Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Đồng Bạc Trắng Hoa Xòe (Ma Văn Kháng)

Ma Văn Kháng lao động văn chương như một người H'Mông trồng bắp trên núi, lặng lẽ, cần cù, kiên nghị. Không ồn ào to tiếng với ai. Nét mặt anh cũng có cái vẻ chất phác núi rừng, ít nói, ít tranh luận, nghe ai nói nhiều chỉ gật đầu, hơi như ngơ ngác nữa.

Độc giả văn chương quen biết anh bằng tập Xa phủ (1969), tập truyện đầu tay, xinh xinh và đáng yêu như những chú thỏ non trong rừng rậm. Và sau đó thì đều đặn, năm in một tập, năm in hai tập, ở các Nhà xuất bản Văn học, Thanh niên, Phụ nữ, Công an nhân dân, Lao động và Kim đồng. Tính đến Đồng bạc trắng hoa xòe là ấn phẩm thứ mười một của anh trong vòng thập niên trở lại đây, thuần về miền núi.

Văn học miêu tả dân tộc miền núi, nói nghiêm túc, mới chỉ có sau Cách mạng tháng Tám, trong kháng chiến Việt Bắc. Những tiểu thuyết đường rừng của Lan Khai trước kia (Tiếng gọi của rừng thẳm, Truyện đường rừng, Suối đàn), ít nhiều của Thế Lữ (Vàng và Máu, Một đêm trăng), chỉ là những truyện mượn rừng núi nhằm gây một cảm giác ly kỳ rùng rợn. Người đặt nét bút đầu tiên khai phá vùng núi cao trong văn học Việt Nam phải kể là Nam Cao với Ở rừng (1948). Đấy mới chỉ là những phác thảo trong những trang nhật ký duyên dáng của anh, nhưng bóng dáng người miền núi hiện ra đã thật là có tình và đáng yêu. Rồi Nam Cao mất, chưa kịp làm gì thêm cho miền núi nữa.

Cùng sống với Nam Cao là Tô Hoài, có Núi Cứu quốc (1948). Vẫn chỉ là những nét phác thảo. Phải đến năm 1953, cái vùng đất biên cương núi non trùng điệp vòng phía Tây Bắc Tổ quốc mới lấp lánh trong văn học Việt Nam với Mường Giơn giải phóng và Vợ chồng A Phủ. Và sau nữa thì tiểu thuyết Miền tây (1967) khẳng định mảng văn học miền núi trong bức tranh toàn cảnh văn học cách mạng Việt Nam là không thể không chú ý được, là đã đóng chốt vào rồi. Nhà văn Tô Hoài với ngọn bút lão luyện và tài hoa, đã chấm phá bức tranh thủy mạc về người về cảnh miền núi chinh phục chúng ta từ nhiều năm nay. Con dế mèn phiêu lưu đã xòe cánh trên vùng Tây Bắc... một lời khen rất có duyên về anh, và chứng tỏ cái uy thế tuyệt đối của anh về địa bàn miền núi.

Lúc ấy Ma Văn Kháng vẫn còn là cậu học trò cần cù học, đọc và lầm lũi như chú bé dân tộc theo mẹ đi chợ, đi theo con đường của Nam Cao, Tô Hoài khai phá. Tìm mua: Đồng Bạc Trắng Hoa Xòe TiKi Lazada Shopee

Tiếp bước cha anh... đấy là truyền thống dân tộc.

Đọc xong Đồng bạc trắng hoa xòe có cái mừng là thấy lớp người sau đã kế tục được lớp người trước. Và còn nhiều hy vọng vì còn trẻ, còn khỏe, còn như con ngựa mới chạy nước kiệu trên một quãng đường.

Ma Văn Kháng, tên thật là Đinh Trọng Đoàn, gốc người làng Kim Liên, khu Đống Đa, Hà Nội, tham gia cách mạng năm mười hai tuổi, do thói quen chung hồi ấy, đổi tên là Nguyễn Kháng, cho nó bí mật tông tích. Lên dạy học Lao Kay kết nghĩa anh em với một cán bộ huyện họ Ma, và để tỏ sự quyết tâm sống bám vùng đất này, theo lời một cán bộ tỉnh ủy khuyên: “Vùng này không thua gì Sông Đông êm đềm đâu. Cậu muốn viết văn hãy cố sống ở đây hết một giai đoạn”. Kháng đã đổi họ Ma, và sống trên đó gần một phần tư thế kỷ.

