Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bí Ẩn Bộ Cờ Montglane

Độc giả bị cuốn hút vào tác phẩm “Mật mã Da vinci” sẽ yêu thích những bí mật chất chồng đan xen của “Bí mật bộ cờ Montglane”. – Matthew Pearl, tác giả của “The Dante Club” Một bí mật được cất giấu qua nhiều thế kỷ, để tránh xa những kẻ sẽ lạm dụng quyền năng của nó. Một phụ nữ gan dạ và bí ẩn đã dành cả đời mình để chống lại các quy luật và bảo vệ lịch sử thoát khỏi tiến trình thay đổi vĩnh viễn. Khi ngọn lửa cách mạng Pháp bùng cháy và quyền lực của nhà vua bị tước đoạt, các nữ tu của Tu viện Montglane buộc phải khai quật một bí mật chốn giấu hàng ngàn năm trong những bức tường bao bọc tu viện. Toả đi khắp thế giới, mỗi người mang theo một quân cờ của bộ cờ vua huyền bí đã được tám người Ma-rốc trao tặng cho vua Charlemagne từ thời xa xưa, ẩn trong mỗi quân cờ là một mật mã. Bất cứ ai tập hợp được các quân cờ này đều có thể tham gia vào ván cờ chứa đựng quyền lực vô biên - một ván cờ mang đến ngày tàn cho tất cả các vị vua chúa. Nhiều thế kỷ sau, một cô gái được chọn là người kế tục để bảo vệ các quân cờ thất lạc. Liệu cô có tìm ra lời giải đáp bí ẩn lớn lao nhất mọi thời đại không? “Pha trộn yếu tố hư cấu lịch sử cùng điều thần bí cổ xưa và tạo ra một tác phẩm vàng” - Tạp chí People “Hấp dẫn…lạ thường ngoài sức tưởng tượng” – Newsday “Vừa sôi nổi vừa sâu sắc… chẳng mấy người cưỡng lại được sức hút của tác phẩm” - Los Angeles Times Book Review *** Câu chuyện về bộ cờ vua và những bí ẩn đẫm máu mang một sức hút mãnh liệt. Nó khiến những ai yêu thích sách có màu sắc trinh thám và bộ môn cờ vua tìm thấy rất nhiều điều thú vị. Katherine Neville Toàn bộ tên các chương sách đều được đặt liên quan đến cờ vua: Phòng vệ, Quân tốt tiến đến bốn cánh hậu, Một ván cờ… Nếu nhìn lại, rõ ràng, có thể hình dung cả câu chuyện là một ván cờ kỳ bí và đầy huyền ảo với những quân cờ là con người và những nước đi đầy toan tính. Sự hấp dẫn phủ trùm lên cuốn truyện còn ở cách xây dựng nhân vật: Đồ sộ và đa dạng với sự đan xen của nhiều tuyến, nhiều nhân vật nhưng cũng sắc sảo và độc đáo với từng nhân vật một. Maurice Talleyrand là một trong những nhân vật hấp dẫn nhất của tác phẩm. Hiện ra như một “ác quỷ” đầy mưu mô xảo trá, thâm độc và rất nguy hiểm qua lời kể của nữ tu viện trưởng tu viện Montglane. Talleyrand được mô tả: “đã làm tình với rất nhiều, nhiều đến nỗi anh không đếm xuể”. Thế nhưng, dần dần, càng về sau, độc giả càng hiểu sâu sắc về anh - như một con người khác. Hoàn toàn không dễ dàng để theo dõi số phận của các nhân vật. Bởi thế, cuốn sách này không dành cho những ai thiếu sự chú tâm. Mỗi dòng chữ trong truyện đều gián tiếp hoặc trực tiếp hé lộ những bí mật tiếp theo trong số phận nhân vật và số phận bộ cờ Montglane. Nếu độc giả nhắm mắt lại, hình dung đường dây số phận chồng chéo của các nhân vật sẽ nhận ra rằng, hóa ra, họ đang theo dõi một ván cờ của lòng tham con người. Tất cả đều bắt nguồn từ lòng tham - một loại bi kịch mang màu sắc cổ điển trong các vở kịch, tiểu thuyết. Bộ cờ Montglane được cho là có ẩn chứa trong nó một bí ẩn chết người khiến những kẻ lạm dụng nó sẽ thay đổi lịch sử. Cuộc săn tìm bộ cờ đã khiến con người bộc lộ mặt trái của mình. Yếu tố lịch sử và những huyền bí cổ xưa, với những nhân vật có thực như nữ hoàng Catherine của Nga, Napoleon Bonapart của Pháp, nhà triết học Voltare... đã biến Bí ẩn bộ cờ Montglane thành quyển sách vàng cho những ai yêu thích khám phá bí ẩn của lịch sử. Ngày xưa, Cao Bá Quát từng có câu nói đại ý, khi đọc sách, người ta có thể ngồi ở nhà mà bao quát chuyện nhân gian. Với quyển sách này, độc giả cũng sẽ có cảm giác như thế. Bởi cuốn sách là một kỳ thư hấp dẫn về chính trị, lịch sử, phong tục, lối sống và nhất là cờ vua, một bộ môn thể thao đầy trí tuệ. Hạ Vi *** Câu chuyện về bộ cờ vua và những bí ẩn đẫm máu mang một sức hút mãnh liệt. Nó khiến những ai yêu thích sách có màu sắc trinh thám và bộ môn cờ vua sẽ tìm thấy rất nhiều điều thú vị trong đó. Toàn bộ tên các chương sách đều được đặt liên quan đến cờ vua: phòng vệ, quân tốt tiến đến bốn cánh hậu, một ván cờ… Nếu nhìn lại toàn bộ quyển sách, rõ ràng, có thể hình dung cả câu chuyện về bí ẩn bộ cờ Montglane là một ván cờ kỳ bí và đầy  huyền ảo với những quân trong ván cờ là con người và những nước đi mà mỗi tính toán của con người trong đó. Sự hấp dẫn phủ trùm lên quyển truyện còn ở cách xây dựng nhân vật. Đồ sộ và đa dạng với sự đan xen của nhiều tuyến, nhiều nhân vật nhưng cũng sắc sảo và độc đáo với từng nhân vật một. Sự bất ngờ khi độc giả bóc tách từng tính cách số phận nhân vật làm nên sức quyến rũ không cưỡng nổi của một trong những quyển sách bán chạy nhất của nước Mỹ. Nếu độc giả nhắm mắt lại, hình dung đường dây số phận chồng chéo của các nhân vật sẽ nhận ra rằng, hóa ra, họ đang theo dõi một ván cờ số phận của lòng tham con người. Tất cả các bi kịch đều bắt nguồn từ lòng tham - một loại bi kịch mang màu sắc cổ điển trong các vở kịch, tiểu thuyết. Bộ cờ Montglane được cho rằng có ẩn chứa trong nó một bí ẩn chết người mà những kẻ lạm dụng nó sẽ thay đổi lịch sử. Cuộc săn tìm bộ cờ đã khiến con người bộc lộ mặt trái của mình. Nhà văn Katherine Neville đã trung thành với phong cách “đồ sộ” như bà từng làm với Đam mê được xuất bản trước đây. Những nhân vật lịch sử như Charlemagne, Napoléon, Voltaire, nữ hoàng Catherina II..... vẫn tiếp tục thực sự của đam mê. Họ cũng yêu, ghét, vui, buồn...với những tham vọng không che giấu. Và chính vì thế mà họ rất đời, rất người.   Trang Trang *** Katherine Neville là tác giả người Mỹ có những tác phẩm bán chạy nhất trên thế giới trên tờ NY Times, USA Today chuyên viết tiểu thuyết phiêu lưu/săn lùng kho báu. Các tiểu thuyết của bà bao gồm The Eight, A Calculated Risk, The Magic Circle và The Fire, là phần tiếp theo của The Eight.  *** TU VIỆN MONTGLANE, PHÁP  Mùa xuân năm 1790 Một nhóm nữ tu băng qua đường, những chiếc khăn trùm đầu nhàu nát của họ nhẹ bay chấp chới như cánh hải âu. Khi các cô lướt qua những vòm cổng đá cao vòi vọi của thành phố, đàn gà con và mấy chú ngỗng te tái tránh lối, vỗ cánh loạn xạ, bì bõm lội qua vũng bùn. Các nữ tu bước trong làn sương mù u ám vẫn bao phủ thung lũng mỗi sớm tinh mơ và từng cặp sóng đôi lặng thinh đi về phía tiếng chuông trầm lắng, ngân lên từ những quả đồi trên kia. Họ gọi mùa xuân này là le Printemps Sanglant, theo tiếng Pháp, có nghĩa Mùa Xuân Đẫm Máu. Năm đó anh đào đơm hoa sớm, còn lâu tuyết trên các đỉnh núi cao mới tan. Những cành cây mảnh khảnh oằn cong xuống đất bởi sức nặng của những đóa hoa đỏ tươi ướt đẫm. Có người nói anh đào nở rộ sớm vậy là điềm lành, biểu tượng của sự hồi sinh sau một mùa đông khắc nghiệt và dài đằng đẵng. Nhưng rồi những cơn mưa giá rét kéo đến và làm đông cứng các khóm hoa trên cành, khiến thung lũng bị vùi sâu trong sắc hoa đỏ nhuốm những vệt sương nâu. Như thể vết thương bết máu khô. Và người ta nói đây là một dấu hiệu khác thường. Cao ngất ngưởng phía trên thung lũng, tu viện Montglane nhô lên sừng sững như mỏm đá khổng lồ trồi ra khỏi đỉnh núi. Công trình kiến trúc trông như pháo đài kia vẫn tách biệt với thế giới bên ngoài gần cả nghìn năm nay. Nó có sáu, bảy lớp tường dày chồng lên nhau vì khi những phiến đá ban đầu bị xói mòn qua nhiều thế kỷ, người ta đặt các lớp tường mới bên ngoài lớp cũ với những giàn chống đỡ. Kết quả tạo thành một hỗn hợp kết cấu ảm đạm và chính vẻ ngoài đó ấp ủ nhiều lời đồn đại về chốn này. Tu viện là kiến trúc nhà thờ cổ kính nhất còn nguyên vẹn ở Pháp, và nơi đây cất giữ một lời nguyền cổ xưa sắp được đánh thức lần nữa. Khi cái họng chuông đen ngòm vang vọng khắp thung lũng, những nữ tu sĩ còn lại, từng người, từng người một, rời mắt khỏi công việc, để những chiếc cào, chiếc cuốc sang một bên. Họ bước qua những rặng cây anh đào trải dài đối xứng hai bên lối đi để trèo lên con dốc ngược trở về tu viện. Ở cuối đoàn người dài lê thê, hai nữ tu trẻ mới vào viện, Valentine và Mireille, khoác tay nhau lê bước rón rén trong những chiếc ủng lấm lem bùn. Họ đã tạo thành một phần lạc lõng bổ sung vào hàng ngũ trật tự của các nữ tu. Mireille cao lớn, tóc đỏ với đôi chân dài và bờ vai rộng, trông giống cô nông dân khoẻ mạnh hơn là tu sĩ. Cô đeo một cái tạp dề lớn bên ngoài chiếc áo và những lọn tóc quăn đỏ ló ra lơ thơ bên dưới khăn trùm. Bên cạnh Mireille, Valentine mặc dù cao gần bằng nhưng có vẻ mỏng manh ẻo lả. Làn da nhợt nhạt của Valentine nom cứ như trong suốt, nước da trắng được tôn thêm lên nhờ mái tóc vàng nhạt rũ xuống vai. Cô đã nhét chiếc khăn trùm đầu vào túi áo, và miễn cưỡng bước đi bên cạnh Mireille, vừa đi vừa đá ủng vào bùn. Hai cô gái trẻ này, những tu sĩ nhỏ tuổi nhất ở tu viện, là chị em họ bên ngoại. Cả hai đêu mồ côi từ nhỏ sau trận đại dịch khủng khiếp đã tàn phá nước Pháp. Bá tước de Remy già nua, ông ngoại Valentine, đã phó thác hai cô cho nhà thờ trước lúc ông qua đời, để lại số di sản khá lớn bảo đảm cuộc sống cho hai cô cháu gái. Hoàn cảnh giáo dưỡng hình thành nên một sự gắn bó khăng khít giữa hai cô gái. Cả hai đều ngập tràn vẻ hân hoan vô bờ của tuổi trẻ. Tu viện trưởng thường nghe thấy vài nữ tu lớn tuổi phàn nàn rằng lối sống này chẳng phù hợp chút nào với cuộc đời ẩn dật tại một nhà tu kín, nhưng bà cũng hiểu rằng kiềm chế sức sống của tuổi trẻ thì tốt hơn là tìm cách bóp nghẹt nó. Và người viện trưởng cũng cảm thấy có đôi chút thiên vị dành cho hai chị em côi cút, một tình cảm khác thường so với cả tính cách lẫn địa vị của bà. Các nữ tu đứng tuổi hẳn sẽ ngạc nhiên khi biết rằng bản thân viện trưởng thuở thiếu thời đã duy trì một tình bạn sâu sắc như thế với một cô gái. Hai người đã tách biệt nhau nhiều năm trời và xa cách hàng ngàn dặm. Lúc này, trên dốc mòn, Mireille đang nhét những lọn tóc đỏ bướng bỉnh trở vào dưới tấm khăn trùm đầu và giật mạnh cánh tay cô em họ trong khi lên lớp về tội chậm trễ. "Nếu em vẫn cứ lề mề nấn ná mãi, Mẹ Bề Trên sẽ lại quở phạt chúng ta", cô nói. Valentine vùng khỏi tay chị và xoay một vòng. "Trái đất đang đắm chìm trong cảnh sắc mùa xuân", cô hò reo, đung đưa hai cánh tay và suýt nữa lộn nhào xuống vách đá dựng đứng. Mireille vội kéo cô lôi đi dọc theo bờ vực cheo leo. "Cớ sao chúng ta phải giam mình trong cái tu viện ngột ngạt buồn tẻ ấy khi mọi vật ngoài kia đang căng tràn nhựa sống ?" "Vì chúng ta là những nữ tu", Mireille bĩu môi vặc lại, gấp gáp bước đi, bàn tay bấtu chặt cánh tay Valentine. "Và nghĩa vụ của chúng ta là nguyện cầu cho nhân loại". Nhưng làn sương mờ ấm áp dâng lên từ đáy thung lũng đã mang theo mùi thơm ngào ngạt đến nỗi mọi thứ xung quanh đều ngát hương hoa anh đào nở rộ. Mireille cố gắng không đế ý tới nỗi xốn xang mà cảnh vật nơi đây dấy lên trong cô. "Ơn Chúa, chúng ta chưa phải là nữ tu", Valentine nói. "Chúng ta vẫn chỉ là những người mới tu chừng nào còn chưa tuyên thệ. Chẳng bao giờ quá muộn để được cứu rỗi. Em đã nghe thấy các nữ tu lớn tuổi thì thào với nhau rằng hiện các tên lính đang lúc nhúc khắp nơi trên đất Pháp, đánh cắp kho báu của các tu viện, vây bắt các nhà tu hành và tống họ về Paris. Có thể một vài tên lính cũng sẽ đến đây và bắt em về Paris. Rồi họ đưa em đi xem nhạc kịch mỗi đêm, và uống sâm banh từ chiếc giày của em !" "Những người lính chẳng phải lúc nào cũng mê ly như em mơ mộng đâu", Mireille nhận xét. "Suy cho cùng, nghề của họ là giết chóc chứ đâu phải đưa người ta đi xem hát". "Đó không phải tất cả những gì họ làm", Valentine nói, giọng cô trầm xuống thành một tiếng thì thào bí hiểm. Họ đã lên đến đỉnh đồi, nơi con đường trở nên bằng phẳng và thoáng đãng hơn nhiều. Ở đây lát đá phiến phẳng lỳ giống những con đường cao tốc thênh thang thường thấy ở các thành phố lớn. Phía bên kia đường, người ta trồng những cây bách lớn nổi lên trên nền một rừng cây anh đào, trông chúng có cái vẻ trang trọng nhưng gớm ghiếc, giống như chính cái tu viện này, hết sức lạc lõng. "Em nghe nói", Valentine ghé sát vào tai cô chị họ thì thầm "rằng lính tráng thực hiện những hành động đồi bại đối với nữ tu sĩ ! Nếu một tên lính tình cờ bắt gặp một nữ tu, trong một cánh rừng chẳng hạn, hắn sẽ lập tức lôi một vật ra khỏi đũng quần, đặt vật ấy vào trong người nữ tu lắc qua lắc lại. Và thế là khi hắn xong việc, nữ tu sẽ có em bé !" "Thật là báng bổ !" Mireille thét lên, giằng ra khỏi tay Valentine và cố nén một nụ cười thoáng trên môi. "Chị nghĩ em thô lổ đến thế là cùng, làm sao trở thành nữ tu được". "Đó đúng là điều em đã nói suốt ngay từ đầu", Valentine thú nhận. "Em thích làm cô dâu của một người lính hơn làm cô dâu của Chúa". Khi hai chị em tiến đến gần tu viện, họ có thể trông thấy bốn hàng cây bách sóng đôi ở mỗi lối ra vào và tạo thành hình một dấu thánh giá. Những thân cây bao bọc quanh hai cô gái khi họ gấp gáp chạy xuyên qua làn sương mù đang sẫm dần lại. Họ đi qua những cánh cổng tu viện và băng ngang khoảng sân rộng. Khi họ đến gần những cánh cửa gỗ cao nặng nề dẫn đến thánh đường chính, tiếng chuông tiếp tục rung lên, chẳng khác gì hồi chuông báo tử len lỏi qua lớp sương dày đặc. Từng người dừng lại trước cửa để gạt bùn đất khỏi đế ủng, thoăn thoắt làm dấu thánh, và bước qua cánh cổng chính đồ sộ. Không ai trong hai cô liếc nhìn lên dòng mẫu tự tiếng Francs thô sơ khắc vào khung vòm đá gắn trên cửa, nhưng cô nào cũng biết nó viết gì, như thể những từ ngữ kia đã khắc sâu vào trái tim các cô: Nguyền rủa kẻ nào mang những bờ tường này xuống cõi tục. Nhà vua chỉ bị ngăn cản bởi bàn tay của Chúa mà thôi. Bên dưới lời đề từ, cái tên được khắc thành những chữ viết lớn rời nhau 'Carolus Magnus'. Ông chính là người tạo ra công trình này và cả lời nguyền ám lên những ai sẽ phá hủy nơi đây. Đó là nhà cai trị vĩ đại nhất của Đế chế Francs trong hơn một nghìn năm trước, người được cả nước Pháp biết đến với danh xưng hoàng đế Charlemagne.  (Charlemagne (Charles ler le Grand), vua của người Francs từ năm 768 đến 814 và là hoàng đế của đế chế Occident từ năm 800 đên 814, được coi là một trong những ông vua vĩ đại nhất nước Pháp nhờ công thống nhất và mở rộng lãnh thổ quốc gia.) Những bức tường phía trong tu viện tối tăm, lạnh lẽo, và ẩm ướt rêu phong. Từ chính điện bên trong có thể nghe thấy những tiếng thì thầm cầu nguyện của các tu sĩ mới vào viện cùng tiếng lách cách khe khẽ khi họ lần tràng kinh Kính Mừng, kinh Sáng Danh, và kinh Lạy Cha. Valentine và Mireille vội vã đi qua nhà nguyện lúc người cuối cùng trong số những nữ tu mới vào viện đang quỳ gối khấn vái và hai cô dõi theo tiếng xì xào bàn tán đến bên một cánh cửa nhỏ phía sau bệ thờ, nơi phòng làm việc riêng của Mẹ Bề Trên. Một nữ tu lớn tuổi hơn đang hối thúc người tụt lại sau cùng nhanh nhanh đi vào. Valentine và Mireille đưa mắt nhìn nhau và bước vô. Bị gọi đến phòng làm việc riêng của nữ tu viện trưởng kiểu này thật kỳ lạ. Rất ít nữ tu đặt chân đến đây, mà nếu có đến thường là để nhận kỷ luật. Valentine, người luôn bị trách phạt, rất hay đến đây. Thế nhưng tiếng chuông tu viện xưa nay vốn để triệu tập tất cả các nữ tu sĩ. Chắc hẳn tất cả mọi người sao có thể bị gọi đến phòng làm việc của Mẹ Bề Trên nhận hình phạt cùng một lúc được chứ ? Khi họ bước vào căn phòng rộng có trần thấp, Valentine và Mireille thấy tất cả các nữ tu trong viện quả thật đã tề tựu ở đó, cả thảy hơn năm mươi người. Trên những dãy ghế dài bằng gỗ cứng đối diện bàn viết của nữ tu viện trưởng, họ ngồi thì thào với nhau. Rõ ràng ai cũng nghĩ đây là một sự việc khác thường, và những khuôn mặt ngước nhìn lên khi hai cô bước vào với vẻ mặt hãi hùng. Hai chị em ngồi vào chỗ của họ ở dãy ghế cuối cùng. Valentine siết chặt tay Mireille. "Chuyện này là sao ?" Cô thì thào. "Điềm dữ đây, chị nghĩ vậy", Mireille đáp, giọng cũng thì thầm. "Mẹ Bề Trên trông có vẻ nghiêm nghị và ở đây có hai phụ nữ chị chưa gặp bao giờ".  