Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cô Nàng Cửa Hàng Tiện Ích

“Sáng ra tôi lại là một nhân viên bán hàng, một bánh răng trong vòng quay của thế giới. Chỉ điều này mới biến tôi thành một con người bình thường.” Furukura Keiko bị coi là một phụ nữ lập dị, vì ở tuổi 36 cô độc thân và làm một công việc khá đáng ngại, nhân viên part time của cửa hàng tiện ích Smile Mart trong suốt 18 năm trời. Cô luôn phải vật lộn từ nhỏ để đóng vai một người bình thường. Keiko thấy bình yên khi ở cửa hàng tiện ích, nơi cô được công nhận, nơi mọi quy tắc đều rõ ràng. Cho đến một ngày, người đàn ông kỳ quặc tên Shiraha xuất hiện, và sự va chạm giữa hai con người khác thường như một tia sét nổ do va chạm điện cực, đẩy Keiko khỏi quỹ đạo quen thuộc, buộc cô nhìn thẳng vào những áp lực cô luôn lẩn tránh… “Khác với các cô gái trẻ trung phấn khởi của Banana Yoshimoto, Keiko gần như bước ra từ một cuốn sách Kafka, chân thành tuyệt đối trong những hoàn cảnh hết sức nghịch dị...”      - Japan Times “Một bản khảo sát khôi hài, tăm tối, gây chấn động sâu sắc về đời sống đương đại, về sự xa lánh, về chủ nghĩa tư bản, ý thức cá nhân, và sự quy hàng các ước lệ xã hội. Dù ở Nhật Bản hay đâu khác, chúng ta đều đã từng đặt chân vào cửa hàng này.”      - Viet Thanh Nguyen, tác giả cuốn The Sympathizer thắng giải Pulitzer Prize *** Một cuốn tiểu thuyết kỳ lạ, về một người phụ nữ hư cấu hết sức kỳ quặc, của một tác giả được xem là một trong những nhà văn thú vị nhất trong nền văn học đương đại Nhật Bản. “Cô nàng cửa hàng tiện ích” (tựa gốc “Konbini Ningen”, tựa tiếng Anh “Convenient Store Woman”) là cuốn tiểu thuyết thứ 10 của Murata Sayaka, ra mắt năm 2016, sách đã giúp cô đạt giải Akutagawa – một giải thưởng văn học danh giá trao cho các tác giả trẻ có những tác phẩm mang giá trị văn học cao. Trong cùng năm, sách cũng mang lại danh hiệu “Người phụ nữ của năm” do tạp chí Vogue bình chọn cho nữ văn sĩ người Nhật này, khiến tên tuổi của Murata Sayaka trở thành cơn sốt tìm kiếm trên mạng xã hội. Như tựa đề, cuốn sách là một câu chuyện lạ kỳ xoay quanh một người tên là Furukura Keiko… Một người phụ nữ 36 tuổi khiếm khuyết về logic trước cuộc đời, không biết gì về các mối quan hệ lãng mạn, đã làm nhân viên bán thời gian ở cửa hàng tiện ích 18 năm và không có dấu hiệu thay đổi – Đó là lý do Keiko bị phán xét khi trưởng thành. Thế nhưng kể từ lúc nghỉ việc để kết hôn và tìm một công việc mới, Keiko hoàn toàn mất phương hướng trong cuộc sống. 18 năm, cô ăn ngủ nghỉ và giữ sức khỏe vì cửa hàng. Nghỉ việc rồi, cô không hiểu mình tiếp thu năng lượng để làm gì nữa. Nhắm mắt lại, âm thanh cửa hàng lại văng vẳng bên tai. Tìm việc khác, cô thực sự hiểu rõ bản thân không giỏi bất kỳ lĩnh vực nào, ngoại trừ là nhân viên cửa hàng tiện ích. Có lẽ nào trên đời lại tồn tại một người phụ nữ dị biệt đến thế Keiko sinh ra dưới hình hài là một con người, nhưng mọi suy nghĩ lại hoàn toàn khác biệt với tiêu chuẩn “bình thường” của con người. Tác giả đã tạo nên một “Ningen” mang tên Furukura Keiko – không có toàn thân màu trắng hay chiều cao gần 30m, nhưng nội tâm là một động vật máu lạnh, tư duy logic khác biệt, không yêu thương, không giận dữ, không cảm xúc. Keiko không biết yêu thương. Hồi còn học mẫu giáo, khi thấy một chú chim nhỏ chết ở công viên, thay vì khóc thương và chôn chú chim đó như những đứa trẻ khác, thì Keiko lại đề nghị với mẹ rằng ăn con chim đó đi. Dù mẹ cô bé khuyên con phải biết tội nghiệp, phải buồn khi chú chim, cũng là một “người bạn” chết đi, nhưng Keiko vẫn không thể lý giải được: “Ai cũng nói con chim đáng thương rồi khóc lóc nhưng lại quay sang giết những bông hoa quanh đó. Cái cảnh tượng mọi người nói ‘Hoa đẹp quá! Chắc con chim nhỏ thích lắm đây!’ trông thật điên rồ.” Lúc mới lên tiểu học, Keiko đã ngăn một vụ ẩu đả bằng cách “nhanh nhất” là lấy một chiếc xẻng dụng cụ làm vườn phang thẳng vào đầu thằng bé đang gây gổ. Nhận thấy hiệu quả ngay tức thì – thằng con trai đó ôm đầu ngã lăn đùng rồi nằm im bất động – Keiko lại giơ cái xẻng lên định ngăn nốt thằng kia. Sau thảm cảnh, dù thầy giáo đã bảo rằng không được dùng vũ lực, nhưng Keiko vẫn không thể hiểu. Cô bé lễ phép giải thích cho vị thầy giáo đang nổi-cáu-một-cách-vô-lý: “Nhưng các bạn bảo ngăn lại cơ mà. Em thấy làm như thế thì bạn Yamazaki và bạn Aoki sẽ dừng ngay thôi ạ.” Đến khi mẹ Keiko cúi gập người xin lỗi trước buổi họp hội đồng, Keiko mới nghĩ có vẻ việc mình làm là sai, nhưng vẫn không thể hiểu vì sao lại sai. Một lần khác, khi thấy cô giáo nổi cáu mất kiểm soát, vừa đập sổ điểm danh vừa gào thét, còn bọn học sinh trong lớp thì bắt đầu khóc lóc… Keiko lập tức chạy tới gần cô, thật nhanh tụt cả váy lẫn quần lót để mong cô ngừng gào thét. Cô giáo bật khóc rồi im lặng. Keiko giải thích rằng, cô bé xem trên tivi thấy con gái bị tụt quần áo thì sẽ im lặng. Trường lại mở cuộc họp hội đồng, mẹ lại phải xin lỗi. Trên đường về, mẹ ôm Keiko thì thào tội nghiệp: “Tại sao, sao con không hiểu hả Keiko…” “Hình như tôi lại làm gì đó sai nhưng vì sao sai thì tôi vẫn không hiểu.” Mọi trường hợp đều kết thúc bằng suy nghĩ như thế trong lòng Keiko. Bố mẹ lo lắng nhưng vẫn thương Keiko, làm mọi cách để “chữa” cho con, thậm chí là tìm bác sĩ tư vấn tâm lý. Dần nhận thức được sự khác biệt của bản thân, dẫu không thể lý giải được, nhưng để bố mẹ không phải buồn, không phải xin lỗi hết người này sang người khác, và để được xem là một người “bình thường”, cô bé Keiko quyết định sẽ chẳng nói chuyện với bất kỳ ai khi ra khỏi nhà, luôn hành động theo hai cách: bắt chước hoặc làm theo chỉ thị. Keiko cứ như vậy mà trưởng thành, cho đến khi làm công việc part-time của cửa hàng tiện ích Smile Mart từ thời còn sinh viên, và yên vị ở đấy 18 năm, không có ý định thay đổi. Vì ở đấy, mọi việc đều nằm trong quy tắc và khuôn khổ, điều đó khiến Keiko cảm thấy bản thân cũng là một mắt xích trong vòng quay thế gian, cũng là một bộ phận của thế giới, quay liên tục, an toàn và không lạc lõng. Ở đấy, cô được hóa thân thành “nhân viên” – loài sinh vật tồn tại vì cửa hàng tiện ích. Keiko là một nhân viên lý tưởng: luôn đi làm đúng giờ, độc thân, không có con, làm việc xuyên suốt kỳ nghỉ và không bao giờ mất bình tĩnh trước khách hàng. Mọi việc đều ổn khi nhìn từ bên ngoài. Thế nhưng, sâu thẳm tận tâm hồn, Keiko 36 tuổi vẫn không thể hiểu vì sao mình phải “tới chơi với cháu mình nhiều hơn” như lời em gái cô nói. Với Keiko, trẻ nhỏ cũng như mèo hoang, nhìn tuy có khác đôi chút nhưng đều thuộc động vật có tên “em bé” mà thôi. Keiko 36 tuổi, khi nhìn thấy em gái dỗ dành đứa con trai bé nhỏ đang khóc, đã nghĩ rằng: “Tôi vừa nhìn con dao nhỏ dùng để cắt bánh đặt trên bàn vừa nghĩ, muốn thằng nhỏ trật tự thì