Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Mỗi Lần Gặp Em

“Được rồi, vì đang ở Anh nên con ước mình gặp được một chàng hiệp sĩ đẹp trai và lịch thiệp,” cô sửa lại. “Một người với tinh thần hiệp sĩ. Một người có công việc ổn định, ôn hòa và có một ngôi nhà với một căn phòng đủ rộng cho một buổi hòa nhạc piano. Và anh ấy sẽ yêu con như yêu chính bản thân. Nhiêu đó cũng không phải quá nhiều, phải không?” Năm 1999, Jessica Blakely – một cô gái người Mỹ không gặp may trong tình yêu – đã nhìn lên trời và ước được gặp một chàng trai có tấm lòng hào hiệp và coi cô bình đẳng vớianh. Điều ước đưa cô trở về năm 1260 và đến với Richard de Galtres, một hiệp sĩ được mọingười nể sợ, đồng thời là chủ nhân lâu đài Burwyck-trên- biển. Ban đầu, Richard không ưa Jessica bởi bản tính thẳng thắn và mạnh mẽ của cô. Nhưng anh từ từ phải lòng Jessica khi cô dần phá vỡ lớp vỏ bọc cứng rắn và giận dữ ở anh. *** Jessica Blakely không tin vào Định Mệnh. Tuy nhiên, khi đứng trên đỉnh chiếc cầu thang xoáy kiểu Trung Cổ và ngó xuống vực sâu ảm đạm phía dưới, cô phải tự hỏi mình, phải chăng từ trước đến nay, có ai đó đang chèo lái cuộc đời cô. Mọi thứ xảy ra không như cô nghĩ. Định Mệnh hẳn biết rõ cô chẳng có hứng thú gì với những tòa lâu đài trơ trọi, hoang vu hay những chàng hiệp sĩ trong những bộ áo giáp gỉ sét. Hẳn là như thế. Cô hít một hơi thật sâu và cố sắp xếp lại lần lượt tất cả những gì đã xảy ra, những gì đã khiến cô rơi vào hoàn cảnh hiện tại. Dường như chẳng có gì bất thường. Cô đi hẹn hò xem mặt rồi nhận lời mời cùng anh ta đến Anh trong kỳ nghỉ phép của khoa trường Đại học nơi anh ta dạy và rồi đầy háo hức lên máy bay với anh ta hai tuần sau đó. Chủ của trang viên xinh đẹp được bảo tồn từ thời nữ hoàng Victoria nơi hai người ở là Lãnh chúa Henry de Galtres. Jessica mê mệt ngôi nhà ngay từ cái nhìn đầu tiên. Nơi đây có những bữa tiệc sang trọng với những món ngon siêu phàm và được bao bọc trong lòng một vùng đồng quê bình dị. Vấn đề duy nhất là chẳng hiểu vì sao, Lãnh chúa Henry lại cho rằng tòa lâu đài đổ nát trong khuôn viên nhà mình là thứ gì đó rất cần được gìn giữ. Chỉ cần nhìn thấy nó là Jessica đã thấy lạnh hết cả sống lưng. Cô không hiểu tại sao và cũng không muốn tìm hiểu câu trả lời. Thay vào đó, cô để mình tận hưởng tất cả những tiện nghi hiện đại mà nhà Lãnh chúa Henry có. Và chắc chắn khi cô có thể buộc mình rời khỏi nơi được coi là căn nhà thứ hai này, cô có thể sẽ đi khắp London mua sắm bằng tiền tiết kiệm tại Harrods. Thế nhưng trước khi nhìn thấy những chiếc máy tính tiền, cô lại bị thôi thúc tìm nơi trốn trong lâu đài đổ nát ấy. Cuộc đời cô có điều gì đó vô cùng bất ổn. Một tờ giấy bốc mùi mốc meo suốt bảy thế kỷ đáp thẳng vào mặt khiến cô ho sặc sụa và phải phẩy tay trước mũi liên tục. Có lẽ lúc nãy, cô nên im lặng và tránh việc bày tỏ bất kỳ sự bất mãn nào trước Thượng Đế. Mọi thứ biết đâu sẽ tốt đẹp hơn nếu từ lâu cô biết giữ im lặng, có lẽ trước khi cô đồng ý với cuộc hẹn ấy. Cô nghĩ một lúc, nhưng rồi lại lắc đầu. Rắc rối của cô bắt đầu đã lâu, từ trước khi chuyến đi chơi với Archibald Stafford III diễn ra. Thật ra, cô có thể biết rõ từ khoảnh khắc nào cuộc đời cô đã lạc vào tay Định Mệnh. Đó là từ những buổi học piano. Khi cô 5 tuổi. Bạn sẽ chẳng bao giờ nghĩ rằng thứ mà tưởng chừng như rất vô thưởng vô phạt, rất ngây thơ, rất thân thiện với lũ trẻ lại dẫn một người phụ nữ theo con đường cô ấy chẳng có ý định đi. Nhưng Jessica chẳng tìm được một bằng chứng nào để phủ nhận điều đó. Những buổi học piano mang đến những học bổng nhạc lý, rồi dựng nên sự nghiệp âm nhạc cho cô, nhưng rồi không hiểu sao lại phá hủy các mối quan hệ xã hội, khiến cô không có sự lựa chọn nào ngoài việc chấp nhận lời mời mới nhất trong chuỗi những cuộc hẹn hò xem mặt vô vọng: Archie Stafford và đôi giày lười bóng lộn của anh ta. Archie là người bao trọn tất cả chi phí mời cô tới Anh trong một tháng. Anh ta đã giành được chuyến đi này nhờ chăm chỉ nịnh nọt trưởng khoa. Anh ta thực sự không hòa hợp với những người thường hội họp cùng trưởng khoa hay Lãnh chúa Henry ngồi hút xì gà từ nửa đêm cho tới lúc gà gáy, nhưng cũng có thể đó lại là những gì Archie khao khát. Jessica tự hỏi không hiểu anh ta cần một bạn hẹn tới mức nào mà lại mời cô đi cùng. Lúc anh ta ngỏ lời, cô còn bận nghĩ về những tách trà và bánh xốp nên không lo nghĩ gì về lời mời ấy. Một chuyến đi chơi do trường đại học tài trợ, điều đó đã khiến cô cảm thấy cực kỳ an