Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Lời Thì Thầm Trong Đêm

Sau ba mươi năm lớn lên trong tình thương của người mẹ, nữ cảnh sát Sloan Reynolds nhận được một cuộc gọi yêu cầu cô đến gia nhập với cha và chị cô ở biệt thự riêng của gia đình Reynolds trên bãi biển Palm Beach. Cùng lúc đặc vụ FBI, Paul Richardson (trong Perfect – Định Mệnh) tìm đến cô và muốn cô giúp họ đến gần để theo dõi những hoạt động trái phép của ông. Sloan đồng ý chấp nhận lời mời của gia đình, giả làm nhà thiết kế nội thất để che giấu nghề nghiệp thực sự, và đưa theo đặc vụ FBI như là bạn trai của cô. Nhưng Sloan không hề biết rằng người mà FBI thật sự muốn đóng đinh lại là một người khác. Khi đến đó, cô thấy mình bị Noah Mailand (người anh trai giàu có và nổi tiếng của Courtney Maitland trong SOTWOM) thu hút một cách mạnh mẽ, trái ngược với những bản năng của cô. Nhưng anh lại là người mà cha cô đã nhắm cho chị cô kết hôn. Cô cũng không hề biết rằng những cung cấp mà cô đưa cho Cục điều tra liên bang là những bằng chứng buộc tội chống lại anh. Khi một vụ mưu sát bất ngờ xảy ra bẻ gãy bề ngoài quyến rũ của tiền bạc và sức hấp dẫn xung quanh cô, Sloan phải đưa mình qua mê cung của những sự lừa dối và đam mê, để tìm người mà mình tin tưởng - và giải mã sự thật đằng sau những lời thì thầm khủng khiếp trong bóng đêm. *** JUDITH McNAUGHT (1944) được xem là một trong những tác giả được yêu thích nhất mọi thời đại với thể loại tiểu thuyết lãng mạn cổ điển. Trước khi bước vào sự nghiệp viết lách, McNaught đã thành công trong lĩnh vực phát thanh, điện ảnh và tài chính. Bà đã quyên góp và làm rất nhiều việc từ thiện. Judith McNaught hiện đang sống ở Houston, Texas. Tác phẩm: Hơn Cả Tuyệt Vời Như Cõi Thiên Đường 11 Năm chờ 11 Tuần yêu Ai Đó Dõi Theo Em Whitney Yêu Dấu Vương Quốc Của Những Giấc Mơ Em Có Để Ta Hôn Em Không? Hạnh Phúc Nhân Đôi Tender Triumph Trong Từng Hơi Thở Tiếng Sét Xanh Định Mệnh Yêu Em Cho Đến Hơi Thở Cuối Cùng Một Lần Và Mãi Mãi Điều Kỳ Diệu Remember When Thiên Đường Whiney Yêu Dấu Lời Thì Thầm Trong Đêm ... *** Hắn đã theo cô ba ngày, theo dõi. Chờ đợi. Bây giờ, hắn biết thói quen và giờ giấc của cô. Hắn biết cô thức dậy lúc mấy giờ vào buổi sáng, gặp ai vào ban ngày, và đi ngủ lúc mấy giờ. Hắn biết cô đọc sách trên giường vào ban đêm, nằm kê đầu trên gối. Hắn biết tên cuốn sách cô đang đọc, và cô đặt nó úp xuống trên bàn đầu giường trước khi cuối cùng cô tắt đèn. Hắn biết mái tóc vàng dày của cô là tự nhiên và màu mắt xanh-tím của cô không phải là kết quả của kính áp tròng. Hắn biết cô mua đồ trang điểm ở hiệu thuốc và cô sử dụng chính xác hai mươi lăm phút để chuẩn bị đi làm vào buổi sáng. Rõ ràng là cô quan tâm trong việc giữ sạch sẽ và gọn gàng hơn là cải thiện bề ngoài của mình. Hắn, tuy nhiên, quan tâm rất nhiều đến bề ngoài của cô. Nhưng không phải là vì sự đòi hỏi và cho những lý do "thông thường". Lúc đầ u, hắn đã chú ý giữ cô trong tầm mắt trong khi vẫn đảm bảo là cô không nhận thấy hắn, nhưng sự đề phòng của hắn là do thói quen hơn là do cần thiết. Với dân số 150,000 người, 15,000 người trong số đó là sinh viên đại học, thành phố nhỏ của Bell Harbor ở bờ biển phía đông Florida đủ lớn cho một người lạ có thể đi lại mà không bị phát hiện trong số dân địa phương, nhưng không lớn đến nỗi hắn sẽ mất con mồi của hắn trên những xa lộ và giao lộ rối rắm. Hôm nay h ắn đã theo dấu cô đến công viên thành phố, nơi hắn đã sử dụng một buổi chiều tháng Hai êm dịu, nhưng tẻ nhạt, bị vây quanh bởi những người lớn uống bia vui vẻ và những đứa trẻ ồn ào điếc tai đến đó để tận hưởng buổi dã ngoại và lễ hội nhân ngày Lễ Tổng Thống. Hắn không thích đám con nít xung quanh hắn, đặc biệt là những đứa con nít với đôi tay dơ bẩn và khuôn mặt nhem nhuốc chạy vấp qua chân hắn khi chúng rượt đuổi nhau. Chúng gọi hắn, "Này, chú ơi!" và yêu cầu hắn ném lại trái banh bóng chày bị đánh văng ra ngoài cho chúng. Những trò hề của chúng làm hắn chú ý thường xuyên đến nỗi hắn đã bỏ vài băng ghế thoải mái và bây giờ buộc phải tìm nơi trú ẩn giấu mình bên dưới một cái cây có thân cây gồ ghề không được