Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Đông Lai Bác Nghị (Dương Tấn Tươi)

Nếu không có tài dàn xếp của bao sự ngẫu nhiên thì đâu có quyển Đông-Lai bác nghị nầy!

Đầu tiên, một vị túc nho của chốn Thần kinh, lúc tản cư vào Sài-thành, ngẫu nhiên đến trú ngụ cạnh phòng khám bịnh của chúng tôi. Đó là việc hệ trọng: vì đối với chúng tôi, bực đại nhân ấy là một người thầy đáng kính, mặc dầu Cụ vẫn có nhã ý tự xem mình là bạn vong niên; vì đối với quyển sách này, bực lão thành ấy mới thật là người cha tinh thần, mặc dù Cụ ấy vẫn một mực chối từ không nhìn nhận.

Vả lại, vì muốn giữ vẹn cốt cách của nhà ẩn dật, Cụ yêu cầu chúng tôi đừng nêu danh Cụ vào trong sách! Thật đáng phục thay đức tính khiêm tốn của bực nho phong, mà cũng khổ cho chúng tôi vì phải dài dòng nhắc lại tiểu sử của bổn dịch mà chỉ được phép dùng một chữ « Cụ » vỏn vẹn để kể cho tròn câu chuyện!

Thì cũng bởi vai tuồng quan trọng của vị túc nho ấy trong khi phiên dịch cho nên chúng tôi xin độc giả niệm tình tha thứ khi thấy chúng tôi lắm lời nói về thân thế của một người đương cầu xin đời đừng nhắc đến tên.

Sanh trưởng trong một thế gia của chốn đế đô, cha làm Thượng thơ bộ Lễ, thì khi vào sân Trình, Cụ chiếm bằng cử nhân, việc ấy, theo chúng tôi, cũng chưa đáng kể. Đáng nể là khi rời cửa Khổng để theo tân học, chỉ trong mấy năm Cụ theo kịp các bạn đồng niên nơi lớp tú tài « Tây »! Rồi sang Pháp để trau giồi học mới, rồi xông pha nơi bể hoạn, rồi cuối cùng nối được chức của cha, thì với sức học đó, với thông minh đó, âu cũng là một việc có thể đoán trước được. Tìm mua: Đông Lai Bác Nghị TiKi Lazada Shopee

Ngày nay, đã chứng kiến bao cuộc bể dâu, Cụ chỉ còn giữ lại một ham muốn là tận hưởng chữ « nhàn » trong thời hưu trí. Muốn được thế, Cụ ẩn mình trong đám rừng người để thưởng thức một câu thơ đẹp với chén trà ngon hoặc cùng vài ba tri kỷ luận bàn về văn học. Cụ nhứt quyết chủ trương: « Lịch sử và địa dư đặt nước nhà vào giữa hai nguồn văn hóa, muốn trở nên một công dân đất Việt, chúng ta phải thâu thập cả đôi. Âu Tây giúp ta kỹ thuật, Á Đông cho ta nghệ thuật làm người ».

Để chứng minh lời nói, Cụ nhắc lại một gay cấn vừa xảy ra trong trường quốc tế, rồi chỉ rõ giải pháp của người xưa khi gặp cảnh ngộ tương tợ để bắt buộc kẻ đối thoại phải nhìn nhận: « Thiếu Hán học là một sự thiệt thòi rất lớn ».

Sẵn có quan niệm ấy nên Cụ nhận lời ngay khi chúng tôi ngỏ ý cầu học. Lối dạy của Cụ thật là đặc biệt. thường ngày Cụ dùng tiếng Việt để giảng bài, nhưng khi gặp áng văn quá bóng-bảy hay huyền-diệu thì Cụ dùng cả tiếng Pháp để diễn-tả tư-tưởng, mượn triết-học Đức để so-sánh, đem học-thuyết Hy-Lạp để chứng minh, cốt-yếu là giúp học trò hiểu cho thấu đáo, tận-tường. Khi gặp tư-tưởng thanh-cao hoặc áng văn bất-hủ, chúng tôi lật đật ghi rồi chép lại trong giờ nhàn rỗi để trình lên cho Cụ xem-xét. Cụ dò từng câu, đối-chiếu từng chữ để phê-bình. Nhờ Cụ tiến dẫn, chúng tôi mới « nuốt hận » chép thơ của Tư-mã Thiên, sụt sùi thảo tờ biểu xuất-sư của Gia-Cát, băn khoăn đứng trên lầu Nhạc-Dương với Trọng-Yêm, ngạo nghễ biên thơ từ-chức cùng Tạ-Phùng-Đắc.

