Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

U Mộng Ảnh

Đọc U mộng ảnh với trăng mờ phố núi Tôi lên Buôn Ma Thuột đúng vào đầu mùa trăng. Dù là tiết Trung thu nhưng trăng lại rất mờ, gần như bị khuất sau những lớp mây đen nghịt. Những đồi thông nhấp nhô lặng lẽ dưới cơn mưa chiều, kéo dài theo con đường nhựa từ tỉnh Đăk Nông đến cầu 14, trông đẹp lạ. Bên kia cầu là thành phố Buôn Ma Thuột. Cơn mưa chiều rất nhẹ như muốn kéo bầu trời xuống thấp hơn một chút. Và cái se lạnh êm ả của thành phố cao nguyên làm hồn khách bỗng thấy ấm áp và yên tĩnh lạ thường. Trong túi xách tôi là mấy trang U mộng ảnh của Trương Trào, mà tôi tìm được tình cờ trên Internet. Trương Trào tự Sơn Lai, hiệu Tâm Trai và Trọng Tử, người tỉnh An Huy, sinh năm 1650 (năm Thuận Trị thứ tám, đời Thanh), không rõ năm mất. Ông sáng tác không nhiều, trong đó nổi tiếng nhất là U mộng ảnh (bóng mờ trong cõi mộng). U mộng ảnh chỉ là một tập sách nhỏ gồm 220 câu cách ngôn của Trương Trào, phác hoạ ra một thế giới thơ mộng được nhìn qua đôi mắt tài hoa của một nghệ sĩ lớn, và nó đã làm say mê nhiều thế hệ văn nhân thi nhân Trung Quốc. Nhiều người đọc những tác phẩm văn ngôn Trung Quốc thường chê lối văn biền ngẫu, vì cho rằng đó là lối văn sáo mòn về hình thức và nhạt nhẽo về nội dung. Điều đó có lẽ chỉ đúng với những tác giả bất tài. Nhiều câu văn biền ngẫu của Trương Trào đọc nghe ý vị lạ lùng, có lẽ vì nội dung hàm súc và tân kỳ của nó. Gần hai tuần trên cao nguyên, sống giữa cảnh thiên nhiên xinh đẹp, xa lìa cái xô bồ náo nhiệt của Sài Gòn, tôi mới có dịp thưởng thức trọn vẹn những câu cách ngôn đầy thi vị trong văn phong bay bướm của Trương Trào. Dù đã thay đổi nhiều nhưng Buôn Ma Thuột vẫn còn bóng dáng của một phố núi. Thiên nhiên vẫn còn đẹp lắm với những bản làng vùng xa và những nhà sàn nhả khói trong bóng sương chiều. Có về lại với thiên nhiên, ta mới cảm nhận được Hoá công quả là một nghệ sĩ vĩ đại khi kiến tạo nên những diệu cảnh của trần gian để ban cho con người làm tặng vật. Và chỉ có người nghệ sĩ mới biết cảm nhận tặng vật đó để biến diệu cảnh trong thiên nhiên thành diệu cảnh trong lòng. Có cảnh sơn thuỷ trên đất, có cảnh sơn thuỷ trên tranh, có cảnh sơn thuỷ trong mộng, có cảnh sơn thuỷ trong lòng. Cảnh sơn thuỷ trên đất đẹp ở gò hang u tịch, cảnh sơn thuỷ trên tranh đẹp ở bút mực lâm ly, cảnh sơn thuỷ trong mộng đẹp ở cảnh tượng biến ảo, cảnh sơn thuỷ trong lòng đẹp ở vị trí tự nhiên. (Hữu địa thượng chi sơn thuỷ, hữu hoạ thượng chi sơn thuỷ, hữu mộng trung chi sơn thuỷ, hữu hung trung chi sơn thuỷ. Địa thượng giả diệu tại khưu hác thâm thuý; hoạ thượng giả diệu tại bút mặc lâm ly; mộng trung giả diệu tại cảnh tượng biến ảo; hung trung giả diệu tại vị trí tự như.) Bóng sông núi trong vừng trăng là địa lý trong thiên văn, hình tượng trăng sao trên sông nước là thiên văn trong địa lý. (Nguyệt trung sơn hà chi ảnh, thiên văn trung địa lý dã; thuỷ trung tinh nguyệt chi tượng, địa lý trung thiên văn dã.) U mộng ảnh quả là tác phẩm tuyệt vời của một người nghệ sĩ đem tài hoa vào đời để đi tìm và thưởng ngoạn cái Đẹp. Chỉ những tâm hồn tài hoa chân chính mới biết nâng niu và trân trọng cái Đẹp: Vì trăng mà lo mây, vì sách mà lo mối mọt, vì hoa mà lo gió mưa, vì tài tử giai nhân mà lo mệnh bạc, đó thực là tấm lòng Bồ Tát vậy. (Vị nguyệt ưu vân; vị thư ưu đố; vị hoa ưu phong vũ; vị tài tử giai nhân ưu mệnh bạc; chân thị Bồ Tát tâm trường.) Chỉ những người như thế mới biết biến trần gian thành một vườn địa đàng thực sự, vì biết dùng: Một chữ tình để duy trì thế giới, một chữ tài để tô điểm càn khôn. (Tình chi nhất tự, sở dĩ duy trì thế giới; tài chi nhất tự, sở dĩ phấn sức kiền khôn.) Đọc U mộng ảnh, lắm phen tôi phải giật mình tự hỏi tại sao chúng ta lại cứ mãi bon chen trong thế giới vật chất để tồn tại mà quên mất ý nghĩa đích thực của cuộc sống. Rốt cuộc thì cõi đời là một thiên đường để con người hưởng thụ hay chỉ là nơi buộc con người phải lao động khổ sai? Sao chúng ta lại cứ phải suốt đời lao động quần quật để hì hục vun đắp thêm cho cái khối lượng vật chất thường đã vượt quá nhu cầu sống thường ngày, mà không chịu bỏ ra những phút giây nhàn nhã để nhìn lại cuộc sống với muôn ngàn điều kỳ diệu quanh ta? Đứng trên lầu ngắm núi, đứng đầu thành ngắm tuyết, ngồi trước đèn ngắm hoa, ngồi trong thuyền ngắm ráng chiều, dưới trăng ngắm mỹ nhân, mỗi cảnh đều có tình riêng. (Lâu thượng khán sơn; thành đầu khán tuyết; đăng tiền khán hoa; chu trung khán hà; nguyệt hạ khán mỹ nhân; lánh thị nhất phiên tình cảnh.) Ánh nắng của núi, tiếng chảy của nước, màu sắc của trăng, hương thơm của hoa, vẻ nho nhã của văn nhân, dáng yêu kiều của mỹ nhân đều là những thứ không thể dùng tên gọi mà hình dung ra được, không thể nào nắm bắt được, quả đủ để làm ngơ ngẩn mộng hồn, đảo điên thần tứ! (Sơn chi quang; thuỷ chi thanh; nguyệt chi sắc; hoa chi hương; văn nhân chi vận trí; mỹ nhân chi tư thái; giai vô khả danh trạng, vô khả chấp trước. Chân túc dĩ nhiếp chiêu hồn mộng, điên đảo tình tứ!) Chúng ta cứ hợm hĩnh vì những ngôi nhà cao tầng, vì những chiếc xe hơi bóng lộn, vì những bữa ăn trong nhà hàng sang trọng, vì những mối quan hệ giao du với những nhân vật tầm cỡ trong xã hội, như những thằng hề mãi múa may trên sân khấu đời “full of sound and fury”, mà không bao giờ hiểu được rằng dưới con mắt của Hoá công, đó chỉ là cuộc sống dung tục đầy thảm hại. Những người hưởng thụ thế giới đâu phải là những kẻ nhiều tiền lắm của mà chính là những người mang tâm hồn nghệ sĩ và hiểu được triết lý của chữ nhàn. Con người không gì vui cho bằng nhàn. Nhàn đâu phải là không có gì để làm. Có nhàn mới đọc được sách, có nhàn mới du ngoạn được danh lam thắng cảnh, có nhàn mới giao du được với những bạn có ích, có nhàn mới uống được rượu, có nhàn mới viết được sách. Niềm vui trong thiên hạ, còn có gì lớn hơn nó nữa? (Nhân mạc lạc ư nhàn, phi vô sở sự sự chi vị dã. Nhàn tắc năng độc thư, nhàn tắc năng du danh thắng, nhàn tắc năng giao ích hữu, nhàn tắc năng ẩm tửu, nhàn tắc năng trước thư. Thiên hạ chi lạc, thục đại ư thị?) Đã lâu lắm rồi, tại một quán cà phê thung lũng nơi phố núi, tôi mới hưởng được cái thú ngồi uống cà phê một mình giữa cái yên tĩnh của bóng chiều hôm. Cái tĩnh lặng của cảnh vật đã lan toả thành cái tĩnh lặng trong lòng khách. Còn gì thú vị hơn, khi cùng Trương Trào ngắm những tảng đá đặt bên gốc cây để thưởng ngoạn một cảnh vườn u nhã: Đá đặt bên gốc mai nên cổ kính, đá đặt dưới gốc tùng nên thô, đá đặt bên gốc trúc nên gầy, đá đặt trong bồn nên tinh xảo. (Mai biên chi thạch nghi cổ; tùng hạ chi thạch nghi chuyết; trúc bạng chi thạch nghi sấu; bồn nội chi thạch nghi xảo.) Chỉ một cánh bướm vờn hoa trong ánh nắng thoi thóp trên thảm cỏ xanh, nhưng cả khu vườn như rực sáng qua một câu văn tinh tế: Bướm là hoá thân của tài tử, hoa là biệt hiệu của mỹ nhân. (Điệp vi tài tử chi hoá thân, hoa nãi mỹ nhân chi biệt hiệu.) Tiếng chim hót, tiếng côn trùng rả rích đêm thâu, tiếng suối nước róc rách… từ lâu đã chết trong tâm hồn chúng ta, thay vào đó là những thanh âm xô bồ của cuộc sống luôn hỗn loạn vì đồng bạc; hình ảnh vầng trăng mênh mang trên sông nước, hay cảnh mây bay trên rừng núi trong bóng chiều hôm đã bị nhoà đi trong cảnh ngựa xe náo nhiệt. Chúng ta cứ bị cuốn theo cảnh đó mà không cảm nhận được rằng: Mùa xuân nghe tiếng chim hót, mùa hè nghe tiếng ve ngâm, mùa thu nghe tiếng côn trùng rả rích, mùa đông nghe tiếng tuyết rơi, ban ngày nghe tiếng đánh cờ, dưới trăng nghe tiếng tiêu réo rắt, trong núi nghe tiếng gió thổi ngàn thông, bên nước nghe tiếng sóng vỗ, mới không sống uổng phí một đời. (Xuân thính điểu thanh; hạ thính thiền thanh; thu thính trùng thanh; đông thính tuyết thanh; bạch trú thính kỳ thanh; nguyệt hạ thính tiêu thanh; sơn trung thính tùng phong thanh; thuỷ tế thính nội nãi thanh; phương bất hư sinh thử nhĩ.) Dưới thông nghe tiếng đàn cầm, dưới trăng nghe tiếng tiêu, bên khe nghe tiếng thác đổ, trong núi nghe tiếng tụng kinh, tai nghe ra mỗi tiếng đều có ý vị riêng. (Tùng hạ thính cầm; nguyệt hạ thính tiêu; giản biên thính bộc bố; sơn trung thính phạn bối, giác nhĩ trung biệt hữu bất đồng.) Dưới trăng bàn thiền, thú vị càng man mác; dưới trăng luận kiếm, can đảm càng bồng bột; dưới trăng bàn thơ, phong thái càng u nhã; dưới trăng ngắm mỹ nhân, tình ý càng nồng thắm (Nguyệt hạ đàm thiền, chỉ xúc ích viễn; nguyệt hạ thuyết kiếm, can đảm ích chân; nguyệt hạ luận thi, phong trí ích u; nguyệt hạ đối mỹ nhân, tình ý ích đốc.) Đúng là chúng ta đã sống quá lãng phí trước những tặng vật kỳ diệu của Thượng đế. Sống mà mắt như mù, tai như điếc trước thiên nhiên. Càng đọc U mộng ảnh chúng ta càng thấy cuộc sống ta lâu nay thảm hại là ngần nào. Chúng ta mãi bươn chải lao lướt theo cuộc sống, dùng mọi thủ đoạn để tồn tại với đủ mọi thứ tiện nghi vật chất phù phiếm, mà không hề biết cách: Gầy hoa để gọi bướm, chất đá để mời mây, trồng thông để đón gió, chứa nước để gọi bèo; xây đài cao để mời trăng, trồng chuối để đón mưa, trồng liễu để gọi ve. (Nghệ hoa khả dĩ khiêu điệp; luỹ thạch khả dĩ khiêu vân; tài tùng khả dĩ khiêu phong; trữ thuỷ khả dĩ khiêu bình; trúc đài khả dĩ khiêu nguyệt; chủng tiêu khả dĩ khiêu vũ; trí liễu khả dĩ khiêu thiền.) Ngồi một mình giữa thung lũng đọc U mộng ảnh quả là một lạc thú trên đời. Song tôi thắc mắc mãi vì sao tiêu đề lại là U mộng ảnh? Đó là bóng mờ trong cõi mộng hay là chiếc bóng lẻ loi trong cõi mộng u buồn? Phải chăng ta chỉ thưởng ngoạn được vẻ đẹp của thế giới khi nhìn nó qua cõi mộng, như Trang Chu hoá bướm ngày