tâm. Thật không may, làm khách của Archie nghĩa là phải nói chuyện với anh ta và đó là điều cô ước giá như mình có thể tránh trong ba tuần tới. Chỉ đến khi lên chuyến bay, cô mới khám phá ra anh ta đáng ghét đến mức nào. Cô tự nhủ sẽ không bao giờ để lộ hộ chiếu của mình cho bất cứ ai mà cô biết chưa đầy một tháng như trong trường hợp này nữa. Nhưng dù muốn hay không, cô vẫn bị kẹt với anh ta suốt chuyến đi này, có nghĩa là ít nhất thì cũng phải lịch sự trò chuyện. Hơn nữa, mẹ cô đã dạy phải luôn tỏ ra lịch sự. Tất nhiên, lịch sự không có nghĩa là cô không thể thỉnh thoảng trốn đi. Đó chính xác là những gì cô đang làm lúc này. Thật không may, trốn nghĩa là phải kiếm một nơi Archie sẽ không bao giờ nghĩ rằng cô sẽ ở đó. Sâu trong lâu đài thời Trung Cổ nhà Henry. Cô tự hỏi, liệu báo động có kêu không nếu cô làm đứt mấy sợi dây chão chắn đường. Cô nhìn sang bên trái và nghĩ sẽ có khá nhiều người nghe thấy tiếng chuông báo động nếu nó kêu lên. Và có lẽ trong cơn hoảng loạn, sẽ không có ai chú ý đến cô. Rõ ràng Lãnh chúa Henry kiếm tiền để sửa chữa nhà mình bằng cách thực hiện các chuyến tham quan lâu đài này. Những chuyến tham quan này có vẻ như rất thu hút. Đoàn người hiện tại cho thấy điều đó. Jessica nhìn những khách tham quan. Họ đi thành hàng như một đàn gia súc và có thể họ sẽ chạy loạn lên nếu cô làm họ giật mình. Họ khó chịu đứng sát lại với nhau, trầm trồ nhìn những món đồ gia truyền, cũng đang chen chúc nhau. Marcham là một điểm đến thu hút hàng đầu và Jessica dường như đã hòa mình vào đám đông nhộn nhịp ngay lúc mà cô cần sự bình lặng và yên tĩnh nhất. Cô đã tham quan lâu đài và biết được nhiều thứ hơn cả những gì cô kỳ vọng về lâu đài Burwyck-trên-biển và lịch sử kèm theo nó. Và một bài học nữa về những sự kiện phức tạp thời Trung Cổ là điều cuối cùng cô cần đến lúc này. “Đương nhiên, lâu đài tại Marcham, hay còn gọi là Merceham, tên gọi của nó vào những năm 1300, là một trong những tài sản nhỏ mà gia đình này sở hữu. Mặc dù đã được mở rộng trong nhiều năm và đại tu trong thời kỳ Victoria nhưng nó cũng chưa phải là của cải quý giá nhất của gia đình. Tài sản quý giá nhất của gia đình de Galtres nằm cách đây 150 cây số trên bờ biển phía đông. Nếu đi thêm đoạn nữa, các vị sẽ thấy một bức tranh vẽ tòa tháp.” Đám đông khán giả ngoan ngoãn đi sang bên trái trong khi hướng dẫn viên tiếp tục nói. “Như các vị có thể thấy trên bức tranh vẽ Burwyck-trên-biển, theo ý kiến của tôi, thì điểm đáng chú ý nhất trong cơ ngơi của gia đình này là việc tháp vòm không xây tại trung tâm của sân trong như ở lâu đài Pembroke mà xây phía tường ngoài hướng ra biển. Tôi cá là chủ nhân đời thứ ba của gia đình de Galtres không muốn tầm nhìn ra biển bị cản trở...” Jessica hoàn toàn đồng ý với anh ta nhưng bây giờ, cô không quan tâm đến việc ngắm biển. Nếu tầng hầm được chăng dây thừng để ngăn cách thì có nghĩa là nó không có khách du lịch và hướng dẫn viên. Dưới đó có thể đầy nhện và những bóng ma, nhưng cô phải liều thôi. Archie sẽ không bao giờ nghĩ đến việc tìm cô ở đó. Cô có thể làm ngơ những bóng ma. Lũ nhện cũng có thể bị giẫm bẹp. Cô hơi co vai lại, tháo móc sợi dây chão rồi đi xuống. Cô dừng lại dưới chân cầu thang và tìm kiếm một nơi nào đó phù hợp. Những bộ giáp đứng nghiêm im lặng dọc theo bên bức tường. Ánh sáng lờ mờ cùng đầy rẫy những sinh vật không tưởng cũng chẳng thể ngăn cản cô. Cô bước qua từng phiến đá lót nền cho đến khi thấy một chỗ có vẻ phù hợp, rồi ngồi vào giữa một hiệp sĩ dữ tợn đang vung một thanh kiếm và một vị khác cầm giáo vẻ đáng sợ. Phủi qua chút mạng nhện, cô khẽ tựa lưng vào bức tường đá. Đây là lần đầu tiên trong ngày cô cảm thấy may mắn vì đã mặc một bộ váy dày. Một bộ trang phục thời Trung Cổ phù hợp với môi trường xung quanh, nhưng dường như rất ngớ ngẩn cho một buổi trà chiều - buổi trà chiều mà cô xuống tầng hầm này để trốn. Cả buổi trà chiều và Archie. Cô đưa tay vào túi và lôi ra vài thứ để thư giãn. Cô đặt một bịch kẹo bơ lạc ướp lạnh trên sàn đá một cách cẩn thận. Những thứ này cô sẽ để dành ăn sau. Một lon nước ngọt nữa. Sàn nhà đủ lạnh để bảo quản nó. Sau đó, cô lôi máy nghe đĩa CD cầm tay ra, đeo tai nghe, thả lỏng và cuối cùng, thở dài nhắm mắt lại rồi nhấn nút Play. Cảm giác lạnh lẽo lan ra khắp sống lưng nhưng không phải là do bức tường đá. Bản giao hưởng số 7 của Bruckner vào đúng thời điểm có sức ảnh hưởng như thế đối với cô. Jessica hít một hơi thật sâu và chuẩn bị cho những điều sắp