*

Ngẫu-nhiên khéo sắp cho chúng tôi gặp được một bực thầy đáng kính, thì cũng nhờ ngẫu-nhiên chúng tôi lại gặp quyển sách đáng yêu.

Kẻ vừa nhập đạo thường không tiếc lời ca-tụng tôn-giáo mới của mình. Chúng tôi nào có tránh được thường tình đó trong khi hầu chuyện với ông Trương-Quan, một nhân vật mà giới mại bản Huê-kiều và làng « thanh sắc » bổn xứ vẫn còn nhớ tiếng. Nghe chúng tôi ca tụng nhân tánh của nền văn-hóa Trung-Hoa, Trương-quân đột-ngột hỏi: « Như thế chắc bác-sĩ đã đọc quyển Đông-Lai bác nghị rồi? » Chúng tôi phải thẹn thùng nhìn nhận: « Chẳng những chưa được đọc mà như phần đông người Việt-Nam, chúng tôi chưa từng nghe đến tên! »

Vì bác-sĩ khen ngợi văn học cổ Trung-Hoa, trí tôi vùng nhớ lại câu chuyện hai mươi năm về trước khi còn thơ ngây cặp sách vào trường để ăn mày chữ. Trong những giờ các bạn được nghỉ ngơi hoặc nô đùa chạy giỡn thì chúng tôi bị ông bác ngồi kèm bên cạnh ép buộc đọc một vài trang Đông-Lai bác nghị. Đó là lời phê-bình về hành vi và hạnh kiểm của các nhân vật đời Đông-Chu. Câu văn huyền diệu, lập luận chặt chẽ, tâm lý sâu sắc là ba đặc điểm của tác phẩm bất hủ đó. Nhưng đối với bộ óc non nớt của đứa trẻ lên mười thì làm sao thưởng thức nổi vẻ đẹp của câu văn hay và sự điêu-luyện của bài luận khéo? Vậy mà, ông bác vẫn bắt buộc chúng tôi « ê » « a » đọc cho xong vì: « nơi trường, thầy dạy cháu làm văn; nơi đây, bác dạy cháu làm người ». Lời của bác thật là chí lý! Thời-đại Đông-Chu là khoảng đen tối nhứt của lịch-sử Trung-Hoa, vì lúc ấy, xã hội đương vươn mình thay đổi lốt, nên gây ra bao sự xáo trộn lớn lao. Bực thánh phải chung đụng với sát nhân, hiền triết phải ăn ở cùng gian tà, rồi tranh đấu chống chọi nhau nẩy sanh ra trăm ngàn việc, hay dở đều có. Tất cả hai mặt - tốt và xấu, thanh với tục - của con người đều phô bày. Nếu gặp một nhà phê-bình có cặp mắt tinh đời, có bộ óc sáng suốt, lại thông tâm lý, hiểu chánh trị, khảo sát thời kỳ ấy thì chắc chắn sẽ để lại cho đời một tác phẩm vô cùng hữu ích. Lữ Đông-Lai có đủ điều kiện ấy cho nên quyển Bác-nghị là một chiếc thuyền đã cắm sào ở ngoài dòng thời gian… Khi đọc quyển Đông-Lai, chúng ta có cảm giác đương nghe một tay thợ chuyên môn giải thích về các bộ phận trọng yếu của guồng « máy lòng » rồi chỉ cho chúng ta thấy các nguyên do thường làm cho động cơ ấy chạy. Cũng bởi « động cơ » và nguyên do ấy không thay đổi cho nên lời của Đông-Lai luận về một thời vẫn có thể giúp ích cho người trong muôn thuở. Vì lẽ đó, lúc trẻ, chúng tôi oán trách ông bác bao nhiêu, thì ngày nay, đã tránh được nhiều kinh nghiệm chua cay, chúng tôi lại cám ơn ông bác bấy nhiêu!