xưa [1] ? Trang Chu mộng thấy mình hoá thành bướm, đó là cái may mắn của Trang Chu; bướm nếu mộng thấy mình hoá thành Trang Chu, thì đó là cái bất hạnh của bướm. (Trang Chu mộng vi hồ điệp, Trang Chu chi hạnh dã; hồ điệp mộng vi Trang Chu, hồ điệp chi bất hạnh dã.) Giữa bóng trăng mờ ảo, lại ngồi một mình nơi quán cóc vắng vẻ ở vùng ngoại ô tĩnh lặng của thành phố cao nguyên, trong bụi cỏ rậm là tiếng côn trùng rả rích, tôi chợt nghiệm ra ý nghiã của chữ “u mộng” và thấy thấm thía biết bao khi đọc: Đêm thanh ngồi cô độc, mời trăng kể lể chuyện buồn; canh khuya ngủ một mình, gọi dế nói niềm sầu hận (Thanh tiêu độc toạ, yêu nguyệt ngôn sầu; lương dạ cô miên, hô cung ngữ hận.) Mà có đêm trăng mờ nào trên cao nguyên lại không gợi lên bao nỗi buồn man mác? Ban Ma Thuột, Trung Thu 2006 Huỳnh Ngọc Chiến *** U mộng ảnh (幽夢影) là tên một tập sách nổi tiếng của nhà văn Trương Trào đời Thanh. Tập sách gồm 220 câu cách ngôn nói về nghệ thuật thưởng thức đời sống, về sau rất được giới văn nhân tài tử ưa chuộng. "Hoa không thể không có bướm, núi không thể không có suối, đá không thể không có rêu, nước không thể không có rong, cây lớn không thể không có dây leo, và người không thể không nghiền một thứ gì" "Hoa không nên thấy rụng, trăng không nên thấy chìm, mỹ nhân không nên thấy chết yểu" "Mỹ nhân hơn hoa ở chỗ biết nói; hoa hơn mỹ nhân ở chỗ tỏa hương. Nếu không được cả hai thì bỏ hương mà lưa biết nói. Thường hoa đẹp thì không thơm, cánh nhiều tầng thì không thành trái" "Răn mình thì nên như cái khí mùa thu, xử thế thì nên như cái khí mùa xuân. "Mưa có thể làm cho ngày ngắn và đêm dài" "Mưa xuân mưa như chiếu vua ban ân, mưa hè như chiếu vua xá tội, mưa thu như tiếng điếu người chết" "Gió xuân như rượu, gió hè như trà, gió thu như khói, gió đông như gừng, cải" "Không có cái gì vui bằng nhàn, nhàn không phải là không làm một việc gì. Có nhàn mới đọc được sách, mới đi coi được những thắng cảnh, mới giao du được những bạn bè có ích, mới uống rượu được, mới viết sách được. Có cái vui nào lớn hơn như vậy nữa" "Văn chương bất hủ cổ kim đều viết bằng huyết lệ" Phải thừa nhận một điều rằng, tôi đọc hết cả tác phẩm mà lòng cảm thấy vẫn chưa đủ, cứ muốn tác phẩm này phải là 2200 câu thì mới thoả được lòng mình. Và tôi nhận ra là áng văn tuyệt diệu này kích thích sự ham đọc của tôi lên đến cảnh giới tột độ, kích thích nguồn cảm hứng của tôi trong việc sáng tác, giúp tôi cảm nhận được nhiều hơn về cuộc sống quanh mình. Qua đó, tôi nhận ra rằng cuộc sống của mình quá thiếu thốn và nghèo khổ, nhưng không phải nghèo tiền nghèo bạc mà là nghèo tinh thần. Đọc U mộng ảnh với trăng mờ phố núi: Tôi lên Buôn Ma Thuột đúng vào đầu mùa trăng. Dù là tiết Trung thu nhưng trăng lại rất mờ, gần như bị khuất sau những lớp mây đen nghịt. Những đồi thông nhấp nhô lặng lẽ dưới cơn mưa chiều, kéo dài theo con đường nhựa từ tỉnh Đăk Nông đến cầu 14, trông đẹp lạ. Bên kia cầu là thành phố Buôn Ma Thuột. Cơn mưa chiều rất nhẹ như muốn kéo bầu trời xuống thấp hơn một chút. Và cái se lạnh êm ả của thành phố cao nguyên làm hồn khách bỗng thấy ấm áp và yên tĩnh lạ thường. Trong túi xách tôi là mấy trang U mộng ảnh của Trương