Hai mươi hai năm ròng sống, làm việc, quan sát, và viết. Ma Văn Kháng tích lũy tư liệu cần cù đúng như một con kiến tha mồi vào tổ, mỗi ngày một ít, mỗi tháng một ít. Anh tham gia biên soạn lịch sử Đảng bộ Lao Kay, tham gia tổ chức hội nghị tỉnh ủy nghiên cứu chuyên đề thổ ty. Nhiều tư liệu ngấm vào anh thật tự nhiên, do việc cọ sát hàng ngày với những cán bộ H'Mông cùng cơ quan, những buổi công tác xuống huyện, xuống xã, đi tham dự các sinh hoạt dân tộc, những lễ ăn thề, lễ nào sồng, những phiên chợ, có mặt cả đám cưới đám ma các dòng họ H'Mông... Anh đọc nhiều và lấy làm biết ơn đã thừa hưởng thành quả những công trình nghiên cứu về dân tộc học, về phong tục tập quán, về ngôn ngữ H'Mông của Doãn Thanh, của Nông Trung, Lục Bình Thủy, Phạm Xuân Phúc, v.v... Anh thu thập cả những tài liệu nước ngoài viết về H'Mông như của Savina người Pháp, chuyên gia nghiên cứu H'Mông, có những nhận định về chính sách, cai trị vùng H'Mông: “H'Mông bao giờ cũng vẫn là H'Mông. Thổ ty là tất cả. Người Pháp phải tạo ra được các thủ lĩnh dân tộc ở từng địa phương và qua họ, mà cai trị đời đời ở các vùng miền núi". (Histoire des Miaos).

Cho đến khi ra mắt bạn đọc hôm nay, Đồng bạc trắng hoa xòe được viết đi viết lại bốn lần. Tôi đã nhìn thấy đống bản thảo dày gần hai gang tay, bằng đủ các loại giấy thếp, giấy học sinh, giấy đánh máy, chi chít những chỗ dập xóa, chú thích bên lề...

Công việc văn chương! Đáng thương biết mấy!*. Ông Goóc-ki có nói với bạn đọc, đại ý, ông khuyên những ai cho nghề viết văn là nhàn nhã, nắng không đến đầu, mưa không tới gáy, mà dấn thân vào thì thật là một lầm lẫn to lớn ở đời. Nghề viết văn thuộc lao động cực nhọc nhất trên thế gian này. Miếng da lừa (Balzac) có chín bản thảo khác nhau. Quan thanh tra (Gogol), năm bản. Người mẹ (Gorki) sáu bản, bản đầu và bản cuối cách nhau hai mươi năm. Riêng phần tả điệu múa Xalômê của Flô-be có mười bản, bản nào cũng gần như tuyệt vời.

Với số tuổi như Ma Văn Kháng, ta sẽ phải hình dung anh đã vật lộn cực nhọc như thế nào để đẻ ra nổi hơn sáu trăm trang giấy, tái hiện một giai đoạn lịch sử ngắn ngủi, nhưng rắc rối vào bậc nhất của cách mạng Việt Nam hiện đại, tiến hành trên một vùng núi phong kiến thế tập phiên thần nghèo nàn và lạc hậu, lấy cái không gian tỉnh biên giới Lao Kay hừng hực, hỗn loạn, phức tạp, rối ren, bọc trong cái bối cảnh lịch sử ngàn cân treo sợi tóc của dân tộc: Nhật thua, Tưởng vào, Quốc dân Đảng về phá rối, Pháp trở lại xâm chiếm Nam Bộ, rồi vào Hà Nội với Hiệp định mồng 6 tháng 3, v.v...

Giai đoạn lịch sử này ở miền núi lần đầu tiên được đưa vào tiểu thuyết. Có lẽ đã đến lúc rồi, chúng ta đã có điều kiện về thời gian, về khoảng cách lùi xa đủ tầm nhận thức những khúc ngoặt lịch sử có tính chất quyết định, mà tái hiện lại trong văn học đi thôi. Để cho tương xứng với tầm vóc những hy sinh to lớn, những đổi thay vĩ đại mà cuộc cách mạng theo học thuyết Mác — Lênin đã được những người cộng sản Việt Nam tiến hành trên đất nước này, cũng là lần đầu tiên trên thế giới. Và chỉ có loại hình tiểu thuyết mới kham nổi dung lượng ấy mà thôi.

