Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bí mật Shakespeare - Jennifer Lee Carrell

Sau khi ra mắt (từ tháng 1/2008), “The Shakespeare Secret” (Bí mật Shakespeare) hay còn có tên khác là “Interred with Their Bones” - tiểu thuyết đầu tay của Jennifer Lee Carrell đã lọt vào top 5 cuốn sách bán chạy nhất. Tác phẩm tạo thành một hiện tượng mới của làng xuất bản Mỹ với mức độ thành công tương đương với “Mật mã Da Vinci” của Dan Brown. The Shakespeare Secret (Bí mật Shakespeare) là một tiểu thuyết ly kỳ liên quan đến một vở kịch bị mất của Shakespeare, vở kịch The History of Cardenio. Vào một ngày tháng 6 năm 2004, tại nhà hát Globe được xây dựng lại ở London, Rosalind Howard, giáo sư lập dị, khoa trương của trường ĐH Harvard chuyên nghiên cứu về Shakespeare, đã đưa cho cô bạn mình là Katharine Stanley - đạo diễn người Mỹ đang dựng vở kịch Hamlet ở nhà hát Globe - một hộp nhỏ gói giấy vàng.  Tối hôm đó, vụ hỏa hoạn đã phá hủy nhà hát Globe, và Rosalind được phát hiện bị đầu độc chết y như cách người ta đã giết chết cha của Hamlet. Món quà bí ẩn của Rosalind, chứa đựng chiếc ghim đồ tang thời nữ hoàng Victoria được trang trí những bông hoa liên quan đến Ophelia, đã đẩy Katharine vào một cuộc điều tra nguy hiểm, đưa cô đến Utah; Arizona; Washington, D.C.; và quay trở lại London. Mỗi bước điều tra, khi các thi thể chồng chất, Katharine đều thoát chết khi sắp trở thành nạn nhân tiếp theo của vụ giết người.  Từ những tài liệu của Shakespeare cho đến những hầm mỏ hoang tàn, từ hiện tại đến quá khứ, tiểu thuyết tâm lý hành động của tác giả Jennifer Lee Carrell chứa đựng nhiều bất ngờ, hồi hộp và thú vị. Sức hút của tác phẩm được thể hiện rất rõ qua viện Bản quyền tác phẩm đã bán cho 20 quốc gia trên toàn thế giới. *** Một ngày tháng Sáu năm 2004, tại nhà hát Globe được xây dụng lại ở London, Rosalind Howard, giáo sư lập dị chuyên nghiên cứu về Shakespeare, đã đưa cho Katharine Staley - đạo diễn người Mỹ một hộp nhỏ màu vàng. Tối hôm đó, vụ hỏa hoạn đáng ngờ đã phá hủy nhà hát Globe, và Rosalind được phát hiện bị đầu độc chết y như cách người ta giết chết cha của Hamlet. Món quà bí ẩn của Rosalind chứa đựng chiếc ghim đồ tang thời Nữ hoàng Victoria đã đẩy Katharine vào một cuộc điều tra nguy hiểm, đưa cô đến Utah Anzona… Mỗi bước điều tra, khi các thi thể chồng chất, Katharine đều thoát chết một cách bất ngờ khi sắp trở thành nạn nhân tiếp theo… “Những điều xấu xa người ta làm vẫn sống sau họ, trong khi những điều tốt đẹp thường bị chôn sâu cùng nắm xương tàn của họ.” Bí mật Shakespeare đã tạo ra một hiện tượng mới trong làng xuất bản Mỹ, với mức độ thành công tương đương với Mật mã Da Vince của Dan Brown. *** LỜI TÁC GIẢ: Một buổi tối mùa thu khi tôi mới bắt đầu vào đại học, trong lúc đang lục lọi tìm kiếm giữa những cuốn sách cũ trong căn phòng phía sau thư viện Child, góc riêng tư của khoa Anh văn nằm ở một góc tầng trên cùng thư viện Widener của trường Harvard, tôi bắt gặp bộ sách bốn tập: Sân khấu thời Elzabeth của E. K. Chambers, xuất bản năm 1923. Tôi lần lượt giở qua từng tập. Những tập sách này đầy ắp thông tin, phần lớn chúng tôi không biết có thể sử dụng làm gì, chẳng hạn như ghi chú rằng “rất nhiều diễn viên thời Elizabeth cũng là nghệ sĩ nhào lộn, và hiển nhiên có thể đi trên dây”. Tuy vậy, ở cuối tập ba, tôi tìm thấy vài trang nói về những vở kịch của Shakespeare, gồm cả một mục ngắn có tên “Những vở kịch đã thất lạc.” Tôi biết phần lớn những vở kich được viết bằng tiếng Anh thời Phục hưng đã không tồn tại được đến ngày nay, và vì thế tôi nghĩ - một cách mơ hồ - rằng một số tác phẩm Shakespeare sáng tác chắc chắn cũng đã thất lạc. Điều làm tôi ngạc nhiên là Chambers biết được một vài điều về những tác phẩm đã mất. Đập vào mắt tôi, bằng giấy trắng mực đen, là hai cái tên, và trong trường hợp của vở kịch Cardenio còn có cả nội dung sơ lược. Tôi bắt đầu tự hỏi sẽ ra sao nếu tìm được một trong những vở kịch này. Ở nơi nào người ta có thể khám phá ra một thứ như vậy? Và khoảnh khắc của sự khám phá sẽ như thế nào? Và liệu một khám phá như thế sẽ ảnh hưởng thế nào đến cuộc đời của một người - ngoài việc hiển nhiên người đó sẽ lập tức trở nên giàu có và nổi tiếng? Nhưng địa điểm thích hợp nhất để tìm kiếm những vở kịch thất lạc của Shakespeare là các thư viện ở châu Âu và những ngôi nhà cổ. Nhưng tất nhiên, nếu một vở kịch nằm ở nơi dễ đoán như vậy, thì nó đã được tìm ra từ lâu. Theo cách chủ quan của những kẻ nằm mơ ban ngày, tôi bắt đầu suy nghĩ xem ở nơi nào ngoài nước Anh, và cụ thể hơn, ở một số địa điểm tôi có thể thực sự tìm thấy nó, chẳng hạn New England (hay ít nhất nơi nào đó ở hành lang Đông Bắc giữa Boston và Washington D. C. ) hay vùng sa mạc phía tây nam. Thỉnh thoảng, tôi đi xa đến mức tìm kiềm những chiếc hộp đựng những cuốn sách sờn cũ trong cửa hiệu bán đồ cổ nằm trong những ngôi nhà thô kệch sau nhưng con đường mà tôi tình cờ đi qua trong lúc lang thang ở New England. Nhưng chẳng có ai lại để, cho dù một khổ thơ của Shakespeare chứ đừng nói tới cả tập bản thảo, nằm yên tại đó. Ở đâu đó trên bước đường tìm kiếm, tôi tự thừa nhận với mình rằng sẽ chẳng bao giờ tôi thực sự tìm thấy một trong các vở kịch thất lạc của Shakespeare - và rằng có thể sẽ thú vị hơn khi biến nó thành một câu chuyện, vì như thế tôi có thể kiểm soát những gì xảy ra, và xảy ra với ai. Và sau đó tôi nghĩ - tại sao không bám lấy bí mật khác thậm chí còn lớn hơn về Shakespeare? Ông là ai? Tôi đã mất hơn một thập kỉ chỉ để bắt đầu, nhưng Bí mật Shakespeare hay Chôn sâu cùng nắm xương tàn của họ là kết quả. Đoạn văn trong tập sách của Chambers khởi đầu cho toàn bộ câu chuyện này, với vài chỉnh sửa nhỏ, chính là đoạn văn mà Kate đã đọc trong truyện. Những địa điểm liên quan tới Shakespeare xuất hiện trong cuốn tiểu thuyết đều là những địa danh có thật, mặc dù tôi đã tự cho phép mình hư cấu đôi chút ở một vài chỗ cho phù hợp với mạch chuyện. Những giả thiết về danh tính thực của Shakespeare cũng đều có thật - ít nhất với tư cách là những giả thiết. Cuối cùng, rất nhiều nhân vật lịch sử được hư cấu từ các sự kiện có thật. Tất cả các nhân vật hiện đại đều là hư cấu. Một mục ghi chú trong cuốn Đăng kí Stationers (một dạng bản quyền sơ khai ở nước Anh) xác nhận Shakespeare là đồng tác giả của vở kịch Cardenio cùng với John Fletcher, người kế tục ông trong vai trò nhà soạn kịch chính cho đoàn kịch của nhà vua (và cũng là đồng tác giả với ông trong nhiều vở kịch khác). Tôi chọn “tìm ra”  Cardenio vì trong hai vở kịch đã thất lạc mà chúng ta biết nhan đề, đây là vở kịch chúng ta biết được nhiều chi tiết về nội dung hơn, và cũng bởi vì nguồn gốc của vở kịch này, từ cuốn tiểu thuyết Don Quixote của Miguel de Cervantes, cho nó một mối liên hệ mơ hồ với vùng thuộc địa Tây Ban Nha ở châu Mỹ, và do đó liên quan tới vùng tây nam nước Mỹ - một vùng đất tôi yêu mến, và là nơi tôi muốn các nhân vật của mình chơi trò đi tìm kho báu với vở kịch của Shakespeare. Vở kịch thất lạc còn lại - những nổ lực vì tình yêu được đền đáp - đã biến mất hoàn toàn, nhưng Cardenio đã xuất hiện trở lại dưới dạng bản thảo vào thế kỉ mười tám, khi Lewis Theobald “hiện đại hóa” nó trên sân khấu London. Bản thảo gốc, mà phần lớn học giả chấp nhận coi là xác thực, đã thất lạc, nhưng một bản rút gọn với cái tên Hai sự dối trá [sic] đã tồn tại tới ngày nay. Nhìn chung, bản phóng tác này thực sự kinh khủng đúng như Kate nói: đầy những lỗ hổng, chằng chịt những chỗ vá víu vụng về như khuôn mặt của Frankeinstein. Tuy vậy, rải rác trong bản thảo này có những câu có vẻ như đúng là do Shakespeare hay Fletcher - ở mức độ từng câu riêng lẻ, khó mà phân biệt giữa sự phụ hay đồ đệ, cũng giống như việc phân biệt giữa tranh của Rembrandt với tranh có xuất xứ từ “xưởng họa của Rembrandt” ở mức độ nhát cọ. Hai sự dối trá là nguồn gốc của những từ mà Kate cũng như những người khác đã nhận định là của Shakespeare trong cuốn tiểu thuyết này. Ngoại lệ duy nhất là câu chỉ đạo diễn xuất và dòng thoại về Sancho và Don Quixote: tôi phải mang gánh nặng trách nhiệm về những câu này vì trong bản rút gọn tôi đang nói đến không còn chút dấu vết nào của nhà quý tộc già điên rồ cùng anh hầu thực dụng của ông. Tuy vậy, giống như Kate, tôi muốn nghĩ rằng Shakespeare hẳn sẽ nhìn ra hai người này là không thể thiếu cho sự trào phúng và dẫn dắt mạch chuyện, và do đó chắc đã đưa họ vào dưới một dạng dẫn chuyện nào đó. Tôi đã đọc một giả thiết học thuật, do Richard Wilson đưa ra trong cuốn Shakespeare bí mật (Đại học Manchester xuất bản năm 2004) , cho rằng Cardenio có thể có mối liên hệ nào đso với gia đình Howard và cái chết của hoàng tử Henry. Gia đình