rất đơn giản thôi, vậy mà em tôi vất vả quá. Em gái tôi vẫn cố ôm chặt con vào lòng.” Keiko cũng chẳng biết giận dữ, cô coi những sai phạm của người khác là chuyện bình thường, kiên trì nhắc nhở chứ không bao giờ cáu gắt thực sự – nếu có, đó chẳng qua là sự bắt chước cảm xúc từ những người xung quanh, để bản thân không bị coi là “hàng dỏm”, cô luôn cố gắng để hòa nhập. Rõ ràng là Furukura Keiko không bị thiểu năng trí tuệ, không có vấn đề gì về năng lực suy nghĩ, nhưng logic của cô lại không giống như một “con người” bình thường, không có hỉ nộ ái ố, mà lại căn bản như một động vật máu lạnh –  có thể bắt chước, có thể làm theo chỉ thị, có thể thực hiện theo quy tắc – nhưng không thể lý giải được những suy nghĩ, tình cảm đơn giản của người bình thường. Theo thời gian điều đó vẫn không thay đổi. Cho đến khi cuộc đời Keiko vấp phải gã hèn mọn Shiraha Cuộc đời Keiko và Shiraha va vào nhau vì một quan niệm của xã hội, rằng trưởng thành là phải kết hôn, sinh con. Shiraha là một gã đàn ông tuổi tầm 35, cao cỡ 1m80, gầy đét, dáng đi khúm núm, lòng khòng như cái móc áo, đeo cặp kính trông như sợi dây thép bám lấy mặt, đôi mắt trũng lõm sâu, làn da khô quắt… Shiraha là một tổng thể của mâu thuẫn. Gã xin được làm việc ở cửa hàng tiện ích nhưng lại kỳ thị chính cái nghề này. Gã cho rằng cuộc sống bản thân khó khăn là do quan niệm xã hội về tiêu chuẩn một cuộc sống thành công, nhưng lại lấy chính cái lý luận đó để khinh thường Keiko. Gã ghét cay ghét đắng những cổ hủ của thời Jomon (thời kỳ đồ đá mới ở Nhật Bản) nhưng lại luôn lảm nhảm về nó, thậm chí lấy nó để ngụy biện cho những hành vi sai trái của mình. Khác với Keiko, Shiraha hoàn toàn bình thường, gã có thể hiểu và lý giải mọi logic tình cảm của con người. Nhưng vì bản tính lười biếng, gã không tiền tài, không nghề ngỗng, không chỗ ở. Gã luôn đổ lỗi cho xã hội thay vì cố gắng để đạt được cái mình muốn bằng năng lực của bản thân. Gã luôn giậm chân tại chỗ và ôm cái ý nghĩ “tôi không làm việc nhưng tôi có tầm nhìn, chỉ cần khởi nghiệp là bọn con gái sẽ bám theo cả đàn.”  Rồi khi bám được vào cuộc sống của Keiko, được cô cho ăn ở miễn phí, gã thu mình trong phòng tắm, dự định mọc rễ ở đấy, không ra ngoài, không gặp ai nữa. Gã, thực sự là một gã hèn đúng nghĩa. Dù chưa phải nam chính, nhưng nhờ sự xuất hiện của Shiraha và sau đó là chuỗi ngày cuộc sống đảo trộn vì gã, Keiko đã hiểu được giá trị tồn tại của bản thân trên thế giới này. Bi kịch của cá nhân khi bị đóng khung trong cái nhìn của xã hội  “Thế giới bình thường rất nguyên tắc, nó âm thầm loại bỏ dị vật. Người không ra gì sẽ bị đào thải.” Bi kịch của Keiko và Shiraha diễn ra vì họ không theo đúng quy chuẩn mà xã hội đã áp đặt lên mọi người, cái quy chuẩn tạo nên khuôn khổ của một con người bình thường, một con người thành công, mà nếu như không đi theo quy chuẩn đó, con người sẽ bị lên án, bị kỳ thị, bị đào thải. Sự khác biệt giữa Keiko và Shiraha rất rõ ràng. Dù Keiko bẩm sinh đã khiếm khuyết khả năng lý giải logic tình cảm của con người bình thường, nhưng cô chấp nhận che đậy cái kỳ lạ của bản thân và hóa thân vào một con người bình thường, cố gắng hòa nhập, cuối cùng tìm được giá trị đích thực của bản thân. Còn Shiraha dẫu sinh ra có vẹn toàn cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng, nhưng với tính cách tích hợp giữa trịch thượng và tự ti, trên tất cả là sự lười biếng và không cầu tiến, gã tự biến mình thành đồ bỏ đi của xã hội. Cửa hàng tiện lợi trong “Konbini Ningen” là tấm gương phản chiếu cuộc sống đời thực, các bộ phận thay đổi, nhưng toàn bộ vẫn giữ nguyên. Và có lẽ con người vẫn bị mắc kẹt trong mô hình xã hội lỗi thời, mặc dù con người hiện đại cảm thấy bản thân tiến hóa hơn người thời đại trước. Có một cuốn cẩm nang được truyền lại từ đời này sang đời khác, là kết hôn, sinh con, và kiếm càng nhiều tiền càng tốt. Bất cứ ai không đáp ứng theo tiêu chuẩn đó sẽ được thuyết phục đi đúng đường hoặc bị tẩy chay. Đó là một xã hội chứa đựng ảo tưởng về những thứ mà nó gọi là bình thường, và những thỏa thuận ngầm của con người về một cuộc sống có thành công hay không. Người ta dựa vào cẩm nang đó, rồi tự cho bản thân cái quyền đánh giá, phán xét về đời tư của người khác. Thế nhưng, thành công và hạnh phúc là khái niệm trừu tượng không thể quy ra bằng tiêu chuẩn kết hôn, sinh con, nhiều tiền. Sống chăm chỉ bằng đồng tiền lương thiện do công sức mình bỏ ra không có gì là sai trái, dẫu đó có là công việc bán thời gian ở cửa hàng tiện lợi. Sống độc thân, và cảm thấy tự do, thỏa mãn, đủ đầy thì cũng không có gì đáng trách cả. Vì sao gọi là dư luận? Vì “luận” nhiều quá cho nên “dư”! Người ta nói nhiều nhưng người ta có sống giùm bản thân người được đâu? Sống mà cứ phải để ý đến ánh mắt người đời thì khó mà hạnh phúc được. Cứ lương thiện mà làm công việc người thích, sống theo cách khiến người thoải mái. Mỗi người đều tìm được an yên trong lòng thì xã hội sẽ bớt “đáng sợ” hơn cái xã hội trong “Konbini Ningen”, hay cũng chính là xã hội ngày nay của con người. Nhà văn Nguyễn Thanh Việt – tác giả cuốn The Sympathizer thắng giải Pulitzer Prize – đã có lời nhận xét về tác phẩm “Konbini Ningen”: “Một bản khảo sát khôi hài, tăm tối, gây chấn động sâu sắc về đời sống đương đại, về sự xa lánh, về chủ nghĩa tư bản, ý thức cá nhân, và sự quy hàng các ước lệ xã hội. Dù ở Nhật Bản hay đâu khác, chúng ta đều đã từng đặt chân vào cửa hàng này.” Giải mã tựa đề gốc của tác phẩm – “Konbini Ningen”  “Konbini” bắt nguồn từ chữ “Konbiniensu sutoa”, tức là “Convenient store” trong tiếng Anh, được người Việt biết đến với phiên âm “Combini” – Cửa hàng tiện ích kiểu Nhật Bản: mở cửa 24 giờ một ngày, bán các loại thực phẩm và vật dụng cá nhân hàng ngày, bao gồm cả đồ ăn nhanh, đồ gia dụng và tạp chí, theo kiểu tự phục vụ, với khu vực kệ hàng chiếm hơn 50% tổng diện tích. “Ningen” là cách phiên âm Romaji, nghĩa tiếng Việt là “con người”. Ngoài ra, ít ai biết rằng “Ningen” còn là tên của một loài sinh vật biển hình người ở Nam Cực. Tương truyền, thủy thủ các tàu đánh cá voi nghiên cứu do chính phủ quản lý đã mục sở thị loài sinh vật được gọi là “Ningen” này, kể lại rằng chúng có cơ thể màu trắng với chiều cao ước chừng 20 đến 30 mét. Những người chứng kiến mô tả “Ningen” có hình dáng giống người, có chân, có tay và bàn tay năm ngón. Đặc điểm về khuôn mặt có thể nhìn thấy là mắt và miệng. (Theo Pink Tentacle) Suốt nhiều năm, ở Nhật Bản lan truyền lời đồn đại về sự tồn tại của sinh vật biển to lớn hình người sống ở Nam Cực, giới khoa học không nghi ngờ gì việc Nhật Bản đang âm thầm nghiên cứu “Ningen” và đặt ra nghi vấn: Bao giờ thì người Nhật tiết lộ “Ningen”? Vậy thì, “Ningen” thể hiện xuyên suốt  trong “Konbini Ningen”, với