Ma Văn Kháng đã cảm thấy thế. Từ một câu chuyện định viết về tiễu phỉ năm 1955, anh đã chuyển sang tiểu thuyết, khi bắt được tia chớp hai cán bộ Việt Minh đơn độc vào vùng các châu miền đông Lao Kay: Bắc Hà, Pha Long, Mường Khương, thuyết phục thổ ty Hoàng Yên Chao, La Văn Tờ, ba anh em viên tri châu họ Nông... cùng tham gia đánh Pháp, đánh Việt Nam Quốc dân Đảng, giải phóng Lao Kay 1946 (Sau này vào truyện anh có đổi tên đi ít chút, cho nó được thoải mái trong sự sáng tạo).

Cuốn truyện mở ra trước chúng ta cái thị xã biên giới Lao Kay đang bị bọn tranh giành quyền lợi Việt Nam Quốc dân Đảng chiếm đóng, rút chạy từ Vĩnh Yên, từ Việt Trì, từ Yên Bái dồn lại sống thoi thóp ở đây, thất vọng chán chường, vỡ mộng, nhưng vẫn đầy mưu mô xưng bá đồ vương, nhờ sự hà hơi của bọn Tàu Tưởng, theo Hiệp nghị, đã phải về bên kia biên giới. Những cán bộ Việt Minh được Đảng điều lên vận động quần chúng làm hậu thuẫn cho lực lượng vũ trang nhân dân: Vệ quốc đoàn, đã tiến đến Yên Bái, đang dừng lại chuẩn bị kế hoạch tấn công giải phóng thị xã Lao Kay.

Người đọc hào hứng đi theo hai cán bộ Việt Minh, cưỡi hai con ngựa, gần như tay không, vào một vùng đất lâu đời nơi biên cương heo hút, với các chế độ thổ ty kỳ quặc từ bao thế kỷ, những phong tục tập quán thật kích thích và lạ lùng, và nhất là với tâm hồn người dân tộc thiểu số anh em đáng thương và đáng quí mà chúng ta chưa được biết là bao.

Những đốm lửa cách mạng đã được đốt lên trên vùng hoang vắng trùng điệp núi non này, lòng yêu nước được khơi động, và quần chúng nhân dân anh em đã tề tựu dưới lá cờ Tổ quốc, cùng Vệ quốc đoàn tiến vào giải phóng Lao Kay, thành lập chính quyền Dân chủ nhân dân chậm nhất trong các tỉnh miền Bắc, nhưng đã thành công.

Cuốn truyện đóng lại vào cuối năm 1947, trong một trận đánh trên đèo Mã Yên Sơn, lúc này bọn thổ ty đã phản bội, liên kết với thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta, hành quân chiếm đóng Lao Kay. Thị xã đã lệnh sơ tán, tiêu thổ kháng chiến, theo chủ trương trường kỳ kháng chiến bấy giờ. Cuốn sách dừng lại ở đầu một khúc ngoặt mới: Cuộc kháng chiến chín năm chống Pháp, có ngụ ý mở cửa cho một cái gì sau này nữa đây.

Và Đồng bạc trắng hoa xòe đã dựng lên hàng loạt nhân vật, lối đa tuyến bình đồ, không ai là chính cả, hay nói một cách khác, nhân vật nào cũng có đường dây riêng, phát triển tâm lý và tính cách như là một nhân vật chính. Những tuyến nhân vật đan chéo nhau rối rắm như một mớ tơ vò, với những tâm trạng, những số phận, những cảnh ngộ nhiều hình nhiều vẻ, nhưng rồi cái nào vẫn kéo ra cái ấy, giống như một sợi tơ chuốt nõn trong tay người quay sa kéo ra từ đống tơ vò nọ. Không gian chuyển dịch luôn luôn, tạo một cảnh tượng rộng lớn cho bức tranh văn học, có điều kiện để các nhân vật thỏa sức vẫy vùng. Nhịp độ nhanh, nhiều sự việc, nhiều hành động. Lối dựng này đáp ứng được dung lượng rộng lớn của những cơn lốc cách mạng, hàng loạt người lột xác hoặc thoái hóa, sự đổ vỡ của những giá trị cố hữu, những ngã ba đường, sự đụng độ giữa chân thiện mỹ với những thế lực hắc ám đã tàn tạ. Lối dựng này rất ít thấy trong tiểu thuyết nước ta.

