remark, là nhà văn người Đức, được biết đến nhiều nhất với tác phẩm Phía Tây không có gì lạ. Ông sinh ra trong một gia đình thuộc giai cấp lao động ở thành phố Osnabrück, Đức. Cha của ông là Peter Franz Remark, còn mẹ là Anna Maria Một số tác phẩm của ông đã được dịch tại Việt Nam: Phía Tây Không Có Gì Lạ Bia Mộ Đen và Bầy Diều Hâu Gãy Cánh Ba Người Bạn Khải Hoàn Môn Chiến Hữu Bản Du Ca Cuối Cùng Lửa Yêu Thương Lửa Ngục Tù Một Thời Để Yêu Và Một Thời Để Chết Trong ebook này gồm có: Chiến Hữu Bản Du Ca Cuối Cùng Lửa Yêu Thương Lửa Ngục Tù Một Thời Để Yêu Và Một Thời Để Chết Phía Tây Không Có Gì Lạ Mời các bạn đón đọc Tuyển Tập Erich Maria Remarque.