Đáp lời yêu cầu, ông Trương-Quan phải nhờ người về tận Thượng-hải mua giùm cho chúng tôi một bổn.

Của báu cầm tay, chúng tôi đến nhờ Cụ dẫn giải giùm điều thắc mắc: « Tại sao một tác phẩm giá trị dường kia, mà từ xưa, trong xứ ta chưa từng nói đến? »

Cụ giảng: « Những sách Trung-Hoa được phiên dịch và truyền bá ở Việt-Nam phần nhiều vì ba cớ: Một là bởi có nhiều người bị bắt buộc phải đọc đến, cho nên bàn tới cũng nhiều, dịch ra không ít, đó là những sách có tên trong chương trình thi cử. Hai là các thứ sách quyến rủ người vì cốt chuyện, ấy là lịch sử tiểu thuyết tức là truyện. Còn về loại thứ ba là vận văn, vì đọc lên nghe êm tai, lại dễ nhớ, nên có nhiều người ưa thích.

« Đông-Lai bác nghị không đứng vào ba hạng đó. Vì là văn phê bình nên đòi hỏi ở độc giả một trí phán đoán mà người đời ít hay dùng đến. Và là văn nghị luận nên khô khan mà bắt buộc người đọc phải suy xét mới thưởng thức. Không có vần, thiếu cốt chuyện hấp dẫn, lại không được ghi vào chương trình thi cử, như vậy ít người biết đến thì cũng là một chuyện không lạ. Nói thế không phải bảo sách ấy không có độc giả! Ngoài số thí sinh hiếu kỳ nên tìm Đông-Lai đọc trước khi vào đình thí, phần đông, các người mê thích sách đó toàn là những kẻ đã đỗ đạt, ra làm quan, ưa dùng quyển Bác-nghị để kiểm điểm hành động trong lúc chăn dân hay khi xử thế. Rồi đến lúc chiều tà bóng xế, khi đã mỏi mệt thì trí muốn yên nghỉ hơn là dịch sách? Vả lại đối với các bực tiền bối ấy, dịch hay viết sách là một sự ngoài tưởng tượng. Đối với họ, học là hành nghĩa là đem ra áp dụng, để làm tròn bổn phận của mình, chớ không dám học để truyền cho ai cả. »

*

Rồi theo lệ thường, Cụ giải thích, chúng tôi ghi chép. Cả thảy được tám mươi bốn bài.

Mỗi bài là một sự ngạc nhiên. Trong văn chương Trung-Hoa, chúng ta thường bực mình vì gặp lời nhiều hơn ý. Với Lữ Đông-Lai, câu văn đẹp đẽ vẫn đi kèm với tư tưởng cao thâm. Lắm bài không đầy gang tấc mà chất chứa ý dài muôn vạn dặm. Càng suy xét, càng thấy sâu rộng. Về mặt tâm lý thực nghiệm và chánh trị thực hành, chưa chắc có quyển sách nào trong văn chương Âu-Mỹ sánh kịp Đông-Lai bác nghị. Ấy là chưa bàn đến lý luận, phần cốt yếu của sách. Mở đầu cho mỗi bài, tác giả nêu ra một tư tưởng căn-bản, nhiều khi không dính-líu với cốt chuyện đem ra phê-bình.

Độc-giả còn tưởng nhà văn lạc đề, thì chỉ vài câu, đã móc dính đầu-đề với ý-niệm căn-bản. Rồi dùng câu chuyện đem phê-bình để chú-thích tư-tưởng chánh ghi trên đầu bài.

Trước với sau, đầu với đuôi đều ăn khớp, các bộ-phận liên-lạc cùng nhau một cách tế-nhị làm cho độc-giả tưởng là đương nghe nhà toán-học khéo chứng-minh một định-lý của hình-học.