nghĩa “con người” (hay “cô nàng” như bản dịch tiếng Việt, thậm chí là “woman” trong bản dịch tiếng Anh) có đủ để lột tả được nhân vật mà Murata Sayaka xây dựng hay không? Hay nhân vật chính Furukura Keiko – “Ningen” trong tựa đề của tác giả – đích thị là một cá thể dị biệt trong xã hội loài người? Murata Sayaka – một trong những nhà văn đương đại thú vị nhất Nhật Bản  Nữ văn sĩ Murata Sayaka là một nhà văn, đồng thời cũng là một nhân viên bán thời gian tại cửa hàng tiện lợi. Có lẽ vì thế mà trong tác phẩm “Konbini Ningen”, cô đã cho độc giả cái nhìn rõ nét và chân thực hơn về công việc nhân viên cửa hàng tiện ích nói riêng và cuộc sống của người Nhật Bản nói chung. Sayaka sinh năm 1979 tại thành phố Inzai, tỉnh Chiba. Năm 2003, tiểu thuyết Jyunỹu (Breastfeeding) của cô đã đoạt Giải thưởng Gunzo dành cho nhà văn trẻ. Đến năm 2013, cô giành giải thưởng Mishima Yukio nhờ tác phẩm Shiro-iro no machi no, sono hone no taion no (Of Bones, Of Body Heat, of Whitening City). “Konbini Ningen” là cuốn tiểu thuyết đầu tiên của Sayaka được dịch sang tiếng Anh. Sách đã bán được hơn một triệu bản tại Nhật Bản và sau đó được dịch ra 20 thứ tiếng khác nhau trên thế giới. *** [Review Sách] Cô nàng cửa hàng tiện ích – Murata Sayaka “Cô nàng cửa hàng tiện ích” trong tên sách là Furukura Keiko, một người phụ nữ 36 tuổi đã làm việc ở cửa hàng tiện ích suốt 18 năm kể từ ngày đầu khai trương. “Cô nàng cửa hàng tiện ích” trong tên sách là Furukura Keiko, một người phụ nữ 36 tuổi đã làm việc ở cửa hàng tiện ích suốt 18 năm kể từ ngày đầu khai trương. Nhắc đến việc làm ở cửa hàng tiện ích, những người khác đều chỉ coi đó là công việc tạm thời dành cho sinh viên, các bà nội trợ, hay một vài trường hợp chưa tìm được việc làm ổn định. Thế nhưng, với Keiko, công việc ở cửa hàng tiện ích này là mối liên kết duy nhất giữa cô cùng thế giới xung quanh. Từ nhỏ đến lớn, cô chưa bao giờ được coi là một người bình thường; thậm chí, mỗi lần nhắc về cô, mẹ và em gái lại mắt rơm rớm lệ, chỉ mong một ngày nào đó cô “khỏi bệnh” và trở về ra dáng một người bình thường. Hồi nhỏ, khi thấy một chú chim nhỏ chết ở công viên, thay vì khóc thương và chôn chú chim như những đứa trẻ khác, Keiko lại cầm xác của chú chim đến trước mặt mẹ và ngỏ ý muốn đem xác chim về nướng lên ăn. Trước sự ngạc nhiên cùng sợ hãi quá đỗi của người mẹ, cô vẫn không lý giải được tại sao mình phải chôn chú chim nhỏ, phải biết thương tiếc và buồn đau một sinh mệnh vừa lìa đời. Lần khác, Keiko đã ngăn cản vụ bạo lực ở trường tiểu học bằng cách thức “nhanh nhất”: Cô lấy chiếc xẻng làm vườn phang thẳng vào đầu đứa bạn đang gây gổ. Trong khi xung quanh hét lên ầm ĩ, thầy giáo “nổi cáu một cách vô lý”, còn mẹ không ngừng gập đầu nói lời xin lỗi trước hội đồng, Keiko vẫn chẳng hiểu mình đã làm sai điều gì – vì chẳng phải, đứa trẻ kia ôm đầu, ngã xuống, nằm im bất động, và vụ ẩu đả đã kết thúc sao. Lớn lên, cô chứng kiến cảnh cô giáo mất kiểm soát, đám học sinh khóc thút thít, Keiko đã chạy lên tụt cả váy lẫn quần lót trước mặt cô để cô đừng gào thét thêm nữa. Cô làm vậy vì từng xem chương trình trên TV, người ta sẽ im lặng khi con gái bị tụt quần áo. Mẹ Keiko lại bị gọi lên trường một lần nữa, trên đường về, mẹ vừa ôm cô vừa nghẹn ngào trong câu hỏi không có lời hồi đáp: “Tại sao, sao con không hiểu hả Keiko…”. Giữa tiếng nấc nhói lòng của mẹ, Keiko nhận ra mình lại làm điều gì đó sai, nhưng cô vẫn không thể hiểu và nhận định được mình đã sai ở đâu. Cô dần dần hình thành nhận thức, suy nghĩ về sự khác biệt giữa mình và mọi người. Cô quyết định lựa chọn lặng im không lên tiếng, bởi cô nghĩ nếu không nói sẽ không có sai lầm nào xảy ra, bố mẹ sẽ không phải đi xin lỗi những người khác thêm nữa. Từ nay, Keiko sẽ sống theo 2 cách: Bắt chước hoặc làm theo chỉ thị. Chính lựa chọn cách sống như vậy, cô tìm thấy môi trường sống lý tưởng cho mình, chính là cửa hàng tiện ích. Ở trong không gian được bao bọc bởi 4 lớp kính, sinh vật được gắn mác “nhân viên cửa hàng tiện ích” bắt buộc phải làm mọi thứ theo chỉ thị và khuôn mẫu. Mọi việc diễn ra trong chiếc hộp kính này đều có khuôn khổ và quy tắc rõ ràng, đến cả biểu cảm và cách trò chuyện cũng được xếp đặt sẵn. Nếu lúc trước, cô không biết mình phải bộc lộ cảm xúc thế nào trước mỗi câu chuyện mình nghe, thì giờ đây, cô có thể bắt chước học theo video mẫu. Lần đầu tiên trong cuộc đời, Keiko “được trở thành một bộ phận của thế giới”; trong giây phút ngày mới bắt đầu, thế gian tỉnh giấc, âm thanh hỗn tạp của cửa hàng tiện ích đã “bơm” vào trong cô sự sống – thứ sự sống bình thường mà chưa từng len lỏi trong máu, trong tế bào của cô. Giống như kệ đồ tạp hóa, máy pha cà phê,… Keiko thấy mình chính là một phần của cửa hàng này. Mặc cho vẻ ngoài đã được điểm tô đôi chút bởi dáng dấp của người bình thường, sâu trong Keiko vẫn không có nổi một cảm xúc “bình thường” nào. Cô đi làm đúng giờ, làm việc cả kì nghỉ, không bao giờ tức giận trước khách hàng, càng chưa một lần mất bình tĩnh trước bất cứ ai. Cô có thể bắt chước cách ăn vận và nói năng từ những người đồng nghiệp, có thể giả bộ trở thành một phần trong những buổi nói chuyện của bạn bè, nhưng cô vẫn như vậy: Cô không biết tại sao phải tốn công dỗ đứa bé không khóc nữa, trong khi trên bàn có sẵn con dạo nhọn hoắt. Mọi hành động và phản ứng của cô đều là bản sao cóp nhặt từ nhiều người, để bản thân cô không giống một kẻ ngoài luồng hay bị coi là “hàng dỏm”. Với bản thân, cô cảm thấy mình là một loài động vật máu lạnh, không những chẳng có cảm xúc mà còn chẳng lý giải nổi cảm xúc của người xung quanh. Keiko là một mặt hàng, một thứ đồ vật, một sự tồn tại đang cố gắng bám trụ lại trong xã hội loài người.  Thế nhưng, tất cả đều thay đổi khi gã đàn ông tên Shihara bước vào cuộc đời cô. Gã là một kẻ đớn hèn, không nghề không ngỗng, không biết nỗ lực cố gắng, luôn thù hằn và chỉ trích xã hội một cách không ngừng. Gã giống Keiko ở điểm bị biệt lập bởi những quy chuẩn của xã hội. Gã cho rằng, xã hội hiện đại nào có gì khác xã hội thời Jomon (thời kỳ đồ đá ở Nhật Bản), khi loài người được định nghĩa bởi giống cái - giống đực, khi sự tồn tại của một cá thể chỉ để phục vụ sự sinh sôi nảy nở của bộ tộc, khi chỉ những gã đực rựa săn bắn giỏi mới có được những cô đẹp nhất làng,… Gã khác Keiko ở điểm gã có thể lý giải mọi cảm xúc của con người, gã hoàn toàn không coi mình là mặt hàng, hay đồ vật, hoặc một sinh vật gọi là “nhân viên cửa hàng tiện ích” như Keiko. Vậy mà, gã chỉ được cái miệng luôn nói về lý tưởng khởi nghiệp chắc chắn thành công của mình, nhưng chưa một lần gã thực sự chăm chỉ, phấn đấu cho cái ý tưởng hoàn mỹ của gã.  