Viết Rừng động, Mạc Phi đã rất công phu thu thập tư liệu, muốn dựng lên một bức tranh lớn về những đổi thay của đồng bào Thái Tây Bắc trong cuộc kháng chiến chuyển mình chín năm của dân tộc. Anh đã có những thành công về vùng người Thái. Cũng như Nguyên Ngọc đã có những thành công về miêu tả dân tộc anh em Tây Nguyên trong Đất nước đứng lên. Ma Văn Kháng đặc biệt thành công về các nhân vật người H'Mông. Nhiều người đọc sách anh cứ đinh ninh tác giả là người dân tộc. Dân tộc H'Mông, tất nhiên. Không phải lòe thiên hạ bằng những ngôn từ cụ thể lối so sánh chất phác với cái tên cây cối trong rừng, ví von với con hươu con nai bằng tiếng gọi địa phương là lạ, hoặc đôi lúc nhét một vài từ dân tộc trong lời thoại cho nó có sắc thái là người miền núi. Nghe cứ tức anh ách. Ma Văn Kháng học theo lối sử dụng cách nói miền núi của nhà văn Tô Hoài. Và cái chính là anh đã sống nhiều năm với người miền núi. Sống có tình. Anh mô tả các dân tộc Lao Kay bằng một thứ tình cảm chồng vợ, anh em ruột thịt. Những con người xa lạ tưởng như khó hiểu và man rợ trên vùng núi biên cương, bỗng nhiên thành gần gũi thân quen, đúng là anh em một nhà. Những cảnh sắc tưởng như buồn tẻ, hoang sơ, từ khai thiên lập địa, bỗng rực rỡ đẹp... Ma Văn Kháng đã làm như nhà văn Tô Hoài, chấm phá vẩy hồn vào cảnh vật, khiến chúng lung linh, rực rỡ, hấp dẫn, kích thích làm sao! Và tôi đoán chắc rằng, những ai thường ngần ngại khi được điều lên công tác Lao Kay, đọc xong cuốn truyện, hẳn sẽ an tâm đi nhận công tác, trút thoát được cái nặng nề trong tâm khảm vô căn cứ, khi đã đeo con mắt của tác giả Đồng bạc trắng hoa xòe.

Bút pháp trong Đồng bạc trắng hoa xòe thường dùng theo lối vẽ long trong mây. Con rồng đẹp cứ giấu mình trong mây che chỉ lộ ra những khúc lượn vàng son có hạn, nhưng cho người xem vẫn nhận được đủ cái vóc dáng mạnh mẽ thanh thoát của toàn bộ con rồng.

Bút pháp trong Đồng bạc trắng hoa xòe thường dùng lối uống rượu sớm mai. Độ rượu chỉ đủ để gây ngây ngất, quá nữa là say, dưới một chút coi là chưa uống. Biết dừng lại để gây ngây ngất mới là người biết uống rượu. Trong văn chương biết dừng lại là quí hóa lắm. Nghệ thuật viết văn của Đông Tây kim cổ thâu tóm lại cũng chỉ trong ba tiếng biết dừng lại mà thôi.

Một lao động văn chương nghiêm túc thường có nhiều tác dụng lắm. Thử đeo đôi mắt một chính khách, đọc Đồng bạc trắng hoa xòe, bỗng nhận ra rằng: Thì ra bọn Pháp trước đây, bọn Mỹ vừa rồi, bọn phản động hiện nay đều chú ý đến vấn đề người H'Mông vùng Đông Nam Á chính vì thế đấy. Người H'Mông sống trên núi cao vùng giáp giới các nước Trung Quốc, Việt Nam, Lào, Thái Lan, Miến Điện, móc nối nhau như một tam giác — khu tam giác vàng theo từ ngữ của Mỹ. Dân tộc H'Mông gan dạ và kiên nghị nhưng bị vây hãm bằng ngu dốt và man dại trong lịch sử, tạo cho họ một mặc cảm kỳ thị chủng tộc nặng nề, một niềm mong ước tự trị tha thiết run rẩy, đã góp phần hình thành một tính cách H'Mông đặc biệt.

Phần thiếu sót của cuốn sách không đáng kể. Có chăng ở cảm giác đọc hơn một trăm trang đầu chưa thú vị lắm. Lối dựng các nhân vật phản diện Quốc dân Đảng theo một đường mòn thường thấy, đã là phản động thì xấu từ bên trong ra đến diện mạo, ăn mặc lố lăng, ngôn ngữ đểu cáng, rượu, gái, sợ chết, lại thường bị đẩy vào những tình huống tức cười ngớ ngẩn (Buổi họp thị trấn. Cảnh đón Vũ Khanh. Buổi họp ở nhà Cercle khiến chúng như một hành thi (thây ma đi, từ Đông y) đẩy ngón tay út cũng ngã. Có thể ở những đoạn mô tả các quán ăn chơi bời trước kia, tác giả chỉ được nghe kể lại, phải tưởng tượng ra nhiều hơn là từng trải (Quán Biên thùy). Có thể ở cả tâm trạng các loại người cũ, cũng thanh khí nhưng khác lạ hẳn lớp người anh, mà anh động chạm tới họ bằng những khắc họa ước lệ (Ngọc, Trọng). Sự thiếu sót này chỉ đáng ví như người đứng xem tranh thấy một vài nét màu vulgaire (tầm thường) lẫn lộn trong bức tranh sắc độ màu rất noble (cao nhã) của anh.