*

Rồi một hôm, mấy người bạn tình-cờ đến viếng giữa giờ giảng dạy của cụ, đó là ngẫu nhiên thứ ba.

Cũng như chúng tôi, các bạn đều bị câu văn trong-sáng và lập-luận huyền-diệu của Đông Lai hấp-dẫn nên mới khuyên chúng tôi cho xuất-bản. Từ-chối là sự dĩ-nhiên, vì bổn-tâm của chúng tôi là chỉ học cho mình… Lý-luận của các bạn thật cũng chặt-chẽ: « Hiện nay, quốc-văn đương nghèo… học-sanh thiếu món ăn tinh-thần, v.v…. Trong lúc các tiểu-thuyết khiêu-dâm chường mặt trên báo và trong hàng sách thì ôm giữ cho mình một tác-phẩm có giá-trị là một việc… ích kỷ, một tội to đối với nền học-vấn ».

Không phương chối-cãi, đành phải nghe theo. Từ đây mới gặp bao nỗi khó …

*

Trước hết, nếu cho in vỏn-vẹn tám mươi bài nghị-luận của Đông-Lai mà chẳng có những đoạn Xuân-Thu, Tả-Truyện thì làm sao độc-giả lãnh-hội được? Vả lại, lắm khi, vì bắt-bẻ một câu hoặc một chữ của Tả-Truyện mà Đông-Lai viết thành bài « bác-nghị ». Vậy dịch Xuân-Thu và Tả-Truyện song-song theo « bác-nghị » là một sự tối-cần. Cũng là một điều quá khó.

Các bạn chắc đều biết Xuân-Thu là một trong năm quyển kinh của Đức Khổng-tử. Đó là bộ sử nước Lỗ do Ngài sửa-định, chép từ đời Lỗ Ẩn-công cho đến Lỗ Ai-công gồm có 240 năm (từ 721 tới 481 trước tây lịch).

Với quan-niệm hiện-tại về sử học khi chúng ta trịnh-trọng lật quyển Xuân-Thu thì sẽ vô-cùng ngạc-nhiên hay thất-vọng. Vì đó chỉ là một mớ sử liệu chép rời-rạc, dường như gặp chuyện thì ghi, không màng đến sự liên-lạc hay tương-quan. Lại có nhiều việc quan-trọng mà không chép. Khi chép thì quá vắn-tắt gần như đơn-sơ. Thí-dụ: bà Khương-thị vì thương con không đồng nên gây ra cuộc xung-đột giữa Trịnh Trang-công và em là Cung Thúc-Đoạn thì nào là quỷ-kế của anh, nào là tham-vọng của em, nào là lời bàn của bá-quan rồi đến trận đánh, với cuộc vây thành phá lũy, cho đến khi cùng đường Thúc-Đoạn chạy vào xứ Yển. Trịnh Trang-công giam mẹ, thật là bao nhiêu gây cấn mà trong Xuân-Thu chỉ có một câu: « Mùa hạ, tháng năm, Trịnh-bá thắng Đoạn tại Yển ». Có lúc còn vắn tắt hơn, như « Tề cứu Hình » hoặc « Địch đánh Vệ ».

Vậy thì chân giá trị của bộ Xuân-Thu ở đâu mà vẫn được xem là quyển kinh để « định công luận, đoán án cho muôn đời »? Tại sao chính Đức Phu-Tử cũng yêu cầu người đời « biết cho ta » hay « buộc tội cho ta » thì nên do bộ Xuân-Thu? Như vậy, bực thánh và dư luận cổ kim đã lầm chăng? Hoặc giả, vì quan niệm về sử học của xưa với nay quá khác nhau mới có điều chinh lịch đó?

Nếu thật thế thì tại sao một học giả của thời đại nầy, cụ Nguyễn-Văn-Tố, một người mà chưa ai dám ngờ vực về sức học uyên thâm, cũng chưa ai dám nghi đến sự thận trọng của ngòi bút, đã viết: « Muốn thưởng thức cái hay của bộ Xuân-Thu, phải nhận thấy hương nồng của triết lý, thơm ngát của luân lý, mùi vị của chánh trị ở trong kinh đó. »

Làm sao những câu văn vắn-tắt sơ sài kia lại chứa được bao nhiêu mùi, hương và vị?