thoải mái khi tựa vào và những rễ dày xù xì dày nổi lên mặt đất bên dưới nó là bất khả. Mọi thứ đang bắt đầu làm hắn bực bội, và hắn nhận ra rằng sự kiên nhẫn của hắn đã kết thúc. Cả chuyện theo dõi và chờ đợi cũng vậy. Để kiềm tánh nóng nảy của mình, hắn duyệt qua kế hoạch hắn dành cho cô trong khi xoay sự chú ý đầy đủ đến con mồi của hắn. Lúc này, Sloan đang leo xuống từ những nhánh cây của một thân cây to cao mà cô đang cố gắng thu hồi một con diều trông giống như một chim ưng đen với cặp cánh duỗi ra, trên đầu cánh có màu vàng tươi. Ở gốc cây, một nhóm trẻ con năm, sáu tuổi đang reo hò cổ vũ. Đằng sau họ là một nhóm thanh niên. Những đứa trẻ quan tâm đến chuyện lấy lại con diều của chúng ; các chàng thanh thiếu niên chú mục đến đôi chân rám nắng xinh đẹp của Sloan Reynolds ló ra một cách chậm chạp từ nhánh cây trên. Các chàng trai huých khuỷu tay nhau và nhìn chằm chằm vào cô, và hắn hiểu nguyên nhân gây ra chấn động nhỏ đối với các cậu thanh niên: nếu cô là nữ sinh viên hai mươi tuổi, đôi chân đó sẽ đáng được chú ý, nhưng trên thân thể của một cảnh sát ba mươi tuổi, chúng là một hiện tượng. Thông thườ ng, hắn bị thu hút đến những người phụ nữ cao, đầy khêu gợi, nhưng người phụ nữ này chỉ cao 1.63 mét với bộ ngực nhỏ gọn, thân hình mảnh khảnh, duyên dáng và gọn gàn mặc dù không khêu gợi. Cô không phải là ứng cử viên cho một tấm ảnh màu giữa cuốn tạp chí, nhưng trong cái quần soóc ka ki và áo sơ mi trắng tinh, với mái tóc vàng buộc kiểu tóc đuôi gà, cô có vẻ khỏe mạnh tươi tắn và ngăn nắp, cô đã hấp dẫn hắn trong thời gian hiện tại. Một tiếng thét từ sân bóng chày làm hai trong số các chàng trai xoay đầu và nhìn về phía hắn, hắn nâng cao ly xô đa cam lên miệng để che giấu khuôn mặt của mình, nhưng cử chỉ đó là tự động hơn là cần thiết. Cô đã không để ý đến hắn trong ba ngày qua khi hắn theo dõi cô từ các ngưỡng cửa và những con hẻm, vì thế cô sẽ không thấy bất cứ thứ gì tai hại về một người đàn ông cô độc trong công viên đang có nhiều công dân tôn trọng luật pháp tụ tập để hưởng thụ thức ăn miễn phí và triển lãm, dù là cô có để ý đến hắn đi nữa. Thực ra, hắn nghĩ với nụ cười tự mãn bên trong, cô lơ là một cách khó tin và ngốc nghếch bất cứ khi nào cô được nghỉ. Cô không nhìn qua vai khi nghe bước chân của hắn vào một đêm nọ; thậm chí cô cũng không khóa xe khi đậu nó. Giống như bất kỳ cảnh sát tỉnh lẻ nào, cô cảm thấy an toàn một cách sai lầm trong thành phố của cô, việc không thể bị tổn thương đi cùng với phù hiệu mà cô đang đeo và cây súng mà cô đang mang, và những bí mật nhớp nhúa của công dân mà cô biết. Cô không có bí mật với hắn, tuy nhiên. Chưa đầy 72 tiếng đồng hồ, hắn đã có tất cả tài liệu thống kê quan trọng về cô - tuổi tác, chiều cao, số giấy phép lái xe, tài khoản ngân hàng, thu nhập hàng năm, địa chỉ nhà – những loại thông tin đó rất dễ tìm được trên Internet đối với bất cứ ai biết chỗ tìm. Trong túi hắn là hình của cô, nhưng tất cả các thông tin kết hợp lại thì rất nhỏ so với những gì hắn bây giờ mới biết. H ắn uống một ngụm xô đa cam hơi ấm khác, đè nén sự sốt ruột khác đang dâng cao. Đôi khi, cô rất thẳng thắng, rất nghiêm túc và có thể tiên đoán được, điều đó làm hắn thích thú; những lúc khác, cô bốc đồng một cách bất ngờ, làm cô không thể dự đoán được, và những thứ không thể dự đoán được thì rất mạo hiểm, nguy hiểm, cho hắn. Rồi hắn tiếp tục chờ đợi và theo dõi. Trong ba ngày qua h ắn đã thu thập tất cả những thứ lặt vặt bí ẩn, bình thường sẽ làm thành một người phụ nữ, nhưng trong trường hợp của Sloan Reynolds, bức tranh vẫn còn mờ nhạt, phức tạp, khó hiểu. N ắm chặt con diều trong tay trái, Sloan cẩn thận leo xuống nhánh cây thấp nhất ; sau đó nhảy xuống đất và đưa con diều cho chủ nhân của nó giữa tiếng thét gào của những tiếng "Yea!" và tiếng những bàn tay nhỏ vỗ tay một cách phấn khởi. "Trời ơi, cám ơn, Sloan !" Kenny Landry nói, ửng hồng mặt với sự thích thú và ngưỡng mộ khi nó lấy con diều của nó. Hai cái răng cửa của Kenny bị trống, làm cho nó nói ngọng, cả hai có vẻ làm cho nó rất dễ mến đối với Sloan, người đã cùng đến trường trung học với mẹ nó. "Mẹ cháu sợ cô sẽ bị thương, nhưng cháu dám cá là cô không bao giờ cảm thấy sợ hãi." Th ực ra thì, Sloan đã vô cùng sợ hãi trong hành trình leo xuống qua các nhánh cây, sợ rằng cái quần soóc của cô sẽ mắc vào một nhánh cây, kéo nó lên, và để lộ quá nhiều chân của cô.  "Ai cũng sợ cái gì đó," Sloan nói với nó, cố nén thôi thúc ôm nó và làm nó xấu hổ bởi sự âu yếm nơi công cộng. Thay vào đó cô vò rối mái tóc nâu của nó. "Cháu bị rơi từ trên cây xuống một lần !" cô bé mặc cái quần soóc màu hồng và áo thun ngắn tay màu hồng và trắng thú nhận, quan sát Sloan với vẻ kính phục. "Cháu bị đau nữa, trên khuỷu tay của cháu," Emma rụt rè nói thêm. Cô bé có mái tóc ngắn, đỏ quăn, nhiều tàn nhang trên cái mũi nhỏ của nó, và một con búp bê trong vòng tay.  Butch Ingersoll là đứa trẻ duy nhất không muốn gây ấn tượng. "Con gái lẽ ra phải chơi búp bê," cậu nhỏ thông báo với Emma. "Con trai mới leo cây." "Cô giáo của tớ nói cô Sloan là một người hùng thực sự," cô bé tuyên bố, ôm con búp bê thậm chí càng chặt hơn, như thể nó mang lại cho cô bé lòng can đảm để lên tiếng. Cô bé nâng mắt đến Sloan và thốt ra, "cô giáo của cháu nói cô đã liều thân để có thể cứu đứa bé ngã xuống giếng." "Cô giáo của cháu rất tử tế," Sloan nói khi cô nhặt cọng dây thả diều nằm trên bãi cỏ và bắt đầu cuộn nó thành cuộn trên ngón tay của cô. Mẹ của Emma đã từng là một người bạn học khác của Sloan, và khi cô liếc nhìn từ Kenny đến Emma, Sloan không thể quyết định đứa trẻ nào đáng yêu hơn. Cô đã đến trường với hầu hết cha mẹ của những đứa trẻ này, và khi cô cười với những khuôn mặt nhỏ nhắn đó, những khuôn mặt thích thú đang nhìn cô gợi cho cô nhớ sâu sắc về những người bạn học cũ. B ị vây quanh bởi con cái của đám bạn học và bạn bè của mình, Sloan cảm thấy đau nhói một nỗi ước ao có một đứa con cho riêng mình. Vào năm ngoái, mong muốn có một thằng bé hay cô bé của riêng mình để ẵm bồng, yêu thương và đưa đến trường đã phát triển thành một nhu cầu, và nó đang càng lúc càng gia tăng với tốc độ và sức mạnh đáng sợ. Cô muốn cô bé Emma hoặc cu cậu Kenny của riêng cô để ôm chặt, thương yêu và dạy dỗ. Không may là sự mong muốn đầu hàng cuộc sống cho một người chồng đã không gia tăng chút nào. Thực ra là ngược lại. Nh ững đứa trẻ khác đang quan sát Sloan với vẻ tôn sùng, nhưng Butch Ingersoll kiên quyết không gây ấn tượng. Cha và ông nội của nó đã từng là ngôi sao bóng đá của trường trung học. Mới sáu tuổi, Butch không chỉ có thân hình to lớn của họ, mà còn thừa hưởng cả cái cằm vuông và vẻ bảnh bao nữa. Ông của nó là cảnh sát trưởng và là cấp trên của Sloan. Nó chìa cái cằm ra nhắc Sloan nhớ một cách mạnh mẽ về Cảnh sát trưởng Ingersoll. "Ông cháu đã nói bất cứ cảnh sát nào cũng có thể cứu nguy đứa bé đó, cũng giống như cô đã làm, nhưng mấy chú ở đài truyền hình làm mọi chuyện lớn lên vì cô là nữ cảnh sát." M ột tuần trước đây, Sloan đã ra ngoài khi có một cuộc điện thoại báo có một đứa bé mới chập chững biết đi bị mất tích và cuối cùng là leo xuống giếng để cứu nó. Đài truyền hình ở địa phương đã bắt được câu chuyện về đứa bé mất tích, rồi giới truyền thông Florida lại chộp được câu chuyện về sự giải cứu. Ba tiếng đồng hồ sau khi cô leo xuống giếng và trải qua thời gian kinh hoàng nhất trong đời mình, Sloan đã nổi lên như một "nữ anh hùng." Dơ dáy và kiệt sức, Sloan đã được chào đón bằng những tiếng reo hò điếc tai từ công dân ở Bell Harbor đã tụ tập lạ để cầu nguyện cho sự an toàn của đứa bé và tiếng hét từ các phóng viên đã tập hợp lại để cầu nguyện cho cái gì đó đủ lý thú để nâng cao tỷ suất người xem đài của họ. Sau m ột tuần, sự xôn xao và tiếng tăm cuối cùng bắt đầu lắng xuống, nhưng không đủ nhanh đối với Sloan. Cô thấy vai trò ngôi sao của giới truyền thông và nữ anh hùng ở địa phương không những không phù hợp một cách khôi hài mà còn làm cho cô rất bối rối. Ở một bên quang phổ, cô phải đối mặt với công dân của Bell Harbor bây giờ coi cô khi một nữ anh hùng, một biểu tượng, một tấm gương cho phụ nữ. Mặt khác, cô phải đối phó với cảnh sát trưởng Ingersoll, người ông năm mươi lăm tuổi theo chủ nghĩa sô vanh của Butch, người xem những lời ca ngợi không có chủ tâm về Sloan như là "cố tình dàn dựng" và sự hiện diện của cô trong lực lượng cảnh sát của ông là một sự sỉ nhục đến nhân phẩm của ông, một sự thách thức đến quyền lực của ông, và một gánh nặng mà ông buộc phải mang cho đến khi ông có thể tìm cách để dứt bỏ cô.  