Ở cuối căn phòng dài, phía sau chiếc bàn đồ sộ bằng gỗ anh đào bóng loáng, nữ tu viện trưởng đứng đó. Bà nhăn nheo và khô cứng như một mảnh da khô, nhưng vẫn lộ ra uy quyền của chức vụ to lớn bà đang nắm giữ. Sắc thái muôn thuở trong điệu bộ của bà gợi lên ý nghĩ từ lâu bà đã hòa hợp thể xác vào chính tâm hồn mình, nhưng hôm nay trông bà viện trưởng nghiêm trang hơn bao giờ hết. Từ trước tới giờ, các nữ tu chưa từng thấy bà như thế lần nào. Hai người lạ mặt, đều là những phụ nữ trẻ to xương với đôi bàn tay lớn, lù lù xuất hiện hai bên nữ tu viện trưởng như những thiên thần báo oán. Một người có làn da tái nhợt, tóc đen và đôi mắt sáng, trong khi người kia mang những đường nét khỏe mạnh giống Mireille, với nước da trắng mịn và mái tóc màu nâu hạt dẻ chỉ hơi sẫm hơn những lọn tóc nâu đỏ của Mireille một chút. Dù cả hai mang dáng dấp những nữ tu nhưng họ không khoác trên mình y phục tu hành mà mặc những bộ quần áo đi đường màu xám trơn rất bình thường. Tu viện trưởng chờ cho tất cả các nữ tu sĩ yên vị và cánh cửa được khép lại. Khi căn phòng hoàn toàn yên ắng, bà mới bắt đầu nói với chất giọng bao giờ cũng khiến Valentine nghĩ đến âm thanh chiếc lá khô bị xéo nát. "Các con của ta", nữ tu viện trưởng nói, chắp hai tay phía trước, "trong gần một nghìn năm nay, dòng tu Montglane đã trụ vững trên đỉnh núi này, thực hiện nghĩa vụ của chúng ta đối với nhân loại và phụng sự Chúa. Mặc dù cách ly khỏi thế gian nhưng chúng ta vẫn nghe thấy những bất bình âm ỉ trong tình trạng náo động ngoài kia. Tại nơi này, trong cái xó xỉnh nhỏ bé, chúng ta đã và đang tiếp nhận những tin dữ xảy ra gần đây, nó có thể làm thay đổi sự chở che an toàn mà chúng ta tận hưởng bấy lâu. Hai người phụ nữ đứng cạnh ta là những người đưa tin. Ta xin giới thiệu xơ Alexandrine de Forbin, bà ra dấu về phía người phụ nữ tóc đen, và Marie Charlotte de Corday, họ cùng nhau điều hành Tu viện các xơ tại tỉnh Caen ở địa phận miền Bắc. Họ đã đi suốt chiều dài nước Pháp dưới lớp áo cải trang, một hành trình gian khổ, để đem đến cho chúng ta lời cảnh báo. Vì vậy ta yêu cầu các con hãy lắng nghe những điều họ nói. Điều đó tối quan trọng đối với tất cả chúng ta. Tu viện trưởng ngồi xuống, và người phụ nữ được giới thiệu là Alexandrine de Forbin hắng giọng, nói nhỏ nhẹ đến nỗi các nữ tu sĩ phải căng tai lắng nghe. Tuy vậy lời lẽ của cô ta rất rõ ràng. "Các chị em đạo hữu của ta", cô bắt đầu, "câu chuyện mà chúng tôi phải kể không dành cho những người nhút nhát. Trong chúng ta có những người đến với Chúa với hy vọng cứu rỗi nhân loại. Có những người đến đây với hy vọng thoát ly trần thế. Và cũng có những người miễn cưỡng đến đây, không hề cảm thấy bất kỳ động lực nào hết". Nói đến đây, cô đưa cặp mắt đen láy, long lanh về phía Valentine khiến cô này thẹn đỏ cả mặt. 'Bất kể các chị nghĩ mục đích của mình là gì thì nó cũng đã thay đổi, kể từ hôm nay. Trong hành trình của Charlotte và tôi đã đi dọc suốt chiều dài nước Pháp, qua Paris và tất cả làng mạc. Chúng tôi đã chứng kiến không chỉ những người đói khát mà cả những người chết vì đói. Dân chúng đang nổi loạn trên đường phố để giành giật miếng ăn. Những cảnh tàn sát, đàn bà vác những chiếc đầu bị cắt lìa cắm trên đỉnh ngọn giáo diễu qua khắp các khu phố. Những cảnh hiếp dâm, và còn tệ hơn thế. Trẻ nhỏ bị giết, người lớn bị tra tấn ngay trên các quảng trường và bị phanh thây bởi những đám đông giận dữ ..." Các nữ tu không còn giữ yên được nữa. Giọng họ vang lên đầy hốt hoảng trong khi Alexandrine tiếp tục câu chuyện đẫm máu. "Bây giờ là tháng tư. Tháng mười năm ngoái, nhà vua và hoàng hậu đã bị một đám đông phẫn nộ bắt cóc khỏi cung điện Versailles và bị đưa về giam giữ tại điện Tuilleries ở Paris. Chúng ép nhà vua ký vào một văn kiện, bản "Tuyên ngôn nhân quyền", tuyên bố quyền bình đẳng cho mọi người. Thực tế, Quốc hội hiện đang điều hành chính phủ; nhà vua không có quyền can thiệp. Đất nước chúng ta đã vượt xa tầm một cuộc cách mạng. Chúng ta đang trong tình trạng vô chính phủ. Tồi tệ hơn nữa, Quốc hội phát hiện trong ngân khố quốc gia không có vàng; nhà vua đã làm vương quốc khánh kiệt. Ở Paris, người ta tin rằng nhà vua sẽ không sống sót qua năm nay". Cơn chấn động lướt qua những dãy ghế của các nữ tu, và tiếng xì xào sửng sốt râm ran khắp gian phòng. Mireille siết nhẹ bàn tay Valentine trong khi cả hai đều nhìn chằm chằm vào người nói. Những phụ nữ trong căn phòng này chưa bao giờ nghe thấy những ý nghĩ kiểu đó được phát biểu lớn tiếng, và họ cũng không thể hình dung những điều như vậy là có thật. Tra tấn, vô chính phủ, giết vua. Sao có thể thế được ? Viện trưởng đập tay xuống mặt bàn yêu cầu giữ trật tự, và các nữ tu sĩ im bặt. Bấy giờ Alexandrine ngồi vào chỗ, còn xơ Charlotte đứng một mình cạnh bàn. Giọng nói của xơ to và mạnh mẽ. "Trong Quốc hội có một kẻ cực kỳ xấu xa. Mặc dù tự nhận mình là thành viên của giới tăng lữ nhưng hắn rất khao khát quyền lực. Y chính là giám mục địa phận Autun. Trong thâm tâm, những người thuộc Giáo hội La Mã tin rằng hắn là hiện thân của ma quỷ. Họ nói hắn sinh ra đã có móng chân chẻ đôi, biểu tượng của cái ác, rằng hắn uống máu con nít để giữ vẻ trẻ trung, rằng hắn cử hành lễ Đen cầu xin quỷ Satăng. Vào tháng mười, tên giám mục này đề xuất với Quốc hội cho Nhà nước tịch thu toàn bộ tài sản của Nhà thờ. Ngày hai tháng mười một, dự luật Tịch Biên của hắn được Mirabeau, một chính khách cấp cao, ủng hộ trước quốc hội, và đã được thông qua. Ngày mười ba tháng hai, công cuộc tịch thu bắt đầu. Bất cứ tăng ni nào chống đối cũng đều bị bắt giam. Và ngày mười sáu tháng hai, tên giám mục của vùng Autun ấy được bầu làm chủ tịch Quốc hội. Giờ đây chẳng gì có thể ngăn hắn lại được". Các nữ tu sĩ đang trong tâm trạng cực kỳ kích động, họ cất cao giọng kêu than kinh hãi và cực lực phản đối, nhưng giọng Charlotte vang vọng trên hết. "Khá lâu trước khi đưa ra dự luật Tịch Biên, giám mục Autun đã mở những cuộc điều tra về nơi cất giữ tài sản của Giáo hội ở Pháp. Mặc dù bản dự luật ghi rõ các linh mục bị tước vị trước và các nữ tu sĩ được tha nhưng chúng tôi biết tên giám mục đó đã để mắt tới tu viện Montglane. Nhiều cuộc điều tra của y tập trung nhắm vào xung quanh Montglane này. Chúng tôi vội vã đến đây báo cho các chị biết chuyện này. Kho báu của Montglane không được để rơi vào tay hắn". Nữ tu viện trưởng đứng đó, đặt tay lên bờ vai vững chãi của Charlotte Corday. Bà nhìn khắp lượt các hàng ghế nữ tu trong những bộ trang phục đen, những chiếc nón hồ cứng của họ rập rờn dưới kia như mặt biển đầy hải âu hoang dã, và bà nở một nụ cười. Đây là các con chiên của bà, những người bà đã dẫn dắt từ rất lâu và có thể bà sẽ không được gặp lại họ trong đời một khi tiết lộ điều buộc phải nói ra. "Giờ thì các con đã nắm được tình cảnh như ta", viện trưởng nói. "Mặc dù đã biết từ nhiều tháng nay về số kiếp của chúng ta nhưng ta