Howard ủng hộ Tây Ban Nha và là những tín đồ Thiên chúa giáo bí mật, và nổi tiếng đố kỵ, nhất là bá tước Northampton và cháu ông ta, bá tước Suffolk (Để cho đơn giản, tôi sử dụng tước vị này để nói về hai người đó trong cuốn tiểu thuyết, mặc dù cả hai chỉ được phong bá tước sau khi vua James lên ngôi). Đúng là có những lời đồn đại về mối quan hệ tình ái giữa Frances Howard và hoàng tử, và theo những lời đồn “sự kiện chiếc găng tay” đã thực sự xảy ra (mặc dù tên của quý bà vẫn được giữ kín) ; câu chuyện khủng khiếp về việc Frances đầu độc một trong những tình nhân của chồng bằng những chiếc bánh tẩm thuốc độc đã được ghi lại rất chi tiết trong các tài liệu tư pháp, và bà ta đã thực sự bị phán quyết là có tội trước tòa. Tuy nhiên, chi tiết về những rắc rối của gia đình Howard và Shakespeare và nhà hát Quả cầu hoàn toàn do tôi tưởng tượng ra. Trong khi cách đơn giản nhất nói rằng William Shakespeare người Stratford đã viết những vở kịch mang tên ông, vẫn có rất nhiều ý kiến phản biện, từ thú vị gây tò mò tới thô thiển kỳ quặc, cho rằng có thể không phải như vậy. Tuy nhiên, vấn đề chính mà mọi giả thiết về “một người khác” đều không tránh khỏi, đó là tất cả đều đòi hỏi một sự đồng thuận im lặng: Nếu có một ai khác đã viết những vở kịch, thì chưa từng ai tiết lộ bí mật này. Trong một môi trường đầy rẫy những chuyện ngồi lê đôi mách, nói xấu sau lưng, những lời châm chọc đến mức chuyên nghiệp như tại triều đình của Elizabeth và James, đây là một thiếu sót không nhỏ. Nhiều hiệp hội của những người “chống lại giả thiết người Stratford (anti-Stratfordian)” hiện vẫn tồn tại - từ những tổ chức học thuật cho tới những nhóm theo lý thuyết âm mưu mang tính sùng bái. Rất nhiều người hâm mộ giải mã nhưng thông điệp được mã hóa mà theo họ tiết lộ danh tính của rất nhiều rác giá khác như là tác giả thực thụ, người đã ẩn danh một cách có chủ ý, của những tác phẩm được xuất bản dưới cái tên của “William Shakespeare”. Hai cái tên thay thế mà số người ủng hộ nhiều nhất - và cũng đáng tôn trọng nhất - là bá tước Oxford và Francis Bacon. Các ứng viên sáng giá khác gồm Christopher Marlowe; Edmund Spence; Philip Sidney và em gái ông Mary Herber, nữ bá tước Pembroke; Nữ hoàng Elizabeth; Walter Raleigh; bá trước Southampton, Derby, và Rutland, và một hội đồng bí mật gồm tất cả những người kể trên, được cho là do Bacon, hay Oxford, hoặc cả hai, chủ tọa. Còn điên rồ đến mức khó lý giải hơn là những người ủng hộ cho Henry Howard, bá tước Sussex (bị chặt đầu bốn mươi tư năm trước buổi công diễn đầu tiên một vở kịch của Shakespeare) và Daniel Defoe (ra đời bảy mươi năm sau buổi công diễn đầu tiên vừa nhắc tới ở trên). Một bổ sung mới nhất cho danh sách thu hút được sự chú ý nghiêm túc là vị triều thần khiêm tốn Henry Neville. Edward de Vere, bá tước Oxford đời thứ bảy, hiện là nhân vật được những người anti-Stratfordian ưa thích nhất. Những đoạn đảo chữ và ám chỉ về Oxford tromg cuốn sách này trên thực tế đều đã được đưa ra làm bằng chứng để chứng minh rằng bá tước là người viết các vở kịch. Như Athenaide đã chỉ ra, họ của ông ta - Vere - có liên quan tới từ Latinh verum, hay “sự thật” , theo một truyền thống lâu đời, và câu phương châm của gia đình ông ta - Vero nihil verius, tức “Không có gì đúng hơn sự thật” cũng tham dự vào mối liên hệ này. Đó là cách làm của những người ủng hộ ông ta ngoài đời thực: tìm kiếm những quan hệ “nghi ngờ” hay “có ý ngĩa” tới sự thật về Shakespeare. Từ “ever” là một bằng chứng thuyết phục khác. Người đầu tiên ủng hộ Oxford (hay Oxfordian) một cách nghiêm túc là J. Thomas Looney (đọc là “Loney” ), cuốn sánh Nhận diện “Shakespeare” của ông được xuất bản năn 1920 đã thuyết phục được nhiều người, trong đó có Sigmund Freud. Tuy vậy, Francis Bacon mới là tác giả thay thế được nhắc tới sớm hơn cả; những lập luận nghiêm túc nghiêng về ông đã được Delia Bacon và một vài người khác đưa ra từ những năm 1850. Những người ủng hộ Bacon (hay các Baconian) đã nghiên cứu kỹ lưỡng những tác phẩm của Shakespeare và các tác pharm thời Phục hưng khác với một sư hăng say mãnh liệt, khám phá ra vô số đoạn đảo chữ, ẩn ngữ theo chữ cái đầu, mật mã số và từ đồng nghĩa (thường là về “hog” (lơn thịt) và “bacon” (thịt muối) mà theo họ đã chỉ ra người hùng của họ chính lá tác giả các vở kịch; và thêm vào đó Bacon còn thường được cho là con trai của Nữ hoàng Elizabeth). Một số người thậm chí còn đi xa tới mức xem xét những buổi lên đồng hay đi đào trộm mộ. Tuy vậy, không phải tất cả những người ủng hộ Vacon đều dễ dàng bị khuất phục; trong số họ có cả các học giả, tác giả, luật gia, và thẩm phán ở cả nước Anh lẫn nước Mỹ. Tính đến nay bài viết mà các Baconian thích đọc nhất là bài tiểu luận của Mark Twain - “Có phải Shakespeare đã chết?”. Cho dù anh ta còn là gì khác nữa, chắc chắn Bacon là một người vừa xuất chúng vừa khôn ngoan. Đã từng có thời gian là chánh án của Hoàng gia, ông đã phát minh ra một hệ thống mật mã phức tạp đáng khâm phục mà Jem Branville đã sử dụng trong cuốn tiểu thuyết này. Bacon đã công bố mật mã năm 1623, cùng năm Tuyển tập Đầu tiên xuất hiện. Người đề xướng ra cái tên của bá tước Derby đời thứ sáu là Abel Lefranc, nhà nghiên cứu lịch sử văn học Pháp và giáo sư trường đại học Pháp, vào những thập kỷ đầu của thế kỉ hai mươi. Bất chấp tên của Derby (William) , những chữ cái đầu tiên tên goi (W. S. ), và cuộc đời nằm trong khoảng thời gian phù hợp, với những người nói tiếng Anh, tư cách ứng cử viên của ông này có ít được biết đến hơn của Bacon hay Oxford. ách ứng cử viên của ông này có ít được biết đến hơn của Bacon hay Oxford. Tác phẩm không hư cấu (và cũng không thiên vị) đáng chú ý nhất nói về những tranh cãi về tư cách tác giả này là cuốn Ai đã viết những tác phẩm của Shakespeare? Của John Mitchell (Thames và Hudson, 1996). Về một cái nhìn ủng hộ Shakespeare người Stratford, xin mời xem Cuộc điều tra vì Shakespeare của Scott McCrea (Praeger, 2005). Nhà hát Quả cầu nguyên bản bị cháy rụi vào ngày 29 tháng Sáu năm 1613 (một ngày thứ Ba, theo lịch Julian cũ) trong một buổi biểu diễn vở Henry VIII, sau đó được biết đến với cái tên Tất cả đều đúng. Theo những gì đã biết cho tới nay, đó là một tai nạn, do những tia lửa từ những phát đại bác bắn ra làm hiệu ứng đặc biệt rơi vào mái rạ. Những nhân chứng tận mắt chứng kiến đã thuật lại có một người đàn ông bị bỏng nhẹ trong khi cứu một đứa bé bị kẹt trong đám cháy; lửa bám vào người anh ta được dập tắt bằng bia. Nhà hát Quả cầu mới đúng là tòa nhà đầu tiên lợp mái rạ được chấp nhận ở khu vực phụ cận London từ sau vụ cháy lớn năm 1666. Những công trình kỉ niệm và nà hát về Shakespeare ở Stratford-upon-Avon đều nổi tiếng trên toàn thế giới. Thư viện Folger về Shakespeare ở trên đồi Capitol tại Washington D. C. sở hữu bộ sưu tập phong phú nhất về Shakespeare. Witon, tư gia của bá tước Pembroke, là một trong số ít địa điểm mà Shakespeare chắc chắn đã từng tới thăm còn tồn tại đến ngày nay - việc ông từng có mặt ở đây còn chắc chắn hơn tại bất cứ tòa nhà nào ở Stratford, ngoại trừ nhà thờ nơi ông được an táng. Bản copy tại tại Wilton, đài tưởng niệm Shakespeare ở Westminster cùng những thay đổi và những chữ cái viết hoa lạ lùng đều chính xác, mặc dù tôi đã tưởng tượng ra những màu sơn nhấn mạnh sự đảo chữ. Cũng như vậy, có một loạt tranh về chủ đề Arcadia trong gian phòng theo phong cách Palladian vẫn được gọi là phòng Lập phương, mặc dù tôi đã hư cấu đôi chút cho phù hợp với câu chuyện của mình. Ngăn hốc bí mật đằng sau một trong những bức họa đó là do tôi tưởng tượng ra. “Bức thư bị thất lạc” của nữ bá tước gửi cho con trai, nói rằng “chúng ta đang có Shakespeare ở đây” , đã được đề cặp tới trong tài liệu vào thế kỉ mười chín, nhưng từ đó tới nay chưa có học giả nào được nhìn thấy tận mắt. Bức thư của Will gửi cho con Thiên nga Ngọt ngào nhất là do tôi hư cấu. Học viện Hoàng gia St. Alban ở Valladolid được vua Tây Ban Nha Philip II thành lập nhằm mục đich đào tạo các thanh niên người Anh thành tu sĩ  Thiên chúa giáo và (theo cách nhìn của Nữ hoàng Elizabeth) gây ra những cuộc nổi loạn tôn giáo tại đất nước họ. Học viện này hiện vẫn tồn tại đào tạo thanh niên người Anh thành tu sĩ. Trong thư viện tuyệt vời của học viện này đã từng có một cuốn Tuyển tập Đầu tiên, nhưng tôi được nghe kể lại cuốn sách đã bị bán đi vào đầu thế kỉ hai mươi. Vào năm 1601, tám năm sau khi Christopher Marlowe bị sát hại, một “Christopher Morley” - tên gọi Marlowe từng sử dụng khi còn sống - được ghi lại trong tư liệu lưu trữ là đang theo học tại học viện. Tới năm 1604, Cervantes cũng có mặt tại thành phố này và hoàn tất Don Quixote tại đây. Những khu mỏ, thị