Trào, mà tôi tìm được tình cờ trên Internet. Trương Trào tự Sơn Lai, hiệu Tâm Trai và Trọng Tử, người tỉnh An Huy, sinh năm 1650 (năm Thuận Trị thứ tám, đời Thanh), không rõ năm mất. Ông sáng tác không nhiều, trong đó nổi tiếng nhất là U mộng ảnh (bóng mờ trong cõi mộng). U mộng ảnh chỉ là một tập sách nhỏ gồm 220 câu cách ngôn của Trương Trào, phác hoạ ra một thế giới thơ mộng được nhìn qua đôi mắt tài hoa của một nghệ sĩ lớn, và nó đã làm say mê nhiều thế hệ văn nhân thi nhân Trung Quốc. Nhiều người đọc những tác phẩm văn ngôn Trung Quốc thường chê lối văn biền ngẫu, vì cho rằng đó là lối văn sáo mòn về hình thức và nhạt nhẽo về nội dung. Điều đó có lẽ chỉ đúng với những tác giả bất tài. Nhiều câu văn biền ngẫu của Trương Trào đọc nghe ý vị lạ lùng, có lẽ vì nội dung hàm súc và tân kỳ của nó. Gần hai tuần trên cao nguyên, sống giữa cảnh thiên nhiên xinh đẹp, xa lìa cái xô bồ náo nhiệt của Sài Gòn, tôi mới có dịp thưởng thức trọn vẹn những câu cách ngôn đầy thi vị trong văn phong bay bướm của Trương Trào. Dù đã thay đổi nhiều nhưng Buôn Ma Thuột vẫn còn bóng dáng của một phố núi. Thiên nhiên vẫn còn đẹp lắm với những bản làng vùng xa và những nhà sàn nhả khói trong bóng sương chiều. Có về lại với thiên nhiên, ta mới cảm nhận được Hoá công quả là một nghệ sĩ vĩ đại khi kiến tạo nên những diệu cảnh của trần gian để ban cho con người làm tặng vật. Và chỉ có người nghệ sĩ mới biết cảm nhận tặng vật đó để biến diệu cảnh trong thiên nhiên thành diệu cảnh trong lòng. Có cảnh sơn thuỷ trên đất, có cảnh sơn thuỷ trên tranh, có cảnh sơn thuỷ trong mộng, có cảnh sơn thuỷ trong lòng. Cảnh sơn thuỷ trên đất đẹp ở gò hang u tịch, cảnh sơn thuỷ trên tranh đẹp ở bút mực lâm ly, cảnh sơn thuỷ trong mộng đẹp ở cảnh tượng biến ảo, cảnh sơn thuỷ trong lòng đẹp ở vị trí tự nhiên. (Hữu địa thượng chi sơn thuỷ, hữu hoạ thượng chi sơn thuỷ, hữu mộng trung chi sơn thuỷ, hữu hung trung chi sơn thuỷ. Địa thượng giả diệu tại khưu hác thâm thuý; hoạ thượng giả diệu tại bút mặc lâm ly; mộng trung giả diệu tại cảnh tượng biến ảo; hung trung giả diệu tại vị trí tự như). Bóng sông núi trong vừng trăng là địa lý trong thiên văn, hình tượng trăng sao trên sông nước là thiên văn trong địa lý. (Nguyệt trung sơn hà chi ảnh, thiên văn trung địa lý dã; thuỷ trung tinh nguyệt chi tượng, địa lý trung thiên văn dã). U mộng ảnh quả là tác phẩm tuyệt vời của một người nghệ sĩ đem tài hoa vào đời để đi tìm và thưởng ngoạn cái Đẹp. Chỉ những tâm hồn tài hoa chân chính mới biết nâng niu và trân trọng cái Đẹp *** Trương Triều (张潮) tên chữ Sơn Lai (山来), hiệu Tâm Trai (心斋), người tỉnh An Huy (安徽), sinh năm 1650 vào năm Thuận Trị thứ tám, đời Thanh, không rõ năm mất. Tiểu sử của ông rất ít, hậu thế biết đến ông nhờ tác phẩm để lại. Ông là một nhà thơ, nhà văn, nổi tiếng với tập "U mộng ảnh" (幽夢影), và "Ngu sơ tân chí" (虞初新志). “U mộng ảnh” là một tập sách gồm 220 câu cách ngôn nói về nghệ thuật thưởng thức đời sống, về sau rất được giới văn nhân tài tử ưa chuộng. Lâm Ngữ Đường nhận xét: "Cuốn "U mộng ảnh" của ông chứa nhiều câu cách ngôn cũng như nhiều tác phẩm khác của Trung Hoa, nhưng không cuốn nào bằng cuốn của ông. Cách ngôn