đến. Bản giao hưởng bắt đầu một cách nhẹ nhàng. Cô biết rồi nó sẽ dần mạnh mẽ vàlớn hơn cho tới khi bao bọc lấy cô, làm cô không thở được. Cô cảm thấy hơi thở của mình bắt đầu gấp gáp và phải lau lòng bàn tay lên bộ váy. Bản nhạc vẫn hay như 139 lần trước cô nghe nó. Đây là thứ âm nhạc đến từ thiên đ... Chít chít. Jessica gần như hóa đá. Cô định mở mắt ra, nhưng cô biết chắc cô sẽ chỉ nhìn thấy một con chuột to bự bên cạnh mình. Lúc đó, cô sẽ ra sao? Đồ ăn vặt của cô vẫn còn trong bọc và vì nó cũng chẳng được tính là đồ ăn nên một con chuột muốn gì cơ chứ? Cô hướng sự chú ý của mình vào bản giao hưởng. Đó là London Philharmonic, một trong những ban nhạc yêu thích của cô. Kẹt, kẹt, kẹeeeeeeeeet. Một cái cửa chớp han gỉ chăng? Có cửa chớp trong tầng hầm? Không biết nữa. Cô không định mở mắt ra nhìn. Có lẽ có cái cửa nào đó gần đây và nó bị gió rít do những vị khách du lịch đi loanh quanh. Hoặc có thể đó là một cánh cửa sập vào ngục tối. Cô ngay lập tức phủ định cái ý nghĩ ấy, vì đó không phải là chỗ cô muốn tới. Cô nhắm mắt chặt hơn. Thật may là cô đã quen với việc tách mình ra khỏi những phiền nhiễu. Nếu không thì tiếng ồn này đã làm hỏng buổi chiều của cô. Mời các bạn đón đọc Mỗi Lần Gặp Em của tác giả Lynn Kurland.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tiệm Bá Nghệ Tada Trước Ga Mahoro
Tada Keisuke, một nhân viên bán ô tô quyết định bỏ nghề, mở tiệm bá nghệ. Gyoten Haruhiko, một nhà nghiên cứu bệnh lý bỗng nhiên bỏ việc, lang bạt nay đây mai đó. Hai người bạn cấp ba chung lớp chưa một lần trò chuyện và chẳng khác nào hai đường thẳng song song ấy chỉ vì một lần trùng phùng nơi trạm xe buýt mà bước vào cuộc sống của nhau. Để rồi, ngày ngày họ rong ruổi khắp những con phố ở Mahoro trên chiếc xe tải nhẹ, làm đủ loại việc vặt mà khách yêu cầu; dắt chó đi dạo, thăm nom người ốm, quét dọn vườn tược, sửa chữa chuồng chó… Hai con người với hai tâm hồn cô độc chưa bao giờ cố để hiểu nhau, càng chẳng đòi hỏi gì ở đối phương, chỉ lặng lẽ sống như vậy qua ngày. Bởi họ biết rằng, một ngày nào đấy, hạnh phúc nhất định sẽ lại tìm đến mình dưới một hình hài nào đó thật khác. *** Miura Shion Cô sinh năm 1976 tại Tokyo, là con gái một học giả cổ điển nổi tiếng của Nhật Bản, vì vậy tình yêu với sách của tác giả được nảy sinh từ khi còn rất trẻ . Khi còn là sinh viên năm cuối khoa Văn Thư tại Đại học Waseda, cô bắt đầu tìm kiếm cho mình một vị trí biên tập, một công ty văn học đã nhận ra được tài năng viết lách của cô và thuê cô để bắt đầu viết một cột nhận xét sách trực tuyến ngay cả trước khi cô tốt nghiệp. Cô đã giành được nhiều giải thưởng lớn như:  Giải thưởng Naoki lần thứ 135.   Giải thưởng Oda Sakunosuke và Giải thưởng Nhà sách Nhật Bản năm 2012.   Một số các phẩm của cô đã được chuyển thể cho phim ngắn hoặc phim truyền hình. Sách của cô đã được dịch sang tiếng Trung, tiếng Hàn, tiếng Việt, tiếng Anh, tiếng Đức và tiếng Ý. Tác phẩm: Bước Chạy Thanh Xuân Người Đan Chữ Xếp Thuyền Tiệm Bá Nghệ Tada Trước Ga Mahoro Những Vị Khách Của Tiệm Bá Nghệ Tada ... *** Bà Soneda đã tiên đoán như vậy “Sang năm là mầy bận rộn lắm đó con.” Vào buổi chiều một ngày cuối năm nọ, bầu trời quang đãng, bà Soneda đã buông một câu như vậy. Phòng khách của bệnh viện yên ắng quá đỗi. Ngoài khung cửa là bãi cỏ khô và những lùm cây rụng lá. Hai chiếc ti vi cỡ lớn đều giảm âm lượng xuống mức tối thiểu, một chiếc đang phát lại phim truyền hình dài tập, chiếc khác thì chiếu trận đua ngựa. Các ông già bà cả tập trung ngoài phòng khách thích ngồi bàn nào thì ngồi bàn đó, tự chia làm hai tốp rồi dán mắt vào một trong hai chiếc ti vi. Thi thoảng đâu đó sẽ vang lên những tiếng thọc tay vào gói bánh kiều mạch mang từ phòng bệnh tới hay tiếng bánh xe lăn kêu ken két. “Chả có nhẽ lại buôn may bán đắt nhỉ?” Tada Keisuke vừa cắt nhỏ bánh bông lan mật ong mua tới làm quà ra cho vừa miệng, vừa hỏi lại. Bà Soneda thì còn đang bận gườm chiếc bánh bằng cặp mắt sáng quắc như hổ rình mồi. Tada chỉ cắt ra hai miếng để vào đĩa giấy trên bàn rồi cất phần còn lại vào trong hộp nhựa, miệng căn dặn bà già: “Mẹ không thể ăn hết cả cái cùng lúc đâu! Đợi đến giờ ăn vặt rồi chia cho các bạn cùng phòng nhé.” Hắn rót trà nóng mua ở máy bán hàng tự động vào cốc giấy rồi đưa cho bà già. Bà nhúng bánh bông lan vào trà cho mềm ra rồi khởi sự ăn. “Buôn bán thì chả khác gì năm nay đâu! Mầy bận là bận chuyện của mầy ấy!” Bà già lại nói. “Không khéo mất luôn con vợ cũng chẳng biết chừng!” Vợ thì con bỏ từ đời rồi bà ơi! Tada nghĩ thầm trong bụng, song cũng chỉ im lặng nghe bà già nói tiếp. “Tiếp nhé, rồi mầy còn sẽ bắt đầu một cuộc thiên di, khóc khóc cười cười nữa cơ.” “Thiên di? Đi đâu cơ?” “Một nơi rất xa, rất xa. Xa như trong thẳm sâu trái tim mầy vậy.” Kể từ sau cái hồi bị bác sĩ phán rằng: “Những con ma xuất hiện vào ban đêm ấy thực chất chỉ là tâm cảnh của bà thôi, chúng được sinh ra từ trong lòng bà, bà Soneda à...” thì bà già đã không còn mấy lòng tin vào con tim mình nữa. Nên hẳn nơi mà bà nhắc đến phải xa cỡ nước ngoài, nơi người ta nói thứ ngôn ngữ hắn nghe không hiểu một chữ. “Ái chà, bà Kiku lại đang tiên tri kìa.” Nghe một giọng khàn đột ngột cất lên sau lưng, Tada ngoái lại. Ông lão hắn hay thấy trong bệnh viện với cây treo túi truyền dịch kiêm gậy batoong đang đứng đó. “Như nào rồi? Như nào rồi?” Ông lắc đầu, bỏ về phía chiếc ti vi. Bà già tiếp tục xì xụp hớp hết cốc trà. “Tóm lại là mầy sẽ bận bịu lên đấy, và không còn đến chỗ này mấy nữa.” “Kìa mẹ, chẳng có chuyện như vậy đâu!” Những lời sau đó nghẹn lại nơi cuống họng Tada. Hắn đã không thể thốt ra nổi một câu rằng: “Con sẽ lại đến.” Để xua đi giây phút ngượng ngập, hắn đề xuất: “Mình quay về phòng thôi nhỉ?” Nghe hắn nói vậy, bà Soneda chỉ lẳng lặng gật đầu. Bà già lững thững bước trên hành lang, Tada kiên nhẫn bước theo. Bà đã ngót nghét chín mươi đâm lưng còng xuống chỉ còn cao đến thắt lưng Tada. Phòng bệnh của bà là phòng cho sáu người, mỗi bên kê ba giường, giường của bà nằm ở giữa một bên. Tada lại giúp bà thật cẩn thận, cẩn thận, trèo lên giường. Bà già ngồi quỳ gối trên đó, cuộn người lại nom chẳng khác gì miếng bánh giầy Đại Phúc nhỏ bé. Tada đặt hộp nhựa đựng bánh bông lan lên chiếc tủ thép đầu giường rồi tính chào tạm biệt. Vừa lúc một y tá bước vào, khẽ gật đầu chào hắn, và thế là hắn để lỡ mất cơ hội chuồn cho nhanh của mình. Y tá vui vẻ bắt chuyện với bà lão. “Ôi! Bà Soneda có anh con trai ngoan quá. Anh lại đến thăm bà đấy à?” Đoạn cô ghé vào tai cụ già nằm giường trong cùng không rõ là ông lão hay bà lão, hét thật to: “Bác đau lưng ạ? Để cháu đổi tư thế cho bác nhé?” Rồi kéo roẹt tấm rèm ngăn hai giường lại. Có vẻ như ở phía bên kia rèm, cô y tá đang lật người cho cụ già, tránh để cụ bị loét lở vì nằm liệt. Tóc bà Soneda đã bạc trắng, còn lưa thưa có vài sợi. Tada cứ đứng đó hồi lâu nhìn xuống cái xoáy trên đầu bà, cuối cùng hắn nói. “Thế mẹ nhé, mẹ đón năm mới vui vẻ.” “Ừ.” Bà nói như đang thì thầm. Lúc nào chia tay bà cũng trở nên lầm lì ít nói. Tada bước vội ra ngoài hành lang, lúc đi khỏi cửa, hắn còn ngoái lại, bà lão vẫn cứ y chiếc bánh Đại Phúc ở trên giường, cúi gằm mặt xuống. Nếu thật sự là một “đứa con ngoan” thì đã chẳng để mặc bà mẹ già ốm o của mình lủi thà lủi thủi trong bệnh viện đón năm mới, càng chẳng để một người dưng nước lã tới thăm bà thay cho mình. Tuy nghĩ vậy nhưng Tada cũng hiểu chính vì bản thân hắn là một người xa lạ cho nên mới có thể nói ra những lời đãi bôi một cách vô tư như thế. Đến khi leo lên chiếc xe tải nhẹ màu trắng đậu trong bãi, hắn mới có thể thở phào nhẹ nhõm. Cho dẫu những bức tường kia có được sơn bằng màu kem tươi sáng cỡ nào chăng nữa, thì bầu không khí bên trong bệnh viện vẫn khiến tâm trạng người ta u sầu ủ dột chẳng rõ tại làm sao. Tada xoay chìa khóa khởi động xe, và trong lúc chờ hệ thống sưởi hoạt động, hắn đốt một điếu thuốc lá. Hỗn hợp mùi amoniac và thuốc sát trùng vẫn còn đẫm trong cuống mũi hắn. Hắn mở hé cửa sổ xe, đẩy tất cả theo làn khói thuốc thoát ra ngoài. Rút điện thoại khỏi túi áo khoác, hắn gọi vào một dãy số. Phải đến lần gọi thứ năm, hắn mới nghe được giọng một phụ nữ trung niên bắt máy. “Cửa hàng xây dựng Soneda xin nghe.” “Tôi là Tada bên tiệm bá nghệ, cho hỏi anh Masatoshi có đó không ạ?” “Ảnh đi ra ngoài rồi, cậu thăm bệnh xong rồi đó hả?” “Vâng, vừa mới xong.” “Cảm ơn cậu nhé. Tôi sẽ báo lại với chồng tôi.” Ê chị, cẩn thận đi thì hơn, năm sau có lẽ hai người sẽ ly hôn đấy.Hắn còn chẳng kịp nói những lời này thì điện thoại đã bị ngắt cái rụp. Thôi bỏ đi, hắn nghĩ, rồi gập điện thoại lại. Đương nhiên lời bà Soneda cũng có phải lời sấm truyền gì đâu, chỉ là chút thở than của người già thôi mà. Ngày mai hắn sẽ có năm đơn treo cây nêu ngày Tết, một đơn tổng vệ sinh nhà cửa. Tada lái con xe tải nhẹ, quay trở về văn phòng làm việc của mình nằm ở trước ga Mahoro. Mời bạn đón đọc Tiệm Bá Nghệ Tada Trước Ga Mahoro của tác giả Shion Miura & Phong (dịch).