vẫn không muốn nói làm các con lo sợ, đến khi nào ta chọn được một hướng đi. Trên hành trình đáp lại lời kêu gọi, các xơ ở Caen đã chứng thực nỗi hãi hùng tồi tệ nhất của ta". Các nữ tu lúc này đã rơi vào một sự im lặng chết người. Không thể nghe thấy một âm thanh nào ngoài giọng nói của nữ tu viện trưởng. "Ta là một bà già có thể sẽ được gọi về với Chúa sớm hơn hình dung. Lời thề nguyện của ta khi bắt đầu cai quản tu viện này không chỉ là lời thề với Chúa. Gần bốn mươi năm trước, lúc trở thành nữ tu viện trưởng của Montglane, ta đã thề giữ kín một bí mật, nếu cần có thể hy sinh cả tính mạng để bảo toàn nó. Bây giờ đến lúc ta thực hiện lời thề này. Nhưng ta phải chia sẻ một vài điều của bí mật với từng người các con và đến lượt các con phải thề giữ kín. Câu chuyện của ta dài, và các con phải kiên nhẫn nếu ta có nói chậm rãi. Khi ta kể xong, các con sẽ biết tại sao từng người trong chúng ta buộc phải làm những điều tất yếu". Nữ tu viện trưởng tạm ngừng để nhấp một ngụm nước trong chiếc cốc lễ bằng bạc đặt trên bàn trước mặt rồi nói tiếp. Hôm nay là ngày bốn tháng tư năm 1790 sau Công nguyên. Câu chuyện của ta bắt đầu vào một ngày bốn tháng tư cách đây nhiều năm. Người tiên nhiệm đã kể ta nghe, như thông lệ bao đời nay từ khi tu viện ra đời, viện trưởng sẽ truyền lại câu chuyện cho người kế nghiệp trong buổi lễ thác vị. Và bây giờ ta kể các con nghe... Mời các bạn đón đọc Bí Ẩn Bộ Cờ Montglane của tác giả Katherine Neville & Nguyễn Lâm Xuân Các (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Nơi Trái Tim Hội Ngộ - WM. Paul Young
LỜI GIỚI THIỆU Liệu bạn có thể tin được chăng nếu một người quả quyết rằng mình đã sống trọn một kỳ cuối tuần với Chúa, trong một căn chòi? Thậm chí là chính căn chòi định mệnh ấy . Tôi biết Mack đã hơn hai mươi năm, kể từ ngày hai chúng tôi cùng đến phụ một người láng giềng gom cỏ ngoài đồng. Kể từ ấy, anh ta và tôi đã chia ngọt sẻ bùi, nói theo kiểu bọn trẻ ngày nay, đi chơi chung, cùng uống cà phê - hay là uống chai-tea nóng hổi pha với đậu nành. Những cuộc chuyện trò của chúng tôi đầy lý thú, lúc nào cũng rộn tiếng cười và thỉnh thoảng ứa cả nước mắt. Thật tình mà nói, càng lớn chúng tôi lại càng khăng khít. Tên đầy đủ của anh là Mackenzie Allen Phillips dù hầu như ai cũng gọi anh là Allen. Họ nhà anh, tất cả đàn ông con trai đều mang tên giống nhau nhưng thường được gọi theo tên lót, chắc là để tránh cách gọi phô trương kiểu Đệ nhất, Đệ nhị và Đệ tam hay là Cha và Con. Cách này cũng rất hiệu quả để nhận diện những tay tiếp thị từ xa, nhất là những cú phôn đường đột mà cứ ra vẻ thân thiết. Vậy là anh ấy và ông nội, bố, và bây giờ là thằng con trai cả đều mang tên Mackenzie nhưng thường được gọi bằng tên lót. Chỉ có Nan, vợ anh, và mấy người bạn thân gọi anh là Mack. Mack sinh trưởng trong vùng Midwest, một cậu trai con nhà nông trong một gia đình Ái Nhĩ Lan - Hoa Kỳ vốn quen làm lụng và khắt khe. Mặc dù bề ngoài thì mộ đạo, ông bố roi sắt của anh ta, một bậc trưởng lão trong giáo xứ, lại là một kẻ nát rượu, nhất là khi trời không mưa, hoặc mưa sớm quá, hoặc là bất cứ khi nào. Mack chẳng bao giờ nói nhiều về bố, nhưng mỗi khi nhắc đến thì gương mặt anh vô cảm như nước triều đang rút ra khơi, chỉ còn lại ánh mắt u tối và nguội lạnh. Từ những câu chuyện ít ỏi Mack kể lại, tôi biết bố anh không phải là loại nốc rượu rồi vô tư lự ngủ khì mà là một gã bợm nhậu xấu nết đánh chửi vợ con rồi lại xin Chúa xá tội. Biến cố xảy đến khi cậu Mackenzie mười ba tuổi miễn cưỡng bày tỏ tâm tình với một vị trưởng lão trong một dịp khôi phục đức tin cho giới trẻ. Trong một khoảnh khắc, day dứt với cảm giác tội lỗi, Mack đã bật khóc thú nhận rằng nhiều lần cậu đã chẳng làm gì để giúp mẹ khi ông bố say xỉn đánh mẹ đến ngất đi. Điều Mack không ngờ là lời xưng tội ấy thật hiệu nghiệm và đến tai cả bố mình, và khi cậu về đến nhà thì bố đang chờ sẵn ngoài hiên còn mẹ và các em gái thì rõ ràng đã đi vắng. Về sau cậu mới biết rằng mọi người đã đến nhà cô May để bố rảnh tay dạy cho thằng con phản loạn một bài học về sự tôn kính. Gần suốt hai ngày sau đó, bị trói vào cây sồi sau nhà, cậu bị quật bằng thắt lưng xen lẫn trong những câu kinh mỗi khi ông bố tỉnh cơn say và nốc xong ngụm rượu. Hai tuần sau, khi hồi phục và nhúc nhắc đi được, cậu bỏ nhà đi thẳng. Nhưng trước khi đi, cậu cho thuốc độc vào tất cả chai rượu tìm thấy trong nông trại. Rồi cậu ra cạnh nhà ngoài đào lên một chiếc hộp thiếc nhỏ chứa kho tàng nhân gian của cậu: một tấm ảnh gia đình với gương mặt mọi người đang nheo mắt vì ánh nắng mặt trời (bố cậu đứng khuất sang một bên), một tờ chương trình bóng chày giải Luke Easter 1950, một chai nhỏ đựng chút Ma Griffe (thứ nước hoa duy nhất của mẹ cậu), một cuộn chỉ và vài cây kim, một chiếc mô hình máy bay F-86 của Không lực Hoa Kỳ đúc bằng bạc, và toàn bộ tiền dành dụm của cậu - 15.13 đôla. Cậu lẻn vào nhà và luồn một mảnh giấy dưới gối của mẹ trong khi bố cậu đang ngáy sau một trận đánh chén. Giấy chỉ ghi: “Một ngày kia, con hy vọng mẹ có thể tha thứ cho con.” Cậu thề sẽ không bao giờ nhìn lại, và cậu đã không làm thế - chẳng được bao lâu. Mười ba thì còn quá nhỏ để gọi là hoàn toàn trưởng thành, nhưng Mack chẳng có mấy lựa chọn và đã thích nghi một cách thật nhanh chóng. Cậu chẳng nói nhiều về những năm tháng sau đó. Hầu hết quãng thời gian ấy trôi qua ở nước ngoài, cậu đi làm lụng khắp thế giới, gửi tiền về cho ông bà để nhờ chuyển lại cho mẹ cậu. Ở một nước xa xôi, tôi nghĩ thậm chí cậu đã cầm súng trong một cuộc xung đột dữ dội; cậu đã từng căm ghét chiến tranh một cách ghê gớm từ khi tôi biết cậu. Sau mọi chuyện, rốt cục ngoài hai mươi tuổi cậu bước chân vào một trường dòng tại Úc. Học xong thần học và triết học, cậu quay về Hoa Kỳ, làm lành với mẹ và các em gái, rồi chuyển đến Oregon nơi cậu gặp và cưới Nannette A. Samuelson. Trong một thế giới của những người chỉ nói, Mack là một người suy nghĩ và hành động. Anh chàng chẳng nói nhiều trừ phi bạn hỏi thẳng anh, mà hầu hết mọi người đều đã biết là không nên. Khi anh ta mở miệng, bạn sẽ nghĩ anh ta là một loại người trên trời rơi xuống bởi các ý tưởng và trải nghiệm hoàn toàn theo cách khác thường. Vấn đề là, anh thường mang lại cảm giác bất thường trong một thế giới mà hầu hết mọi người chỉ thích nghe những gì họ thường nghe, tức là chẳng có gì đáng bận tâm. Những người quen biết nói chung đều không ghét anh, miễn sao anh giữ các ý tưởng cho riêng mình. Và khi anh nói, không phải là họ không thích anh nữa - mà họ sẽ không cảm thấy thoải mái trong thâm tâm. Mack có lần bảo tôi rằng lúc trẻ anh thường bộc lộ ý nghĩ thoải mái hơn, nhưng anh thú nhận rằng hầu hết các cuộc nói chuyện như thế là một cơ chế sinh tồn để che đậy tổn thương của mình; rốt cục anh thường gieo nỗi đau cho mọi người xung quanh. Anh nói cách của anh thường vạch ra lỗi lầm và làm bẽ mặt người khác trong khi chính mình thì tôn tạo cảm giác giả tạo của uy quyền và ngự trị. Thật không dễ ưa. Khi viết những dòng này, tôi tái hiện một chàng Mack mà tôi biết - thật bình dị, và dĩ nhiên không phải là một người đặc biệt, ngoại trừ đối với những ai thật sự biết anh. Anh sắp bước sang tuổi năm mươi sáu, và anh là một người khá bình thường, hơi nặng cân, hói, thấp và da trắng giống như hầu hết những người đàn ông vùng này. Ắt là bạn sẽ chẳng nhận ra anh trong một đám đông hay cảm thấy khó chịu ngồi bên cạnh trong khi anh chợp mắt trên tàu MAX (tàu điện trung chuyển) trong hành trình mỗi tuần một lần vào thành phố dự cuộc họp về bán hàng. Anh làm việc chủ yếu từ văn