trấn, và các nhà hát liên quan đến Shakespeare tồn tại nhiều vô số kể ở khắp miền tây Hoa Kỳ: những khu mỏ được đặt tên theo các nhân vật và vở kịch của Shakespeare rải rác khắp dãy núi Colorado. Nghiên cứu của Roz về chủ đề này chính là của tôi, được tiến hành cho một bài viết tôi thực hiện cho tạp chí Smithsonian với tên gọi “Một thi sĩ đã chinh phục miền Tây như thế nào” [Tháng Tám, 1998]. Thành phố Cedar, nằm ở vùng núi đá đỏ au của bang Utah, là nơi diễn ra Festival về Shakespear ở Utah, thành phố này rất tự hào về một bản sao mới xây lại của nhà hát Quả cầu thời Elizabeth - mặc dù tôi đã thêm vào Văn khố Preston dưới dạng bản sao ngôi nhà Shakespeare ra đời tại Stratford-upon-Avon. Vụ cá cược về vai diễn Hamlet của Jem Granville được lấy cảm hứng từ một vụ cá cược có thật đã diễn ra vào năm 1861 ở Denver. Tôi đã xây dựng nội dung những bài báo trong tiểu thuyết từ những phóng sự trên tờ Tin tức Rocky Moutain thuật lại một cách chi tiết cuộc cá cược có thật trong lịch sử này. Thị trấn ma mang tên Shakespeare nằm ở miền tây New Mexico, gần Lordsburg, trên biên giới bang Arizona; tôi đã nghe được câu chuyện về Bean Belly Smith vài lần từ những người chủ nhà. Tuy nhiên, tòa dinh thự của Athenaide nằm ở cuối con đường duy nhất của thị trấn là do tôi hư cấu thêm, mặc dù tòa lâu đài “nguyên bản” của Hamlet mà dinh thự đó mô phỏng theo là một địa điểm có thật - lâu đài Kronborg ở ngoại ô Elsinore (hay Helsingor) ở Đan Mạch, cũng như đại sảnh khiêu vũ tại lâu đài Hedingham, nơi đã từng là tư dinh của bá tước Oxford. Sự ám ảnh của những người theo trường phái Oxfordian với vở kịch Hamlet là có thật; những người này đã diễn giải giải vở kịch như một cuốn tự truyện được mã hóa của ứng cử viên họ ủng hộ. Như nhận xét của Kate và Athenaide, quả thực vở kịch có không ít điểm tương đồng đến kỳ lạ với cuộc đời của Oxford. Học giả người Mỹ Delia Bacon đã bị điên năm 1857 trong khi đang viết tác phẩm nổi tiếng Làm sáng tỏ [sic] triết lý trong những vở kịch của Shakespeare. Câu chuyện bà thức trắng đêm trước ngôi mộ của Shakespeare tại nhà thờ Thánh Ba ngôi ở Stratford được tái hiện theo đúng lời kể của chính bà về sự kiện này, trong một lá thư gửi cho người bạn Nathanien Hawthorne. Mục sư của nhà thờ Thánh Ba ngôi, Granville J. Granville, đã cho phép bà làm việc đó; mục sư Granville có vài người con, nhưng Jeremy (Jem) là do tôi hư cấu thêm vào gia đình ông. Cũng như vậy, bác sĩ George Fayrer đúng là người đã đưa Delia vào trại điên tư của ông ở Henley-in-Arden vào ngày 30 tháng Mười một năm 1857, nhưng cô con gái Ophelia của ông hoàn toàn là sản phẩm từ trí tưởng tượng của tôi. Francis J. Child là giáo sư Anh văn tại Đại học Harvard từ năm 1876 cho tới tận khi ông qua đời năm 1896; bộ sưu tập các bản ballad bình dân của Anh và Scotland do ông thực hiện cho đến nay vẫn là một trong những công trình học thuật lớn về văn học Anh. Ông cũng là một học giả xuất sắc về Shakespeare. Giống như trong tiểu thuyết, hoa hồng là một niềm đam mê lớn nữa của đời ông (và quả thực có một cây hồng Lady Banks lâu năm rất nổi tiếng mọc trong vường sau một nhà trọ - ngày này là bảo tàng - ở Tombstone, bang Arizona, mặc dù tôi đã lùi thời gian nó được trồng sớm lên vài năm). Tôi hy vọng hương hồn ông sẽ tha thứ cho tôi vì đã gán cho ông một đứa con sinh ra từ tình yêu. Những bài sonnet của Shakespeare có vẻ được viết một cách rõ ràng dành cho chàng thanh niên tóc vàng rụt rè hoặc quý bà tóc đen bí hiểm, thi sĩ có vẻ như bị ràng buộc với hai người này trong mối tình tay ba. Rất nhiều nhà nghiên cứu đã bỏ công sức nhằm xác định xem quý bà và chàng thanh niên là ai; chưa ai trong số hai nhân vật bí ẩn này được xác định danh tính một cách thuyết phục. Trong mười bảy bài sonnet đầu tiên, Shakespeare cầu khẩn chàng thanh niên hãy có một đứa con. Thật đáng tò mò, lòi nói đầu của Theobald cho vở kịch Hai sự dối trá có ảm chỉ đến một người con gái ngoài giá thú của Shakespeare chưa từng được nhắc tới ở bất cứ nơi nào khác. Thi sĩ - người kể chuyện của những bài sonnet bị giày vò bởi ngọn lửa ghen tuông vì mối quan hệ giữa chàng thanh niên và quý bà tóc đen, việc gán đứa bé gái này cho quý bà và làm cho danh tính người cha đưa bé mơ hồ cũng là tự nhiên - nhưng mối liên hệ này là do tôi hư cấu nên và không hề được tìm thấy trên thực tế. Nicholas Hilliard quả thật là họa sĩ nổi bật nhất nước Anh vào thời Shakespeare còn sống; theo một nghĩa nào đó, có thể coi ông như là Shakespeare của mỹ thuật. Hilliard chuyên vẽ những bức chân dung cỡ nhỏ với những chi thiết tinh xảo, chính xác như một bức ảnh chụp. Bảo tàng Victoria và Albert ở London sở hữu một bức chân dung như vậy, vẽ một người đàn ông với hậu cảnh là những ngọn lửa. Thomas Shelton là quản gia mang hai dòng máu Anh và Ireland của gia đình Howard, đúng là người đã dịch Don Quixote sang tiếng Anh; bản dịch của ông ta được xuất bản năm 1612. Trong khi người em của ông ta chỉ là nhân vật hư cấu, trên thực tế đã có một số lượng không nhỏ người Anh theo Công giáo mộ đạo bí mất trốn tới lục địa để học tại các trường dòng giống như Học viện Hoàng gia St. Alban ở Valladolid. Những tu sĩ Jesuit người Anh thường được gửi trở lại Anh để coi sóc phần hồn cho những tín đồ Thiên chúa giáo ở nước này một cách bí mật. Những tu viện xuất hiện sớm nhất ở Santa Fe và vùng lân cận, ở khu vực hiện nay là bang New Mexico, đều thuộc dòng tu Franciscan. Người bản địa châu Mỹ ở khắp vùng tây nam - lúc đó là Tân Tây Ban Nha với người Âu - liên tiếp nổi dậy trong thế kỉ mười bảy, tàn sát những người Tây Ban Nha xâm lược, đặc biệt là các tu sĩ. Dãy núi Dragoon ở vùng đông nam Arizona là căn cứ địa của người Apache cho tới khi Geronimo bị bắt năm 1886. (Người thủ lĩnh Apache vĩ đại Cochise yên nghỉ ở một địa điểm bí mật nào đó trong những dãy núi này). Mặc dù tôi đã hư cấu ra hẻm núi và khu hang động trong đó Kate tìm thấy kho báu bị chôn vùi cùng những bộ hài cốt, quả thực vùng này chứa đựng vô số hang động. Hang động Kartchner nằm gần đó (và mới được phát hiện gần đây) là một ví dụ tuyệt vời về những “cung điện tự nhiên” mà những lòng núi rỗng chắc hẳn vẫn còn ẩn giấu. “Chữ ký” trong cuốn Kinh thánh của vua James vẫn luôn nằm đó cho bất kỳ ai muốn xem (hay muốn đếm). Tại sao nó lại có mặt ở đó là câu hỏi vẫn chưa được giải đáp, và tôi cũng không rõ ai đã “phát hiện” ra nó. Không ai biết rõ bài Thánh thi số bốn mươi sáu, hay toàn bộ Sách các Thánh thi, được hoàn thành vào thời điểm nào (mặc dù thời điểm đó chắc chắn nằm giữa năm 1604 và 1610) , hay ai đã phụ trách bài Thánh thi nào. Cả Lancelor Andrewes, thu viện trưởng Westminster và sau đó là giám mục Chichester, và Laurence Chaderton, hiệu trưởng trường Đại học Emmannuel ở Cambridge, đều là những nhà thần học đã tham gia biên soạn cuốn Kinh thánh, và Chaderton, một người theo Thanh giáo, là thành viên của “Ủy ban Cambridge thứ nhất” được phân công phụ trách các bài Thánh thi. Tuy nhiên, bức thư của giám mục có nói đến Chaderton là do tôi tưởng tượng ra. Mặt khác, ngày tháng năm sinh của Bacon, Derby, và nữ bá tước Pembroke đều dựa trên các tư liệu lịch sử chính thức. Biến một giấc mơ giữa ban ngày thành một cuốn tiểu thuyết hóa ra lại cần đến vô số sự giúp đỡ và lời động viên. Trước hết và trên hết, tôi muốn cám ơn Brian Tart và Mitch Hoffman, sự kiên nhẫn cùng đôi mắt sáng suốt của họ đã giúp tôi định hình cuốn sách này. Bằng cách nào đó, họ đã giúp tôi luôn giữ được tiếng cười. Neil Gordon và Erika Imranyi đã giúp quá trình sáng tác của tôi được trôi chảy. Noah Lukeman tin chắc đây là cuốn sách tôi nên viết và đã làm những điều kỳ diệu để biến nó thành sự thật. Vì những ý kiến chuyên môn và tư liệu về nhiều lĩnh vực mà họ đã cung cấp, tôi cũng muốn gửi lời cám ơn tới Ilana Addis, Michelle Alexander, Kathy Allen, Bill Carrell, Jamie de Courcey, Lionel Faitelson, Dave và Ellen Grounds, cha Peter Harris, Jessica Harrison, Charlotte Lowe-Bailey, Peggy Marner, Karen Melvin, Kristie Miller. Liz Ogilvy, Nick Saunders, Brian Schuyler, Dan Shapiro, Ronald Spark, Ian Tennent, và Heidi Vanderbilt. Diễn đàn Straw Bale và Câu lạc bộ văn học Tucson đã được nghe một số trang bản thảo ban đầu, và để được tham dự vào hai nhóm này, tôi phải biết ơn Bazy Tankersley. Tôi muốn gửi lời cảm ơn đặc biệt tới tiến sĩ Javier Burrieza Sanchez, thủ thư và quản lý văn khố tại Học viện Hoàng gia St. Alban ở Valladolid; tới Nigel Bailey, người quản lý, và Carol Kitching, hướng dẫn viên chính tại dinh thự Wilton và Wiltshire; và tới Sarah Weatherall tại nhà hát Quả cầu của Shakespeare, London. Tập thể nhân viên thư viện Folger ở Washington D. C. , cũng