Chiếc Vòng Thạch Lựu
Chiếc vòng thạch lựu, dịch giả Đoàn Tử Huyến. Tình yêu không vụ lợi là đây, đây là 1 trong những tác phẩm tình yêu hiếm hoi mình yêu thích   "Một trong những truyện ngát hương thơm và đầy day dứt về tình yêu - và buồn thảm nhất - đó là truyện Chiếc vòng thạch lựu của Cuprin" (Pauxtopxki) Chiếc vòng thạch lựu là thiên truyện tình hay nhất của nhà văn A. Cuprin, một mối tình trong sáng, mãnh liệt, cao cả, đẹp và buồn, sẵn sàng hi sinh bản thân bởi tình yêu, câu chuyện nhẹ nhàng đầy tính chất nhân văn. K. Pautovski từng nói về Cuprin rằng: "Chúng ta cần phải biết ơn Cuprin vì tất cả - vì tấm lòng nhân hậu sâu sắc của ông, vì tài năng vô cùng tinh tế của ông, vì tình yêu đối với tổ quốc và niềm tin không gì lay chuyển nổi vào hạnh phúc của dân tộc mình, và cuối cùng, vì khả năng không bao giờ mất đi ở ông, cái khả năng cháy lên từ những lần tiếp xúc dù ngắn ngủi nhất với chất thơ của cuộc sống, và viết về điều đó một cách thoải mái nhẹ nhàng." *** Aleksandr Kuprin là một trong những nhà văn Nga xuất sắc hồi cuối thế kỷ 19 - đầu thế kỷ 20. Ở Việt Nam, ông được độc giả biết đến qua tác phẩm "Chiếc vòng thạch lựu" và "Người tình của vua Sô lô mông" (Суламифь). Aleksandr Ivanovich Kuprin (1870 - 1938) là một trong những đại diện cuối cùng của thế hệ bạc (Sliver Age) của dòng văn học Nga lãng mạn trước Cách mạng. Văn của ông có giọng điệu riêng và chiếm vị trí đặc biệt trong lòng độc giả Nga, ông được gọi một cách yêu quý là “Nhà văn của dân nghèo”.  Trong hơn 40 năm lao động sáng tác, ông đã để lại cho văn học Nga và thế giới một di sản đồ sộ với khoảng 300 tác phẩm lớn nhỏ. Các tác phẩm của ông bao quát nhiều lĩnh vực trong đời sống Nga cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Ông tập trung viết về cuộc sống đời thường, chủ đề tình yêu vẫn chiếm vị trí trung tâm. Các mối tình trong truyện của ông giản dị, không có kết thúc quá bi thảm, nhưng đa số đều không trọn vẹn, và đôi khi rất bất ngờ, để lại trong tâm trí người đọc một câu hỏi tuy chỉ thoáng qua nhưng day dứt. *** Vào giữa tháng tám, vừa mới bắt đầu có trăng non, thời tiết bỗng trở nên tồi tệ, như thường vẫn gặp ở vùng duyên hải bắc biển Đen. Khi thì một màn sương mù dày đặc suốt mấy ngày liền nặng nề bao trùm khắp mặt đất và mặt biển, và lúc đó chiếc còi lớn trên ngọn hải đăng ngày đêm rống lên như một gã trâu điên; khi thì ngày này sang ngày khác mưa phùn dai dẳng không dứt, biến các con đường đất sét lớn nhỏ thành bãi lầy đặc sệt, làm những cỗ xe ngựa chở khách và chở hàng thụt xuống mãi không lên được. Lại có khi một cơn bão tuyết hung dữ từ đồng cỏ hướng tây bắc tràn về, các ngọn cây ngả nghiêng, nằm rạp xuống rồi lại đứng thẳng lên như những cơn sóng biển trong dông tố; đêm đêm, mái nhà bằng sắt tây của các nhà nghỉ ngoại thành rung lên kêu loảng xoảng chắng khác gì có người đi ủng đế sắt chạy trên đó; những khung cửa sổ, của chính bị giật liên hồi; gió hú man dại trong các ống khói lò sưởi. Đã có mấy chiếc xuồng máy đánh cá bị lạc ngoài khơi, và hai chiếc vĩnh viễn không bao giờ về nữa; phải một tuần sau, sóng mới đánh dạt mấy xác người lên bờ ở những chỗ khác nhau. Những người trong khu nhà nghỉ ngoại ô cạnh bờ biển - phần lớn là dân Hi Lạp và Do Thái, yêu đời và cả lo như tất cả những người sống ở phương Nam - vội vã trở về thành phố. Dọc theo con đường cái lớn lầy lội, những đoàn xe bốn bánh chở hàng kéo dài tưởng như vô tận; trên xe chất đầy các vật dụng trong nhà - nệm giường, đi văng, hòm xiểng, bàn ghế, chậu rửa mặt, ấm xamôva. Vừa buốn, vừa thương hại, vừa khó chịu khi nhìn đoàn xe lôi thôi lốc thốc đến tồi tàn, bẩn thiửu và thê lương này qua màn mưa đục; nhìn đám hầu phòng và đầu bếp gái ngồi đè lên những tấm vải bạt ướt phía trên xe, tay giữ khư khư mấy chiếc bàn là, hộp sắt tây hoặc làn giỏ; nhìn những con ngựa kiệt sức, mình đẫm mồ hôi, thỉnh thoảng dừng lại, đầu gối run rẩy, hơi nước bốc lên như khói, cặp sườn thở gấp phập phồng; nhìn những người đánh xe quấn kín mình trong các tấm vải bố và chửi nhau đến khản cả giọng. Nhưng còn đáng buồn hơn nữa khi nhìn những ngôi nhà nghỉ đột ngột trở nên hoang vắng với những bồn hoa bị dẫm nát, những cửa kính bị vỡ toang, những con chó không chủ và đủ các thứ rác rưởi của đám người đi nghỉ bỏ lại - tàn thuốc lá, giấy lộn, mảnh gốm, vỏ diêm và ve lọ đựng thuốc ngổn ngang khắp nơi.   Mời các bạn đón đọc Chiếc Vòng Thạch Lựu của tác giả Aleksandr Kuprin.