Chỉ vì Đức Phu-Tử khéo dùng một phương pháp kín đáo: quên TÊN và VIỆC.

Sự quên hữu ý, sự cố tâm quên có nghĩa là chê bai, là khiển trách.

Như trong thí dụ trên, không chép tên Trịnh Trang-công chỉ gọi Trịnh-bá là chê lỗi chẳng biết dạy em.

Như Thúc-Tôn Kiểu-Như, đại phu nước Lỗ chuyên chế mạng lịnh qua rước vợ ở nước Tề thì Xuân-Thu chép: « Vợ Kiểu-Như tên Phụ-Hỉ ở Tề về. »

Như vua của nước Châu, tên Thiệt, chức là công, thường gọi là Châu-công, vì sợ loạn nên bỏ xứ trốn qua Tào, sau cùng qua triều Lỗ, Xuân-Thu chỉ chép: « Thiệt đến ».

Còn vua nước Kỷ, tước là bá, khi qua triều Lỗ lại dùng lễ của man di, Xuân-Thu chỉ biên: « Kỷ đến triều ».

Chẳng những thiếu là chê, có khi thừa cũng là khiển trách, như thêm tên tộc của các vị vua có lỗi. Muốn chỉ trích vua Vệ dùng kế tiểu nhơn để chiếm nước Hình thì Xuân-Thu ghi: « Mùa xuân, tháng giêng, ngày bính ngọ, Vệ-hầu tên Hủy diệt Hình. »

Khi muốn tỏ sự hư hèn của Tống Chiêu công thì chép: « Mùa đông, tháng mười một, người Tống giết vua tên là Chử-cữu. »

Nhưng phần nhiều khi Xuân-Thu thêm tức là khen, nếu ghi cả chức tước.

Muốn nêu tấm lòng trung của hai bề tôi nước Tống - công tử Ấn và Đãng Ý-Chư - Xuân-Thu chép: « Người Tống giết quan đại tư mã. Quan đại tư thành trốn qua Lỗ ».

Như câu: « Mùa thu, tháng tám, ngày giáp ngọ, tên Vạn của Tống giết vua tên Tiệp và quan đại-phu Cừu Mục » là dụng-ý phạt Nam-Cung Trường-Vạn, một kẻ thí chúa, lại chê vua Tống vì tánh ham đùa-bỡn với bề tôi, phải mua lấy cái chết thảm-khốc, còn khen quan đại-phu tuy yếu-đuối mà dám cầm hốt đánh một tên võ phu, coi thường cái chết.

Chỉ thêm bớt vài chữ, Đức Phu-tử đã tỏ sự khen chê, ban điều thưởng phạt. Mà khen với chê, thưởng và phạt, khi đã trưng nhiều lượt, sẽ tỏ bày một luân-lý và một đường chánh-trị. Cả hai là sản-phẩm của quan niệm về cuộc đời, về vũ-trụ tức là triết-lý.

Phương-pháp kín đáo ấy chẳng những bày tỏ được mấy nguồn văn hoá mà còn gây một ảnh-hưởng, một hiệu lực phi thường: được một tiếng khen của Xuân-Thu là hưởng giọt mưa Xuân đầm-ấm, bị một câu trách là chịu ngọn nắng Thu gay gắt. Thật là kết quả mỹ-mãn, nhờ bởi tay thợ thánh khéo dùng một khí cụ thô sơ. Và cũng vì thế, sự phiên dịch Xuân-Thu chất chứa bao nhiêu nỗi khó: phải cân nhắc từng chữ, phải theo đúng nghĩa mà còn lo-sợ thừa lời.