như nhà thờ Thánh Ba ngôi và trung tâm Thư viện Shakespeare, đều ở Stratford, cũng đã giúp ích cho tôi rất nhiều. Hơn bất cứ ai khác, Marge Garber đã góp phần định hình suy nghĩ của tôi về Shakespeare trên những trang giấy. Những thành viên của đoàn sân khấu Hyperion tại trường Harvard, trong những năm 1996 - 1998, và Shakespeare & Company, tại Lenox, Massachusetts, đã dạy cho tôi biết tất cả những gì về Shakespeare trên sân khấu. David Ira Goldstein và đoàn kịch Arizona đã đón tiếp tôi đến với thế giới của sân khấu chuyên nghiệp như một người khách thường xuyên. Ba người đã lắng nghe, đọc và nhận xét không ngừng trong suốt quá trình cuốn sách này hình thành: Kristen Poole, học giả, người kể chuyện, và người bạn: mẹ tôi, Melinda Carrell, người đầu tiên truyền cho tôi tình yêu với những cuốn sách; và chồng tôi, Johnny Helenbolt. Không gì có thể nói hết lòng biết ơn của tôi dành cho Johnny. *** Jennifer Lee Carrell sống tại Tucson, Arizona, Mỹ. Bà có bằng tiến sĩ về văn học Anh và Mỹ, chuyên đạo diễn các vở kịch của Shakespeare cho đoàn sân khấu Hyperion. Jennifer Lee Carrell là một tác giả người Mỹ của ba cuốn tiểu thuyết và nhiều bài viết cho Tạp chí Smithsonian và Ngôi sao hàng ngày Arizona   Mời các bạn đón đọc Bí mật Shakespeare của tác giả Jennifer Lee Carrell.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tiếng Cú Kêu
“Ý cô là cô tin vào số mệnh?” “Tất nhiên. Tôi cũng tin việc mỗi người là đại điện cho một điều gì đó.” Vậy anh là đại diện cho điều gì? Tình yêu? Hay cái chết? Bạn đã bao giờ có cảm giác giống như đang bị người khác theo dõi? Nhất cứ nhất động của bạn đều bị thu gọn vào tầm mắt của một kẻ nào đó? Con người ở trong bóng tối đó luôn dình dập bạn, hắn biết rõ về bạn, kể cả những điều riêng tư nhất. Không một nơi nào, không một lúc nào, không ở bên cạnh ai mà bạn cảm thấy an toàn. Đó cũng là những gì Jennifer Thierolf đã trải qua. Cô gái trẻ đang trong tâm trạng hạnh phúc khi chuẩn bị kết hôn với tình yêu của cuộc đời mình. Nhưng thời gian gần đây, cô nghe thấy những tiếng động kì lạ xung quanh nhà. Một dịp tình cờ, cô khám phá ra bí mật đằng sau những âm thanh đáng sợ đó. *** “Cho dù sẽ chẳng bao giờ có ai hiểu được việc chỉ quan sát một cô gái bình lặng làm việc nhà cũng khiến anh cảm thấy yên bình, khiến anh thấy rằng đối với một vài người trong cuộc sống cũng có thể có mục đích và niềm vui, và khiến anh đôi phần tin tưởng rằng mình cũng có thể tìm lại được mục đích và niềm vui và niềm vui sống đấy.” Đây là một câu tôi cực kỳ thích trong “Tiếng cú kêu” bởi nó đã làm bật lên được tâm tính đơn thuần của một người đang bế tắc trong cuộc sống như Robert Forester. Một cú lừa khi cứ nghĩ anh ta có định hãm hiếp cô gái kia nhưng không, tất cả chỉ là một ánh nhìn hy vọng nhỏ nhoi của một người đang bị nhấn chìm vào bóng tối sâu thẳm của cuộc đời. Đối với “Tiếng cú kêu”, một lần nữa, Highsmith lại đem chủ đề nhân cách và đạo đức làm màu chủ đạo cho quyển tiểu thuyết. Một kiểu khai tâm rất “Highsmith” được đặc trưng bởi các yếu tố tâm lý học tội phạm mà chúng ta đã thấy qua “The Talented Mr.Ripley”. Tôi dường như cảm nhận được sự cố tình trong cách xây dựng một màu sắc u tối trong quyển sách này của tác giả. Đó là một cảm giác đau khổ và tuyệt vọng tận cùng khi câu chuyện càng dần tiến tới hồi kết. Về một khía cạnh nào đó, nó gợi cho tôi liên tưởng đến mảng màu trong sách của Georges Simenon như series về thanh tra Jules Maigret. Nhưng dù thế nào thì đối với tôi, “Tiếng cú kêu” vẫn là một quyển sách tuyệt vời bởi một lại thêm một lần, tôi được đắm chìm vào cách kể chuyện của tác giả. “Tiếng cú kêu” xoay quanh cuộc sống của nhân vật Robert Forester – một người đàn ông 29 tuổi. Thời gian gần đây, anh ta chuyển tới một thị trấn nhỏ ở Pennsylvania để thoát khỏi nanh vuốt của người đối tác cũ độc ác là Nickie. Cô nàng Nickie đã quấy rối anh ta qua điện thoại với những chiêu trò ác ý. Khoảng thời gian sau đó, tuy là Robert tìm được một công việc tốt trong ngành kinh doanh hàng ngoại nhập nhưng anh ta vẫn phải chiến đấu với sự cô đơn và trầm cảm trong nhiều tháng trời đến nỗi một thói quen kỳ quặc đã hình thành là anh cứ thích theo dõi một phụ nữ trẻ vô danh khi cô đi công tác. Không những thế, khi đọc được tình huống Robert hay quan sát cô gái tên là Jenny qua cửa sổ nhà bếp khi cô đặt bàn và chuẩn bị một bữa ăn tối cho hai người. Một chút ý nghĩ sờ sợ xuất hiện trong tâm trí tôi vì có gì đó hơi biến thái ở nhân vật này nhưng khi đọc xong truyện thì tôi lại cảm nhận khác. Anh chàng Robert này không phải là loại người bị hấp dẫn bởi thể xác của Jenny mà đơn giản là anh ta muốn kiếm tìm sự an ủi và thoải mái khi nhìn mọi hành động của cô gái ấy. Như thế cuộc đời của Jenny là một bức tranh bình yên và hạnh phúc mà Robert lại rất khao khát cuộc sống ấy, anh tìm trong đó chút hy vọng bé nhỏ, cùng với đó là một cảm giác bình an và mong muốn tìm lại chính mình. Lúc đầu, tôi đã sai lầm khi nghĩ rằng Robert là nhân vật kỳ quặc nhất câu chuyện nhưng sau đó, tôi phát hiện việc anh ta thích theo dõi Jenny cũng chỉ minh chứng cho việc mất cân bằng trong cuộc sống. Thế nhưng những nhân vật khác thì sao? Họ không hẳn là không kỳ quặc. Chẳng hạn như đối với Jenny, mất anh trai khi còn rất trẻ, Jenny khá thường xuyên nghĩ về cái chết – một yếu tố đóng vai trò quan trọng trong các phản ứng của cô trước những sự kiện khủng khiếp đang xảy ra với Robert. Nickie là một kẻ cáu kỉnh, có xu hướng thù hằn cao. Trong trí nhớ của Robert thì anh ta chỉ nhớ đến những lời phàn nàn của cô ta và đó là một nỗi ám ảnh lâu dài. Cô nàng này đóng một vai trò quan trọng trong sự sụp đổ tiếp theo của Robert và cũng là nguyên cớ cho những chuyện kỳ lạ về sau. Khi kể câu chuyện này, Highsmith đã nổi trội trong việc nắm bắt những tin đồn trong một cộng đồng thị trấn nhỏ – những nỗi sợ hãi và nghi ngờ có thể xuất hiện khi những cá nhân biết một số người có liên quan bắt đầu tự xoay sở để thoát khỏi các tình huống nguy hiểm ấy. Cuối cùng, điều thực sự làm cho cuốn tiểu thuyết này trở nên hấp dẫn như vậy là nhờ chuỗi sự kiện dường như không thể ngăn cản được mà Robert đã ngây thơ coi thường chúng ngay từ giây phút đầu. Chúng ta chỉ còn cảm giác một người đàn ông bất lực đang cảm thấy như thế nào khi hành động của anh ta bị đánh giá và giải thích sai bởi những người được gọi là công dân đứng đắn xung quanh anh ta, đặc biệt là khi số phận can thiệp và nhân vật chính chẳng thế làm được điều gì ra trò cả. Tôi tin đây là quyển sách cực kỳ thú vị cho những ai thích những điều xoắn não và một cốt truyện tối tăm về bối cảnh và nhân vật. Trần Thông review *** Tiếng cú kêuTIẾNG CÚ KÊU Tác giả Patricia Highsmith Người review Bà Bô (mình hỗ trợ edit) Mình biết đến Patricia Highsmith đã lâu qua “Stranger on the train” và “Carol”, nhưng đều là phim chuyển thể từ tác phẩm của bà. Phim quá xuất sắc nên mình không tìm sách nữa. Thành ra “Tiếng cú kêu” là cuốn đầu tiên của bà mình đọc. Robert là một người đàn ông thất bại trong hôn nhân, sống một mình và có một công việc nhàm chán. Trong 1 buổi tối đi làm về khuya, anh bị cuốn hút dữ dội bởi hình ảnh 1 cô gái trẻ đang chuẩn bị bữa ăn bên khung cửa sổ. Sự cô đơn và thiếu thốn tình cảm trong cuộc sống thường ngày khiến cho anh cứ trở lại và rình rập nhìn trộm cô mỗi tối. Anh đứng ngoài vườn lén lút nhìn cảnh cô gái xinh đẹp nấu nướng, rồi cảnh cô đón người yêu đến ăn tối với 1 niềm hạnh phúc sáng ngời. Một ngày anh bị cô gái phát hiện, Jenny bỗng nảy sinh sự thương cảm đối với Robert và làm cho Greg – vị hôn phu của cô ghen tức lồng lộn. Đỉnh điểm của sự ghen tuông là trận ẩu đả bên bờ sông giữa Robert và Greg và Greg bỗng dưng mất tích. Mọi sự nghi ngờ đổ dồn vào Robert – người đàn ông đã chịu nhiều tổn thương trong cuộc sống riêng nay lại tiếp tục gánh chịu sự soi mói phán xét của mọi người xung quanh. Người đàn ông bị cho là biến thái vì “nhìn trộm”, đã từng hành hung vợ cũ, đã từng đánh người bên bờ sông… từng đó đã khiến cho mọi con mắt nhìn anh đầy định kiến. Biến cố tiếp tục xảy đến với Jenny và những người giúp đỡ anh làm cho hình ảnh của anh càng trở nên xấu xí, bất kể sự hợp tác tích cực của anh với cảnh sát. Robert quyết định tự tìm công lý cho riêng mình. Nhưng với sự công kích từ những người xung quanh, từ báo chí và cả cảnh sát, liệu Robert sẽ tìm công lý ra sao ? Hay là vì định kiến này anh sẽ bất chấp tất cả ? “Tiếng cú kêu” có văn phong và mạch chuyện chậm rãi với tuyến nhân vật đơn giản, trên dưới 10 người. Hơn nửa đầu cuốn sách chủ yếu miêu tả những thay đổi tâm lý của bộ 3 nhân vật chính – Jenny, Robert và Greg. Thành công nhất của tác giả trong cuốn