Bạn thân của Sloan, Sara Gibbon, đến hiện trường chỉ khi Sloan quấn xong đoạn dây diều cuối cùng vào một cái ống tạm, cái mà cô trao cho Kenny với nụ cười. "Mình nghe ti ếng reo hò và vỗ tay," Sara nói, nhìn Sloan rồi nhìn đám nhỏ rồi đến con diều hình chim ưng với cái cánh vàng bị gãy. "Chuyện gì xảy ra với con diều của cháu vậy, Kenny ?" Sara hỏi. Cô mỉm cười với cậu bé và mặt nó sáng bừng lên. Sara có sức ảnh hưởng đến phái nam ở mọi lứa tuổi. Với mái tóc nâu vàng bóng cắt ngắn của cô, đôi mắt xanh lấp lánh, và những đặc điểm xinh xắn, Sara có thể làm cho đàn ông khựng lại với chỉ một cái liếc nhìn.  "Nó bị kẹt trên cây." "Đúng, nhưng cô Sloan đã lấy nó xuống," Emma cắt ngang một cách phấn khởi, chỉ một ngón trỏ nhỏ mũm mĩm lên cây. "Cô ấy đã leo lên đến đỉnh," Kenny chêm vào, "và cô ấy đã không sợ, vì cô ấy rất dũng cảm." Sloan c ảm thấy – như một người mẹ tương lai một ngày nào đó - cô cần chỉnh sửa ấn tượng đó của những đứa trẻ. "Dũng cảm không có nghĩa là cháu không bao giờ sợ. Dũng cảm có nghĩa là, mặc dù cháu sợ, cháu vẫn làm chuyện nên làm. Chẳng hạn như," cô nói, chuyển nụ cười đến đám nhỏ, "các cháu dũng cảm khi các cháu nói sự thật mặc dù các cháu sợ là mình có thể gặp rắc rối. Điều đó là thật sự, thật sự dũng cảm đấy." S ự xuất hiện của chú hề Clarence với một nắm bong bóng khổng lồ làm cho bọn trẻ cùng nhau quay đầu lại, và vài người trong số chúng ngay lập tức bỏ chạy láo nháo, chỉ còn lại Kenny, Emma, và Butch ở lại. "Cám ơn cô đã lấy con diều của cháu xuống," Kenny nói với một nụ cười không răng, dễ mến khác của nó. "Không có chi," Sloan nói, đè nén thôi thúc kéo nó vào cánh tay củ a cô và ôm chặt nó – dù là với cái áo dơ bẩn, khuôn mặt lắm lem, và tất cả. Ba đứa trẻ quay lưng và rồi bỏ đi, tranh cãi ồn ào về mức độ can đảm của Sloan.  "Cô McMullin nói đúng. Cô Sloan thực sự, thực sự là một anh hùng," Emma tuyên bố. "Cô ấy thật sự, thực sự dũng cảm," Kenny công bố. Butch Ingersoll c ảm thấy buộc phải thẩm định và giới hạn lời khen "cô ấy dũng cảm so với một cô gái," cậu ta công bố một cách mạnh mẽ, gợi cho Sloan nhớ thậm chí càng mạnh mẽ hơn về Cảnh sát trưởng Ingersoll.  Một cách kỳ lạ, cô bé Emma nhút nhát cảm thấy đó là lời sỉ nhục. "Con gái cũng dũng cảm y như con trai vậy." "Họ không có! Cô ấy thậm chí không nên làm cảnh sát. Đó là công việc của đàn ông. Đó là lý do tại sao họ gọi là cảnh sát (policeman)." Emma phật ý dữ dội với lời sỉ nhục cuối cùng này đối với nữ anh hùng của cô bé. "Mẹ tớ," cô bé gào lên, "nói rằng cô Sloan Reynolds nên làm cảnh sát trưởng!" "Ồ, vậy sao ?" Butch Ingersoll phản kích. "Ừm, ông của tao là cảnh sát trưởng đấy, và ông tao nói cô ấy thật phiền toái (là cái mụt nhọt trên mông ! Ông tao nói cô ấy nên lấy chồng và sinh con. Đó là điều con gái sanh ra để làm!" Emma m ở miệng định phản đối nhưng không thể nghĩ được làm thế nào. "Tớ ghét cậu, Butch Ingersoll," thay vào đó cô bé kêu lên, và bỏ chạy, nắm chặt con búp bê – một người bênh vực nữ quyền với đôi mắt ngấn lệ.  "Mày không nên nói như vậy chứ," Kenny cảnh báo. "Mày đã làm cho nó khóc." "Ai thèm quan tâm chứ?" Butch nói – một kẻ cố chấp với thái độ y như ông của nó. "Nếu ngày mai mày thật dễ thương với nó, có lẽ nó sẽ quên những điều mày đã nói," Kenny quả quyết – một nhà chính trị, như cha nó. Mời các bạn đón đọc Lời Thì Thầm Trong Đêm của tác giả Judith McNaught.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Dao Kề Gáy - Agatha Christie