Điều đáng tiếc thứ hai, bút lực của anh, sao mà không nhấn thêm, đậm hơn lên cái đoạn mô tả cảnh Pao lao động. Anh có thể làm được lắm! Như anh đã mô tả những đoạn tuyệt hay về cảnh hành quyết người Mèo, cảnh Pao vật ngựa, cảnh Châu Quán Lồ dạy ngựa, cảnh ngày hộ sư các lực lượng vũ trang dân tộc... Với quan điểm yêu quí người lao động như anh, bút pháp của anh, mà chỉ chấm phá vài nét cảnh Pao đi cày, thật đáng tiếc. Anh có cho biết là sợ trùng lặp với một cuốn sách khác của anh, đã mô tả kỹ cảnh này, có trích học trong sách giáo khoa. Đừng câu nệ, anh Ma Văn Kháng ạ. Cứ phải cho vào đây, để hoàn chỉnh một bức tranh đẹp, chặt chẽ về mặt nội dung tư tưởng. Công phu ra thì vẽ lại với một nuance (sắc độ) khác càng hay.

Cuốn sách chưa kết thúc, nó chỉ nên coi là tập I. Chắc tác giả sẽ còn cho các nhân vật gặp nhau trong tập II, giai đoạn cuộc kháng chiến chín năm sẽ có nhiều thăng trầm, mâu thuẫn, xung đột gay cấn hơn nữa. Số phận của Châu Quán Lồ, của Pao, Lử, anh em Seng, Tếnh; những Chính, Đắc, Ngọc; những Triệu Đại Lộc, Phô-rô-pông, các viên thổ ty... còn biết bao là tâm trạng, là cảnh ngộ, là tính cách, sẽ va chạm nảy lửa.*

Nếu coi đây là kết thúc thì cuốn sách lộ ra một nhược điểm lớn. Nhiều nhân vật xử lý chưa hết mức. Có những nhân vật xuất hiện ở phần một rồi mất hút (ông lão Lìu, bào lãi Lìu, sĩ quan cận vệ Mộng Huyền, võ sĩ Vận). Nếu chỉ thế thì tác giả giống như một phù thủy non tay quyết, gọi âm binh lên dày đặc, nhưng không đủ sức sai phái chúng làm hết việc, để chúng rơi vãi, thậm chí quên cả chúng đi.

Ma Văn Kháng còn sung sức. Chúng tôi tin là anh còn đủ sức dắt dẫn nhân vật đi tiếp trong văn học, cho chúng ta thưởng thức những trang sách hay hơn nữa.

Với Đồng bạc trắng hoa xòe, Ma Văn Kháng đã khẳng định là đứng được trong loại hình tiểu thuyết. Nó có thể coi như một cái mốc trên bước đường văn học của anh tính từ Xa phủ.

Một phần năm thế kỷ sống ở miền núi, và quan sát, và viết. Một phần năm thế kỷ ấy thật đáng giá với Ma Văn Kháng. Và sự trân trọng của bạn đọc hôm nay với các tác phẩm của anh, đặc biệt với Đồng bạc trắng hoa xòe là một sự trả giá đầy ý nghĩa.Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Ma Văn Kháng":Xa Xôi Thôn Ngựa GiàChim Én Liệng Trời CaoĐám Cưới Không Có Giấy Giá ThúĐồng Bạc Trắng Hoa XòeGặp Gỡ Ở La Pan TẩnMột Mình Một NgựaNgười Thợ Mộc Và Tấm Ván ThiênVõ Sĩ Lên ĐàiMùa Lá Rụng Trong Vườn