tiểu thuyết này là sự miêu tả tinh tế quá trình phát triển tâm lý của Robert, khi anh chao đảo giữa những phán xét của công chúng, khi anh bị thách thức bởi những kẻ đã hãm hại anh, và khi anh chứng kiến những người giúp đỡ anh bị hại, đỉnh điểm là anh bị săn đuổi mà cảnh sát lại bảo vệ anh 1 cách hời hợt (thật là mình cũng không biết cảnh sát làm cái quái gì trong cuốn sách này). Tuy vậy tâm lý của Jenny – nhân vật then chốt khiến cho bộ ba vướng vào rắc rối lại không được tác giả đầu tư kỹ hơn nên kết cục của Jenny khá bất ngờ đối với mình và có phần không thuyết phục. Các nhân vật phụ khác cũng được tác giả xây dựng bình thường, hơi mờ nhạt. Cuốn sách này không dành cho những ai thích motif hình sự ly kỳ và plot twist dồn dập, nhưng hợp với những người thích tâm lý tội ác phức tạp và u ám. Bìa vẽ đẹp nhưng không có chút liên quan gì đến nội dung truyện cả, ngay cái tựa đề cũng mông lung nốt. *** Tiếng cú kêu - Review Patricia Highsmith là một tiểu thuyết gia người Mỹ và nhà văn viết truyện ngắn nổi tiếng với những tác phẩm như Carol, Người lạ trên tàu, Quý ngài tài năng... Sở trường của bà là về mảng tâm lý kinh dị với cách xây dựng cốt truyện gay cấn và các nhân vật vô cùng độc đáo. Tài năng của bà một lần nữa được thể hiện qua cuốn sách Tiếng cú kêu, tiểu thuyết thứ tám của bà được ra đời cách đây hơn năm thập kỷ. Nội dung chính của tác phẩm xoay quanh cuộc sống của Robert Forester - một người đàn ông vừa kết thúc cuộc hôn nhân không mấy tốt đẹp và muốn chuyển đến một nơi ở mới để bắt đầu lại. Tại thị trấn nhỏ Langley của Pennylvania, anh đã gặp Jenny Thierolf - một cô gái “đặc biệt bình thường” theo một cách thức khác thường nhất mà người đọc có thể tưởng tượng: rình mò quanh nhà cô. Cuộc gặp gỡ định mệnh này đã kéo theo sau đó rất nhiều sự kiện có ảnh hưởng sâu sắc đến số phận của các nhân vật.   Vậy Patricia Highsmith đã khai thác yếu tố tâm lý và kinh dị như thế nào ở một câu chuyện có vẻ thiên về tình cảm như Tiếng cú kêu? Bản thân nhan đề tác phẩm đã là một sự gợi ý khéo léo cho độc giả. Trong thần thoại Hy Lạp, cú là biểu tượng của trí tuệ thâm sâu và những kiến thức bí ẩn về thế giới tâm linh. Đối với Jenny Thierolf, cô có một niềm tin mạnh mẽ vào số phận, vào những điềm báo xảy ra trước các sự kiện quan trọng trong cuộc đời. Cô coi con cú là biểu tượng của cái chết, khi con cú cất tiếng kêu giữa buổi đêm tĩnh mịch và vắng lặng, một người nữa phải nói lời tạm biệt với cuộc sống này. Liệu thực sự có một số phận định sẵn cho tất cả mọi người hay là do chính tâm lý của nhân vật trước các biến cố đã đẩy họ đến một kết cục như được dự báo trước này?     Bàn đến khía cạnh tâm lý, đây là một điểm được tác giả chú trọng khai thác. Các nhân vật trong câu chuyện đều chịu đựng một tổn thương nào đó về mặt tâm lý trong quá khứ và điều đó đã ảnh hưởng đến toàn bộ cuộc đời họ sau này. Robert Forester đã trải qua một cú sốc khi chứng kiến người bạn thân thiết của mình chết ngay trước mắt, mới phút trước người đó còn vui vẻ cười nói, phút sau đã là một thi thể bất động nằm trên một vũng máu. Jenny Thierolf cũng có một ký ức đau thương liên quan đến cái chết của người em mà cô vô cùng yêu quý, khi một người đàn ông lạ mặt xuất hiện ở nhà cô ngay trước khi em trai cô qua đời. Và giờ đây khi một người đàn ông lạ mặt nữa lại xuất hiện ở nhà cô, mọi chuyện liệu có khác đi? Tiếng cú kêu không chỉ lôi cuốn người đọc khám phá tâm lý của những nhân vật chính trong truyện, như đã nói, một sở trường khác của Patricia Highsmith là kinh dị. Độc giả sẽ theo chân Robert Forester tham gia vào một cuộc điều tra đặc biệt: tìm kiếm cái xác của người chồng chưa cưới của Jenny Thierolf hay chính là tìm kiếm bằng chứng chứng minh sự trong sạch của chính anh. Những sự nghi ngờ, những sự không thống nhất trong lời khai của các nhân vật có liên quan, những sự bao che và lên kế hoạch tỉ mỉ... khiến độc giả không khỏi cảm thấy hoang mang, lo lắng thay cho nhân vật. Bản thân mỗi người đọc có thể đưa ra những giả thiết cho riêng mình, và tác giả cũng đã đưa ra một đáp án khiến tất cả phải ngỡ ngàng về chân tướng đằng sau. Ai mới là kẻ đã sắp đặt tất cả mọi chuyện? Liệu chính kẻ đó có được toại nguyện hay sẽ phải chịu trả một cái giá đắt cho hành động của mình?  Không chỉ một mà có rất nhiều nhân vật phải ra đi trong tác phẩm này của Patricia Highsmith. Cho đến cuối truyện những rắc rối vẫn liên tục xảy ra và tác giả vẫn không ngừng khiến cho người đọc phải hồi hộp dõi theo từng con chữ để biết chuyện gì đang và sắp diễn ra. Nếu có thể đưa ra một lời khuyên cho độc giả trước khi bước vào câu chuyện, thì đó sẽ là: đừng vội tin vào những gì đang diễn ra trước mắt, mọi sự vật và sự việc đều có một lớp ý nghĩa ẩn giấu của nó mà chỉ qua thời gian, mọi chuyện mới được sáng tỏ. Chỉ có một điều chắc chắn là mọi nhân vật trong câu chuyện  đều phải chịu trách nhiệm cao nhất cho hành động của mình.  Sau khi đọc xong tác phẩm Tiếng cú kêu của Patricia Highsmith, có thể độc giả sẽ cảm thấy bản thân vừa trải qua một chuyến tàu lượn với rất nhiều cung bậc cảm xúc thay đổi cùng diễn biến của câu chuyện. Có người còn nhận định rằng nếu như ban đầu Robert Forester không rình mò quanh nhà của Jenny Thierolf thì mọi chuyện đã phát triển theo một hướng khác. Nhưng nếu chuyện thực sự xảy ra như vậy thì người đọc sẽ lỡ mất cơ hội được cùng đồng hành cùng tác giả trong một hành trình vô cùng lý thú để khám phá những điều mới mẻ trong văn chương. Đừng chần chừ thêm mà hãy sẵn sàng bước vào thế giới của Tiếng cú kêu cùng Patricia Highsmith!  Mời bạn đón đọc Tiếng Cú Kêu của tác giả Patricia Highsmith & Mai Trang (dịch).
Quý Ngài Tài Năng
Hơn nửa thế kỉ trước, Patricia Hightsmith đã giới thiệu đến độc giả một trong những nhân vật phản anh hùng ấn tượng nhất, Tom Ripley. Cuốn sách kể lại hành trình của Tom từ một thanh niên hiền lành, rụt rè trở thành một kẻ giết người tâm thần, lạnh lùng. Câu hỏi đặt ra cho người sau khi khép lại câu chuyện là: ta nên chấp nhận một cuộc sống tầm thường hay đánh đổi bản thân để có cuộc sống đáng mơ ước? “Đầy mê hoặc... Cuốn sách vê Ripley không dành cho những tâm hồn yếu đuối và nhạy cảm.” Tờ Washington Post khen ngợi. Cuốn sách từng được chuyển thể thành phim, ra mắt năm 1999, đem về 5 đề cử giải Oscar và nhiều giải thưởng tại các liên hoan phim danh giá. *** “Bốn năm qua phần lớn là lãng phí, không thể phủ nhận điều đó. Những công việc lung tung, những khoảng thời gian dài không có việc làm và tình trạng thoái chí tất yếu vì không có tiền, rồi bắt đầu giao du với những kẻ ngu ngốc, ngớ ngẩn để không phải cô đơn, hoặc vì họ có thể tạm thời cung cấp cho anh một thứ gì đó, như Marc Priminger chẳng hạn.” Đây có lẽ là một trong những câu khiến tôi rất thích vì nó miêu tả được tình trạng chán chường của Tom Ripley - cũng chính là căn nguyên của mọi tội lỗi sau này mà anh chàng sẽ gây ra. Có lẽ rất hiếm khi các nhà văn dùng ác nhân làm nhân vật chính trong tác phẩm của mình. Ấy thế mà Patricia Highsmith thì đã tận dụng sự trái ngược ấy để tạo ra điểm nhấn khác lạ cho “Quý ngài tài năng” (The Talented Mr.Ripley). Nhưng chính vì sự kỳ lạ trong cách xây dựng hình tượng nhân vật đã làm cho đọc giả vô cùng tò mò và thích thú với nghi vấn: Liệu sự ngược đời này sẽ được thể hiện thế nào qua cốt truyện về cuộc đời của nhân vật Ripley – một kẻ tài năng như hắn liệu có đánh mất chính mình? Và các giá trị đạo đức và chuẩn mực cũ liệu có còn phù hợp khi đem vào phân tích tác phẩm này hay không? Dưới góc độ trực quan, chúng ta có thể xem cuốn sách này kể lại hành trình tẩu thoát của Mr.Ripley Tom chơi với Dickie – một công tử nhà giàu, chính vì cuộc sống xa hoa của Dickie đã vực dậy trong lòng Tom khao khát sống trong nhung lụa. Từ đó, ác tâm trỗi dậy và Tom sát hại Dickie với động cơ là thừa hưởng cuộc đời hoa mỹ từ nạn nhân. Biệt tài bắt chước người khác đã được Tom sử dụng triệt để nhằm giả danh thành Dickie. Từ khả năng giả giọng và mô phỏng chữ ký điêu luyện cho đến tài “tùy cơ ứng biến” trong mọi tình huống, anh ta đã trót lọt qua mặt được sự điều tra của cảnh sát. Sự nhẫn tâm trong tính cách của Tom đã khiến anh ta quyết tâm trở thành Dickie cho bằng được và thành công trong việc tạo hiện trường giả cho cái chết ấy đã chứng minh sự tỉ mỉ và khéo léo bên cạnh dã tâm vô cùng lớn của anh ta. Điều khiến tôi thích thú nhất với nội dung là rất nhiều lần Tom có nguy cơ bị lật tẩy nhưng trong những giây phút “ngàn cân treo sợi tóc” nhất thì hắn đều lươn lẹo thoát được và trở thành nhân vật phản diện hấp dẫn đọc giả một cách lạ kỳ. Chính vì các tình huống “mèo vờn chuột” xảy ra trong truyện như thế mà bất