Shihara lựa chọn cuộc sống ăn bám Keiko, để trốn đi những định kiến xã hội thúc ép gã bấy lâu. Gã đổ mọi tội lỗi lên đầu thứ gọi là “xã hội”, bởi nó là thứ khiến gã buộc phải sống cuộc đời như những người khác: Làm việc, kết hôn, sinh con. Luôn trốn chui trốn lủi những “nghĩa vụ” phải mang, gã hèn mọn đến cùng cực: Một kẻ phẫn hận xã hội loại người, nhưng cũng chính gã lại áp những quy chuẩn ấy lên người Keiko, rồi hả hê đay nghiến, coi thường, và tự nâng vai trò của mình lên. Shihara sinh ra với đủ đầy nhận thức cùng xúc cảm, nhưng gã biếng lười và cố tìm cách đổ lỗi cho mọi sự thành bại, đến cùng cái xã hội gã căm ghét ấy cũng từ chối sự tồn tại của gã. Gã trở thành một kẻ bỏ đi, rồi chính vì sự khước từ đó, gã lại tìm cớ đổ lỗi cho những quy chuẩn của xã hội. Thế nhưng, gã thực sự căm hận cái xã hội ấy sao, hay chăng gã muốn được làm một phần của cái xã hội ấy, nên mỗi câu chửi của gã lại vẽ nên một hình mẫu mẫu mực? Trái ngược gã, Keiko sinh ra với sự khuyết thiếu về mặt cảm xúc, nhưng cô chưa từng ngừng cố gắng hòa nhập, để được trở thành một phần của những người bình thường. Cuối cùng, cô tìm thấy ý nghĩa của cuộc đời mình ở cửa hàng tiện ích. Đó là thế giới của những quy chuẩn, nguyên tắc, định kiến,… hoặc, có thể nói là của tất cả những gì gò bó nhất. Đồng thời, đó cũng là thế giới bất ổn định trong mắt những người bình thường đang đeo đuổi một cuộc sống hạnh phúc. Hóa ra, hạnh phúc không nằm ở việc ta có bao nhiêu tiền, con của ta học giỏi nhường nào, xã hội trọng vọng ta ra sao,… Hạnh phúc nằm ở việc ta cảm thấy hạnh phúc, cảm thấy được thuộc về, cảm thấy những cố gắng và nỗ lực của mình là xứng đáng.  Mỗi người có một đích đến hạnh phúc khác nhau, mỗi người có một định nghĩa thành công khác nhau, mỗi người có một nỗi đau khôn nguôi khác nhau, mỗi người có một lẽ sống của riêng mình. Xã hội hiện đại khác với xã hội thời Jomon ở chỗ, rất nhiều cuộc sống và mảnh đời không trùng lặp đang cùng tồn tại. Miễn là chúng ta không bỏ cuộc, rồi một ngày chúng ta sẽ tìm được “cửa hàng tiện ích” của mình, giống Keiko đã tìm ra ở cuối truyện. Mời bạn đón đọc Cô Nàng Cửa Hàng Tiện Ích của tác giả Murata Sayaka & An Vy (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Ở Đâu Đó Có Điện Thoại Gọi Tôi
Đây là quyển sách đầu tiên mà tôi đọc của Shin Kyung Sook, mặc dù lúc đó cô đã rất nổi tiếng tại Việt Nam qua quyển "Hãy chăm sóc mẹ". Nhưng điều khiến tôi chọn quyển sách này, trong vô số quyển sách có tại nhà sách Phương Nam gần ngôi chợ Đà Lạt lúc đó, không hề dính dáng gì đến sự nổi tiếng của Shin Kyung Sook. Tôi chọn sách này mang theo trong hành trình bất chợt của mình vì lời văn ở những trang đầu tiên quá đẹp, quá đỗi khiến người ta rung động đến độ không thể bỏ qua. Và càng đọc, tôi càng tự hỏi, vì sao quyển sách có thể sánh với Rừng Nauy thế này dường như lại ít được giới thiệu. Hay vì nó được giới thiệu ở đâu đó mà tôi không hề hay biết? Có thể là vậy chăng? Là quyển tiểu thuyết thứ 7 của Shin Kuyng Sook – "Ở đâu đó có điện thoại gọi tôi" chọn một chủ đề tương tự như Rừng Na Uy của Haruki Murakami, chỉ khác bối cảnh của nó diễn ra ở Hàn Quốc, những năm 80. Và một lần nữa, người ta trông thấy nỗi buồn, sự hoang mang đan xen niềm tin yêu, khát vọng, ngây thơ của tuổi trẻ. Tất cả được thể hiện một cách vẹn toàn và rực rỡ qua giọng kể mang đậm tính hướng nội của nhân vật tôi trong truyện. Câu chuyện của "Ở đâu đó có điện thoại gọi tôi" bắt đầu một cách nhẹ nhàng, như một viên sỏi nhỏ ném xuống mặt hồ phẳng lặng, một cú điện thoại từ nơi nào gọi đến cho nhân vật "tôi". Cú điện thoại bắt nguồn từ anh, một người tám năm không gặp, để báo cho cô biết người thầy mà họ từng thân thiết thời sinh viên giờ sắp qua đời. Cú điện thoại gợi lại cho nhân vật tôi những gì đã chìm sâu dưới mặt hồ. Rồi mỗi lúc kí ức mỗi về tràn về một cách chân thực. Để rồi người đọc đắm chìm trong những kỉ niệm sâu sắc của nhân vật tôi: “Vào lúc đó, ở nơi đó, nếu không gặp được họ, tôi làm cách nào trải qua những ngày tháng ấy đây?” Tôi, người kể nên câu chuyện của mình là một cô gái cô phần nào cô độc, mang trong mình nỗi day dứt vì không được sống cùng người mẹ đang bệnh nặng của mình. Cô đến thành phố, ở nhà chị họ, học một trường nghệ thuật, ở trong một căn phòng tự tay dán kín cửa sổ. Ở đó, cô gặp anh, con người chín chắn, ấm áp và trông thấy cô giữa trăm ngàn người, thấy vẻ đẹp bên trong ẩn sâu sự chật vật của cô. Ở ngôi trường nghệ thuật đó, cô gái nhỏ gặp người thầy gầy gò mà hiền từ, người đã đặt ra câu hỏi cho vô số sinh viên hay cho chính mình: trong thời đại này thì nghệ thuật có thể làm gì? Cũng tại nơi đó, trong thời thanh xuân cô gặp cô gái xinh đẹp ấy, cô gái luôn tự giấu đi đôi tay bị thiêu cháy. Và thanh xuân của cô, có một cậu bạn thầm thích cô, cậu bạn trong quân ngũ viết cho cô những bức thư đầy nhiệt huyết tuổi trẻ. Cuối cùng, sự ra đi của cậu không lời giải thích. Cùng nhau trải qua thanh xuân trong niềm dự cảm “sẽ không có ngày nào diễn ra hai lần”, trong những ngày xã hội hoang mang, đầy những cuộc biểu tình và biến động. Họ chỉ cùng nhau ăn cơm, đi bụi, lắng nghe nhau và kể chuyện, trong lúc lòng mỗi người đều âm ỉ sóng ngầm. Họ đã tìm thấy nhau. Rồi đánh mất nhau. Như bao câu chuyện đời thường khác. Mà sự tìm thấy và đánh mất đó mang ý nghĩa đích thực của cuộc đời. Shin Kyung Sook đã chinh phục người đọc qua giọng văn như rút ruột của mình, tuy nhiên trong quyển tiểu thuyết này, khả năng viết và kiến tạo câu chuyện của cô đã vượt qua được lối “tự sự cá nhân”, phát triển thành một thế giới riêng hoàn chỉnh, trở thành một câu chuyện của chính nó, chứ không còn là một câu chuyện của tác giả. Sự đánh mất và tìm thấy của câu chuyện mang ý nghĩa đích thực của cuộc đời. Như người ta cô độc để mạnh mẽ, đánh mất để tìm thấy, đó là những điều mà người ta phải dùng thanh xuân của mình để trải qua. Những trích đoạn hay trong tác phẩm: Thuộc tính của ký ức chính là chỉ nhớ thứ mình muốn nhớ. Hình ảnh mà ký ức gợi lại xen lẫn trong cuộc sống của chúng ta, bởi vậy đừng bao giờ tin ký ức của ta hay của ai đó là chuyện thực đã xảy ra. Nếu có người khăng khăng nhấn mạnh rằng Tôi đã nhìn thấy tận mắt, thì ta biết trong lời nói ấy trộn lẫn cả niềm hy vọng của chính người đó, và trái tim anh ta cất giấu mong muốn coi đó là sự thật. ... Tôi từng cho rằng việc hiểu rõ về nhau và cùng nắm giữ một bí mật nào đó, sẽ làm cho mối quan hệ thêm gắn bó. Tôi cũng từng vì muốn làm thân với một người mà thổ lộ cả những bí mật không thể nói.