Trăng Huyết
Thư gửi bạn đọc Trăng Huyết Trong mùa hè năm 2004, một người bạn Việt Nam trẻ tuổi của tôi hiện học tại Anh đã đọc Trăng Huyết, bản phóng tác bằng tiếng Việt. Cô đối chiếu các phần của cuốn ấy với cuốn tiểu thuyết nguyên bản SAIGON của tôi, là cuốn hình thành cái lõi cốt yếu của tác phẩm khuếch đại và mới của người bạn đồng tác giả Nguyễn Ước. Vì tôi không biết và không đọc được tiếng Việt nên lúc ấy, tôi không có ý niệm về những gì Nguyễn Ước đã làm đối với bản văn của tôi. Trước khi thực hiện tác phẩm ấy, anh không tham khảo ý kiến tôi, cũng không tìm cách xin phép tôi cho tới khi anh đã hoàn tất. Thậm chí khi viết thư này, tôi vẫn không biết thật cặn kẽ những gì chứa đựng trong 400 trang mà anh thêm vào — ngoài việc biết rằng những thay đổi trong giai đoạn sau năm 1945 thì nhiều hơn trong phần đầu của cuốn truyện. Trước đây, tôi biết qua lời của chính Nguyễn Ước giải thích với tôi rằng anh nồng nhiệt tin tưởng cuốn tiểu thuyết của tôi với những đoạn thông tin và diễn dịch do anh thêm vào là “bộ tiểu thuyết Chiến tranh và Hoà bình mà người dân Việt Nam đang trông đợi”. Trong lần liên lạc thứ nhất, anh nói với tôi rằng anh cảm thấy nó có sức mạnh “hòa giải và giải phóng” người dân Việt Nam khỏi những xung khắc thời quá khứ. Nhận thấy mình xúc động bởi niềm xác tín đó, tôi bất giác quyết định không chống lại cũng như không phản đối tức thời việc Nguyễn Ước đã làm. Tuy thế, tôi cảm thấy nhẹ nhỏm khi người bạn sinh viên Việt Nam trẻ tuổi tại Anh ấy nói với tôi rằng cô rất xúc động qua những gì cô đã đọc. Cô nói, “Tôi xin cám ơn ông đã viết cuốn sách này. Tôi đã biết được rất nhiều về xứ sở và dân tộc của tôi mà trước đây tôi chưa hề biết. Tôi nghĩ rằng giá trị lớn lao nhất của cuốn truyện này là nó bảo tồn ký ức lịch sử cho những thế hệ mới của người Việt trong một thế giới đang thay đổi nhanh chóng. Tôi cho rằng đây là cuốn tiểu thuyết rất quan trọng cho dân tộc Việt Nam — và cũng cho mọi người khác nữa.” Vào năm 2005 này, ba mươi năm sau ngày Sàigòn thất thủ, dường như thế giới của chúng ta đang là chốn nguy hiểm hơn bao giờ hết. Cuộc chiến tranh cay đắng ở I-rắc do người Mỹ khởi động xâm lăng đầu năm 2003 đang ngày càng bị so sánh với cuộc chiến tranh Việt Nam trong hai thập niên 1960 và 1970. Dù sao, khủng bố và giết chóc vì lý do tôn giáo và chính trị đang lan rộng toàn cầu hơn bao giờ hết. Dường như toàn thể hành tinh của chúng ta hiện sống với trạng thái đề phòng hằng ngày sẽ có thêm một hành động “khủng bố” tập thể nữa. Trong tình huống ấy, điều quan yếu là những người mà số lượng ngày càng nhiều thêm trên thế giới, đang mãnh liệt khao khát chấm dứt vĩnh viễn toàn bộ chiến tranh và tàn sát, nên tin rằng có những lý do để cảm thấy mình được khích lệ. Đối với tất cả chúng ta, điều quan trọng là có những nền tảng để tin tưởng vào một tương lai tốt đẹp hơn và để không bị ám ảnh bởi sợ hãi. Ở cấp độ cao nhất, mục đích tái bản cuốn trường thiên tiểu thuyết khuếch đại [Trăng Huyết] này về những cuộc chiến lâu dài và cay đắng tại Việt Nam trong hậu bán thế kỷ 20 là để nhắc nhở chúng ta thảm kịch kinh hoàng và vô ích của mọi cuộc chiến, cách riêng các cuộc chiến xuẩn động. Cả Việt Nam lẫn I-rắc đều rơi vào bản liệt kê buồn bã đó. Mọi người đều đau khổ trong các thời kỳ bi thảm như thế và chẳng một ai thật sự chiến thắng. Chiến tranh biến hết thảy chúng ta thành nạn nhân. Lúc này, điều quan yếu cho thế giới của chúng ta là tiến tới một trạng thái sinh tồn trong đó chúng ta có thể giải quyết mọi vấn đề giữa các dân tộc và các quốc gia mà chẳng cần tới bạo động và giết chóc. Cũng quan yếu không kém là việc chữa trị những vết thương khủng khiếp về tâm lý và thể lý của quá khứ, để giúp tạo dựng một tương lai hòa bình và tốt lành hơn cho tất cả chúng ta. Khi cuốn SAIGON được xuất bản lần đầu năm 1982, tôi ngạc nhiên và vui thích thấy nó trở thành sách bán chạy ở tầm quốc tế tại 15 nước, nói chín ngôn ngữ khác nhau. Thật rất hài lòng khi tại Việt Nam và Hoa Kỳ, nó được dùng trong lớp học để dạy dỗ các sinh viên sĩ quan trẻ tuổi của hải quân và quân đội — Đại học Quốc phòng của Quân đội Nhân dân tại Hà Nội và Học viện Hải quân Hoa Kỳ tại Anapolis. Nguyễn Ước đọc cuốn tiểu thuyết ấy lần đầu tiên bằng tiếng Anh lúc anh tới được trại tị nạn ở Indonesia sau khi trốn khỏi Việt Nam bằng thuyền vào cuối thập niên 1980. Anh kể rằng anh đã khóc khi đọc nó hết phần này sang phần khác. Mãi về sau, anh quyết định dịch và tự chủ xướng việc khuếch đại vì anh cảm thấy cuốn truyện ấy, với sự thêm vào các sự kiện lịch sử cùng hư cấu nào đó của anh như một kẻ trong cuộc, sẽ khiến độc giả người Việt nhận ra rằng sự thật giải phóng chúng ta và hoà giải chúng ta. Như đã nêu rõ, tôi quyết định cứ tin vào sự bảo đảm mà Nguyễn Ước đã viết cho tôi, rằng anh không phản bội hình thức và dự phóng trong cuốn tiểu thuyết nguyên bản của tôi. Tôi phải bảo lưu quyền thẩm định đầy đủ và có cân nhắc cho tới một thời điểm tôi biết chính xác từng chữ những gì anh đã viết. Trong lúc này tôi đang đi theo con đường riêng của mình để SAIGON được dịch riêng biệt ra tiếng Việt, đúng chính xác những gì tôi viết mà không có bất cứ thêm thắt nào, và để cho nó được xuất bản công khai bởi một nhà xuất bản của người Việt tại Việt Nam. Như tôi đã viết vào tháng Chạp năm 2004, hiện ở Hà Nội đang có những thảo luận bước đầu về việc đó, nhân danh tôi, và chưa có kết quả rõ ràng. Tuy thế, tôi không biêt việc xuất bản ấy sẽ xảy ra sớm hay muộn — hoặc quả thật bao giờ. Rõ ràng Nguyễn Ước đã hết lòng với đam mê, lý tưởng và nghị lực để viết nên Trăng Huyết. Nếu anh ấy có lý và cuốn sách này có thể đóng góp đầy ý nghĩa để chữa trị và hòa giải các vết thương quá khứ, thì bằng những cách thức nhỏ bé, một tương lai hoà hợp hơn sẽ bắt đầu để làm nổi bật dân tộc Việt Nam — và việc đó chắc chắn dẫn tới kết quả là sẽ làm xúc động người dân của các quốc gia khác. Lúc ấy, mọi nỗ lực cần cù của Nguyễn Ước sẽ đáng giá. Dù xảy tới tình huống nào đi nữa, tôi vẫn ca ngợi hoài bảo, sự tự phát, những lao động tận tụy của anh và mong anh ấy gặp may mắn. Sự ngưỡng mộ và mến cảm của tôi đối với Việt Nam và dân tộc can trường cùng độc đáo ấy ngày càng tăng kể từ khi tôi bắt đầu nghiên cứu và viết cuốn SAIGON. Sự tái tục dính líu tới Việt Nam được gây ra bởi sự xuất hiện nổi bật của Trăng Huyết và việc tái bản tại Anh ấn bản mới cuốn SAIGON bằng tiếng Anh vì thế đang là nguồn khoái cảm lớn lao cho tôi. Vậy tôi xin cám ơn tất cả những ai quan tâm và chúc cho tất cả những ai đang đọc các trang này một hoà bình lâu dài và sự hòa hợp ngày càng tăng trong cuộc sống hằng ngày. Mời các bạn đón đọc Trăng Huyết của tác giả Anthony Grey & Nguyễn Ước.