Dao Kề Gáy là tập 9 trong series về Thanh Tra Hercule Poirot. “Dao kề gáy” xoay quanh cuộc điều tra của thám tử Hercule Poirot về cái chết của huân tước Edgware. Một vụ án mạng gây xôn xao dư luận và làm chấn động thế giới thượng lưu. Nghi can đầu tiên là Huân tước phu nhân Edgware – một nữ nghệ sĩ tài hoa, xinh đẹp. Nhưng bà ta lại có được rất nhiều bằng chứng ngoại phạm. Vụ án tưởng chừng đi vào bế tắc vì kế hoạch của kẻ thủ ác quá tinh vi, xảo quyệt, không để lại bất cứ một bằng chứng hay dấu vết gì. Nhưng không có gì là hoàn hảo tuyệt đối, lưới trời lồng lộng, thưa mà khó thoát. Bằng khả năng quan sát, suy đoán và tư duy logic của mình, Poirot đã vạch trần mọi thủ đoạn của tên sát nhân. Sự thật bất ngờ được phơi bày. Liệu huân tước phu nhân xinh đẹp có phải là kẻ phản bội giết chồng? Âm mưu phía sau hành động đó là gì? Câu chuyện lôi cuốn từ đầu đến cuối với những cuộc đấu trí căng thẳng nhưng hấp dẫn thú vị. Một lần nữa, tài năng và vị trí “nữ hoàng truyện trinh thám” của Agatha Christie lại được khẳng định. Tên của Hercule Poirot được lấy theo hai nhân vật thám tử khác là Hercule Popeau của nhà văn Marie Belloc Lowndes' và Monsieur Poiret của Frank Howel Evans trong đó Poiret là một thanh tra cảnh sát người Bỉ đã nghỉ hưu và sống ở Luân Đôn. Hercule Poirot xuất hiện lần đầu trong tiểu thuyết trinh thám đầu tay của Agatha Christie Vụ án bí ẩn ở Styles (The Mysterious Affair at Styles) xuất bản năm 1920. Hercule Poirot bắt đầu thực sự nổi tiếng sau khi tiểu thuyết Vụ ám sát Roger Ackroyd (The Murder of Roger Ackroyd) được Agatha Christie cho xuất bản năm 1926, sau đó nữ nhà văn còn cho ra đời nhiều tiểu thuyết xuất sắc khác về Poirot như Án mạng trên chuyến tàu tốc hành Phương Đông (Murder on the Orient Express), The ABC Murders (1935), Cards on the Table (1936) hay Five Little Pigs (1942). Lần xuất hiện cuối cùng của Poirot là trong tiểu thuyết Thám tử rời sân khấu (Curtain: Poirot's Last Case) xuất bản năm 1975 chỉ một năm trước khi Agatha Christie qua đời. Sau khi Thám tử rời sân khấu được xuất bản, tờ New York Times trong số báo ra ngày 6 tháng 8 năm 1975 đã có một bài điếu văn với tựa đề "Hercule Poirot is Dead; Famed Belgian Detective" ("Hercule Poirot đã chết; Thám tử người Bỉ danh tiếng"), Poirot là nhân vật giả tưởng duy nhất cho đến nay có được vinh dự này. Mặc dù Hercule Poirot là nhân vật xuất hiện nhiều nhất trong số các tiểu thuyết của Agatha Christie nhưng ngày từ năm 1930 nhà văn đã bộc lộ sự chán ngán với nhân vật này, tuy nhiên bà vẫn tiếp tục sáng tác các tiểu thuyết mới xoay quanh viên thám tử người Bỉ vì theo Christie thì nhiệm vụ của nhà văn là sáng tác ra những gì công chúng yêu thích, và Poirot lại là nhân vật được độc giả hết sức yêu mến. *** Agatha Christie sinh năm 1890 tại Torquay, Anh. Cha bà tên là Frederick Miller, nên tên khai sinh của bà là Agatha Miller. Hồi còn nhỏ, Agatha không được tới trường mà chỉ được gia đình thuê gia sư về dạy dỗ tại nhà.    Là một đứa trẻ nhút nhát, khó có thể diễn tả chính xác ý kiến của mình, ban đầu bà tìm đến âm nhạc như một cách giải tỏa tâm sự và sau này là viết sách. Năm 1914, bà kết hôn với Archie Christie, một phi công chiến đấu. Trong khi đức lang quân bận rộn chiến đấu ngoài chiến trường thì bà làm y tá trong bệnh viện. Chính trong thời kỳ này, ý tưởng viết tiểu thuyết trinh thám đã nảy sinh trong tâm trí bà. Chỉ một năm sau bà đã hoàn thành cuốn tiểu thuyết đầu tay mang tên Những bí ẩn vùng Styles, nhưng phải tới 5 năm sau nó mới được xuất bản (1920). Agatha Christie được mọi người tôn vinh là Nữ hoàng truyện trinh thám. Trong suốt cuộc đời mình, bà đã sáng tác 66 tiểu thuyết, rất nhiều truyện ngắn, kịch và hàng loạt tiểu thuyết tình cảm lãng mạn với bút danh là Mary Westmacott. Vở kịch Chiếc bẫy chuột của bà có lẽ là vở kịch trinh thám hay nhất thế giới. Một số tác phẩm của bà đã được chuyển thể thành phim, nổi bật là bộ phim Murder on the Orient Express (Án mạng trên chuyến tàu tốc hành phương Đông) đã đoạt giải thưởng Hàn lâm năm 1974. Tác phẩm của bà được dịch ra hơn 100 thứ tiếng.    Trong suốt cuộc đời mình, nữ nhà văn Agatha Christie luôn căm ghét bạo lực và máu. Bà thường thú nhận rằng không biết gì về những công cụ giết người thông thường. Thậm chí bà cũng chưa từng một lần tiếp xúc với một kẻ giết người. Mời các bạn đón đọc Cái Chết Giữa Thinh Không (Cái chết trên mây) của tác giả Agatha Christie.