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Đông Lai Bác Nghị PDF của tác giả Dương Tấn Tươi nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Gương Người Xưa - Tế Xuyên
Đây là vài trang hùng sử để tặng các bạn thanh thiếu niên. Tác giả sưu tầm tài liệu trong kho dã sử Việt-Nam và trong các giai thoại về vài nhà cách mạng chân chánh theo lời thuật lại của người đương thời – mà viết ra tập truyện bi hùng tráng này, bên lề lịch sử mong có thể là món quà tiêu khiển cho các bạn thanh thiếu niên nặng bầu nhiệt huyết vì Tổ quốc vì dân tộc. TÁC-GIẢ Mời các bạn đón đọc Gương Người Xưa của tác giả Tế Xuyên.
Chiến Lược Xung Đột - Thomas C. Schelling
Thomas Schelling đoạt giải Nobel Kinh tế năm 2005 về lý thuyết trò chơi (cùng chung với Robet Aumann). Cuốn “Chiến lược xung đột” của ông là một công trình ứng dụng lý thuyết trò chơi vào việc giải quyết xung đột, được áp dụng không chỉ trong quan hệ quốc tế (mặc dù đây là mối quan tâm lớn của ông) mà còn giữa các nhóm người và các tổ chức trong xã hội. Xuất phát từ luận điểm cho rằng cần coi xung đột như một điều tất nhiên (chứ không phải chỉ là một trạng thái bệnh hoạn nhất thời), trong đó các bên tham gia đều tìm cách “chiến thắng”, do vậy cần phải nghiên cứu các hành vi xung đột một cách “có ý thức, khôn ngoan, tinh vi) để dành thắng lợi trong cuộc thi đấu này. Nói cách khác, xung đột hoàn toàn không phải là trò chơi may rủi, mà là trò chơi chiến lược - tức là trò chơi trong đó nước đi tốt nhất của mỗi người chơi phụ thuộc vào nước đi của những người chơi khác. Ở đây có sự phụ thuộc lẫn nhau trong quyết định của các đối thủ và sự dự đoán hành vi của nhau. Schelling đặc biệt nhấn mạnh rằng các bên tham gia xung đột vừa có lợi ích chung vừa có lợi ích xung đột, và luôn có sự phụ thuộc cũng như đối nghịch lẫn nhau. Vì vậy xung đột rất hiếm khi là một cuộc chơi một mất một còn, trong đó một bên thắng thì ắt là bên kia bị thua, mà đó thường là một trò chơi có tổng lợi ích khác không (non-zero-sum game). Các bên tham gia sẽ không tìm kiếm thắng lợi bằng cách đè bẹp hay hủy diệt đối phương, mà là “thông qua mặc cả, nhân nhượng lẫn nhau, và tránh tàn phá lẫn nhau”. Cuốn sách đã trình bày cặn kẽ về chiến lược mặc cả, sức mạnh mặc cả, đàm phán, răn đe, hứa hẹn và trao đổi thông tin… với những phân tích khá chi li, lý thú và có thể hữu ích trong một cuộc thương lượng nhằm đi đến các thỏa thuận chấp nhận được. Như tác giả viết: “Khi mỗi bên chi phối bởi các dự tính và đều biết rằng bên kia cũng như vậy, thì các kỳ vọng sẽ trộn lẫn vào nhau” và “Một cuộc mặc cả sẽ thành công khi một bên đưa ra nhân nhượng cuối cùng và đủ cho bên kia” *** Cuốn sách là sự tổng kết quá trình nhiều năm nghiên cứu và trải nghiệm của Schelling. Bằng những đóng góp khoa học của mình, ông đã góp phần quan trọng trong việc giải quyết xung đột và nỗ lực để tránh chiến tranh. Nội dung cuốn sách không chỉ quan tâm tới xung đột, ông còn nghiên cứu các quá trình thiết lập môi trường cho