Để rồi đến ngày hôm sau, chứng kiến cái bí mật quý giá mà mình vốn chỉ cất giữ trong tim ấy bỗng chốc được truyền từ miệng người này sang miệng người khác, tôi đã thấy vô cùng mất mát.Tôi đã nghĩ rằng, biết đâu việc thổ lộ tấm lòng với một ai đó, không làm chúng ta trở nên thân thiết hơn, mà chỉ khiến bản thân khó xử.Biết đâu để trở nên gần gũi với một ai đó, ngược lại chỉ cần cùng đồng cảm trong yên lặng mà thôi. ... Tôi nghĩ rằng: Thời khắc đau khổ nhất của con người là khi không có ai để nghĩ tới. ... Giá như có ai hứa với mình thì tốt biết mấy. Rằng không có việc gì là vô nghĩa. Giá như có điều gì đó như là lời hứa để tin thì tốt biết mấy. Rằng sau quãng thời gian khủng khiếp, bất an, cô độc vì bị ruồng bỏ, sẽ có sự thay đổi nào đó... *** Shin Kyung-sook sinh năm 1963 trong một gia đình nghèo sống tại một ngôi làng nhỏ ở miền Nam Hàn Quốc. Không có điều kiện vào trường trung học, mười sáu tuổi cô lên Seoul lao động kiếm sống. Shin Kyung-sook khởi nghiệp viết văn năm 1985 và sớm gặt hái thành công. Các tác phẩm của cô luôn có lượng độc giả lớn và nhận được nhiều giải thưởng văn học trong nước cũng như trong khu vực. Với Hãy chăm sóc mẹ Shin Kyung-sook trở thành nhà văn châu Á nổi bật nhất năm 2009. Tác phẩm: Hãy chăm sóc mẹ Ở Đâu Đó Có Điện Thoại Gọi Tôi Chuyện kể trăng nghe Cô gái viết nỗi cô đơn ... *** Anh. Đến. Đó. Nhé? Đến tám năm rồi anh mới gọi điện thoại cho tôi. Tôi nhận ra ngay giọng anh. Tiếng "Alô" ở đầu dây bên kia vừa dứt, tôi liền hỏi: Anh đang ở đâu? Và anh lặng thinh. Tám năm, một quãng thời gian dài. Nếu lấy một giờ đồng hồ làm đơn vị rồi gỡ quãng thời gian ấy ra, có lẽ sẽ được một con số khổng lồ nằm ngoài tưởng tượng. Nói là tám năm, nhưng tám năm trước, chúng tôi đã từng gặp gỡ, từng nhìn về những hướng khác nhau, từng nhẹ nhàng nắm tay, rồi buông tay, vì điều gì chẳng còn nhớ nữa. Tất cả là vậy.   Tôi không còn nhớ đấy là đâu. Chỉ nhớ vào một đêm mùa hè, đã quá nửa đêm, trước một cầu thang dốc đứng nơi ngõ ngách sâu hoắm nào đó trong thành phố này. Tôi đã tiến đến và nắm lấy tay anh. Ngay gần đó là một cửa hàng hoa quả, hương mận thoảng đến rồi thoảng đi trong bầu không khí hầm hập đặc quánh. Tôi nắm tay anh rồi buông tay thay cho lời từ biệt. Còn anh không biết lúc đó đang suy nghĩ gì. Những điều tôi muốn nói với anh đọng lại trong lòng như những hạt ngọc trai. Tôi chẳng thể nói được câu Anh đi nhé, hay Hẹn gặp lại. Có lẽ cũng như khi xâu vòng bị đứt, các hạt trên sợi dây trong thoáng chốc sẽ rơi lách tách xuống sàn, nếu trót lỡ lời một câu thôi thì những lời nói lỗi thời sau đó cũng sẽ tuôn ra ào ào chẳng thể nào níu giữ. Chúng tôi đã cùng giữ chặt lấy khoảng thời gian sâu nặng có cùng nhau, nên nếu mọi thứ vỡ òa sẽ chẳng thể nào kiềm chế nổi tình cảm, vì vậy dù nội tâm đang vô cùng phức tạp nhưng ngoài mặt tôi vẫn cố ngụy trang bằng vẻ điềm nhiên lạnh nhạt. Chúng tôi không muốn xáo tung những ngày cùng kiếm tìm nhau, cùng dựa vào nhau theo cái cách như thế. Dù là tám năm trước hay bây giờ, thời gian đều công bằng với tất cả. Giây phút tôi lạnh lùng hỏi anh - người mà tám năm rồi mới gọi điện thoại cho tôi, Anh đang ở đâu, tôi mới nhận ra, những điều chưa thể nói với anh đã chẳng còn đọng lại trong tôi nữa. Tôi chẳng cần phải giả bộ rằng mình sống rất tốt để giấu đi cảm xúc mãnh liệt trong lòng. Anh đang ở đâu? Tôi thực sự đã hỏi anh đầy lạnh lùng như vậy. Những câu nói đã từng khiến tôi đi lang thang vô định - ôm trong lòng nỗi nghi hoặc và đau buồn đà đi đâu cả rồi? Cả những đắng cay ấy nữa?   Tôi đưa mắt nhìn ra ngoài cửa sổ. Trong khi sự im lặng lặng lẽ trôi giữa hai chúng tôi thì ở bên bậu cửa, ánh nắng của buổi sáng mùa đông đã tràn vào. Dự báo thời tiết đêm qua nói rằng hôm nay có tuyết rơi nhưng chẳng có vẻ gì là tuyết sẽ rơi cả. Chỉ là một sớm tinh mơ khi những tia nắng ban mai vẫn còn đọng lại. Nếu không phải người trong gia đình hay bạn bè rất thân thiết, hẳn sẽ ngần ngại với những cuộc điện thoại trong khoảng thời gian này. Gọi điện thoại vào lúc này thường vì có việc gấp, hay để báo tin tức gì đó chẳng lành. - Giáo sư Yun đang ở bệnh viện. - … - Anh nghĩ phải báo tin này cho em. Tôi nắm chặt lấy ống nghe bằng cả hai tay. Tôi quên mất điều định nói, chớp mắt, thu lại ánh nhìn đang hướng về phía khung cửa. Anh nghĩ phải báo tin này cho em. Lời nói của anh như bông tuyết bay là là trước mắt tôi. Tôi nghiền ngẫm giọng nói của anh như thể muốn giữ chặt lấy lời nói ấy, khe khẽ nhấc mí mắt nặng nề. Thật khó tin, nhưng những bóng tuyết thật sự đang phản chiếu trên rèm chóp cửa sổ, - Hình như giáo sư nhập viện đã được ba tháng rồi. - … - Có lẽ phải chuẩn bị dần đi thôi. Giáo sư nhập viện đã được ba tháng rồi ư? Tôi vô thức bật ra một tiếng thở dài. Trong giây lát, cảm giác oán trách giáo sư Yun chợt dâng lên rồi lại lắng xuống. Lần cuối tôi gặp giáo sư Yun là ba năm trước. Giáo sư Yun, cũng giống như mẹ tôi, bệnh tình càng nặng lại càng muốn được ở một mình. Ông không hề vui khi có người đến thăm. Chẳng biết tự khi nào, giáo sư Yun đã trở thành một thực thể cô độc nằm trong căn phòng mà chỉ có thể bước vào sau khi đi qua rất nhiều cánh cửa đóng chặt. Ngay cả trước cái chết, ông vẫn nghiêm khắc và thực lòng muốn ở một mình. Ba năm trước, vào một buổi sáng đầu năm mới tôi đã ra ngoài định đến tìm giáo sư Yun nhưng rồi giữa đường lại thôi, từ đó về sau cũng chẳng nghĩ đến chuyện gặp ông thêm lần nào nữa. Buổi sáng mùa đông bắt đầu năm mới ấy, tôi đã nghĩ dù sao cũng phải đến chúc Tết giáo sư Yun. Tôi biết rằng giáo sư Yun vì khó thở nên chẳng thể ngồi được lâu, nhưng tôi cũng chỉ cần đến nhìn ông chút thôi là đủ. Sáng hôm ấy trời âm u, tuyết rơi dày đặc. Tôi lái xe rất tệ. Nếu có xảy ra đôi co gì về vấn đề xe cộ thì không phải bàn cãi, đó chắc chắn là lỗi của tôi. Những bông tuyết lớn mau chóng biến thành các tảng tuyết, rồi gió Bắc thổi đến. Qua đỉnh núi này là đến căn nhà nơi giáo sư Yun ở một mình, nhưng chiếc ô tô chạy chênh vênh nguy hiểm trên con đường tuyết lại mắc kẹt trong một hố tuyết. Tôi không làm sao được, đành cứ để mặc xe ở đó, cuốc bộ trong cơn bão tuyết. Má tôi tưởng vỡ ra vì lạnh, gấu quần đông cứng như những trụ băng. Bước đi một lúc rồi ngoái lại nhìn, chỉ thấy tuyết phủ mờ cả vạt núi. Mỗi khi cơn gió xoáy nổi lên, những đụn tuyết chất đầy trên sườn núi lại bay trắng xóa khoảng không, cuốn xuống thung lũng. Bông tuyết lúc này trở nên xám đục. Tuyết càng lúc càng rơi dữ hơn, ngôi nhà của giáo sư Yun vẫn ở xa mờ mịt. Tiến lên nào, tiến lên nào, cho dù tôi có tự nhủ thì việc phải một mình đơn độc bước đi trên con đường tuyết vẫn càng lúc càng trở nén đáng sợ. Mỗi khi nghe thấy âm thanh của những cành thông bị tuyết đè gãy, lòng tôi bỗng dưng lại chung hẳn xuống. Chứng kiến đám cây cối lớn đang khô héo trong rừng không thể nào chiến thắng được sức nặng của tuyết, cuối cùng rầm một tiếng đổ gục, tôi vội quay người lại, cảm giác như chính mình vừa bị đánh ngã. Mời các bạn đón đọc Ở Đâu Đó Có Điện Thoại Gọi Tôi của tác giả Shin Kyung-Sook.