của ông so với ngạn ngữ thì không khác chi truyện của Andersen so với truyện thần tiên của Anh, hoặc những khúc ca của Schubert so với các khúc dân ca. Cuốn đó được văn nhân Trung Hoa rất thích đọc và nhiều nhà đọc xong, ghi thêm ít lời phê bình trang nhã." Tại Việt Nam, “U mộng ảnh” đã được dịch giả Huỳnh Ngọc Chiến biên dịch và chú thích 215 câu (Nxb Văn hóa Thông tin, 2007). Cuốn ebook này được thực hiện bởi yeuchip, theo ấn bản điện tử của http://codatu.wordpress.com, giới thiệu 200 câu trích từ bản của Huỳnh Ngọc Chiến. U mộng ảnh 1. Kinh sách nên đọc vào mùa đông, vì tinh thần được chuyên nhất; sử nên đọc vào mùa hè, vì ngày dài; chư tử nên đọc vào mùa thu, vì nhiều ý lạ; sách các nhà khác nên đọc vào mùa xuân, vì khí trời thoải mái. 讀 經 宜 冬, 其 神 專 也 ; 讀 史 宜 夏, 其 時 久 也 ; 讀 諸 子 宜 秋, 其 致 別 也 ;讀 諸 集 宜 春 其 機 暢 也。 Độc kinh nghi đông, kỳ thần chuyên dã; độc sử nghi hạ, kỳ thời cửu dã; độc chư tử nghi thu, kỳ trí biệt dã; độc chư tập nghi xuân, kỳ cơ sướng dã. 2. Kinh truyện[1] nên đọc một mình, mà sử giám[2] nên đọc cùng bạn. 經 傳 宜 獨 坐 讀,史 鑑 宜 與 友 共 讀。 Kinh truyện nghi độc tọa độc; sử giám nghi dữ hữu cộng độc. 3. Không thiện không ác là bậc thánh, nhiều thiện ít ác là bậc hiền, ít thiện nhiều ác là hạng người tầm thường, có ác không thiện là hạng tiểu nhân, có thiện không ác là hàng Tiên, Phật. 無 善 無 惡 是 聖 人, 善 多 惡 少 是 賢 者, 善 少 惡 多 是 庸 人, 有 惡 無 善 是小 人, 有 善 無 惡 是 仙 佛。 Vô thiện vô ác thị thánh nhân; thiện đa ác thiểu thị hiền giả; thiện thiểu ác đa thị dung nhân; hữu ác vô thiện thị tiểu nhân; hữu thiện vô ác thị Tiên Phật. 4. Trong thiên hạ có được một người tri kỷ, thì không còn ân hận gì nữa. Đâu phải chỉ có con người mới thế, mà cả vật cũng vậy. Như cúc lấy Đào Uyên Minh[3] làm tri kỷ, mai lấy Hòa Tĩnh[4] làm tri kỷ, trúc lấy Tử Do[5] làm tri kỷ, sen lấy Liêm Khê[6] làm tri kỷ, thuần lư lấy Quý Ưng[7] làm tri kỷ, chuối lấy Hoài Tố[8] làm tri kỷ, dưa lấy Thiệu Bình[9]làm tri kỷ, gà lấy Xử Tông[10] làm tri kỷ, ngỗng lấy Hữu Quân[11] làm tri kỷ, đào lấy những người trốn vua Tần[12] làm tri kỷ, hạnh lấy Đổng Phụng[13] làm tri kỷ, đá lấy Mễ Điên[14] làm tri kỷ, quả vải lấy Thái Chân[15] làm tri kỷ, trà lấy Lư Đồng[16], Lục Vũ[17]làm tri kỷ, cỏ thơm lấy Linh Quân[18] làm tri kỷ, trống lấy Nễ Hành[19] làm tri kỷ, tỳ bà lấy Minh Phi[20] làm tri kỷ, … Một khi đã gắn bó thì ngàn thu không đổi. Còn thông đối với Tần Thủy Hoàng[21], hạc đối với Vệ Ý Công[22] thì đúng là không có duyên vậy. 天 下 有 一 人 知 己, 可 以 不 恨。不 獨 人 也, 物 亦 有 之。如 菊 以 淵 明 為 知 己;梅 以 和 靖 為 知 己; 竹 以 子 猷 為 知 己; 蓮 以 濂 溪 為 知 己; 桃 以 避 秦 人 為 知 己; 杏以 董 奉 為 知 己; 石 以 米 顛 為 知 己; 荔 枝 以 太 真 為 知 己; 茶 以 盧 仝, 陸 羽 為 知己; 香 草 以 靈 均 為 知 己; 莼 鱸 以 季 鷹 為 知 己; 蕉 以 懷 素 為 知 己; 瓜 以 邵 平 為 知己; 雞 以 處 宗 為 知 己; 鵝 以 右 軍 為 知 己; 鼓 以 祢 衡為 知 己; 琵 琶 以 明 妃 為 知 己... 一 與 之 訂, 千 秋 不 移。若 松 之 於 秦 始; 鶴 之 於 衛 懿; 正 所 謂 不 可 與 作 緣 者也。 