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Đồng Bạc Trắng Hoa Xòe PDF của tác giả Ma Văn Kháng nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Chiết Chi (Khốn Ỷ Nguy Lâu)
Khi Đoàn Lăng và Lục Tu Văn gặp lại, Lục Tu Văn đã bị phế bỏ võ công, thân lại trúng kịch độc, thầy thuốc nói chắc không sống qua được nửa năm. Còn Đoàn Lăng khi đó, nhờ có công diệt trừ ma giáo mà đã vang danh thiên hạ. Cảnh còn người mất, nhưng Lục Tu Văn lại chẳng để trong lòng, chỉ mỉm cười bảo với Đoàn Lăng, hắn hái cho y một cành hoa đào, y sẽ dẫn hắn tới chỗ Lục Tu Ngôn. “Bẻ giúp ta một cành đào.” “Ta muốn cành ở trên cao nhất, đơm hoa đẹp nhất.” Kí ức mà Đoàn Lăng không bao giờ có thể quên được, là một đêm nọ, có người bất chấp nguy hiểm mà trộm lệnh bài của giáo chủ ma giáo đưa cho hắn, giục hắn mau trốn khỏi đây. Người đó thoạt nhìn vô cùng chật vật, chắc chắn khi giáo chủ truy ra, y sẽ sống không bằng chết. Thế nhưng, y không quan tâm, chỉ một lòng muốn Đoàn Lăng rời khỏi ma giáo. Tìm mua: Chiết Chi TiKi Lazada Shopee Khoảnh khắc từ biệt, y nhón chân hôn lên môi hắn một cái. Sau đó, nụ hôn này đã trở thành kỉ niệm khắc cốt ghi tâm của Đoàn Lăng. Hắn biết tên người nọ, người nọ là Lục Tu Ngôn. Là người hắn mang ơn, cũng là người khiến hắn rung động.*** Lục Tu Văn và Lục Tu Ngôn là anh em sinh đôi, gần như không có ai có thể phân biệt được hai người, thế nhưng Đoàn Lăng có thể. Đoàn Lăng chỉ biết, người đối xử tốt với mình là Tu Ngôn, còn người hay bắt nạt mình là Tu Văn. Kể cả khi Lục Tu Văn cố ý mặc đồ của Lục Tu Ngôn để giả trang thành đệ đệ, hắn vẫn có thể nhận ra. Đoàn Lăng vô cùng tự tin với con mắt của mình, hắn có thể phân biệt được hai người, trăm lần như một, không chút sai sót. Thế nhưng vào thời khắc quan trọng nhất, hắn lại nhìn nhầm. Đoàn Lăng luôn nghĩ Lục Tu Ngôn là người đã cứu mình khỏi ma giáo, không màng đến tính mạng bản thân mà trộm lệnh bài của giáo chủ giúp hắn thoát thân, còn mình thì ở lại cam tâm tình nguyện mà chịu phạt. Vì thế sau khi ra khỏi ma giáo, Đoàn Lăng một lòng tu luyện, chỉ muốn mau chóng trở nên mạnh mẽ, lật đổ ma giáo, cứu Tu Ngôn ra. Mười năm, Đoàn Lăng luôn tâm tâm niệm niệm Lục Tu Ngôn; hay nói đúng hơn, hắn cứ nhớ mãi không quên người đã cứu hắn khỏi ma giáo năm đó. Mười năm, vì trộm lệnh bài của giáo chủ, Lục Tu Văn ở lại ma giáo bị phế hết võ công, trở thành vật thí nghiệm thuốc nhưng trong lòng vẫn chưa từng quên Đoàn Lăng. Chính vì hiểu nhầm Lục Tu Ngôn mới là người cứu mình, nên Đoàn Lăng đối với Lục Tu Văn vẫn chẳng mặn mà gì cho cam. Y như cái lúc còn ở ma giáo, hắn ghét Lục Tu Văn vì y luôn sai xử, làm khó mình. Mười năm sau Đoàn Lăng quả thực đã đánh cho ma giáo đại thương, thế nhưng người hắn tìm được chẳng phải Lục Tu Ngôn mà hắn tâm tâm niệm niệm, mà là Lục Tu Văn. Lục Tu Văn bây giờ không còn là Lục Tu Văn năm đó, là đệ tử kiêu ngạo nhất của giáo chủ ma giáo, mà là một người đang gần đất xa trời, trúng phải kịch độc, võ công bị phế. Thế nhưng Lục Tu Văn vẫn yêu Đoàn Lăng vô cùng. Yêu đến mức dù hắn có hiểu nhầm chuyện năm đó, cũng không một lời giải thích, chỉ cười cợt làm như không có chuyện gì, một bộ dáng vô tâm vô phế. Yêu hắn đến mức vì biết mình trúng độc không còn sống được bao lâu nữa, nên quyết định mang theo bí mật cùng lệnh bài năm nào xuống mồ. Yêu hắn đến mức dù bị hắn nhận nhầm là Tu Ngôn, nhưng vẫn nguyện ý trao thân cho hắn. Cuộc đời Lục Tu Văn chỉ đối xử thật lòng với hai người, một người là Lục Tu Ngôn - em trai song sinh của y, còn người thứ hai là Đoàn Lăng. Nhưng Đoàn Lăng lại không biết.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Chiết Chi PDF của tác giả Khốn Ỷ Nguy Lâu nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Chiết Chi (Khốn Ỷ Nguy Lâu)