Mùa Xa Nhà
Giới thiệu của nhà văn Nguyễn Đông Thức Đọc Mùa xa nhà: Một cuốn truyện hay về đời lính TT - Mùa xa nhà ra mắt bạn đọc khi cuộc chiến ở mặt trận Tây Nam Tổ quốc kết thúc đã 15 năm. Văn học thường cất tiếng quá chậm về đề tài chiến tranh, sau suốt từng ấy năm hầu như chưa có một truyện dài nào về cuộc chiến ác liệt này gây được ấn tượng với người đọc... 276 trang sách được dành để nói về cuộc sống và chiến đấu của chỉ một trung đội súng 12 li 7 thuộc một tiểu đoàn bộ binh VN đóng tại vùng Tây Bắc Campuchia, sát biên giới Thái Lan. Nhân vật chính là Huy, một chàng trai Sài Gòn đi nghĩa vụ quân sự, và các đồng đội trong trung đội của anh. Thời gian xảy ra khoảng từ năm 1984 đến 1987, lúc cuộc chiến đi vào cao điểm trước khi kết thúc. Chỉ với một trung đội và chỉ trong vài năm, thế nhưng tất cả những gì gọi là sự khắc nghiệt của chiến tranh vẫn xuất hiện đầy đủ trong Mùa xa nhà: những trận đánh ác liệt mà giữa sự sống và cái chết chỉ là một sợi chỉ mong manh; những cuộc hành quân liên miên với bao nhiêu là gian khổ, thiếu thốn - đặc biệt là chuyện thiếu nước uống trong mùa khô; nỗi nhớ nhà cùng sự cô đơn của người lính viễn chinh… Bao mất mát xé lòng trước sự ngã xuống của người đồng đội thân thiết nhất, để có thể nổi điên, có thể tự vẫn… Chân dung người lính từ đó cũng hiện ra hết sức đầy đủ: người anh hùng, kẻ hèn nhát; người chai sạn, kẻ yếu đuối… Thậm chí có cả những kẻ cầm súng đi cưỡng hiếp dân lành, để bị xử bắn…Trên tất cả sự khắc nghiệt đó là một thứ tình đồng đội chân thành, trong suốt, thương nhau còn hơn cả anh em trong nhà. Và tất nhiên, ở những người lính trẻ xa nhà, còn không thể thiếu chuyện tình yêu với các cô gái bản xứ - có người ở hẳn lại lập gia đình và sinh sống trên đất bạn, có người “chơi qua đường” cho xong thời gian nghĩa vụ, có người yêu thật lòng nhưng gặp phải sự tàn nhẫn của chiến tranh… Chân dung người lính đã đa dạng như vậy thì “lý tưởng cầm súng” cũng được trình bày không chút đơn điệu. Trở đi trở lại trong suy tưởng của Huy, của Quân… chính là một câu hỏi day dứt: Tôi đi sang đây chiến đấu và chết là vì cái gì? Liệu công việc này thật sự có ý nghĩa và cần thiết hay không?... Những câu hỏi đó, và cách mà mọi người tự tìm thấy câu trả lời cho mình để vẫn có thể yên tâm chiến đấu, mới chính là giá trị tư tưởng cao nhất của Mùa xa nhà. Nó cũng giúp cho cuốn truyện có được một sự chân thật đầy thuyết phục. Anh hùng rất đời thường. Ác liệt nhưng không bi lụy. Mọi thứ dường như đã được Nguyễn Thành Nhân viết ra quá dễ dàng, có cảm giác như anh đã viết một mạch chứ không phải suốt hai năm, "như rút ruột ra mà viết", theo lời anh tâm sự. Cho một phần tuổi trẻ của chính mình đã đi qua, cho những đồng đội đã nằm xuống. (Những đồng đội của tôi ơi! Mồ của các bạn đã được phủ lên bao nhiêu lớp cỏ úa mùa thu. Tên tuổi, hình ảnh của các bạn chỉ còn trong nỗi nhớ - những nỗi nhớ ngắn ngủi, bất chợt hiện ra trong giây lát, rồi lại chìm khuất dưới bao âu lo, suy tư của thực tế mỗi ngày. Điều quan trọng là tôi không được quyền quên!...). Mùa xa nhà nhắc người đọc nhớ hơn những điều không được quyền quên ấy, và xứng đáng được xếp vào danh mục những cuốn sách hay viết về chiến tranh. *** Nguyễn Thành Nhân sinh năm 1964 tại Sài Gòn. Tháng 3-1984, anh nhập ngũ và làm nghĩa vụ quốc tế tại Campuchia, lính sư đoàn 5 đóng ở Batdomboong, giải ngũ năm 1987 với cấp bậc thượng sĩ. Vừa làm bảo vệ sân bóng đá Thống Nhất, anh vừa học Đại học Luật, và tốt nghiệp cử nhân năm 1994. Mối giao tình khiến hiện nay anh vẫn ở lại làm việc tại văn phòng Liên đoàn Bóng đá TP.HCM. Cầm bút viết về cuộc sống của lính tráng như là một thôi thúc tự bên trong của Nhân. Mùa xa nhà được âm thầm viết trong hai năm, hoàn thành năm 1999, và nhân cuộc thi Văn học tuổi 20 lúc ấy vừa phát động, Nhân đã gửi tham dự. Được cả hai ban sơ khảo và chung khảo đánh giá rất cao, hoàn toàn có thể được giải cao nếu tác giả chịu chỉnh sửa đôi chút cho… bớt căng, nhưng lúc đó Nhân vẫn cương quyết giữ nguyên bản thảo. Giờ đây, sau bốn năm, có lẽ anh đã nghĩ lại… Thực tế thì không tác giả nào không muốn đứa con mình được chào đời, và không nhà xuất bản nào muốn tác phẩm sau khi vào tay mình lại dở hơn. Mùa xa nhà được in, không hề có chất lượng kém hơn, quan trọng nhất là vẫn giữ đủ mọi điều Nhân muốn nói… NGUYỄN ĐÔNG THỨC ((Báo Tuổi Trẻ - 17/09/2004) *** Điếu niệm Kính viếng hương hồn Tân, và những đồng đội của tôi. Tân, Tôi nhớ những ngày mùa đông năm 1985, tụi mình cùng nhau lặn lội bắt cá suốt ngày ở suối Phum Pô. Tôi đeo cái rộng cá lội bì bõm trong dòng nước mấp mé vai, nhũng nhẵng bám sau lưng Tân, chỉ để Tân bỏ vào đó những con cá lóc, cá lăng vừa mò được. Tôi nhớ những đêm cuối năm trời lạnh căm căm, tôi trùm thêm một chiếc áo lên vai, ngồi co gối bên ánh đèn đốt từ mỡ lon thịt hộp, trên đầu gối là một miếng gỗ ván dùng để lót trong thùng đạn, trong tay là một cây bút chì ngắn củn. Tôi vẽ Tchiete. Không biết tôi đã vẽ nàng lên bao nhiêu mảnh ván. Nhưng chỉ nhớ là cùng với những nét vẽ vụng dại, đơn sơ đó, tim tôi đã ấm áp lạ thường, máu tôi đã chảy rộn ràng, nóng bỏng trong từng huyết mạch. Tôi đã quên đi cái lạnh của khí trời và cái lạnh của sự cô đơn trong những đêm đông ấy. Tôi không ngủ vì đang yêu. Ðó là điều dễ hiểu, và là chuyện thường tình. Nhưng cả Tân cũng không ngủ được. Tân nằm trăn trở trên chiếc võng, im lặng nhìn tôi, nhìn ngọn lửa nhỏ xíu, lù mù của chiếc đèn dã chiến, thao thức cùng tôi. Thương tôi, hiểu tôi trong những ngày tháng đó, còn ai hơn Tân nữa. Tôi nhớ sau khi chuyển xuống đại đội, có một lần Tân ghé tôi chơi. Tân có vẻ buồn khi trông thấy tôi mặc một chiếc áo cũ. Vai áo sờn rách, chằng chịt những đường chỉ vụng về. Thật ra lúc ấy chúng ta đâu còn đến nỗi phải mặc rách, phải không Tân? Nhưng áo mới của tôi, tôi cũng đã cho người khác, một người anh kết nghĩa Khmer. Sau đó vài ngày, Tân đã gửi lên cho tôi chiếc áo mới của mình. Rồi không bao lâu sau lần gặp cuối cùng đó, Tân đã rời xa vĩnh viễn. Không chỉ một mình Tân, tôi đã mất biết bao nhiêu đồng đội, người rất là thân thiết, người vừa quen mặt mà chưa kịp biết tên, trong những tháng ngày xa quê đó. Tân ơi! Những đồng đội của tôi ơi! Mồ của các bạn đã được phủ lên bao nhiêu lớp cỏ úa mùa thu. Tên tuổi, hình ảnh của các bạn chỉ còn trong nỗi nhớ - những nỗi nhớ ngắn ngủi, bất chợt hiện ra trong giây lát, rồi lại chìm khuất dưới bao âu lo, suy tư của thực tế mỗi ngày. Ðiều quan trọng là tôi không được quyền quên! Trái tim con người còn đập trong lồng ngực chúng ta không được quyền quên! Tân! Ðã sắp đến ngày giỗ lần thứ mười một của Tân rồi đó. Tôi viết những dòng này, thắp một nén hương trong tâm tưởng, hoài niệm hương hồn Tân và tất cả những anh em khác. Cầu mong hương hồn các bạn sẽ tìm được an bình.   TP.HCM, Tháng 11-1997 Mời các bạn đón đọc Mùa Xa Nhà của tác giả Nguyễn Thành Nhân.