sự tin cậy và cam kết chiến lược, nhờ đó sự hợp tác trong dài hạn có thể được duy trì. Trong quá trình hợp tác này, các bên sẽ nhận thấy về lâu về dài họ cùng có thể được lợi nếu như ban đầu họ chịu hi sinh một phần quyền lợi của mình... Những phân tích của ông đã giúp giải thích một phần rộng lớn những hiện tượng thường gặp, từ chiến lược cạnh tranh của công ty cho tới việc ủy thác quyền quyết định về chính trị hay ngoại giao... Đóng góp của Schelling là ông đã góp phần phát triển lý thuyết trò chơi bất hợp tác (non-cooperative game theory) và đi tiên phong trong việc vận dụng lý thuyết này để trả lời những câu hỏi quan trọng của các ngành khoa học xã hội. Trong những thành công của Schelling, quan trọng nhất có lẽ là việc ông chỉ ra một cách thuyết phục rằng các tương tác xã hội có thể được nhìn nhận như là những trò chơi bất hợp tác ẩn chứa cả sự đồng thuận lẫn xung đột về lợi ích. Cụ thể hơn, một câu hỏi xuyên suốt các công trình nghiên cứu và hoạt động cố vấn của Schelling là: "Tại sao một số nhóm người, tổ chức, hay quốc gia có thể làm nảy nở và duy trì sự hợp tác, trong khi ở những nơi khác lại tồn tại xung đột giữa các bên?" Những công trình của Schelling (và của các nhà nghiên cứu sau này) đã cho thấy lý thuyết trò chơi - hay lý thuyết ra quyết định trong các điều kiện tương tác chiến lược - là một cách tiếp cận hiệu quả (và hiện đang chiếm ưu thế) trong việc trả lời cho câu hỏi muôn thuở này.   Mời các bạn đón đọc Chiến Lược Xung Đột của tác giả Thomas C. Schelling.
Mình Là Cá, Việc Của Mình Là Bơi - Takeshi Furukawa
Đã bao nhiêu lần bạn tự hỏi về sự tồn tại của bản thân trên thế giới này? Đã bao nhiêu lần bạn thấy mình chìm trong những ý nghĩ tích cực nhất. Đã bao nhiêu lần bạn bỏ lỡ cơ hội đáng lẽ thuộc về bạn? Một cuốn sách hay không chỉ là cuốn sách khiến bạn nhìn thấy chính bản thân mình trong đó mà còn là một cuốn sách giúp bạn trở nên tốt hơn. Đâu đó đã có người nói rằng, nếu điều gì khiến bạn vui vẻ nhưng không khiến bạn tốt lên, hãy từ bỏ nó. “Mình là cá, việc của mình là bơi” sẽ khiến bạn thấy rằng: - Tự đày đọa bản thân bằng những ý nghĩ tiêu cực chỉ khiến bạn rút ngắn thời gian của những tháng ngày vui vẻ. - Muốn yêu cuộc sống này, trước hết cần biết chấp nhận bản thân và yêu chính mình đã. - Cuộc sống ngắn ngủi lắm, chớp mắt một cái là bạn đã thêm một tuổi. Vậy thì đừng lãng phí cơ hội làm điều mình muốn. - Hãy sống như một chú cá, bơi hết mình, cố gắng hết sức dù cho ngày mai có ra sao đi nữa. - Chỉ cần là một hạt giống mạnh mẽ, bạn sẽ trở thành một cây cổ thụ. Cuộc sống hiện đại vốn chứa đựng vô vàn những điều phức tạp, đừng giăng mắc thêm những “cái bẫy” cho chính bản thân bằng những suy nghĩ tiêu cực. Hãy tập trung vào việc mình có thể làm được và làm tốt công việc ấy. Cuộc đời không bao giờ cho chúng ta những thử thách mà con người không thể vượt qua được. Trái tim con người vốn là tạo vật mạnh mẽ nhất, chỉ cần bạn luôn ghi nhớ điều đó.  Mời các bạn đón đọc Mình Là Cá, Việc Của Mình Là Bơi của tác giả Takeshi Furukawa.