phòng nhỏ tại nhà ở Wildcat Road. Anh bán các món đồ kỹ thuật cao và những dụng cụ mà tôi không định tìm hiểu: các thiết bị để làm cho mọi thứ diễn ra nhanh hơn, như thể cuộc sống này chưa đủ nhanh. Bạn không thể nhận ra Mack thông minh như thế nào trừ phi bạn tình cờ nghe lỏm cuộc đối thoại giữa anh với một chuyên gia. Tôi đã từng rơi vào tình huống đó, và chợt như nghe thấy ngôn ngữ không phải là tiếng Anh nữa, rồi tôi thấy mình phải vất vả để nắm bắt các ý niệm tuôn trào như thác. Anh có thể nói chuyện một cách minh triết về hầu hết mọi điều, và cho dù bạn cảm thấy anh có sức thuyết phục mạnh mẽ, anh vẫn có một phong thái dịu dàng để giúp bạn giữ quan điểm của mình. Các chủ đề anh ưa thích đều thuộc về Thiên Chúa và Đấng Tạo hóa và nguồn cội niềm tin của con người. Mắt anh sáng lên, nụ cười bừng nơi khóe môi, trong khoảnh khắc, như một đứa trẻ, nét mệt mỏi tan biến và anh trở nên không còn tuổi tác và vô tư lự. Nhưng trong lúc ấy, Mack không phải quá sùng đạo. Dường như anh có một mối quan hệ yêu/ghét với Tôn giáo, và thậm chí với cả Chúa mà anh hồ nghi rằng đang suy niệm ở nơi xa xôi và cách biệt. Thỉnh thoảng những lời châm chọc đầy mỉa mai lại dè dặt buông ra từ miệng anh như những mũi phi tiêu sắc lẻm tẩm độc dược từ một giếng sâu trong tâm can. Mặc dù cả hai chúng tôi đôi khi xuất hiện vào ngày chủ nhật tại chính ngôi giáo đường phúc âm (mà chúng tôi thích gọi là Hội Ngũ tuần Độc lập thứ 55 của Thánh John Baptist), bạn có thể thấy rằng anh ấy không thật thoải mái nơi đó. Mack đã kết hôn với Nan hơn ba mươi ba năm mà gần trọn thời gian là những năm tháng hạnh phúc. Anh nói người vợ đã cứu chuộc đời mình và đã trả một cái giá đắt để làm việc đó. Vì một lý do nào đó, nằm ngoài sự hiểu biết, giờ đây dường như cô ấy yêu anh hơn bao giờ hết, mặc dù tôi có cảm giác anh đã làm cô ấy tổn thương dữ dội trong những năm tháng đầu. Tôi cho rằng vì hầu hết những tổn thương của chúng ta đến từ các mối quan hệ nên sự hàn gắn cũng xuất phát chính từ đó, và tôi biết rằng sự khoan dung chẳng có nghĩa gì đối với những ai nhìn sự việc qua bề ngoài. Dù gì thì Mack đã có một cuộc hôn nhân xứng đôi. Nan chính là trát vữa để kết dính những viên gạch gia đình. Trong khi Mack vật lộn trong một thế giới đầy màu xám, thế giới của chị chủ yếu là trắng và đen. Chị tư duy theo lẽ thường một cách tự nhiên đến độ chẳng cảm nhận được cái năng khiếu lý tính ấy. Công cuộc chăm lo một gia đình khiến chị từ bỏ giấc mơ trở thành bác sĩ, nhưng trong vai trò y tá, chị tỏ ra vượt trội và được mọi người đánh giá cao trong công việc mà chính chị đã lựa chọn, là chăm sóc các bệnh nhân ung thư giai đoạn cuối. Trong khi quan hệ của Mack với Thiên Chúa thiên về chiều rộng, quan hệ của Nan lại có chiều sâu. Cặp vợ chồng xứng hợp một cách khác thường này có năm đứa con khôi ngô. Mack ưa nói rằng chúng đều cuỗm lấy nét đẹp từ anh “...vì Nan vẫn còn giữ được nét đẹp riêng cho cô ấy.” Hai trong ba cậu con trai đã ra riêng: Jon, vừa mới cưới, làm mãi vụ cho một công ty địa phương, còn Tyler, mới tốt nghiệp đại học, đang làm việc tại trường để theo đuổi luận án thạc sĩ. Josh và một trong hai đứa con gái, Katherine (Kate), vẫn còn ở nhà và theo học tại đại học cộng đồng địa phương. Rồi đến một đứa con muộn màng, Melissa - hay Missy, như cách chúng tôi thích gọi cô bé. Cô bé... mà thôi, rồi bạn sẽ biết về chúng rõ hơn qua những trang sách này. Những năm vừa qua đã trở nên, tôi nên nói như thế nào nhỉ, hết sức đặc biệt. Mack đã thay đổi; anh ấy giờ đây thậm chí còn khác hơn và đặc biệt hơn trước đây nữa. Suốt bao nhiêu năm tháng, tôi biết anh ấy là một tâm hồn khá dịu dàng và tử tế, nhưng từ lúc nằm bệnh viện cách đây ba năm, anh đã trở nên... thậm chí còn tử tế hơn nữa. Anh đã trở thành một trong những người hiếm hoi thật sự hoàn toàn thoải mái một cách chân tình. Và tôi cảm thấy thoải mái bên cạnh anh ấy, khác với bất cứ ai. Khi chia tay, dường như tôi vừa có được một cuộc nói chuyện tuyệt nhất trong đời, cho dù tôi thường là người nói hầu hết. Và ơn Chúa, Mack không chỉ phóng khoáng mà còn rất sâu sắc. Nhưng cú sốc ấy đã khiến anh phải trả giá đắt. Những ngày này rất khác với khoảng chừng bảy năm trước, khi nỗi đau xâm chiếm đời anh và anh gần như không nói chuyện nữa. Vào khoảng thời gian ấy và trong gần hai năm chúng tôi không qua lại, như thể có một sự thỏa thuận ngấm ngầm nào đó. Tôi chỉ gặp Mack thi thoảng tại hiệu tạp phẩm địa phương hoặc thậm chí còn hiếm hơn nữa tại nhà thờ, và mặc dù thường ôm choàng lấy nhau một cách lịch sự, chúng tôi chẳng nói gì mấy chuyện quan trọng. Thậm chí anh ấy còn khó khăn khi nhìn vào mắt tôi; có lẽ anh ấy không muốn khơi mào một cuộc trò chuyện có thể làm tróc vảy vết thương trong tim mình. Nhưng tất cả mọi chuyện đã thay đổi sau biến cố ác ôn với... Nhưng tôi lại buột miệng rồi, không kiềm chế được. Rồi đến lúc chúng ta sẽ biết chuyện. Tôi chỉ muốn nói mấy năm qua dường như cuộc sống đã trở lại với Mack và cất đi gánh nặng của nỗi đau . Chuyện xảy ra cách đây ba năm đã hoàn toàn thay đổi nhịp điệu cuộc sống của anh và đó là một khúc ca mà tôi muốn tấu lên cho các bạn cùng nghe. Mặc dù giao tiếp ngôn từ khá tốt, Mack lại không thoải mái với kỹ năng viết lách của mình - một việc mà anh biết rằng tôi rất đam mê. Cho nên anh đã đề nghị tôi chắp bút cho câu chuyện này - câu chuyện của anh ấy, “vì bọn trẻ và vì Nan.” Anh muốn câu chuyện giúp anh giải bày với vợ con không chỉ tình thương yêu sâu lắng của mình mà cả những gì đã diễn ra trong thế giới nội tâm của mình. Bạn biết thế giới ấy: nơi chỉ có riêng mình bạn - và có lẽ Chúa nữa, nếu bạn tin có Ngài. Dĩ nhiên, Chúa vẫn có thể hiện diện ở nơi ấy cho dù bạn không tin người. Người là như thế đó. Không phải vô cớ mà người được xưng tụng là Đấng Can thiệp. Những gì các bạn sắp đọc là những gì Mack và tôi đã vất vả hàng tháng trời để viết ra. Có một chút, à... không, có nhiều điều kỳ lạ. Cho dù có những phần thật sự có thật hay không, tôi không phải là người phán xét. Cũng phải nói rằng, mặc dù có những điều không thể chứng minh được một cách khoa học, thì nó vẫn đúng đấy thôi. Thật lòng tôi phải nói rằng khi tham gia vào câu chuyện này, tôi đã bị tác động sâu thẳm bên trong vào những ngóc ngách mà chính tôi chưa bao giờ biết đến sự tồn tại của nó; tôi phải thú thực rằng tôi vô cùng muốn mọi chuyện Mack kể với tôi là sự thật. Hầu hết các ngày tôi ở bên cạnh Mack, nhưng có những ngày - khi thế giới hữu hình của xi măng và máy tính trông như là thế giới thật - thì tôi tách biệt và cảm thấy hồ nghi. Một vài lời cuối: Mack muốn bạn biết rằng nếu bạn tình cờ đọc câu chuyện này và ghét nó thì, anh nói: “Xin lỗi... câu chuyện chủ yếu được viết ra không dành cho bạn.” Mà nghĩ lại, biết đâu đấy. Những gì bạn sắp đọc là ký ức rõ rệt nhất mà Mack có thể nhớ về những gì đã xảy ra. Đây là câu chuyện của anh ấy, không phải của tôi, cho nên những khi xuất hiện, tôi sẽ nhắc đến chính mình bằng ngôi thứ ba - từ góc nhìn của Mack. Ký ức có những lúc là một kẻ đồng hành quỷ quyệt, nhất là với một tai ương, và bất chấp những nỗ lực chung của chúng tôi để đạt được sự chính xác, tôi sẽ không quá ngạc nhiên nếu trong các trang sách có những sự kiện sai sót hoặc ký ức lầm lạc. Đó không phải là sự cố ý. Tôi có thể cam đoan với bạn các cuộc trò chuyện và biến cố được ghi lại trung thực tối đa theo những gì Mack nhớ được, cho nên ta hãy rộng lượng với anh ấy. Rồi bạn sẽ thấy, đó không phải là những điều dễ bộc bạch. Mời các bạn đón đọc Nơi Trái Tim Hội Ngộc của tác giả WM. Paul Young.