Thiên hạ hữu nhất nhân tri kỷ, khả dĩ bất hận. Bất độc nhân dã, vật diệc hữu chi. Như cúc dĩ Uyên Minh vi tri kỷ; mai dĩ Hòa Tĩnh vi tri kỷ; trúc dĩ Tử Do vi tri kỷ; liên dĩ Liêm Khê vi tri kỷ; đào dĩ tỵ Tần nhân vi tri kỷ; hạnh dĩ Đổng Phụng vi tri kỷ; thạch dĩ Mễ Điên vi tri kỷ; lệ chi dĩ Thái Chân vi tri kỷ; trà dĩ Lô Đồng, Lục Vũ vi tri kỷ; hương thảo dĩ Linh Quân vi tri kỷ; thuần lư dĩ Quý Ưng vi tri kỷ; tiêu dĩ Hoài Tố vi tri kỷ; qua dĩ Thiệu Bình vi tri kỷ; kê dĩ Xử Tông vi tri kỷ; nga dĩ Hữu Quân vi tri kỷ; cổ dĩ Nễ Hoành vi tri kỷ; tỳ bà dĩ Minh Phi vi tri kỷ … nhất dữ chi đính, thiên thu bất di. Nhược tùng chi ư Tần Thủy; hạc chi ư Vệ Ý; chính sở vị bất khả dữ tác duyên giả dã. 5. Vì trăng mà lo mây che, vì sách mà lo mối mọt, vì hoa mà lo gió mưa, vì tài tử giai nhân mà lo mệnh bạc, đó thực là tấm lòng Bồ Tát vậy. 為 月 憂 雲, 為 書 憂 蠹, 為 花 憂 風 雨, 為 才 子 佳 人 憂 命 薄, 真 是 菩 薩 心腸。   Mời các bạn đón đọc U Mộng Ảnh của tác giả Trương Trào & Huỳnh Ngọc Chiến (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Mùa Hè - Edith Wharton
Xuất thân từ một cộng đồng biệt lập bị người đời khinh ghét, Charity Royall luôn mang trong mình nỗi mặc cảm với mọi người xung quanh. Nàng không mở lòng với ai và luôn cảm thấy cuộc sống của mình thật vô vị, tẻ nhạt, cho đến mùa hè năm ấy, khi cuộc chạm trán tình cờ với chàng trai thành thị Lucius Harney đem đến cho nàng một mối tình lãng mạn, say đắm. Lần đầu tiên, Charity lần lượt nếm trải những dư vị ngọt ngào cũng như cay đắng của tình yêu, và cuộc đời nàng từ đó hoàn toàn thay đổi... *** Tình yêu cứ tồn tại, nhưng không có sex, nhưng những xúc cảm nồng nàn vẫn cứ hiển hiện và cuốn hút người đọc vào một không gian rực rỡ, tràn ngập ánh nắng mùa hè. Tiểu thuyết “Mùa hè” mang đến sự tiếp xúc gần gũi như chạm tới tận cùng những tình cảm thật nhất của con người. Với tài năng nghệ thuật đặc biệt, nhà văn Mỹ tài năng Edith Wharton đã khiến “Mùa hè” trở thành một bản tình ca ngọt ngào, lãng mạn mà không cần quá nhiều những miêu tả cảm xúc yêu đương, trở thành những bài học thực tế nhất của cuộc sống mà không cần thiết phải diễn tả quá trần trụi. “Mùa hè” nói về miền quê North Dormer (Mỹ), một chiều tháng 6, trong những năm đầu tiên của thế kỷ XX đã chứng kiến cuộc tình của cô bé thôn quê mười chín tuổi Charity Royall và chàng thanh niên đến từ thành phố là Lucius Harney. Vùng quê vốn tẻ nhạt ấy đã bắt đầu thay đổi... Xuất thân từ một cộng đồng biệt lập bị người đời khinh ghét trên Núi Lớn, cô bé Charity được ông Royall nhận nuôi từ nhỏ sau khi bố cô bị tống vào tù. Cô được đem ra khỏi cộng đồng đó và sống trong vùng quê tươi đẹp, hẻo lánh tên North Dormer. Việc số mệnh an bài cô tại North Dormer đã là một đặc ân, so với nơi xuất thân của cô. Tuy vậy, lớn lên, cô bé Charity thơ ngây cảm thấy cuộc sống của mình thật tẻ nhạt, vô vị. Những ấm ức vì không có cơ hội được thực hiện “niềm khao khát được biết những thông tin mà công việc thủ thư tại thư viện làng của nàng không khơi dậy nổi” đã khiến cô luôn cảm thấy chán ghét mọi thứ ở North Dormer bé nhỏ. Cho đến khi cô gặp Harney. Tình bạn của họ nhanh chóng chuyển thành tình yêu. Ở Harney tồn tại một nguồn sinh lực mạnh mẽ làm thoả mãn những ao ước được trải nghiệm của cô. “Cũng bởi anh là người đầu tiên tán dương nàng vì xuất thân của nàng”. Một cách hết sức tự nhiên, Harney đã mang đến cho Charity một tình yêu giản dị nhưng vô cùng mới mẻ, thuần khiết nhưng đắm say, đam mê nhưng hết lòng tôn trọng. Tuy nhiên, tình yêu ấy không hề