Cẩm Nang Người Vợ Hiền - Bà Tùng Long
Kính thưa Quý Bà, Quý cô, Dù ở địa-vị nào, giai-cấp nào, người phụ-nữ Việt-nam cũng xem việc nội-trợ là bổn phận chánh của mình trong gia-đình. Có làm tròn bổn-phận nội-trợ, người phụ-nữ mới thật là Người Vợ Hiền. Mà công việc nội-trợ, ngoài việc sắp xếp gia-đình, dạy dỗ con cái, may vá thêu-thùa, còn có việc bếp núc, giữ-gìn những vật-dụng trong nhà. Riêng trong công việc bếp núc và giữ-gìn, lau chùi vật-dụng trong nhà, Quý Bà, Qúy Cô thường gặp nhiều trở ngại nho-nhỏ, nhưng rất thường, rất mất thì giờ và nhất là rất bực mình như mực thường hay mực nguyên-tử dính ở chiếc áo mới, bàn ghế vẹt-ni bị dộp vì nước nóng, giày da của ông « xã » bị mốc, nước uống bị phèn, ly tách thủy-tinh bị nứt vì nước sôi, hoặc cách giặc-giũ và ủi quần áo ny-lon, len, hàng mỏng cách dập tắt chảo dầu, mỡ bị bốc cháy, cách chữa vết phỏng thường, cách pha trà cho thơm, cách giữ hơi nước suối uống dở, làm mất mùi hôi ở tay, ở miệng vì đồ ăn, cách giữ hoa lâu héo, cách xài thuốc khử trùng DDT v.v... Những trở-ngại nho nhỏ nhưng rất bực mình ấy, Quý Bà, Quý Cô thường nhờ kinh-nghiệm thực-tế hoặc nhờ học-hỏi lẫn nhau bằng những Mẹo Vặt rất thông-thường. Nếu không hiểu rành các Mẹo Vặt ấy, Quý Bà, Quý Cô có thể phải mất nhiều thì giờ (như tẩy mực nguyên-tử, dầu hắc) hay phải mất tiền mua (như ủi hàng, ny-lon bị cháy) v.v... Công-phu hơn, Bà Tùng-Long đã có công thu nhặt, góp nhóp và ghi chép lại gần 300 Mẹo Vặt nói trên thành tập nhỏ có tên là CẨM NANG NGƯỜI VỢ HIỀN mà Quý Bà, Quý Cô đang cầm nơi tay đây. Quý Bà Quý cô đã tín-nhiệm Bà Tùng-Long qua các tác-phẩm tiểu-thuyết tình-cảm, xây-dựng, chắc-chắn cũng sẽ tin cậy ở Bà qua một người nội-trợ, một người vợ hiền nhiều năm kinh-nghiệm trong việc bếp núc và giữ-gìn vật-dụng trong nhà. Tuy nhiên, sự hiểu biết của một người hay một nhóm người không thể nào đầy-đủ được. Nếu có điểm nào chưa rõ-ràng hoặc thiếu sót, kính mong Quý Bà, Quý Cô biên thơ cho biết hoặc gởi giúp ý-kiến để quyển CẨM NANG NGƯỜI VỢ HIỀN ngày càng hữu-ích hơn. Trân trọng kính chào Xây-dựng Gia-đình. NHÀ XUẤT-BẢN *** Mực viết thường chẳng may đổ trên áo quần bằng vải, thật là khó chịu ! Dù có giặt kỹ bao nhiêu, vết mực đó cũng không sạch ngay được, nó để lại vết dơ trông thật kém thẩm-mỹ cho bộ quần áo Muốn tẩy vết mực đó, không khó, bạn chỉ pha một muỗng sữa (thứ sữa hộp mà bạn vẫn uống hàng ngày ấy mà) vào trong nước hâm-hẫm nóng, đổ lên vết mực, chà thật kỹ như là xác xà bông vào quần áo vậy. Sau đó xả bằng nước lạnh là bộ quần áo của bạn trắng như trước ngay. Nếu da bạn bị mực dính, hãy tẩy bằng chanh chà lên vết mực. Nếu mực bị dây lên sàn gỗ, bàn, giường, tủ chẳng hạn, bạn hãy dùng ét-săn mà tẩy. Bạn cũng có thể dùng Corrector hoặc nước Javel để tẩy mực trên quần áo. Nên chú ý không nên dùng nước Javel tẩy quần áo bằng hàng lụa mỏng, sẽ mau bị mục. ... Mời các bạn đón đọc Cẩm Nang Người Vợ Hiền của tác giả Bà Tùng Long.