Cô Gái Không Là Gì - Tomek Tryzna
Cô Gái Không Là Gì Nhân vật chính là Marysia, cô bé mười lăm tuổi, con của một gia đình công nhân nghèo, đông con. Cô gái quê ngây thơ, thật thà đã dần dần đánh mất chính mình ở chốn thị thành trong ngôi trường mới, để mang cái tên “Không Là Gì” trong mắt mọi người. “Tôi nhìn mình, tôi nhìn, và tôi vẫn không thể nào nhận ra mình. Tôi mà gặp một cô gái như thế này ngoài phố thì chắc tôi phải hổ thẹn khi gọi cô ta. Mà đó là tôi chứ ai. Tôi hé môi, cô gái trong gương cũng hé môi, vì đó chính là tôi”. “Marysia, rõ ràng là Marysia. Bao nhiêu năm tôi muốn nhớ lại cái tên này, nhưng nó đội lốt những cái tên khác khi tôi muốn nhớ... nhớ lại”. Tuổi mới lớn thường không phải là giai đoạn dễ dàng trong đời người. Trong thời kỳ này, tuổi trẻ mộng mơ và nông nổi gặp muôn vàn cạm bẫy có thể hủy hoại cuộc đời mình trước khi nó thực sự bắt đầu. Có khi kịp sửa chữa những sai lầm mắc phải, nhưng, thật đáng tiếc, lắm khi không. Chính vì thế, cần lắm bàn tay dìu dắt của những người lớn để các cô bé ấy đừng đánh mất chính mình. Tiểu thuyết “Cô gái Không Là Gì” của nhà văn Ba Lan Tomek Tryzna được đưa vào danh sách best seller đã được dịch qua nhiều tiếng khác nhau trên thế giới như Anh, Mỹ, Canada, New Zealand, Úc, Braxin … và đã được dựng thành phim dài 98 phút do đạo diễn nổi tiếng Ba Lan (và thế giới) - Andrzej Wajda, thực hiện. *** Marysia, Kasia và Ewa, ba cô gái tuổi mười lăm, là ba nhân vật chính của tiểu thuyết. Marysia, con gái một gia đình công nhân nghèo, đông con, ở một làng quê Ba Lan, cùng gia đình chuyển nhà lên thành phố khi bố cô, một công nhân mỏ, sau bao năm xếp hàng chờ đợi, nay được phân nhà mới. Cô gái nhà quê ngây thơ, thật thà cảm thấy lạ lẫm ở chốn thị thành và tại ngôi trường mới của mình. Trong lớp học mới, Marysia làm quen và kết bạn với Kasia, cô bạn có mẹ là bác sĩ và bố đang ở nước ngoài. Kasia là một cô học trò có tính cách mạnh mẽ, lối sống ngang tàng, quan điểm sống dị thường và có năng khiếu âm nhạc. Cô từng bước đưa Marysia vào thế giới âm nhạc nhiều ma lực và giàu cảm xúc, lôi kéo cô bạn học đòi lối sống của mình, thuyết phục cô bạn nghe theo tư tưởng tự do tuyệt đối và bình đẳng của con người với Chúa Trời. Marysia tôn sùng, khâm phục và tin yêu Kasia như chị em ruột, thậm chí còn hơn thế : Con rất yêu mẹ con và Zenus, hai đứa em gái, Tadziu, bố, nhưng yêu nhất trần đời vẫn là Kasia của con. Tại sao lại như vậy, con cũng không biết nữa. Kể cả, nếu Kasia thôi không yêu con nữa, thì con vẫn không bao giờ quên được bạn ấy và con sẽ yêu Kasia cho đến tận những ngày cuối cùng của đời con. Kasia cho rằng mình bị quỷ ám, con quỷ này ẩn nấp trong người Kasia, nhờ có nó mà Kasia thăng hoa trong sáng tác âm nhạc. Làm theo hàng loạt mưu kế của Kasia, Marysia từng bước xa lánh gia đình, mất tính thật thà. Kasia xác người hồn quỷ đã đẩy Marysia vào con đường phạm thánh, điều khiến tình bạn của hai cô gái bị chao đảo và hậu quả là Marysia kết bạn với cô gái khác cùng lớp, tên là Ewa. Ewa, cô gái xinh nhất lớp, con nhà giàu, bố mẹ là doanh nhân, một cô gái được nuông chiều, quen sống xa hoa, thích chơi ngông, hay ghen tỵ và nhiều mưu lắm kế. Gia đình Ewa là gia đình tôn sùng lối sống Mỹ. Biết Marysia là con nhà nghèo, thích ăn chơi đua đòi và dám liều, càng ngày Ewa càng tặng cho Marysia nhiều món quà mới lạ, nhất là đồ may mặc, lôi kéo cô bạn vào con đường hưởng thụ, đi tìm cảm giác mạnh và những thú vui hư đốn. Tuổi mới lớn của Marysia là như vậy. Tuổi mới lớn thường không phải là giai đoạn dễ dàng trong đời người. Trong thời kỳ này, tuổi trẻ mộng mơ và nông nổi gặp muôn vàn cạm bẫy có thể hủy hoại cuộc đời mình trước khi nó thực sự bắt đầu. Có khi kịp sửa chữa những sai lầm mắc phải, nhưng, thật đáng tiếc, lắm khi không. Chả thế mà có người đã định nghĩa: Tuổi trẻ là điên rồ . Tiểu thuyết gồm hai phần hầu như bằng nhau, viết ở ngôi thứ nhất, xưng tôi . Phần một viết về tình bạn giữa Marysia và Kasia, một tình bạn mà Marysia những tưởng vững bền mãi mãi, nhưng không phải vậy. Phần hai viết về tình bạn giữa Marysia và Ewa giàu có, người đã nhấn chìm Marysia trong vũng bùn hư đốn, cho Marysia nếm mùi giàu sang để rồi trở thành đứa con hư, không thèm ngó ngàng gì đến gia đình. Trong phần hai của tiểu thuyết, Marysia không còn là Marysia nữa. Cùng với việc thay đổi xoành xoạch tên mình, tính nết của cô cũng không ngừng thay đổi. Có thể nói những cái tên mới của Marysia tượng trưng cho sự hư thân mất nết của cô gái (Kasia gọi Marysia là Minka, còn Ewa gọi cô là Majka). Rốt cuộc, do thiếu bản lĩnh, sống buông thả và học đòi, Marysia từng bước mất phương hướng, tự đánh mất mình để rồi đến phần cuối của tiểu thuyết chẳng còn là Marysia ngây thơ, trong trắng lúc ban đầu. Thậm chí cô không nhận ra chính mình và cái tên Marysia của mình nữa: “ Tôi nhìn mình, tôi nhìn, và tôi vẫn không thể nào nhận ra mình. Tôi mà gặp một cô gái như thế này ngoài phố thì chắc tôi phải hổ thẹn khi gọi cô ta. Mà đó là tôi chứ ai. Tôi hé môi, cô gái trong gương cũng hé môi, vì đó chính là tôi”. “Marysia, rõ ràng là Marysia. Bao nhiêu năm tôi muốn nhớ lại cái tên này, nhưng nó đội lốt những cái tên khác khi tôi muốn nhớ... nhớ lại”. Nhân vật người đàn ông đeo mục kỉnh, được gọi là “người đàn ông Ba Lan”, nhiều lần bất ngờ xuất hiện, muốn cứu vớt Marysia khỏi vũng bùn sa đọa, trở lại với bản sắc của mình, nhưng không thành công. Đây là sự can thiệp có dụng ý của tác giả. Người ta cho rằng, Marysia thất bại vì đã không nghe theo lời “người đàn ông Ba Lan” cũng như lời khuyên của con quỷ Pimpus vốn là bạn của mình. Đoạn cao trào của tiểu thuyết chính là lúc Marysia giật mình phát hiện ra sự thật những gì Kasia và Ewa nghĩ về mình, khi hai cô bạn đang cười khúc khích bàn tán về Marysia, nhạo báng, khinh thường Marysia vô tích sự, thậm chí gọi Marysia là Cô gái Không Là Gì . Không Là Gì là biệt danh của Marysia do Kasia và Ewa gán cho. Ta hãy nghe đoạn thoại sau đây của Kasia và Ewa: “- Thôi, cậu đừng nói về cô ta nữa! Cô ta không là gì cả, không có cô ta... - Cậu nói cực hay, cậu có lý, cô ta là cô gái Không Là Gì ”. Sau cú sốc này, Marysia chìm vào những cơn ác mộng hãi hùng. Đây là thiên tiểu thuyết viết về xã hội Ba Lan hồi những năm tám mươi của thế kỷ trước, khi đời sống của người dân thời bao cấp còn nhiều khó khăn và thiếu thốn. Tiểu thuyết cho thấy, các cô gái tuổi học trò, cụ thể là tuổi mười lăm, đã manh động, thậm chí điên rồ, “hết khôn dồn đến dại” theo kiểu “nhất quỷ nhì ma thứ ba học trò” như thế nào khi đi tìm những khoảnh khắc “nhận biết bản thân” mà theo họ “mình được là mình thật sự”. Có thể nói, Cô gái Không Là Gì là lời cảnh cáo, là bài học đạo đức đắt giá cho tuổi học trò. Bức thông điệp mà tiểu thuyết muốn gửi tới các bạn trẻ là: Tuổi mười lăm đẹp như trăng rằm, nhiều đam mê, lắm mộng mơ, nhưng cũng đầy cạm bẫy, dễ tin và dễ vỡ, và xin các bạn đừng tự đánh mất mình. Cô gái Không Là Gì là tiểu thuyết chẳng những dành cho tuổi học trò, những người đồng trang lứa với các nhân vật chính của truyện, mà còn dành cho cả người lớn, khi nó đề cập cả những vấn đề của họ nữa. Trả lời câu hỏi về điều này, nhà văn Tomek Tryzna khẳng định rằng, ông không muốn tiểu thuyết Cô gái Không Là Gì đi theo lối mòn xưa cũ, theo đó, viết cho trẻ con là chỉ dành cho trẻ con đọc, viết cho người lớn là chỉ dành cho người lớn đọc, mà ông muốn cách tân (hậu hiện đại? phá cách?), và ông đã cách tân nội dung và hình thức... của tác phẩm hiệu quả tới mức nào thì chúng ta sẽ thấy sau khi đọc tác phẩm. Cuộc trò chuyện giữa Kasia và cô giáo chủ nhiệm Turska thực chất là cuộc đối thoại nảy lửa giữa hai thế hệ, giữa các triết lý, quan điểm sống trái ngược nhau, trong đó mỗi bên đều có cái có lý và cái phi lý của mình: “ - Tại sao cô không vứt bỏ những cái đó đi? - giọng nói của Kasia vang lên trong loa. Và giọng cô chủ nhiệm: - Được rồi, cô làm theo ý em nhé. Cô sẽ bỏ chồng, bỏ nhà, bỏ công việc ở trường và cô sẽ đi đâu? Cô ra đường ư? Em cho rằng cô sẽ tìm thấy hạnh phúc ở ngay sau góc phố đầu tiên chăng? ” Cuối cùng, trượt dài trên con dốc tự đánh mất mình, không nghe theo lời khuyên của “Người đàn ông Ba Lan” và Pimpus, Marysia đã thất bại, không thể tìm lại chính mình, không thể “tự sinh ra mình” được nữa. Bi kịch này được diễn tả bằng phép tu từ ở đoạn kết của tiểu thuyết. Sau khi nhảy từ ban công tự tử, Marysia có cảm giác trong bụng cô đang có một thai nhi, thai nhi nhiệt tâm, song thai nhi này không thể ra đời. Đứa con “nhiệt tâm” trong bụng bảo rằng, chẳng thể vãn hồi tính nết cũ được nữa rồi: “ Sao lại có sự sinh nở không bao giờ sinh nở, mặc dầu luôn luôn sinh nở và sinh nở, muôn đời chống chọi với nhiệt tâm dâng trào. ” Cách kết thúc câu chuyện của tác giả khiến người đọc sau khi đã gập cuốn sách lại rồi vẫn còn bùi ngùi, xót xa, vẫn còn suy nghĩ khôn nguôi. Tư tưởng chủ đạo của tác phẩm là cuộc đối đầu giữa cái thiện và cái ác, giữa cái tốt và cái xấu mà lắm khi có vẻ như chúng là hai trong một. Thiên tiểu thuyết này - thiên tiểu thuyết tự làm mới mình, giàu kịch tính và nhiều cảm xúc, đầy nét trẻ trung và hồn nhiên của tuổi học trò, đậm chất giả tưởng và nhiều yếu tố thần thoại, hoang đường, hư hư