Sống
Tác phẩm của Dư Hoa đã được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới như Anh, Pháp, Đức, ý, Tây Ban Nha, Hà Lan, Nhật Bản và Hàn Quốc. Truyện vừa Sống được nhà đạo diễn tầm cỡ quốc tế ngươì Trung Quốc Trương Nghệ Mưu dựng thành phim cùng tên, gây xôn xao dư luận một thời, làm xúc động hàng triệu triệu người xem trong và ngoài nước bởi khả nǎng chịu đựng của con người trước khổ đau hoạn nạn và thái độ lạc quan đối với thế giới. Sống đã được giải Mười cuốn sách hay của Thời báo Trung Quốc, giả Mười cuốn sách hay của Tạp chí Bác ích và giải thưởng vǎn học Gelin Thana Kapo của Ý *** Không thể tin được rằng, có một cuốn sách nào thực thà, tận cùng, vẹn nguyên đến chừng ấy... “Sống” là có lẽ là cuốn sách làm tôi khóc nhiều nhất từ trước đến giờ. Tôi đã khóc từ những trang đầu tiên cho đến tận trang cuối cùng của cuốn sách. Nỗi ám ảnh triền miên kéo dài sau đó. Tôi không thể tin được rằng, có một cuốn sách nào thực thà, tận cùng, vẹn nguyên đến chừng ấy.   “Sống” tái hiện trước mắt độc giả cuộc đời đầy biến động, thăng trầm với những giây phút giây đau khổ tột cùng và hạnh phúc mong manh của người nông phu Phú Quý. Phú Quý từ một công tử nhà giàu ham chơi, hư đốn đã biến thành một kẻ nghèo hèn, tận cùng xã hội, phải làm thuê trên chính đất đai của mình, chỉ vì một canh bạc. Trở về cuộc sống nghèo khổ, hàng ngày phải vật vã kiếm sống, nhưng anh lại từ cuộc sống cơ hàn ấy mà nhận ra tình yêu thương vô bờ bến của người vợ yêu quý, Gia Trân. Anh đã tưởng rằng, từ đây, dù nghèo khổ nhưng anh sẽ được thanh thản và hạnh phúc. Nhưng cuộc đời bắt đầu như một sợi dây thừng thít cổ anh bằng những đau đớn, những mất mát, thương tổn tột cùng. Anh dần mất đi những người thương mến nhất đời mình. Người vợ Gia Trân chết vì bệnh nhũn xương. Con gái Phượng Hà chết vì sinh khó. Con trai Hữu Khánh chết vì bị lấy quá nhiều máu. Con rể Nhị Hỷ chết vì tai nạn bốc vác. Đứa cháu trai duy nhất, Khổ Căn rồi cũng bỏ ông mà đi, vì bội thực đậu luộc.   Sức lực của ông cứ bị mài mòn mãi đi, mài mòn cho đến tận cùng tâm hồn vì những sự ra đi đau đớn ấy. Có khi nào ông tự hỏi, cái đói cái nghèo chính là nguyên nhân của những hoàn cảnh bi ai ấy không hay ông nghĩ đó là sự trừng phạt của số phận, là sự oan nghiệt mà bất kì ai sống trên cuộc đời này cũng phải trải qua. Nhưng đáp lại ông chỉ là câm lặng đến ngàn đời. Thời gian cứ đằng đẵng trôi đi, cứ tàn nhẫn cướp đi của ông những hạnh phúc nhỏ nhoi, để trả lại là ngàn ngàn đắng cay. Đi đến gần hết cuộc đời, người đàn ông ấy lại chỉ lủi thủi một mình với con trâu già. Cô độc. Cô độc đến đỉnh điểm. Những giọt nước mắt nghẹn lại qua từng trang giấy mỏng mảnh. Ranh giới giữa hạnh phúc và đau đớn chưa bao giờ mong manh, nhỏ bé đến như vậy. Tôi chưa bao giờ sợ hãi, lo lắng như vậy khi lật từng trang giấy của “Sống”. Chỉ sợ rằng, chút hạnh phúc mà họ vừa mới nhận được sẽ tan đi như khói mây, để ập đến bên đời họ là bất hạnh. Mắt tôi nhòe đi trong cái khoảnh khắc người con trai gầy gò bé nhỏ Hữu Khánh của gia đình Phú Quý ngây ngô để người ta rút đến cạn kiệt máu trong cơ thể bé mọn của mình chỉ vì để cứu vợ của chủ tịch. Chút hạnh phúc mà gia đình Phú Quý có được khi Hữu Khánh được giải nhất cuộc thi chạy đã tan đi vội vã. Thấy mình đờ đẫn, căm giận, quặn đau. Thấy bàn tay trên trang giấy đã buông ra từ khi nào. Cuộc sống trôi nổi, càng trôi nổi. Chút vui được nhen nhóm lên từ trong mất mát đã bị chết yểu vào những giây phút tưởng như hạnh phúc nhất. Người cha khốn khổ đã âm thầm chịu đựng nỗi đau ấy, và âm thầm đón nhận những nỗi đau khác ập đến. Cảnh người con gái câm Phượng Hà rên rỉ, đau đớn để rồi chết vì mất nhiều máu quá khi sinh con đã đẩy sự bất hạnh đến cực điểm của nó. Tôi chưa bao giờ căm giận số phận khủng khiếp như giây phút ấy. Những gì nghiệt ngã nhất đã xảy ra. Vĩnh viễn chìm trong câm lặng. Giọt nước mắt đau khổ đã ngưng cạn, đã đóng đặc thành một khối u ẩn giấu trong lồng ngực. Tôi cũng cảm giác như Phú Quý đã không còn chút sức lực nào để sống nữa. Chính tôi cũng tưởng như trái tim mình ngừng đập, như chính mình đang đi giữa cuộc sống ấy, bất hạnh ấy, đau đớn ấy.   