Cái Chết Giữa Thinh Không - Agatha Christie
Cái Chết Giữa Thinh Không (Cái chết trên mây), Nguyên tác: Death in the Clouds/ Death in the Air. Là tập 12 trong series về Thanh Tra Hercule Poirot. Trên chuyến phi cơ hạng sang Prometheus nhắm hướng bay đến phi trường Croydon, thám tử Hercule Poirot theo thói quen nghề nghiệp đưa mắt theo dõi từng hành khách trên máy bay. Trước tiên là nàng Jane Grey đang ngồi thu mình rụt rè... còn Norman Gale đăm chiêu nghĩ ngợi... đến anh chàng nhà khảo cổ trẻ tuổi Jean Dupont vừa nhổm người đứng dậy giơ tay đập chết con o­ng vò vẽ bay vù vù trên đầu mọi người. Mãi đến lúc phát hiện Madame Giselle ngồi chết ở dãy ghế phía sau khoang tàu, thám tử Hercule Poirot mới nhận ra còn một con o­ng khác nữa, chính là một mũi tên tẩm độc dùng ống xì đồng thổi bay đi.  Tên của Hercule Poirot được lấy theo hai nhân vật thám tử khác là Hercule Popeau của nhà văn Marie Belloc Lowndes' và Monsieur Poiret của Frank Howel Evans trong đó Poiret là một thanh tra cảnh sát người Bỉ đã nghỉ hưu và sống ở Luân Đôn. Hercule Poirot xuất hiện lần đầu trong tiểu thuyết trinh thám đầu tay của Agatha Christie Vụ án bí ẩn ở Styles (The Mysterious Affair at Styles) xuất bản năm 1920. Hercule Poirot bắt đầu thực sự nổi tiếng sau khi tiểu thuyết Vụ ám sát Roger Ackroyd (The Murder of Roger Ackroyd) được Agatha Christie cho xuất bản năm 1926, sau đó nữ nhà văn còn cho ra đời nhiều tiểu thuyết xuất sắc khác về Poirot như Án mạng trên chuyến tàu tốc hành Phương Đông (Murder on the Orient Express), The ABC Murders (1935), Cards on the Table (1936) hay Five Little Pigs (1942). Lần xuất hiện cuối cùng của Poirot là trong tiểu thuyết Thám tử rời sân khấu (Curtain: Poirot's Last Case) xuất bản năm 1975 chỉ một năm trước khi Agatha Christie qua đời. Sau khi Thám tử rời sân khấu được xuất bản, tờ New York Times trong số báo ra ngày 6 tháng 8 năm 1975 đã có một bài điếu văn với tựa đề "Hercule Poirot is Dead; Famed Belgian Detective" ("Hercule Poirot đã chết; Thám tử người Bỉ danh tiếng"), Poirot là nhân vật giả tưởng duy nhất cho đến nay có được vinh dự này. Mặc dù Hercule Poirot là nhân vật xuất hiện nhiều nhất trong số các tiểu thuyết của Agatha Christie nhưng ngày từ năm 1930 nhà văn đã bộc lộ sự chán ngán với nhân vật này, tuy nhiên bà vẫn tiếp tục sáng tác các tiểu thuyết mới xoay quanh viên thám tử người Bỉ vì theo Christie thì nhiệm vụ của nhà văn là sáng tác ra những gì công chúng yêu thích, và Poirot lại là nhân vật được độc giả hết sức yêu mến. *** Agatha Christie sinh năm 1890 tại Torquay, Anh. Cha bà tên là Frederick Miller, nên tên khai sinh của bà là Agatha Miller. Hồi còn nhỏ, Agatha không được tới trường mà chỉ được gia đình thuê gia sư về dạy dỗ tại nhà.    Là một đứa trẻ nhút nhát, khó có thể diễn tả chính xác ý kiến của mình, ban đầu bà tìm đến âm nhạc như một cách giải tỏa tâm sự và sau này là viết sách. Năm 1914, bà kết hôn với Archie Christie, một phi công chiến đấu. Trong khi đức lang quân bận rộn chiến đấu ngoài chiến trường thì bà làm y tá trong bệnh viện. Chính trong thời kỳ này, ý tưởng viết tiểu thuyết trinh thám đã nảy sinh trong tâm trí bà. Chỉ một năm sau bà đã hoàn thành cuốn tiểu thuyết đầu tay mang tên Những bí ẩn vùng Styles, nhưng phải tới 5 năm sau nó mới được xuất bản (1920). Agatha Christie được mọi người tôn vinh là Nữ hoàng truyện trinh thám. Trong suốt cuộc đời mình, bà đã sáng tác 66 tiểu thuyết, rất nhiều truyện ngắn, kịch và hàng loạt tiểu thuyết tình cảm lãng mạn với bút danh là Mary Westmacott. Vở kịch Chiếc bẫy chuột của bà có lẽ là vở kịch trinh thám hay nhất thế giới. Một số tác phẩm của bà đã được chuyển thể thành phim, nổi bật là bộ phim Murder on the Orient Express (Án mạng trên chuyến tàu tốc hành phương Đông) đã đoạt giải thưởng Hàn lâm năm 1974. Tác phẩm của bà được dịch ra hơn 100 thứ tiếng.    Trong suốt cuộc đời mình, nữ nhà văn Agatha Christie luôn căm ghét bạo lực và máu. Bà thường thú nhận rằng không biết gì về những công cụ giết người thông thường. Thậm chí bà cũng chưa từng một lần tiếp xúc với một kẻ giết người. Mời các bạn đón đọc Cái Chết Giữa Thinh Không (Cái chết trên mây) của tác giả Agatha Christie.