thực thực đan xen dày đặc, đòi hỏi người đọc phải thật sự tập trung - đã miêu tả rất thành công những tâm tư, tình cảm, nghĩ suy, điểm mạnh, điểm yếu và những bí ẩn của tuổi mới lớn. Một số tình tiết của tiểu thuyết có thể khiến người đọc có cảm giác là “nặng đô” đối với tuổi học trò. Tuy nhiên, phải chăng đó cũng chính là những lời cảnh tỉnh “nặng đô” có chủ ý của tác giả đối với các bạn trẻ ở lứa tuổi này? Tác giả không bình luận, không nhận xét trực tiếp hành động của các nhân vật. Ông dành việc này cho người đọc. Một số nhà phê bình văn học Ba Lan cho rằng, tiểu thuyết Cô gái Không Là Gì tựa hồ một cơn bão đổ bộ vào nền văn học Ba Lan hiện đại hồi những năm chín mươi của thế kỷ trước. Đánh giá cao tiểu thuyết này, Czeslaw Milosz, nhà thơ lớn của Ba Lan và thế giới, giải Nobel 1980, đã nói: Cô gái Không Là Gì là thiên tiểu thuyết hậu hiện đại thật sự đầu tiên của Ba Lan. Tiểu thuyết đã được dịch sang hàng chục thứ tiếng khác nhau trên thế giới như Anh, Mỹ, Canada, Tân Tây Lan, Úc, Brazin, các nước Tây Âu, các nước Scăng-đi-na-vơ... Cũng là sách bestseller ở Ba Lan, Hà Lan, Bungari, Đức... Đặc biệt Cô gái Không Là Gì đã được dựng thành bộ phim truyện dài 98 phút, do đạo diễn nổi tiếng Ba Lan (và thế giới) - Andrzej Wajda, thực hiện. Anna Wielgucka đóng vai Marysia, Anna Mucha đóng vai Kasia và Anna Powierza đóng vai Ewa. Nữ diễn viên Anna Wielgucka đã được nhận giải thưởng “ Diễn viên trẻ triển vọng” tại Liên hoan phim quốc tế Berlin. Việc tiểu thuyết Cô gái Không Là Gì lọt vào mắt xanh của hai cây đại thụ văn học và điện ảnh Ba Lan (và thế giới) – Czselaw Milosz và Andrzej Wajda, cho thấy tầm cỡ của tác phẩm này. Tiểu thuyết cũng đã được IBBY Ba Lan bình chọn là “ Cuốn sách của năm ” (1994). Theo quy định của Bộ Giáo dục Quốc dân Ba Lan, Cô gái Không Là Gì là một trong sáu cuốn sách bắt buộc phải đọc đối với học sinh lớp III (tương đương lớp 9 của Việt Nam) các Trường trung học cơ sở ở Ba Lan trong niên học 2011 – 2012 và 2012 - 2013, điều đó chứng tỏ giá trị giáo dục của thiên tiểu thuyết này. Phải chăng Bộ Giáo dục Quốc dân Ba Lan muốn các học trò của mình phải nhìn thẳng vào sự thật, dù đó là sự thật phũ phàng? Hà Nội, ngày 01 tháng 01 năm 2013 Nhà văn, dịch giả Lê Bá Thự Mời các bạn đón đọc Cô Gái Không Là Gì của tác giả Tomek Tryzna.
5 Ngôn Ngữ Tình Yêu: Dành Cho Những Người Chỉ Có Một Mình - Gary Chapman
Hơn 15 năm trước, tôi đã viết quyển sách Năm ngôn ngữ tình yêu: cách thể hiện lời cam kết chân thành của bạn với người bạn đời. Sự đón nhận của độc giả đã vượt quá mong đợi của tôi: Tổng cộng 5 triệu bản đã được bán sạch. Mỗi năm, cuốn sách này lại bán được nhiều bản hơn năm trước đó. Đến nay, Năm ngôn ngữ tình yêu đã được dịch sang 42 thứ tiếng khác nhau. Nhiều người đã hỏi tôi về lý do thành công của cuốn sách đó. Câu trả lời duy nhất của tôi là: Nội dung của nó tập trung vào nhu cầu tình cảm sâu sắc nhất của con người - nhu cầu được yêu thương. Đối với những người đã kết hôn, nó mang lại cảm giác thấu hiểu và những công cụ thực tiễn để nuôi sống tình yêu trong gia đình. Hàng ngàn cặp vợ chồng đã nói với tôi rằng ý tưởng của Năm ngôn ngữ tình yêu đã mang lại “một cuộc sống mới” cho hôn nhân của họ. Điều tôi không ngờ đến chính là có rất nhiều người độc thân cũng tìm đọc cuốn sách mà tôi đã viết riêng cho những cặp vợ chồng. Một người đã nói với tôi: “Dù cuốn sách Năm ngôn ngữ tình yêu được viết dành riêng cho các cặp vợ chồng nhưng nó cũng đã giúp tôi rất nhiều trong việc cải thiện những mối quan hệ của mình”. Hay một người độc thân khác đã nói với tôi: “Tôi chưa bao giờ hiểu được người bạn cùng phòng của mình cho đến khi tôi đọc cuốn sách của ông. Ông phải viết một cuốn Năm ngôn ngữ yêu thương dành cho những người độc thân mới được”. Và thế là tôi quyết định hoàn tất cuốn sách này trong sự mong chờ của nhiều người độc thân. Dù đã kết hôn hay còn độc thân, trẻ hay đã già thì tất cả chúng ta đều có nhu cầu quan trọng về tình cảm là được yêu thương. Khi nhu cầu này được đáp ứng, chúng ta sẽ thể hiện trọn vẹn những đức tính tốt đẹp nhất của mình và đạt được nhiều thành quả lớn lao trong cuộc sống. Ngược lại, ta sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Tôi tin tưởng rằng những chân lý trong cuốn sách này sẽ giúp những người độc thân học được các kỹ năng cần thiết trong việc cho và nhận tình yêu. Một điều quan trọng mà bạn cần phải hiểu là cuốn sách bạn đang cầm trên tay không phải là một cuốn Năm ngôn ngữ tình yêu cũ được in lại với bìa mới. Năm ngôn ngữ yêu thương dĩ nhiên là không thay đổi, nhưng trong cuốn sách này chúng ta sẽ tập trung vào đối tượng những người độc thân. Trong hai chương đầu tiên, chúng ta sẽ tìm hiểu về những người độc thân và tại sao yêu thương lại là yếu tố quan trọng nhất trong các mối quan hệ. Từ chương 3 đến chương 7, chúng ta sẽ tìm hiểu về từng ngôn ngữ tình yêu. Trong chương 8, chúng ta sẽ học cách khám phá ra ngôn ngữ tình yêu của bản thân cũng như cách phát hiện ra ngôn ngữ tình yêu của người khác. Những chương còn lại sẽ giúp bạn biết cách yêu thương và được yêu thương bằng cách sử dụng “năm ngôn ngữ tình yêu”. Trong chương 9, bạn sẽ biết cách áp dụng những nguyên tắc của “năm ngôn ngữ tình yêu” để thấu hiểu cha mẹ, anh chị em cũng như các thành viên còn lại trong gia đình. Chương 10 – 11, chúng ta sẽ khám phá các mối quan hệ hẹn hò, nền tảng của hôn nhân cũng như tầm quan trọng của ngôn ngữ tình yêu đối với việc xây dựng một mối quan hệ vợ chồng tốt đẹp. Chương 12 sẽ tập trung nói về cách thức truyền đạt tình yêu thương đến bạn chung phòng, bạn học, bạn đồng nghiệp. Chương 13 sẽ mang lại những hướng dẫn thiết thực giúp các bậc cha mẹ đơn thân bộc lộ tình yêu thương của mình với con cái. Cuối cùng, trong chương 14, chúng ta sẽ tập trung nói về tình yêu như một chiếc chìa khóa dẫn đến thành công. Hãy cùng tôi thực hiện cuộc hành trình khám phá cuộc sống của người độc thân - những người đã hiểu ra rằng điều tuyệt vời nhất của cuộc sống chính là cho đi và nhận lại tình yêu một cách đúng đắn. -Gary Chapman *** Nếu bạn chọn đọc cuốn sách này, rất có thể bạn vẫn đang độc thân hoặc quen biết với một người độc thân nào đó. Theo thống kê, hơn bốn trong số mười người Mỹ trưởng thành vẫn còn độc thân – tức là có tới 92 triệu người độc thân trên toàn nước Mỹ* Dĩ nhiên, sẽ không chính xác nếu xếp tất cả người độc thân vào một nhóm. Có ít nhất 5 nhóm người độc thân. Phần lớn trong số này là người chưa từng kết hôn (là đối tượng chính mà cuốn sách này hướng tới). Tuy nhiên, 4 nhóm còn lại cũng cần được quan tâm xứng đáng. Sau đây là 5 nhóm người độc thân đó: 1. Chưa từng kết hôn. Tính riêng ở Mỹ, từ 18 tuổi trở lên, nhóm này bao gồm khoảng 49 triệu người. Độ tuổi kết hôn trung bình lần đầu đã tăng lên, 25 tuổi đối với nữ giới và 27 tuổi đối với nam giới. Cứ mỗi 5 người từ 18 đến 24 tuổi thì có 4 người chưa từng kết hôn (78%). 2. Đã ly hôn. Ngày nay, trên thế giới có 10% người trưởng thành đã từng ly hôn* 3. Ly thân nhưng chưa ly hôn. Đây là những người vẫn chưa chính thức ly hôn nhưng không còn sống chung với nhau nữa. Cuộc sống của họ giống một người độc thân hơn là người đang có gia đình. Tuy nhiên tình trạng ly thân này chỉ là tạm thời. Những người này hoặc sẽ hòa giải với vợ/chồng của mình, hoặc sẽ hợp thức hóa sự chia tay này bằng việc chính thức ly hôn 4. Ở góa. Việc ở góa rõ ràng là có sự khác biệt giữa hai giới. Cứ 5 người sống độc thân do bạn đời của mình qua đời thì có đến 4 người là phụ nữ. Gần 1/2 những người phụ nữ từ 65 tuổi trở lên là góa phụ, trong khi ở nam giới, con số này chỉ là 14%. 5. Cha mẹ đơn thân. Một trăm năm trước, chỉ có dưới 1% số người trưởng thành là phụ huynh đơn thân của trẻ vị thành niên. Nhưng ngày nay, có đến hơn 12 triệu phụ huynh đơn thân đang chăm sóc ít nhất một trẻ em dưới 18 tuổi – chiếm gần 1/3 tổng số gia đình. Rõ ràng, số lượng phụ huynh đơn thân đã từng ly hôn là rất lớn. Nhưng bên cạnh đó, số lượng phụ huynh đơn thân chưa từng kết hôn cũng không ngừng gia tăng. Trong số những người mẹ đơn thân thì có đến 40% là chưa từng kết hôn với cha của con mình. Khác biệt nhưng thống nhất Dù thuộc nhiều nhóm khác nhau nhưng giữa những người trưởng thành độc thân vẫn có nhiều điểm tương đồng. Hầu hết họ đều gặp khó khăn trong nhiều lĩnh vực, chẳng hạn như đời sống vật chất, đạo đức, các mối quan hệ… Nếu bạn là một người trưởng thành độc thân, tôi nghĩ có thể cũng như nhiều người khác, bạn luôn muốn thấu hiểu bản thân cũng như vị trí của mình trong xã hội. Và nguồn gốc sâu xa của vấn đề này chính là nhu cầu muốn cho đi và nhận lại tình yêu thương. Là một người độc thân, dù thuộc nhóm nào thì bạn cũng muốn được những người quan trọng trong đời mình yêu thương và tin rằng họ cần tình yêu của bạn. Cho đi và nhận lại tình yêu luôn là niềm hạnh phúc của tất cả mọi người, nhất là người trưởng thành độc thân. Một khi cảm nhận được tình yêu thương cũng như vị trí của mình đối với những người xung quanh, bạn sẽ vượt qua được mọi áp lực của cuộc sống. Nhưng nếu thiếu vắng tình yêu, cuộc sống sẽ trở nên thật lạnh lẽo và trống vắng. ... Mời các bạn đón đọc 5 Ngôn Ngữ Tình Yêu: Dành Cho Những Người Chỉ Có Một Mình của tác giả Gary Chapman.