Tôi không còn chút cảm giác nào với hơi thở của chính mình. Nhưng ông vẫn sống, vẫn sống dai dẳng với cuộc đời này, như chờ đợi, như thách thức, như gặm nhấm. Có lẽ, đã đủ đau đớn nên người ta không còn cảm thấy sợ sống nữa. Một đời người đã trải qua tất cả hỉ, nộ, ái, ố của để rồi cuối cùng bơ vơ, nhưng chưa một giây phút nào ông ngừng sống. Ông chờ đợi từng ngày cho sự ra đi của mình trong lặng lẽ. Tôi chỉ biết khóc, vì bản thân đã không thể nào chịu đựng được những đau đớn ấy. Tôi lặng im vì mọi ngôn ngữ đều bất lực khi diễn ta nỗi đớn đau và bất hạnh.   Hình ảnh người đàn ông già nua lững thững bên con trâu cũng già như ông khiến tôi vĩnh viễn không thể nào quên được. Tôi ghi nhớ nó trong cuộc sống của mình như để nhắc nhở chính bản thân mình. Bước vào cuộc sống của những nhân vật trong câu chuyện ấy, tôi thấy mình nhỏ bé, hạnh phúc và may mắn. Trong hoang mang tận cùng, tôi vẫn tự dặn lòng mình phải sống, phải sống… Tác phẩm “Sống” của Dư Hoa thực sự đã đi đến tận cùng hai chữ “cuộc sống” mà chúng ta đôi khi cố công định nghĩa. Thế thôi, “Sống” đã đủ đầy, trọn vẹn, và bất tử. Trương Nghệ Mưu đã đưa “Sống” của Dư Hoa lên phim, với một kết thúc có hậu cho cuộc đời oan nghiệt của Phú Quý, như để cứu vớt trong lòng mỗi con người chúng ta một chút niềm tin còn sót lại. Khi bộ phim ấy kết thúc, nhìn Phú Quý hạnh phúc bên đứa cháu của mình, tôi lại xót xa nghĩ về một Phú Quý cô độc trên trang giấy của Dư Hoa. Nhưng ít ra, tôi đã có thể khóc nhẹ nhàng hơn… *** Lúc còn trẻ hơn bây giờ mười tuổi, tôi được giao cho một nghề rong chơi nhàn lắm: Về các vùng quê thu thập ca dao dân gian. Cả mùa hè năm ấy, tôi như một con chim sẻ bay tung tăng, rong ruổi trên đồng quê thôn xóm ăm ắp tiếng ve sầu và ánh nắng. Tôi thích uống nước trà có vị đắng của nông dân. Họ để thùng nước trà ở dưới bóng cây bên bờ ruộng. Tôi cứ việc cầm cái bát bám cáu trà đen nhẻm múc nước uống tự nhiên, lại còn rót đầy một bình toong của mình, nói với cánh đàn ông trên ruộng dăm ba câu vớ vẩn, rồi đi thẳng trong tiếng cười khúc khích vì tôi của các cô gái. Tôi đã từng nói chuyện với một ông già coi ruộng dưa cả một buổi chiều. Đây là lần tôi được ăn dưa nhiều nhất trong đời. Khi tôi đứng lên chào tạm biệt, đột nhiên phát hiện mình bước đi khó khăn như người đàn bà chửa. Sau đó, tôi ngồi ở ngưỡng cửa với một người phụ nữ đã lên chức bà nội. Bà vừa bện giày cỏ, vừa hát cho tôi nghe bài “Tháng mười mang thai”. Tôi thích nhất là vào lúc chiều tối, ngồi trước nhà nông dân, nhìn họ té nước giếng lên sân cho bụi khỏi bay lên, ánh nắng cuối ngày lung lay nhè nhẹ trên ngọn cây; tôi cầm cái quạt họ đưa cho, nếm miếng dưa nén của họ mằn mặn như muối, nhìn cô gái nào đó, nghe mấy bà già kể chuyện ngày xửa ngày xưa. Mùa hè ấy suýt nữa tôi còn lao vào một chuyện tình. Tôi gặp một cô thôn nữ xinh xinh thinh thích, mãi bây giờ khuôn mặt trái xoan bánh mật của cô ấy vẫn còn lấp lánh trước mắt tôi. Lúc tôi gặp cô ấy, thì cô ấy đang xắn ống quần ngồi trên bãi cỏ xanh bên bờ sông, tay cầm một cái roi tre, chăn đàn vịt béo mủm mĩm. Cô gái mười sáu mười bảy tuổi này đã e thẹn nói chuyện với tôi suốt một buổi chiều nóng nực. Tôi nhìn cô ấy len lén bỏ ống quần xuống, giấu che ngón chân đi đất của mình vào lùm cỏ. Chiều hôm ấy tôi tán dóc lắm, rêu rao kế hoạch sẽ đưa cô ấy đi chơi ở các nơi như thế nào. Cô ấy vừa ngạc nhiên vừa mừng. Lúc đang cơn say sưa, quả là tôi cũng đã nói những câu thật lòng. Có điều ở bên cô ấy, chỉ cảm thấy thâm tâm mình vui vẻ, chứ không suy nghĩ sau này sẽ ra sao. Nhưng sau đó, ba người anh trai lực lưỡng khỏe như trâu của cô ấy đi đến, tôi mới giật nảy người, cảm thấy mình nên vĩnh biệt cô gái đáng yêu này; nếu không, tôi sẽ chẳng thể tránh khỏi việc lấy cô ấy làm vợ. Tôi bỏ đi với dáng dấp thế này: Đầu đội mũ lá rộng vành, chân đi dép lê, một cái khăn mặt giắt vào thắt lưng da ở đằng sau như cái đuôi đập vào mông. Tôi há to mồm ngáp một cái, bước tản mạn trên con đường mòn. Đôi dép lê của tôi cứ lạch bạch lạch bạch, hất tung bụi đường, y như cảnh lúc bánh xe lăn qua. Mời các bạn đón đọc Sống của tác giả Dư Hoa.