Khi Đoàn Lăng và Lục Tu Văn gặp lại, Lục Tu Văn đã bị phế bỏ võ công, thân lại trúng kịch độc, thầy thuốc nói chắc không sống qua được nửa năm. Còn Đoàn Lăng khi đó, nhờ có công diệt trừ ma giáo mà đã vang danh thiên hạ. Cảnh còn người mất, nhưng Lục Tu Văn lại chẳng để trong lòng, chỉ mỉm cười bảo với Đoàn Lăng, hắn hái cho y một cành hoa đào, y sẽ dẫn hắn tới chỗ Lục Tu Ngôn. “Bẻ giúp ta một cành đào.” “Ta muốn cành ở trên cao nhất, đơm hoa đẹp nhất.” Kí ức mà Đoàn Lăng không bao giờ có thể quên được, là một đêm nọ, có người bất chấp nguy hiểm mà trộm lệnh bài của giáo chủ ma giáo đưa cho hắn, giục hắn mau trốn khỏi đây. Người đó thoạt nhìn vô cùng chật vật, chắc chắn khi giáo chủ truy ra, y sẽ sống không bằng chết. Thế nhưng, y không quan tâm, chỉ một lòng muốn Đoàn Lăng rời khỏi ma giáo. Tìm mua: Chiết Chi TiKi Lazada Shopee Khoảnh khắc từ biệt, y nhón chân hôn lên môi hắn một cái. Sau đó, nụ hôn này đã trở thành kỉ niệm khắc cốt ghi tâm của Đoàn Lăng. Hắn biết tên người nọ, người nọ là Lục Tu Ngôn. Là người hắn mang ơn, cũng là người khiến hắn rung động.*** Lục Tu Văn và Lục Tu Ngôn là anh em sinh đôi, gần như không có ai có thể phân biệt được hai người, thế nhưng Đoàn Lăng có thể. Đoàn Lăng chỉ biết, người đối xử tốt với mình là Tu Ngôn, còn người hay bắt nạt mình là Tu Văn. Kể cả khi Lục Tu Văn cố ý mặc đồ của Lục Tu Ngôn để giả trang thành đệ đệ, hắn vẫn có thể nhận ra. Đoàn Lăng vô cùng tự tin với con mắt của mình, hắn có thể phân biệt được hai người, trăm lần như một, không chút sai sót. Thế nhưng vào thời khắc quan trọng nhất, hắn lại nhìn nhầm. Đoàn Lăng luôn nghĩ Lục Tu Ngôn là người đã cứu mình khỏi ma giáo, không màng đến tính mạng bản thân mà trộm lệnh bài của giáo chủ giúp hắn thoát thân, còn mình thì ở lại cam tâm tình nguyện mà chịu phạt. Vì thế sau khi ra khỏi ma giáo, Đoàn Lăng một lòng tu luyện, chỉ muốn mau chóng trở nên mạnh mẽ, lật đổ ma giáo, cứu Tu Ngôn ra. Mười năm, Đoàn Lăng luôn tâm tâm niệm niệm Lục Tu Ngôn; hay nói đúng hơn, hắn cứ nhớ mãi không quên người đã cứu hắn khỏi ma giáo năm đó. Mười năm, vì trộm lệnh bài của giáo chủ, Lục Tu Văn ở lại ma giáo bị phế hết võ công, trở thành vật thí nghiệm thuốc nhưng trong lòng vẫn chưa từng quên Đoàn Lăng. Chính vì hiểu nhầm Lục Tu Ngôn mới là người cứu mình, nên Đoàn Lăng đối với Lục Tu Văn vẫn chẳng mặn mà gì cho cam. Y như cái lúc còn ở ma giáo, hắn ghét Lục Tu Văn vì y luôn sai xử, làm khó mình. Mười năm sau Đoàn Lăng quả thực đã đánh cho ma giáo đại thương, thế nhưng người hắn tìm được chẳng phải Lục Tu Ngôn mà hắn tâm tâm niệm niệm, mà là Lục Tu Văn. Lục Tu Văn bây giờ không còn là Lục Tu Văn năm đó, là đệ tử kiêu ngạo nhất của giáo chủ ma giáo, mà là một người đang gần đất xa trời, trúng phải kịch độc, võ công bị phế. Thế nhưng Lục Tu Văn vẫn yêu Đoàn Lăng vô cùng. Yêu đến mức dù hắn có hiểu