Những Con Chữ Tình Yêu - Katie Fforde
Một chuyện tình lãng mạn, đầy kịch tính giữa một nữ độc giả nhạy cảm và thông minh với tác giả văn học nổi tiếng đầy quyến rũ. Laura Horsley - một nhân viên bán sách và tổ chức sự kiện văn học- trong lúc buồn chán vì cửa hàng sách nơi cô đang làm việc sắp đóng cửa, đã liều lĩnh nhận lời giúp tổ chức cho một liên hoan văn chương tại một miền nông thôn nước Anh xa xôi. Mọi sự rắc rối nhưng cũng đầy đam mê bắt đầu khi Laura nhận nhiệm vụ phải mời bằng được nhà văn Dermot Flynn - người đang sống ẩn dật tại Ireland, nổi tiếng vì tài năng và tính khí thất thường nhưng cũng vô cùng quyến rũ. Chuyện gì sẽ xảy ra khi một tác giả văn học nổi tiếng lại dính sét ái tình với người hâm mộ, và oái oăm thay nữ độc giả nhạy cảm và thông minh đó lại vẫy vùng trốn tránh sức quyến rũ từ thần tượng mà cô ngày đêm thờ phụng? Một câu chuyện đuổi bắt và chinh phục tình cảm đầy lãng mạn như chỉ có ở trong sách. *** Ai đó thì thào vào tai Laura, khiến cô giật nẩy mình. “Cô nghĩ anh ta thế nào?” Hiệu sách đông nghịt: khu vực họ đã dọn dẹp cho buổi đọc sách chật ních người; một đoàn người rồng rắn dài dằng dặc đang đứng trước bàn ký tặng sách, tán gẫu sôi nổi, ai nấy nắm chặt trong tay những cuốn sách mới mua. Trước đây, Laura cứ ngỡ tổ chức một sự kiện sau lễ Giáng sinh là việc làm khá liều lĩnh, nhưng bây giờ cô đang ngắm nhìn những con người đầy háo hức kia với cảm giác vừa nhẹ nhõm vừa thỏa mãn. Cho dù bạn chuẩn bị cho một sự kiện ở hiệu sách cẩn thận đến mức nào, bạn không bao giờ biết chính xác bao nhiêu người sẽ tới cho đến khi họ xuất hiện. Bạn cũng không thể chắc chắn liệu tác giả có thực hiện tốt vai trò của mình không. Viết lách là một công việc rất riêng tư, thầm lặng, và Laura thường nghĩ quả là tàn nhẫn khi bắt họ đứng trước các độc giả. Nhưng cho dù được đánh giá theo những tiêu chuẩn cao của cô, sự kiện này vẫn là một thành công. Đang mải mê suy nghĩ nên cô không nhận ra có người tiến đến sau lưng. Quay ngoắt lại và cô trông thấy một phụ nữ thấp bé sắp qua tuổi trung niên mặc một bộ đồ nổi bật. Laura lập tức nhớ rằng đã thấy bà ta khi bà ta bước vào hiệu sách trong nhóm người đi cùng với tác giả. Chiếc áo vét của bà ta trông như được may từ thảm thêu và đồ trang sức có vẻ được làm bởi bàn tay của một đứa cháu với bộ đồ hàn, hoặc bởi một nhà thiết kế mới nổi, thật khó mà biết được. Điều khiến cô sửng sốt nhất trước sự tiếp cận của bà ta là ánh mắt khắc nghiệt, xuyên thấu. Đôi mắt giống như đá mã não màu xanh lục. “Dĩ nhiên là rất ổn,” Laura nói, giật mình, nhưng vẫn lịch sự như từ trước đến giờ, cảm thấy mình quá mờ nhạt trong chiếc quần đen phổ biến và chiếc áo sơ mi trắng. Câu trả lời này có vẻ không hoàn toàn thỏa mãn đôi mắt màu xanh lục đang nhìn xoáy vào cô. “Thế cô đã đọc cuốn sách mới của anh ta chưa?” “Dĩ nhiên,” lúc này Laura đã vững vàng hơn, phẫn nộ trước giọng điệu hiếu chiến của người phụ nữ đó. Cô làm việc trong một hiệu sách. Công việc của cô là nắm rõ mặt hàng mình bán. Người phụ nữ kia nhướng một bên lông mày mảnh như đường kẻ bút chì. “Tôi không muốn nghe từ ‘dĩ nhiên’. Cô nghĩ gì về cuốn sách?” Laura định nói “tuyệt vời” nhưng rồi lại quyết định nói thật. Suy cho cùng, lúc này cô chẳng còn gì để mất: công việc yêu thích sắp bị tước đi - cô có thể gạt bỏ khả năng ứng xử khéo léo quen thuộc sang một bên và nói thực lòng mình. “Tôi nghĩ nó không hay bằng cuốn sách đầu tay của anh ta nhưng tôi thực sự đón đợi cuốn tiếp theo.” Cô là một độc giả hăng hái, nhiệt tình nhưng khó tính; cô có thể nhận ra khi nào một tác giả không ở trên đỉnh cao phong độ. Rồi đột nhiên những đồng penny[1] tuôn rào rào trong đầu cô, như những đồng xu từ một máy giật xèng khi ai đó trúng thưởng. “Ôi Chúa ơi, bà là người đại diện của anh ta, phải không?” Nỗi xấu hổ khiến người cô chuyển từ nóng sang lạnh rồi lại từ lạnh sang nóng. Người phụ nữ nheo mắt xác nhận sự thật này, nhưng Laura không biết bà ta đang cười hay đang bày tỏ sự phản đối - miệng bà ta không cử động. “Phải, đúng là tôi có vinh hạnh đó.” Vẫn còn đỏ mặt, Laura vén một lọn tóc lòa xòa ra sau tai và nhìn sang phía chàng thanh niên trẻ măng đang ký sách cho một hàng dài người hâm mộ. Cô nhận thấy mỗi người mua sách đều nhận được một nụ cười quyến rũ, mỗi cuốn sách đều nhận được một thông điệp riêng nho nhỏ cũng như một lời đề tặng. Không chỉ một mà có tới tận hai chuyên viên truyền thông từ nhà xuất bản đi cùng anh ta, không phải để kiểm soát đám đông, mà vì họ ngưỡng mộ anh ta. Những nhà văn như anh ta thật hiếm. Chính vì anh ta có hai người phụ nữ trẻ trung quá đỗi nhiệt tình với việc mở các quyển sách đến đúng trang, nhét chúng vào những cái túi giấy và liên tục rót rượu cho anh ta nên Laura mới đang đứng rỗi rãi như thế này; họ không cần đến sự giúp đỡ của cô. Và Henry, ông chủ tiệm sách, cứ một mực nói. “Cô đã sắp đặt toàn bộ mọi việc; mời được những người này đến đây, gọi rượu vang, mở những suất ăn nhẹ đựng trong hộp xốp. Giờ thì hãy nghỉ ngơi một chút!” “Anh ta là một ngôi sao,” Laura nói sau khi quan sát anh ta thêm một lúc nữa. Cô không nịnh người bạn ghê gớm đang trò chuyện cùng; cô chỉ đang nói sự thật. “Tôi biết. Nhân đây, xin tự giới thiệu tôi là Eleanora Huckleby.” “Tôi biết... ý tôi là bây giờ thì tôi đã biết,” Laura nói, cảm thấy thoải mái hơn một chút. Những người đại diện cho các nhà văn thường không đến tham dự các sự kiện ở hiệu sách, nhưng Damiel Stubbs là người đặc biệt. “Tôi là Laura Horsley.” ... Mời các bạn đón đọc Những Con Chữ Tình Yêu của tác giả Katie Fforde.