thình lình, tôi có lúc lo lắng rằng Tom sẽ bị bắt và thậm chí là hy vọng hắn đừng bị lộ tẩy vì nếu không thì câu chuyện sẽ kết thúc mất. Cảm giác kịch tính này tương tự như lúc xem phim “Trò chơi ma sói”, khi người xem lúc nào cũng lo lắng việc các con ma sói ẩn náu trong đám dân làng bị phát hiện và phim sẽ kết thúc sớm. Tôi nghĩ việc tạo ra được hiệu ứng trái ngược này đều là nhờ vào tài năng xây dựng nội tâm nhân vật của Patricia Highsmith. Chúng ta sẽ dễ dàng nhận thấy được sự mâu thuẫn trong tâm lý của Tom, một mặt hắn ta chỉ đơn giản là ước ao một cuộc sống giàu sang đúng nghĩa, mặt khác thì ác tâm trỗi dậy trong lòng là những giây phút cám dỗ quá lớn khiến hắn không kiểm soát được lý trí – tựa như thật sự không muốn làm nhưng vẫn ra tay vì một phút yếu lòng. Nhưng nếu chỉ dừng lại ở việc xây dựng cuộc đấu tranh tâm lý của nhân vật thì quyển sách này đã không nổi tiếng đến vậy. Đằng sau sự tàn ác của nhân vật chính là sự mỉa mai và bóc trần của tác giả dành cho xã hội ấy. Tom có thể thoát khỏi việc bị bắt không chỉ nhờ âm mưu và sự lươn lẹo mà mọi thứ trở nên hoàn hảo như thế đều có sự góp phần của những người xung quanh. Bức tranh về một xã hội u tối đã được Patricia Highsmith vẽ ra đầy thuyết phục và chính sự thối nát về mặt đạo đức đã khiến cho tội ác nghiễm nhiên tồn tại mà không để lại dấu vết. Thực ra, nếu chiêm nghiệm kỹ về “Quý ngài tài năng”, chúng ta có thể nhìn thấy được chính mình ở nhân vật Tom Ripley. Một thời tuổi trẻ cuồng dại với khao khát được chứng tỏ bản thân và tìm kiếm giá trị sống cho cuộc đời. Ước mơ về một cuộc sống giàu sang thì tôi tin là ai cũng có và lòng tham luôn là một trong ba thói xấu tồn tại trong chúng ta. Chính vì tác giả xây dựng một nhân vật gần gũi với bản chất con người như thế nên đã tạo được sự đồng cảm cho bạn đọc. Có một câu nói của Tiến sĩ Lê Thẩm Dương như sau: “Bạn cảm thấy đạo đức là vì bạn chưa có cơ hội làm sai.” Khi chúng ta rơi vào tình huống như Tom, chắc gì trong lòng không trỗi dậy ác tâm vì một cuộc sống xa hoa phú quý. Và có thể nhiều người còn tàn nhẫn và tinh vi trong việc dàn dựng hơn cả Tom ấy, chẳng qua là chưa rơi vào tình huống ấy thì còn nghĩ bản thân cao đẹp mà thôi. Cái giá phải trả dĩ nhiên rất đắt vì khi đánh đổi mạng sống của người khác để giả danh và “sống hờ” cuộc đời của họ, chúng ta không còn là chính mình nữa. Vậy thì bạn có chấp nhận cách sống ấy như Mr.Ripley không?! Hãy nhớ thêm một điều kiện là bạn được sinh ra trong một hoàn cảnh thấp hèn, nghèo mạt, thiếu sự giáo dục về nhân cách, thiếu tình yêu thương của mọi người và luôn cảm thấy cuộc đời bất công. Dĩ nhiên là tôi không cổ xúy cho tội ác nhưng tôi thực lòng có chút đồng cảm cho cuộc đời của nhân vật. Về nguyên tắc, tôi ác nào cũng đáng bị trừng phạt dù có là vì nguyên cớ gì. Mà ở đây, Tom không chỉ phạm một tội ác, đáng lẽ ra không nên cổ vũ và thương cảm cho hắn. Nhưng một chút tình và một chút phân tích sâu xa hơn cần được đưa ra để có góc nhìn đa chiều hơn. “Quý ngài tài năng” là một quyển sách đáng đọc khi nó cho chúng ta thấy được khía cạnh đen tối nhất trong sâu thẳm tâm hồn con người cũng như góc tối của xã hội thời bấy giờ. Yếu tố tâm lý tội phạm đã được tác giả khai thác gần như hoàn hảo. Sự chân thật đến từng hành vi của nhân vật đã được bộc lộ một cách tinh tế khiến chúng ta cảm giác tâm tư của bản thân cũng hệt như Tom. Thế mới biết khi tham sân si là những điều không thể tránh khỏi thì việc một người bình thường hóa thành kẻ sát nhân cũng không có gì đáng kinh ngạc. *** Patricia Highsmith – nữ tác giả của loạt tiểu thuyết tội phạm này - đã thao túng lòng thương của chúng ta, lợi hại đến nỗi chúng ta dường như không thể ngừng cổ vũ cho gã sát nhân máu lạnh Tom Ripley — một nhân vật phản anh hùng, đầy mưu mô và toan tính.    Tôi biết điều này nghe có vẻ nhàm chán nhưng hãy thành thật đi, có phải bạn chỉ toàn đọc sách về những nhân vật mang lại cho bạn cảm giác họ là những người  “dễ thương” và “đáng mến”? Và bạn cũng sẽ sẵn sàng ném một cuốn sách sang một bên nếu như nó chẳng hề cho bạn thấy bất cứ một ai để bạn cưng nựng hay yêu thích cả? Trong cộng đồng văn học những năm gần đây, cuộc tranh luận về vấn đề này đã luôn diễn ra rất sôi nổi, nhưng thi thoảng, tôi vẫn luôn tự hỏi liệu có phải mọi người đang làm quá lên. Tôi rất hiếm khi nghe thấy người ta than thở về việc họ “không thích bất cứ một nhân vật nào” trong cuốn tiểu thuyết mà họ đọc, mà thay vào đó, tôi thường hay thấy người ta than thở về những người đã buông ra câu than thở này thì đúng hơn. Khi tôi mò vào Google và gõ cụm từ “những nhân vật đáng mến”, ngay lập tức tôi tìm thấy những kết quả đến từ những trang New York Times, The New Yorker, hay thậm chí ngay trong The Guardian, tất cả đều đặt những vấn đề như: Nhân vật của tiểu thuyết không nhất thiết lúc nào cũng phải dễ thương. Nhưng thực tế là, có rất ít những người đọc cảm thấy tức giận chỉ bởi vì họ không tìm thấy một người “đàng hoàng” nào trong tác phẩm để có thể đứng về phía người đó, mà hầu như chỉ toàn là những tin tức lên án hoặc chỉ trích đến từ những người đặt ra vấn đề về tầm quan trọng của một nhân vật “khó ưa” trong trong văn học cổ điển cũng như hiện đại. Việc bạn giới hạn bản thân mình, nhốt tù sự đọc vào những quyển sách chỉ viết về những nhân vật đáng mến thực chất là một việc làm dẫn bạn đi ra xa khỏi vùng đất văn chương trù phú và hay ho nhất. Nói cách khác, đó là bạn đã từ chối cảm thụ sự phức tạp trong tâm lý cũng như bản ngã về nhân tính của con người. Bạn cũng sẽ không thể nào bao dung nổi với những phận đời thảm hại, nhu nhược và nhút nhát. Nếu như bạn không thể chịu đựng được Hamlet với một chút đau thương hay căm hận, thế thì làm sao bạn có thể ứng phó được với những con người bằng xương bằng thịt ở ngoài đời thực bây giờ? May mắn ở chỗ, tôi đã biết được một liều thuốc tinh thần. Nếu như bạn biết được người nào thích đọc về những nhân vật đáng mến, những người không thể trở-nên-tồi-tệ, thì làm ơn hãy cho họ đọc “The Talented Mr.Ripley” của nữ tác giả Patricia Highsmith. Tôi tin chắc với bạn rằng, nó sẽ cho họ hết mọi thứ mà họ cần.  Rất khó để không đứng về phía của Tom Ripley, càng khó hơn để không thích anh ta, hoặc không muốn anh ta chiến thắng. Patricia Highsmith đã thể hiện điều này một cách xuất sắc, khi Ripley gần như chiếm trọn hết sự thương cảm từ bạn đọc. Đây là một câu chuyện kinh điển đến từ một người đàn ông có xuất phát điểm không mấy thuận lợi và hầu như không được bất kỳ ai tôn trọng, nhưng cũng chính người đàn ông này, bằng nghị lực và bản lĩnh, rốt cuộc đã tìm được chỗ đứng cho riêng mình. Hắn đã có một thuở thơ ấu vô cùng khắc nghiệt, mất đi đấng sinh thành và cuối cùng được nhận nuôi bởi một bà dì thường hay gọi hắn là một “thằng bóng ẻo lả”. Và phải, nhiêu đó vẫn không khiến Ripley từ chối trở thành một người đàn ông lịch thiệp, khiêm nhường, và cần mẫn. Hắn được miêu tả là một người rất hay ngại ngùng và lo lắng, thường xuyên suy nghĩ nhiều về ấn tượng của mình khi gặp người khác vào lần đầu tiên, lúc nào cũng tự kiểm điểm mình và luôn cố gắng tìm cách cải thiện bản thân.  Hắn ta cũng là một người mơ mộng hão huyền. Ngay từ khi câu chuyện bắt đầu, chúng ta đã có thể thấy được hắn nghĩ về cuộc gặp mặt giữa mình với Mr. Greenleaf – một ông chú với khối tài sản khổng lồ – ví von nó giống như “ một cảnh vừa xảy ra trong phim điện ảnh”, và từ đó, hắn dường như không thể để đôi mắt tham lam và ngây thơ của mình ra khỏi những cơ hội tốt lành, để hắn có thể được dấn thân và thâm nhập vào xã hội thượng lưu hào nhoáng, rủng rỉnh tiền nong và đầy chất thơ đó. Tất cả những điều ấy không thể phủ nhận rằng, dĩ nhiên, Ripley là một tên khốn nạn. Việc hắn có thể tỏ ra lịch thiệp và quyến rũ, một phần đến từ bản chất khôn ngoan, có thể qua mặt được người khác chỉ bằng một vài lời nói dối đơn giản. Hắn cũng có khả năng bắt chước, nhại lại tính cách của người khác một cách tuyệt vời. Hắn đào thoát khỏi những vết tích tội lỗi mà mình gây ra với vẻ vô cùng bình tĩnh và đầy phong cách. Hắn cũng sở hữu sự thèm khát cho những chuyến phiêu lưu, bằng cách đưa bản thân mình vào tình huống khó nhằn hay những địa danh mới lạ. À, và hắn còn là tay “bo” rất dữ dội nữa! Gã sát nhân kinh điển có gì mà không thích chứ? Tôi nghĩ là ai trong chúng ta cũng có thể khẳng định được rằng : Tom Ripley là một kẻ sát nhân máu lạnh. Chẳng tốt lành gì khi câu chuyện dẫn dắt chúng ta đến với cảnh tượng đẫm máu đó, khi hắn đã xuống tay đánh đập Dickie Greenleaf đến chết, sau đó cột anh ta vào tảng đá to tướng ở giữa lưng, thả anh ta xuống biển và sau cùng là đánh chìm con thuyền nhỏ mà hai người mượn