Cái Bẫy Chuột - Agatha Christie
Tính đến năm 2007, Vở kịch The Mousetrap (Cái bẫy chuột) của Agatha Christie hiện đang giữ kỷ lục vở kịch được công diễn lâu nhất trong lịch sử sân khấu London, ra mắt lần đầu tại rạp Ambassadors Theatre ngày 25 tháng 11 năm 1952 và vẫn tiếp tục được diễn cho đến nay với trên 20.000 buổi diễn. Nội dung của nó kể về một vụ án mạng có thật, từng gây chấn động Vương quốc Anh vào năm 1945. Chiến tranh thế giới thứ hai, Vương quốc Anh là một trong những đế quốc tham chiến sớm nhất. Cho đến ngày hiệp ước đình chiến được các bên ký kết, tổng thiệt hại về người của đảo quốc sương mù cho cuộc chiến này là 320.000 người. So với những quốc gia tham chiến khác như Liên Xô, Đức, Ba Lan… thì con số này rất "nhỏ". Thế nhưng, chỉ tính riêng tại Vương quốc Anh, thì con số này lớn vô cùng. Ngày 9/1/1945, cậu bé Dennis O’Neill - 13 tuổi bị phát hiện đã chết trong tình trạng thể chất vô cùng kinh khủng. Cậu bé gần như chỉ còn một bộ da bọc xương, cơ thể bầm dập những vết đòn roi, vết đòn cũ chưa mờ thì đã bị che lấp bởi những trận đòn kế tiếp. Dennis và em trai Terence - 11 tuổi, được một đôi vợ chồng trung niên nuôi nhận ở một nông trại hẻo lánh tại Shropshire. 13 giờ chiều, mẹ nuôi của Dennis - bà Esther Gough gọi điện báo với bác sỹ rằng Dennis đã ổn định, sức khỏe đang hồi phục. Thế nhưng đến 15h cùng ngày, khi vị bác sỹ đến nông trại, Dennis đã chết. Và theo khám nghiệm tử thi cũng như kết luận từ các bác sỹ, Dennis đã chết nhiều giờ trước đó. Nước Anh một phen chấn động về cái chết của Dennis. Thời điểm ấy, báo chí xứ sở sương mù chỉ đưa tin về những chiến thắng của quân đội Anh trước phe phát-xít, về hàng nghìn kẻ thù bị tiêu diệt trong ở mỗi chiến trường, về những thiệt hại của người Anh trong cuộc chiến. Vậy nhưng, hình ảnh về cái chết thương tâm của Dennis O’Neill vẫn khiến tất cả phải ngậm ngùi. Kết quả khám nghiệm tử thi gây sốc với tất cả. Dennis bị trụy tim do bị đánh quá mạnh vào lồng ngực. Cậu bé bị giết, chứ không phải vì chết đói nữa. Dennis chết, chỉ 2 ngày trước sinh nhật tuổi 13. Và phải có kẻ phải chịu trách nhiệm cho tội ác này. *** Agatha Christie sinh năm 1890 tại Torquay, Anh. Cha bà tên là Frederick Miller, nên tên khai sinh của bà là Agatha Miller. Hồi còn nhỏ, Agatha không được tới trường mà chỉ được gia đình thuê gia sư về dạy dỗ tại nhà.    Là một đứa trẻ nhút nhát, khó có thể diễn tả chính xác ý kiến của mình, ban đầu bà tìm đến âm nhạc như một cách giải tỏa tâm sự và sau này là viết sách. Năm 1914, bà kết hôn với Archie Christie, một phi công chiến đấu. Trong khi đức lang quân bận rộn chiến đấu ngoài chiến trường thì bà làm y tá trong bệnh viện. Chính trong thời kỳ này, ý tưởng viết tiểu thuyết trinh thám đã nảy sinh trong tâm trí bà. Chỉ một năm sau bà đã hoàn thành cuốn tiểu thuyết đầu tay mang tên Những bí ẩn vùng Styles, nhưng phải tới 5 năm sau nó mới được xuất bản (1920). Agatha Christie được mọi người tôn vinh là Nữ hoàng truyện trinh thám. Trong suốt cuộc đời mình, bà đã sáng tác 66 tiểu thuyết, rất nhiều truyện ngắn, kịch và hàng loạt tiểu thuyết tình cảm lãng mạn với bút danh là Mary Westmacott. Vở kịch Chiếc bẫy chuột của bà có lẽ là vở kịch trinh thám hay nhất thế giới. Một số tác phẩm của bà đã được chuyển thể thành phim, nổi bật là bộ phim Murder on the Orient Express (Án mạng trên chuyến tàu tốc hành phương Đông) đã đoạt giải thưởng Hàn lâm năm 1974. Tác phẩm của bà được dịch ra hơn 100 thứ tiếng.    Trong suốt cuộc đời mình, nữ nhà văn Agatha Christie luôn căm ghét bạo lực và máu. Bà thường thú nhận rằng không biết gì về những công cụ giết người thông thường. Thậm chí bà cũng chưa từng một lần tiếp xúc với một kẻ giết người. Mời các bạn đón đọc Cái Bẫy Chuột của tác giả Agatha Christie.