Đi Ra Từ Bóng Tối
Bộ ba tự truyện nổi tiếng của Dave Pelzer – câu chuyện khó tin và có giá trị truyền cảm hứng về cuộc đời của chính tác giả – đã thu hút sự quan tâm theo dõi của hàng triệu độc giả trên toàn thế giới. Đi Ra Từ Bóng Tối là phần kết thúc được chờ đợi từ rất lâu trong bộ ba tác phẩm: Không Nơi Nương Tựa (A Child Called “It”), Đứa Trẻ Lạc Loài (The Lost Boy) và Đi Ra Từ Bóng Tối (A Man Named Dave). Câu chuyện là hồi kết cho cuộc đấu tranh sinh tồn không ngừng của cậu bé David đáng thương qua bao năm tháng sống trong sự bạo hành về thể xác lẫn tinh thần do chính người mẹ ruột gây ra. Câu chuyện đưa người đọc đi cùng chàng trai tên Dave qua những khúc quanh cuộc đời để trở thành một người đàn ông trưởng thành, đầy khát vọng sống. Giấc mơ cuộc đời, thất bại đắng cay, vinh quang ngọt ngào và hạnh phúc vẹn tròn là những gì người đọc sẽ cảm nhận được bằng những rung cảm chân thật nhất, sâu sắc nhất đằng sau những trang sách sống động của Đi Ra Từ Bóng Tối. Chàng thanh niên tên Dave sẽ phải đối diện như thế nào trước sự thật rằng cha mình - vị anh hùng trong những giấc mơ thuở bé của cậu - sẽ không còn sống được bao lâu nữa? Cậu sẽ làm gì với tâm nguyện một lần được trò chuyện với cha như bao đứa con trai bình thường khác khi ông thậm chí còn không đủ sức để siết nhẹ bàn tay cậu? Cậu sẽ đối xử như thế nào với người mẹ nghiện ngập, tàn bạo người đã chối bỏ sự tồn tại của con trai mình và đem đến bao nỗi kinh hoàng cho tuổi thơ của nó? Và cuối cùng, liệu có ai đó để cậu yêu thương, tin tưởng và giúp cậu lấy lại niềm tin vào tình cảm thiêng liêng của gia đình hay không? Đi Ra Từ Bóng Tối sẽ lần lượt giúp người đọc tháo gỡ tất cả những nút thắt ấy, dẫn dắt chúng ta tìm ra câu trả lời cho số phận của Dave, của từng nhân vật trong tác phẩm tự truyện. Và, có thể ở đâu đó trong tác phẩm, người đọc cũng sẽ tìm thấy câu trả lời cho cuộc đời của chính mình như những ai đã có may mắn được là người đầu tiên đọc và làm công việc chuyển ngữ cho bộ ba tác phẩm này vậy. Với sự bao dung vô biên và lòng can đảm tuyệt vời, Dave Pelzer đã làm nên một kết thúc hoàn hảo cho bộ ba tự truyện của mình cũng như cho chính cuộc đời của ông. Bằng kết thúc ấy, Dave Pelzer đã minh chứng một cách hùng hồn rằng: Không một thế lực, một xiềng xích nào có thể trói buộc được ý chí của con người. Ý nghĩa lớn lao này thật quý giá biết bao đối với những ai đang trên con đường đi tìm hạnh phúc đích thực trong cuộc sống. *** David James Pelzer sinh ngày 29/12/1960, là con trai thứ hai trong gia đình có năm người con trai. Tuy nhiên, mọi thứ trở nên vô cùng tồi tệ khi David bắt đầu bị mẹ ruột của mình hành hạ từ năm lên 4 tuổi. Sự ngược đãi mà David Pelzer phải chịu đựng nghiêm trọng đến mức nó đã trở thành một trong những trường hợp ngược đãi trẻ em tồi tệ nhất được biết đến ở Mỹ. Bộ ba tác phẩm Không Nơi Nương Tựa(1995), Đứa Trẻ Lạc Loài (1997) và Đi Ra Từ Bóng Tối (1999) tái hiện câu chuyện tuổi ngây thơ rúng động dư luận của ông. Dave Pelzer được xem là một trong những phát ngôn viên quốc gia làm việc hiệu quả nhất và đáng tin cậy nhất, chuyên hoạt động trong các nhóm hội, tổ chức chuyên nghiệp về dịch vụ nhân quyền. Dave đã nhận được những lời khen tặng từ đích thân cựu Tổng thống Ronald Reagan và George Bussh. Năm 1993, Dave được vinh danh là một trong mười Đại diện tiêu biểu nhất của Thanh niên Hoa Kỳ và năm 1994, Dave là công dân duy nhất của nước Mỹ vinh dự được trao tặng giải thưởng Thanh niên tiêu biểu nhất của thế giới. Dave còn được chọn làm người rước đuốc trong Thế Vận hội năm 1996. Dave đã cống hiến cả cuộc đời mình để giúp nhiều người khác thoát khỏi nghịch cảnh. Vượt qua một tuổi thơ u tối và nghiệt ngã, Dave trở thành một sĩ quan Không quân Hoa Kỳ. Trước khi về hưu, ông từng đóng vai trò quan trọng trong một số hoạt động mang tên Just Cause, Desert Shield và Desert Storm. Trong thời gian phục vụ trong không quân, Dave còn hoạt động trong Hội Trẻ vị thành niên và những chương trình khác về “Tuổi trẻ với những nguy cơ” trên toàn bang California. Những thành tựu đáng kể của Dave đã được thừa nhận bằng nhiều giải thưởng cũng như những nhận xét cá nhân của các cựu Tổng thống Ronald Reagan, George Bush và Bill Clinton. Năm 1990, ông là người được nhận giải thưởng J.C. Penney Golden Rule. Tháng 1 năm 1993, Dave vinh dự được bầu chọn là một trong mười thanh niên xuất sắc của Hoa Kỳ. Tháng 11 năm 1994, Dave là công dân Mỹ duy nhất được trao tặng giải thưởng Thanh niên tiêu biểu nhất của Thế giới ở Kobe, Nhật, vì những cống hiến của anh trong lĩnh vực thông tin và ngăn ngừa nạn bạo hành trẻ em cũng như cổ vũ tinh thần và truyền cảm hứng để người khác có được ý chí kiên cường. Dave còn vinh dự được rước đuốc trong Thế vận hội năm 1996. Dave hiện sống một cuộc sống hạnh phúc ở Rancho Mirage, California, với vợ, con trai Stephen và chú rùa cưng tên Chuck. Những hoạt động vì thanh thiếu niên của Dave Pelzer có thể được tìm hiểu thêm tại website: www.davepelzer.com *** Ngày 4 tháng 3 năm 1973 Thành phố Daly, California Tôi sợ hãi. Chân tôi lạnh buốt và bụng kêu gào vì đói. Trong bóng tối của cái ga-ra, tôi chăm chú căng tai lắng nghe từng tiếng động nhỏ nhất từ phía phòng của mẹ ở trên lầu, từng tiếng cót két mỗi khi bà trở mình. Tôi thậm chí còn có thể biết được bà đang ngủ hay chuẩn bị tỉnh giấc qua những tiếng ho khan của bà. Tôi mong bà không bị tỉnh giấc bởi chính những tiếng ho của mình. Tôi ước mình có thêm một chút thời gian. Chỉ còn vài phút là một ngày tồi tệ nữa lại bắt đầu. Tôi nhắm mắt lại và lẩm bẩm nhanh một lời cầu nguyện, mặc dù tôi biết rõ Chúa chẳng mấy yêu quý mình. Bởi tôi chẳng xứng đáng làm một thành viên của “Gia đình”, nên tôi phải ngủ trên một cái cũi cũ kỹ, xấu xí và thậm chí chẳng có lấy một cái chăn. Tôi cuộn tròn như một quả bóng để cố giữ cho cơ thể càng ấm càng tốt. Tôi lấy áo sơ mi trùm kín đầu, hy vọng hơi thở của mình sẽ giúp mặt và tai ấm hơn một chút. Tôi kẹp hai tay vào giữa hai chân, có khi kẹp vào nách để bớt lạnh. Bất kỳ lúc nào đủ dũng khí và biết chắc rằng mẹ đã ngủ rất say, tôi mới dám trộm một cái giẻ rách từ đống đồ dơ quấn chặt quanh chân để giữ ấm. Tôi làm mọi thứ để có thể ấm hơn một chút. Giữ ấm được nghĩa là sống sót. Cả tinh thần lẫn thể chất của tôi đều rã rời. Phải mất hàng mấy tháng trời tôi mới có thể thoát khỏi những cơn ác mộng. Dù có cố thế nào đi chăng nữa, tôi vẫn không tài nào ngủ lại được. Toàn thân tôi tê cóng. Đầu gối tôi rung lên bần bật. Tôi khẽ cọ hai bàn chân vào nhau, lòng vẫn nơm nớp lo sợ nếu gây ra bất cứ tiếng động nào thì mẹ cũng sẽ nghe thấy. Tôi không được phép làm bất kỳ điều gì nếu không có lệnh trực tiếp của bà. Thậm chí ngay cả khi tôi biết bà đã chìm lại vào giấc ngủ, tôi vẫn có cảm giác bà đang kiểm soát tôi. Mẹ vẫn luôn như vậy. Đầu óc tôi bắt đầu quay cuồng khi cố nhớ lại quá khứ. Tôi biết rằng để sống sót, tôi phải tìm những lời giải đáp ngay trong quá khứ của mình. Ngoài giải pháp để có cái ăn, để được sưởi ấm, để được sống sót, việc tìm hiểu lý do vì sao mẹ lại đối xử với tôi như vậy cũng sẽ chi phối rất nhiều đến cuộc sống của tôi. Những ký ức đầu tiên của tôi về mẹ chỉ là những lời chửi mắng và nỗi khiếp đảm. Năm tôi lên bốn, chỉ cần nghe giọng nói của bà thế nào là tôi có thể biết ngày hôm ấy của tôi sẽ ra sao. Bất cứ khi nào bà tỏ ra kiên nhẫn và độ lượng, bà chính là “Người mẹ hiền”; nhưng mỗi khi bà nổi giận và điên tiết với mọi thứ, thì bà chính là “Mẹ” - một người mẹ lạnh lùng, vô cảm, sẵn sàng hành hạ tôi bằng những cách không ai có thể ngờ được. Tôi lúc nào cũng nơm nớp lo sợ sẽ làm bà phật lòng, thậm chí tôi còn chẳng dám vào nhà vệ sinh nếu không xin phép bà trước. Dù còn rất bé, nhưng tôi cũng nhận ra rằng càng uống rượu nhiều, mẹ càng thay đổi nhanh và để con người thứ hai kiểm soát mình hoàn toàn. Một buổi chiều Chủ nhật nọ, lúc đó tôi mới năm tuổi, trong lúc say khướt, bà đã tấn công và vô tình làm gãy tay tôi. Ngay khi nhận ra mọi chuyện, mắt bà mở thao láo như hai đồng đô-la bạc. Mẹ biết bà đã đi quá đà. Bà biết bản thân mình đã mất kiểm soát. Sự việc đó không còn đơn giản như những cái tát, những cú đấm hay những lần tôi bị ném xuống cầu thang trước đây. Mời các bạn đón đọc Đi Ra Từ Bóng Tối của tác giả Dave Pelzer....
Theo Đuổi
Là một trong 5 tác phẩm lọt vào vòng chung khảo Giải thưởng Văn học Đoàn Thị Điểm, Theo Đuổi của cây bút trẻ Phạm Thanh Thúy sẽ khiến bạn đọc day dứt mãi cùng nỗi trăn trở khôn nguôi: - Bạn sẽ đến tương lai hay trở về quá khứ, nếu có thể xoay chiều thời gian? - Nhân duyên và những nợ nần tiền kiếp là gì? - Và nếu kiếp trước bạn nợ một ai đó, kiếp này bạn sẽ phải trả họ bằng những nỗi buồn, vì họ… Theo Đuổi viết về cô gái trẻ Hàm Yên. Suốt thời thanh xuân, Hàm Yên ôm ấp mối tình từ thuở thơ bé với người bạn thiếu thời tên Phố. Duyên phận đưa Hàm Yên và Phố đến những cuộc gặp gỡ tình cờ. Hết lần này đến lần khác, họ để lỡ nhau. Hàm Yên luôn muốn gợi cho Phố nhớ về những ký ức thời thơ bé, trong đó có cả ký ức đau buồn về cái chết của bố mẹ anh. Ngược lại, Phố tìm cách quên đi. Họ cứ thế đi tìm bóng hình nhau. Khi đã ở bên nhau, họ lại làm tổn thương nhau bằng ký ức. *** Tôi đến Cẩm Xuyên vào giữa mùa mưa. Mưa suốt ngày suốt đêm, mưa gối ngày này sang ngày khác. Bầu trời gần như lúc nào cũng sũng nước. Vào những khi mưa ngớt, từ trên cung đường quanh co uốn lượn theo dáng núi, thấy phía xa xa những thác nước huyền ảo như những áng tóc buông dài của nữ chúa thượng ngàn. Rồi thình lình, hàng trăm con thác ấy đột ngột băng qua đường, tuyệt đẹp và hung hãn, dường như muốn ngốn ngấu lấy tất cả những vật thể bé nhỏ đang trườn trên lằn chỉ vắt ngang núi kia. Con đường nhỏ chìm lút trong làn mưa trắng xóa. Vượt qua hàng trăm con thác trữ tình ấy thì đến Cẩm Xuyên. Cẩm Xuyên nằm trên độ cao 1500 mét so với mực nước biển. Cảm nhận đầu tiên chính là lạnh. Cái lạnh của gió, của hơi nước khi những đám mây trườn trên những ngọn núi, luồn sâu vào từng kẽ lá, băng qua những cây cầu treo chênh chao bắc ngang lòng những con suối mùa mưa sục sôi gầm gào bất tận. Ở xứ này, lúc nào người ta cũng có thể nghe thấy tiếng thác nước tuôn ở đâu đó. Khu nhà cũ, tường vôi trắng loang lổ tróc từng mảng thảm hại, rêu xanh phủ dày trên mái ngói. Và căn phòng, vì lâu không có người ở, toát lên một mùi đặc trưng ẩm mốc, sự cô đơn, lạnh lẽo và nỗi buồn. Nỗi buồn dường như trú ngụ ở đó từ rất lâu, thấm vào từng mi-li-mét không khí. Có hai cửa sổ, tất cả đều sơn xanh, có sẵn một số đồ đạc thiết yếu, hẳn nhiều người đã từng sống ở đó. Phía sau là một đồi thông. Tôi nhận lời viết tự truyện cho một cựu quan chức. Một người đàn bà quyền lực, nay đã nghỉ hưu và hưởng thụ cuộc sống nhàn nhã sau cả một đời lăn lộn với chính trường. Tài liệu đã thu thập đầy đủ từ một năm trước, giờ tôi chỉ cần tìm một nơi gợi cảm xúc để viết thành một cuốn sách. Một thời gian dài chìm trong nỗi buồn sâu thẳm, tôi muốn đến Cẩm Xuyên. Và tôi đã đến, giữa mùa mưa, sẽ ở lại một thời gian nào đó, tùy thuộc vào tôi quyết định. Trái ngược với vẻ u buồn của khu nhà là những bông hồng trước khoảng sân hẹp láng xi măng đã nhiều vết thủng lỗ chỗ. Những bông hoa màu hồng phấn, nở đều và dày, toát lên một mùi thơm ngọt ngào ngay cả khi những cơn mưa không ngừng gột rửa chúng. “Tất cả chỗ hoa này đều do Hạc trồng đấy”. Đó là câu Hải Đường giới thiệu với tôi về hoa. “Hạc là ai?”. Mời các bạn đón đọc Theo Đuổi của tác giả Phạm Thanh Thúy.