để ra khơi. Sự thật là, khoảnh khắc này nhập nhằng hơn chúng ta tưởng. Xuyên suốt câu chuyện, Highsmith đã dẫn dắt chúng ta đi vào đầu của Tom. Bà đã vô cùng khéo léo và cam đoan trong cách miêu tả, để chúng ta có thể thấy được thế giới được thu vào thông qua góc nhìn một chiều, cảm nhận được những cung bậc xúc cảm, hiểu được vấn đề và ham muốn cốt lõi của nhân vật này. Vô tình, chúng ta tự gắn mình vào nhân vật, và có cảm giác như Highsmith cũng vậy. Không bất ngờ khi biết được rằng, trong đời sống cá nhân, nữ tác giả cũng có một thói quen khá kì quặc –gần như là mất trí – khi bà chọn cách ký tên ở mỗi bức thư mà mình gửi đi với dòng chữ “thương mến từ Tom.”, y hệt như nhân vật của bà. Và phải, hầu như rất thường xuyên, luôn có một sự nhắc nhở không thoải mái về cách mà Tom nhìn về thế giới bên ngoài – giống như vụ giết người đó, nó thật không bình thường một chút nào. Đó là một tội ác và càng kinh tởm hơn khi Highsmith đã rất tinh tế trong cách mà bà khiến cho chúng ta cảm thấy thương xót cho nhân vật Dickie. Tất cả đều đến từ cách mà bà xây dựng nhân vật này. Tom đã giết chết một người đàn ông được miêu tả là tốt bụng, hiền lành, kể cả khi anh ta đang ở trong giai đoạn bị mất phương hướng, nhưng vẫn hạnh phúc ca thán rằng :”Tôi thề mình sẽ không bao giờ đốt trụi cả thế giới cho đến khi nào tôi còn là họa sĩ.” Dickie nói. “Nhưng chắc chắn tôi sẽ thích thú khi làm chuyện đó.” Mà thật ra, Dickie cũng có những tội lỗi của mình, và phải, đáng lẽ ra anh ta nên để ý đến người mẹ nghèo nàn, bệnh tật đang từng ngày trông ngóng mình ở nhà. Nhưng Dickie cũng đã tìm cách chuộc lỗi bằng việc đi ra khỏi cái bóng kiểm soát to tướng của cha mình để tìm đến một chút ánh nắng từ con đường họa sĩ dịu dàng, tô điểm cho thế giới chung quanh, làm nhạt đi vẻ ảm đạm vốn có. Ngay cả trong những giây phút cuối cùng, khi anh ta nhận ra được người bạn của mình, Tom Ripley, đã phản bội mình trên một chiếc thuyền dính đầy máu, Dickie chỉ có thể thốt lên : “Ôi Lạy chúa!” và lời cầu cứu trong bế tắc này đã lột rõ sự thất vọng hơn là một sự tố cáo cay nghiệt. Cái chết của Greenleaf khiến cho chúng ta, ngay tại lúc đó, từ thương cảm chuyển sang căm ghét và phẫn nộ với Ripley hơn cả. Nhưng rất may mắn đó là, Highsmith đã nhanh chóng đưa chúng ta quay trở lại với ẩn ý ban đầu – và ngay tại đây, chúng ta có thể nhận ra tài năng xoay chuyển tình thế của bà. Highsmith đã khiến cho chúng ta đứng ngồi không yên với sự xảo quyệt của Tom, nỗ lực của hắn khi ra sức che giấu tội ác hết lần này đến lần khác, và chúng ta một lần nữa leo lên chiếc thuyền tù tội ấy với hắn. Hoàn toàn tin vào khả năng lèo lái bởi vì hắn chính là thuyền trưởng.Câu chuyện nghiễm nhiên trở thành một chuyến hành trình đầy lắt léo, công phu và cực kỳ gay cấn. Tình tiết căng thẳng đến mức khiến chúng ta lo sợ rằng Tom sẽ có thể bị bắt vào một phút nào. Có một phân cảnh mà Tom bị đẩy vào tình thế nguy hiểm, đến mức người đàn ông này sẵn sàng dùng mọi thủ đoạn tàn ác, rốt cuộc cũng chỉ để cho bản thân được cảm thấy an toàn. Dĩ nhiên, khoảnh khắc đó cũng nhắc nhở người đọc rằng Tom Ripley là một kẻ giết người tâm thần. Highsmith đã âm thầm nhấn mạnh điều này trong suốt câu chuyện bằng một loạt những chi tiết nhỏ gây khó chịu. Dẫn đến việc đọc cuốn sách không những mang lại một cảm giác không thoải mái, mà lại còn rất thú vị. Câu chuyện đã được xử lý để khiến chúng ta đặt nhầm sự thương cảm của mình vào kẻ sát nhân, cảm thấy vui, kể cả khi hắn đang gặp may mắn. Tom quả thật sự là “đáng mến”, và chúng ta đã bị dẫn dụ vào sâu bên trong đầu của hắn, đến nỗi cảm thấy tội lỗi với suy nghĩ “đồng phạm” của chính mình. Trong lúc bị ngấm vào câu chuyện này, tôi thường xuyên thấy mình hi vọng một cách nửa vời rằng Tom sẽ thoát khỏi mọi tội ác của mình, miễn nhiễm truy tố với mọi giết chóc. Điều đó thật kinh tởm! Tôi biết chứ, nhưng nó cũng thật là tuyệt vời. Biết nói sao nhỉ? Highsmith khiến bạn căm ghét chính mình bằng cách làm cho bạn đi cổ vũ Tom Ripley. Suy cho cùng, những người đọc yêu thích những kẻ “đáng mến”, họ thật sự cần phải cẩn thận với những gì họ ao ước…trước khi quá muộn. Điền Nguyên Mời bạn đón đọc Quý Ngài Tài Năng của tác giả Patricia Highsmith & Mai Trang (dịch).
Con Mồi Xảo Quyệt
Một vụ tai nạn xe cộ bất ngờ và đáng ngờ xảy ra với thượng nghị sĩ Porter Smalls và nhân tình Cecily Whitehead. Trên đường trở về sau thời gian nghỉ ngơi riêng tư, xe của Smalls bị một chiếc xe tải đâm phải và lao xuống dốc. Whitehead là người điều khiển chiếc xe đâm vào các hàng cây để giảm tốc độ lao của chiếc xe trước vực thẳm trước mặt. Xe dừng lại được trước bờ vực nhưng cũng chính một cành cây đã đâm qua cửa kính xe và khiến Whitehead nhận vết thương chí mạng ở đầu. Smalls thoát khỏi thảm kịch này trong gang tấc. Ông nghi ngờ đây là một âm mưu ám sát nhắm vào mình của đối thủ là thượng nghị sĩ Taryn Grant. Mụ ta từng tung đòn chơi xấu ông trước đây, làm tổn hại đến danh tiếng của ông và mở đường cho mụ vào Thượng viện. Nhưng đó chưa phải là đích đến cuối cùng của Grant. Cái mụ khao khát là thứ quyền lực tột cùng của chủ nhân Nhà Trắng và mụ sẵn sàng loại bỏ bất cứ chướng ngại nào trên con đường thực hiện mục tiêu. Lucas Davenport được đích thân Small nhờ điều tra vụ án vì phía cảnh sát không thể chứng minh chiếc xe của Smalls bị đâm bởi một xe khác. Họ cho rằng có thể chấn động từ vụ tai nạn đã làm ảnh hưởng đến trí nhớ của Smalls, thực chất là Whitehead đã không kiểm soát được tốc độ và tự mình lao xe xuống dốc. Lucas cũng cho rằng vụ tai nạn này có những điểm đáng ngờ, nhưng hơn hết, anh đồng ý tham gia điều tra vì ân oán trước đây với Taryn Grant. Anh không có đủ bằng chứng chứng minh mụ ta có liên quan đến vụ án mạng mà mình điều tra nên mụ đã thoát tội. Lần này anh quyết tâm bắt mụ phải trả giá cho tội lỗi của mình. Với sự giúp sức của hai đồng nghiệp thân thiết, Lucas lần lượt khám phá ra những bí mật đằng sau vụ tai nạn. Grant không đích thân ra tay mà sử dụng kẻ thân tín bên cạnh và những tay chân của gã để thực hiện vụ tai nạn nhắm vào Smalls. Những kẻ tòng phạm với Grant còn thực hiện hàng loạt các vụ mua bán vũ khí trái phép thông qua các công ty do bọn chúng điều hành. Khám phá này giúp Lucas có thể thương lượng để nhận sự trợ giúp từ FBI. Anh càng biết được nhiều sự thật hơn, tính mạng anh càng nguy hiểm khi các tay chân của Grant liên tục tìm cách giết anh và cản trở anh điều tra chi tiết vụ việc. Thậm chí vợ của Lucas cũng gặp phải tai nạn khiến anh buộc phải rời khỏi vụ án. Nhưng những việc làm của chúng không làm ảnh hưởng đến quyết tâm theo đuổi đến cùng của Lucas, chính chúng lại trở nên hoang mang, rối loạn và phải tìm cách trừ khử lẫn nhau để nhằm thoát tội. Trong quá trình điều tra, các bằng chứng Lucas thu thập được chỉ đủ để bắt những kẻ làm việc cho Grant còn khó lòng động đến mụ ta. Liệu lần này anh có lại thất bại dưới tay Grant và nhìn mụ bước lên vị trí Tổng thống? Thông tin tác giả: John Sandford tên thật là John Roswell Camp, sinh ngày 23 tháng 2 năm 1944 tại tiểu bang Iowa, Hoa Kỳ. Ông đoạt giải thưởng Pulitzer cho lĩnh vực báo chí vào năm 1986. Sự nghiệp của ông vô cùng đồ sộ với hàng chục cuốn tiểu thuyết và truyện ngắn do ông sáng tác và đồng sáng tác, trong đó nổi bật là các series truyện trinh thám như Săn mồi, Virgil Flowers,…. *** Nhân vật nổi tiếng của John Sandford, Lucas Davenport, là điều tra viên chính của Cục điều tra tội phạm Minnesota. Davenport lần đầu tiên xuất hiện trong Rules of Prey năm 1989. Kể từ đó, Sandford đã viết hơn 20 cuốn tiểu thuyết của Lucas Davenport. Davenport là loại thám tử thích làm việc bên ngoài các quy tắc được thiết lập của lực lượng cảnh sát. Anh ta lái một chiếc Porsche và là một người lăng nhăng. Một số cuốn sách trong bộ này thay thế cho bộ khác của Sandford tập trung vào Hoa Virgil. *** Chuyến đi lãng mạn chớp nhoáng của cặp tình nhân Whitehead cùng Thượng Nghị sĩ Smalls tưởng chừng sẽ kết thúc viên mãn. Ai dè xe của TNS Smalls gặp tai nạn trên xa lộ, bị hất văng khỏi mặt đường xém chút lao xuống vực nếu Whitehead không có tay lái lụa. Vì gắng sức cứu cả hai thoát chết nên Whitehead đã mất mạng. TNS Smalls một mực cho rằng ông là mục tiêu của một vụ mưu sát và hung thủ chính là kẻ đang muốn xanh chín với ông. Không ai tin tưởng xe ông bị sát thủ cố tình đâm phải, Smalls buộc lòng phải nhờ đến người quen cũ: Cảnh sát của Cục Cảnh sát Tư pháp Lucas Davenport. Con Mồi Xảo Quyệt khắc họa thế giới tàn nhẫn, điên cuồng, nhơ bẩn của giới chính trường Mỹ. Thật ra nó cũng chẳng khác gì truyện cung đấu bên Tàu. Các Thượng nghị sĩ lăm le hất cẳng nhau, không từ một thủ đoạn