nhầm chuyện năm đó, cũng không một lời giải thích, chỉ cười cợt làm như không có chuyện gì, một bộ dáng vô tâm vô phế. Yêu hắn đến mức vì biết mình trúng độc không còn sống được bao lâu nữa, nên quyết định mang theo bí mật cùng lệnh bài năm nào xuống mồ. Yêu hắn đến mức dù bị hắn nhận nhầm là Tu Ngôn, nhưng vẫn nguyện ý trao thân cho hắn. Cuộc đời Lục Tu Văn chỉ đối xử thật lòng với hai người, một người là Lục Tu Ngôn - em trai song sinh của y, còn người thứ hai là Đoàn Lăng. Nhưng Đoàn Lăng lại không biết.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Chiết Chi PDF của tác giả Khốn Ỷ Nguy Lâu nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
3000 Câu Ca Dao Tục Ngữ Tổng Hợp (Sưu Tầm)
CA DAO là thơ ca DÂN GIAN VIỆT NAM, được truyền miệng dưới dạng những câu hát không theo một điệu nhất định, phổ biến theo thể thơ lục bát, diễn tả đời sống nội tâm của con người. Đúc kết kinh nghiệm dân gian, những bài học làm người quý báu. Ca dao mang đậm bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam. Mời quý vị cùng thưởng thức 3000 câu ca dao tục ngữ được tổng hợp theo chủ đề. Ca dao về cha mẹ, ca dao về đất nước, ca dao về địa danh, ca dao về tình yêu đôi lứa, ca dao về vợ chồng thủy chung, ca dao về kinh nghiệm dân gian, ca dao về thầy cô, ca dao về nghĩa nhân, ca dao về đối nhân xử thế, ca dao về tình yêu dở dang, ca dao về vùng miền, ca dao tinh hoa xứ sở, ca dao hài hước châm biếm. Nghe ca dao thư giãn, nghe ca dao ru ngủ êm ái nhẹ nhàng, nghe ca dao bồi dưỡng tâm hồn. Giọng đọc Tuệ Ngọc Vân Vân hi vọng mang đến những cung bậc cảm xúc cho các bạn qua các tác phẩm văn thơ nước nhà. Tìm mua: 3000 Câu Ca Dao Tục Ngữ Tổng Hợp TiKi Lazada Shopee Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook 3000 Câu Ca Dao Tục Ngữ Tổng Hợp PDF của tác giả Sưu Tầm nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Ca Dao, Tục Ngữ, Thành Ngữ Việt Nam (Sưu Tầm)
Bầu ơi thương lấy bí cùng, Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn. Anh đi anh nhớ quê nhà, Nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương. Ta về ta tắm ao ta, Tìm mua: Ca Dao, Tục Ngữ, Thành Ngữ Việt Nam TiKi Lazada Shopee Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn. Đồng Tháp Mười cò bay thẳng cánh, Nước Tháp Mười lấp lánh cá tôm. Ai đi Châu Đốc, Nam Vang, Ghé qua Đồng Tháp bạt ngàn bông sen. Đường đi xa lắm ai ơi, Nước non ngàn dặm, bể trời mênh mông. Nhà tôi nghề giã, nghề sông, Lặng thì tôm cá đầy trong, đầy ngoài, Cá trắng cho chí cá khoai, Còn như cá lẹp cá mai cũng nhiều. Sông Vàm Cỏ nước trong thấy đáy, Dòng Cửu Long xuôi chảy dịu dàng. Ai về Mỹ Thuận, Tiền Giang, Có thương nhớ gã đánh đàn năm xưa? Bến Tre dừa ngọt sông dài, Nơi chợ Mỏ Cày có kẹo nổi danh. Kẹo Mỏ Cày vừa thơm vừa béo, Gái Mỏ Cày vừa khéo vừa ngoan. Anh đây muốn hỏi thiệt nàng, Là trai Thạnh Phú cưới nàng được chăng? Bước xuống Bắc Mỹ Tho thấy sóng xô nước đẩy, Bước lên bờ Rạch Miễu thấy nước chảy cây xanh. Anh biết chắc nơi đây là đất Châu Thành, Đò từ Đông Ba, đò qua Đập Đá, Đò từ Vĩ Dạ, thẳng ngã Ba Sình. Lờ đờ bóng ngã trăng chênh, Tiếng hò xa vọng, nhắn tình nước non.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Ca Dao, Tục Ngữ, Thành Ngữ Việt Nam PDF của tác giả Sưu Tầm nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.