Ba Điều Bí Ẩn - Agatha Christie
Ba Điều Bí Ẩn là tập 18 trong series về Thanh Tra Hercule Poirot. Tên của Hercule Poirot được lấy theo hai nhân vật thám tử khác là Hercule Popeau của nhà văn Marie Belloc Lowndes' và Monsieur Poiret của Frank Howel Evans trong đó Poiret là một thanh tra cảnh sát người Bỉ đã nghỉ hưu và sống ở Luân Đôn. Hercule Poirot xuất hiện lần đầu trong tiểu thuyết trinh thám đầu tay của Agatha Christie Vụ án bí ẩn ở Styles (The Mysterious Affair at Styles) xuất bản năm 1920. Hercule Poirot bắt đầu thực sự nổi tiếng sau khi tiểu thuyết Vụ ám sát Roger Ackroyd (The Murder of Roger Ackroyd) được Agatha Christie cho xuất bản năm 1926, sau đó nữ nhà văn còn cho ra đời nhiều tiểu thuyết xuất sắc khác về Poirot như Án mạng trên chuyến tàu tốc hành Phương Đông (Murder on the Orient Express), The ABC Murders (1935), Cards on the Table (1936) hay Five Little Pigs (1942). Lần xuất hiện cuối cùng của Poirot là trong tiểu thuyết Thám tử rời sân khấu (Curtain: Poirot's Last Case) xuất bản năm 1975 chỉ một năm trước khi Agatha Christie qua đời. Sau khi Thám tử rời sân khấu được xuất bản, tờ New York Times trong số báo ra ngày 6 tháng 8 năm 1975 đã có một bài điếu văn với tựa đề "Hercule Poirot is Dead; Famed Belgian Detective" ("Hercule Poirot đã chết; Thám tử người Bỉ danh tiếng"), Poirot là nhân vật giả tưởng duy nhất cho đến nay có được vinh dự này. Mặc dù Hercule Poirot là nhân vật xuất hiện nhiều nhất trong số các tiểu thuyết của Agatha Christie nhưng ngày từ năm 1930 nhà văn đã bộc lộ sự chán ngán với nhân vật này, tuy nhiên bà vẫn tiếp tục sáng tác các tiểu thuyết mới xoay quanh viên thám tử người Bỉ vì theo Christie thì nhiệm vụ của nhà văn là sáng tác ra những gì công chúng yêu thích, và Poirot lại là nhân vật được độc giả hết sức yêu mến. *** Hamborough Close, Westshire Ngày 24-9-1936 Kính gửi ông Hercule Poirot, Một vụ việc vừa phát sinh, đòi hỏi sự xử lý tinh tế và kín đáo. Tôi đã nghe nhiều người nói tốt về ông, nên quyết định giao phó việc này cho ông. Tôi có nhiều lý do để tự tin mình là nạn nhân của một vụ gian lận, Nhưng vì lý do gia đình, không muốn kêu cảnh sát. Tôi đã có một số biện pháp để phòng thân và đối phó với tình hình, nhưng ông cần sẵn sàng đến đây ngaykhi vừa nhận được điện. Ông khỏi cần trả lời thư này, xin gửi tới ông lòng biết ơn. Kính thư: Gervase Chevenix-Gore *** Agatha Christie sinh năm 1890 tại Torquay, Anh. Cha bà tên là Frederick Miller, nên tên khai sinh của bà là Agatha Miller. Hồi còn nhỏ, Agatha không được tới trường mà chỉ được gia đình thuê gia sư về dạy dỗ tại nhà.    Là một đứa trẻ nhút nhát, khó có thể diễn tả chính xác ý kiến của mình, ban đầu bà tìm đến âm nhạc như một cách giải tỏa tâm sự và sau này là viết sách. Năm 1914, bà kết hôn với Archie Christie, một phi công chiến đấu. Trong khi đức lang quân bận rộn chiến đấu ngoài chiến trường thì bà làm y tá trong bệnh viện. Chính trong thời kỳ này, ý tưởng viết tiểu thuyết trinh thám đã nảy sinh trong tâm trí bà. Chỉ một năm sau bà đã hoàn thành cuốn tiểu thuyết đầu tay mang tên Những bí ẩn vùng Styles, nhưng phải tới 5 năm sau nó mới được xuất bản (1920). Agatha Christie được mọi người tôn vinh là Nữ hoàng truyện trinh thám. Trong suốt cuộc đời mình, bà đã sáng tác 66 tiểu thuyết, rất nhiều truyện ngắn, kịch và hàng loạt tiểu thuyết tình cảm lãng mạn với bút danh là Mary Westmacott. Vở kịch Chiếc bẫy chuột của bà có lẽ là vở kịch trinh thám hay nhất thế giới. Một số tác phẩm của bà đã được chuyển thể thành phim, nổi bật là bộ phim Murder on the Orient Express (Án mạng trên chuyến tàu tốc hành phương Đông) đã đoạt giải thưởng Hàn lâm năm 1974. Tác phẩm của bà được dịch ra hơn 100 thứ tiếng.    Trong suốt cuộc đời mình, nữ nhà văn Agatha Christie luôn căm ghét bạo lực và máu. Bà thường thú nhận rằng không biết gì về những công cụ giết người thông thường. Thậm chí bà cũng chưa từng một lần tiếp xúc với một kẻ giết người. Mời các bạn đón đọc Ba Điều Bí Ẩn của tác giả Agatha Christie.