nào tiêu diệt nhau đến cùng chỉ nhằm một mục đích: Ngồi lên chiếc ghế Tổng thống của Hợp Chủng quốc Hoa Kỳ. Lucas Davenport thấy mình bị lạc trong mớ bòng bong chết người của hận thù, âm mưu, dối trá, tham vọng và thù hận nhuốm màu chính trị và tiền bạc. Một thế giới không có tình thương, không có lòng tin, chỉ có máu và giấc mộng bá quyền. Lucas cùng hai đồng đội, Bob và Rae, chưa kể rất nhiều cảnh sát và đặc vụ khác cùng hợp tác nỗ lực đến cùng bắt những kẻ thủ ác phải đền tội trước công lý. Liệu rằng họ có thành công khi phải đương đầu với những kẻ vừa có tiền, vừa có quyền vừa ác độc, máu lạnh nhưng cũng rất xảo quyệt, thông minh? John Sanford đã dựng nên cuộc đối đầu gần như không cân sức giữa Lucas Davenport và đồng đội với những kẻ thủ ác được cả hệ thống chính trị hậu thuẫn. Chẳng khác nào trứng chọi đá, trong khi cảnh sát chỉ còn biết dựa vào từng mẩu bằng chứng, từng lời khai. Cả truyện là cuộc đấu trí song song giữa hai bên rất thú vị. Đối đầu với đối thủ quá mạnh, Lucas phải vận dụng hết trí tuệ, hết từng lợi thế mà mình có được dẫu nhỏ nhoi. Truyện cũng khắc họa toàn bộ quá trình điều tra, lần tìm bằng chứng, giám định pháp y, các chi tiết về luật hình sự dành riêng cho các đối tượng nằm trong hệ thống chính trị khá chi tiết. Phải đọc mới biết Lucas Davenport trong cuốn này bị trói chân trói tay như thế nào. Luật pháp sinh ra để trừng phạt những kẻ ác, nhưng khi một sức mạnh còn lớn hơn cả luật pháp ra tay phạm tội ác, thì luật pháp sẽ phải làm gì để đảm bảo thượng tôn pháp luật, đảm bảo cái thiện sẽ thẳng cái ác? Tình tiết Con Mồi Xảo Quyệt tuy không quá gay cấn, căng thẳng ở những pha đuổi bắt, gây án nhưng nó đặt ra những tình huống chứng tỏ cuộc chiến không khoan nhượng giữa pháp luật với chính trị gian nan nhưng hấp dẫn. Nguyen Quang Huy *** “Em mệt không?” Porter Smalls quay sang ghế lái. Tán cây mùa hè quanh chiếc Cadillac Escalade tối om khi họ tiến vào con đường bẩn thỉu. Bờ nam sông Potomac uốn lượn như con rắn dưới chân hai người; các cửa kính xe đều hạ xuống hết, trong xe tràn ngập mùi cá chết, mùi bùn từ con sông. “Một chút, không sao đâu mà,” Cecily Whitehead đáp. Whitehead đã tắm nước giếng lạnh trong cabin ngay trước khi họ lên đường, thoa một chút nước hoa Chanel số 5 khi mặc đồ. Hai mùi này kết hợp khiến cô có cảm giác còn hơn cả dễ chịu nữa, cô thấy mình cực kỳ gợi tình. “Anh sẽ lái nếu em muốn,” Smalls đề nghị. Ông có vóc người nhỏ bé, giống hệt như cái tên của mình, mảnh khảnh và sung sức, như thể ông từng dành thời gian đạp xe leo núi. Ông có mái tóc bạc, uốn quăn ngang cổ áo thun chơi golf, hàm răng bọc sứ trắng bóng với cặp mắt kính không gọng dùng xem ti vi trên đôi mắt xanh nhạt. “Không sao, em ổn mà,” Whitehead nói. Cô thắt dây an toàn qua chiếc váy hai dây lộng lẫy, bộ váy có thể khiến cô bị bắt nếu diện nó bên ngoài phòng ngủ vào thời xưa. “Anh uống rượu rồi - chẳng may vì chuyện nào đó mà tụi mình bị chặn lại...” “Được rồi,” Smalls nói. Ông ngả ghế xuống thêm hai phân nữa, khoanh tay trên ngực rồi nhắm mắt lại. TRÊN ĐẦU HỌ, nấp sau những tán cây, một người đàn ông đang theo dõi qua ống nhòm. Khi chiếc SUV bạc rời khỏi lối xe vào nhà, phóng qua hộp thư rồi rẽ trái vào con đường bẩn thỉu, hắn giơ chiếc điện đài lên ngang mặt và nói, “Anh sẽ về nhà ăn tối”. Một chiếc điện đài, bởi nếu không phải đúng người đang ở trên đúng kênh này trong bán kính ba dặm vào đúng lúc đó, sẽ rất khó lần ra cuộc gọi; kể cả nếu NSA có bắt được nó. Cũng như không thể lần ra được năm tiếng chuông nhanh hắn nhận lại, báo hiệu có tin nhắn mới. Hắn đi bộ, chiếc xe bán tải đỗ cách đó nửa dặm. Hắn bước vào đây từ con đường mòn do muông thú tạo nên rồi cũng đi ra bằng con đường ấy, di chuyển chậm rãi, cứ đi được ba mươi mét lại dừng để nhìn ngó và nghe ngóng. Khi theo dõi, hắn không bao giờ ngồi, chỉ đứng nguyên tại chỗ, bên cạnh lớp vỏ màu xám xương xẩu của cây tần bì già; chẳng có đài quan sát nào để ai đó lần ra hắn, không có mẩu đầu lọc thuốc lá hay giấy gói kẹo nào đánh rơi đem từ đó truy ra ADN. Hắn đi đôi giày đế êm đã cũ mòn: không để lại dấu chân trên nền đất mềm. Hắn là dân chuyên nghiệp. THƯỢNG NGHỊ SỸ MỸ PORTER SMALLS sở hữu một cabin trên các ngọn đồi ở tây Virginia, cách Washington D.C. hai tiếng rưỡi chạy xe - vừa đủ gần cho một chuyến đi thoải mái, vừa đủ xa để che giấu những hoạt động cần sự kín đáo. Ông cùng Whitehead, một trong những người bạn thân nhất của vợ ông - bà đang ở tận Minnesota - khóa cửa cabin rồi thẳng tiến về D.C. khi mặt trời thấp dần về phía đường chân trời vào buổi chiều Chủ nhật oi bức. Họ đã rất thận trọng chọn khoảng thời gian này: lợi dụng bóng tối đưa ông về tòa chung cư Watergate sang trọng của mình. Smalls cùng Whitehead tận hưởng hai ngày nghỉ tràn trề sinh lực, trò chuyện về triết học chính trị, lịch sử, lũ ngựa, tiền bạc, cuộc sống và những người bạn chung trong khi cùng xem hết bản bìa mềm rách nát cuốn Thú vui tình dục từ những năm 80 của Smalls. Smalls đã yên bề gia thất còn Whitehead vẫn độc thân, nhưng cô giành quyền lái xe vì thứ logic của Washington liên quan đến tình dục và rượu. Một vụ ngoại tình là chuyện không được cổ vũ tại Washington, nhưng chắc chắn sẽ không bị xử nặng theo luật hình sự như tội lái xe khi say xỉn. Qua đêm với đàn ông hoặc một phụ nữ nóng bỏng thì có khả năng - có thể - bạn sẽ phải chường mặt lên trang blog của tờ Washington Post. Nhưng chỉ có Chúa mới cứu được bạn khi Hội Bà mẹ phản đối lái xe khi say xỉn tấn công bạn đúng kỳ bầu cử. Thế nên người lái là Whitehead. Cô là người say mê chính trị và là nữ mạnh thường quân của đảng Cộng hòa. Ở tuổi năm mươi, Cecily Whitehead có dáng người mảnh mai, làn da rám nắng và tàn nhang, với mái tóc đen ngắn mà người ta khó lòng nhận ra là đã được nhuộm tinh tế. Chiếc cằm vuông khiến cô trông hơi giống Amelia Earhart. Và giống như Earhart, cô cũng có một chuyên cơ riêng, chiếc Beechcraft King Air hai động cơ. Cô sở hữu một căn biệt thự nhìn ra một trong nhiều mặt hồ tại Minneapolis, cùng một trang trại nuôi ngựa Tennessee rộng hai ngàn mẫu ở phía nam thành phố Đôi. Bà xã của Smalls không chắc Whitehead có ngủ với chồng mình hay không, chủ đề này chưa bao giờ được xới lên. Suốt bốn năm qua, vợ của Smalls cũng đang ăn nem với tình nhân người Litva, trên căn gác lửng tại khu buôn bán kinh doanh Minneapolis, chủ đề này từng được bàn đi xới lại vô số lần. Những người Litva vốn nổi tiếng tại Bắc Âu như những vận động viên tình dục. Smalls nhận thức được thực tế này Nhưng ông không còn quan tâm chuyện vợ mình làm gì, miễn là bà ta không làm chuyện ấy trên phố. Thực ra ông hy vọng bà ta hạnh phúc, vì ông vẫn còn tình cảm với người mẹ của những đứa con ông. Ông tự nhủ lần tới khi đến thành phố Đôi, ông sẽ dẫn bà ta đi ăn tối. “MƯỜI GIỜ SẼ ĐẾN NƠI,” Whitehead nói. “Anh phải gặp thằng đần Clancy vào buổi trưa,” Smalls đáp, không buồn mở mắt ra. “Đần nhưng kiên trì,” Whitehead nói. “Hắn nói với Perez rằng nếu Medtronic chốt được thương vụ VA, Abbott sẽ phải cắt giảm biên chế trong hạt của ông ta. Perez tin tưởng hắn. Chuyện này thậm chí có thể là thật.” “Tiếc thật,” Smalls nói. “Chuyện cắt giảm sẽ không xảy ra đâu. Khi mà Porter Smalls biết rằng lãnh đạo phe đa số yêu quý của chúng ta có nghề đi đêm tại Rio Javelina.” “Nếu nghe được anh nói thế, hắn sẽ kiếm cái gì đó thật sắc moi ruột anh ra đấy.” Smalls mỉm cười. “Sao hả CeeCee... em không nghĩ rằng anh thực sự nói chuyện này cho hắn nghe đấy chứ?” Whitehead siết chặt đầu gối ông. “Em hy vọng là không. Không, em không nghĩ anh làm thế. Sao anh có thể để hắn biết rằng anh biết chứ?” “Kitten sẽ nghĩ ra đối sách,” Smalls nói. Whitehead mỉm cười với bóng tối đang dần đen đặc, ánh đèn pha từ xe họ chiếu xuyên qua hàng cây hai bên đường. Kitten Carter, trợ lý của Smalls, sẽ nghĩ ra kế đối phó. Cô ta thường trò chuyện với Whitehead hai lần một tuần, họ cùng nhau bàn mưu tính kế mang lại vinh quang vĩ đại hơn cho nước Mỹ nói chung và cho Porter Smalls nói riêng. Whitehead là người yêu yoga và thích đua ngựa vượt chướng ngại. Cô có một cơ thể khỏe khoắn, cặp giò và hai cánh tay rắn chắc, đặc biệt cô sở hữu đôi bàn tay to và khỏe hiếm thấy ở phụ nữ. Cô có thể điều khiển chiếc Escalade trên đường mòn nhanh hơn hầu hết những người khác, bắn tung bụi mù và sỏi đá lên bầu không khí buổi tối. Cô dành khá nhiều thời gian làm việc trên các cánh đồng, dùng xẻng hót phân ngựa rất gọn ghẽ, lái xe tải và máy kéo, không phải là lái cho vui mà cô hiểu rõ mình đang làm gì, luôn giữ các bánh xe bám chắc xuống hai vết hằn trên đường mòn. Mời các bạn đón đọc Con Mồi Xảo Quyệt của tác giả John Sandford & Nguyễn Quang Huy (dịch).