thuận lợi. Sự khác biệt về học vấn và tương lai đã vạch ra giữa họ một khoảng cách mà họ không cách nào vượt qua dù có cố gắng đến đâu. Trong khi người bảo trợ của cô, ông luật sư Royall, người đàn ông góa vợ, cao ngạo, hay say sưa, giờ lại muốn lấy cô làm vợ. Khi Charity biết mình có thai cũng là lúc cô phát hiện Harney giấu cô việc từ lâu anh đã có hôn ước với một cô gái khác và chưa tìm ra lý do gì để hủy hôn. Đó là lý do anh cũng chưa chắc chắn với dự tính tương lai của hai người. Từ bỏ lời ước hẹn của Harney khi rời khỏi North Dormer rằng sẽ thu xếp công chuyện để có thể sớm kết hôn với cô, Charity quyết định sẽ trở về nguồn cội để sinh đứa bé và nuôi con một mình. Nhưng khi tìm lên Núi Lớn, chứng kiến cái chết khổ sở của người mẹ đẻ, của cuộc sống khốn khổ ở đó, “Charity quyết tâm đi khỏi nơi này bao xa cũng được, và cuộc đời có trút lên nàng bao nhiêu gánh nặng cũng xong, miễn là bảo vệ được con mình tránh khỏi số phận này”. Cô quay về đúng lúc ông Royall muốn đưa cô đến nhà thờ để làm hôn lễ. Và cuối cùng, hôn lễ của Charity đã diễn ra. Đó là luật sư Royall luôn ở bên bao bọc và chờ đợi cô quay trở lại sau những khám phá riêng tư hay là Harney, người đàn ông cô yêu say đắm đã tìm về? Chỉ biết rằng đó là người mà nàng thấy rằng mình được an toàn, vững tâm khi bên cạnh... *** Nhà văn Edith Wharton (1862 - 1937), một nữ văn sĩ Mỹ tài năng, đầu thế kỉ XX mà tên tuổi và sự nổi tiếng của bà chưa bao giờ khép kín trong biên giới một quốc gia. Những cuốn tiểu thuyết của Wharton như The House of Mirth (Ngôi nhà của niềm vui - 1905), The Custom of the Country (Tập tục địa phương - 1913), Summer (Mùa hè - 1917), The Age of Innocence (Thời thơ ngây - 1920), và cuốn tiểu thuyết ngắn được trau chuốt tuyệt vời Ethan Frome (1911)... đã từng chinh phục độc giả đến từ rất nhiều nước và nhiều nền văn hóa khác nhau trên thế giới. Với “Thời thơ ngây” viết năm 1920, Edith Wharton đã đoạt giải Pulitzer năm 1921 và được NXB Penguin bình chọn là một trong số 100 tác phẩm xuất sắc nhất mọi thời đại (nhân dịp kỷ niệm 60 năm thành lập Tủ sách kinh điển), sánh cùng các kiệt tác khác như “Đồi gió hú”, “Chiến tranh và hòa bình”, “Lolita”, “Anh em nhà Karamazov”... Mời các bạn đón đọc Mùa Hè của tác giả Edith Wharton.
Môi Kề Môi - Erin McCarthy
Môi kề môi không chỉ là một cuốn sách chứa đựng rất nhiều vấn đề của xã hội bao quanh một câu chuyện tình yêu bất ngờ nhưng thật đẹp và mãnh liệt của Erin McCarthy. Trong gần 400 trang sách dày dặn những xúc cảm và sự thật này, tác giả đã khắc họa rõ, lột tả một cách táo bạo và đầy chân thực từng khía cạnh nhỏ của cuộc sống, từng góc khuất sâu thẩm nhất trong tâm hồn của con người. Tình yêu đan xen cùng những mưu mô, hạnh phúc lẫn lộn trong những đam mê thể xác. Đích đến cuối cùng dường như quá xa vời và những ước mơ, những khao khát bản năng có lẽ như có nguy cơ sụp đổ... Đôi khi người đàn ông nàng chọn nhầm lại là người phù hợp… Đó là tình huống đã xảy ra trong cuốn tiểu thuyết Môi kề môi của Erin McCarthy. Cuộc gặp gỡ “nhầm lẫn” định mệnh đó xảy ra trong khi Russ Evans đang làm nhiệm vụ. Tên tội phạm chuyên lừa tình phụ nữ Trevor Dean có một cuộc hẹn với nạn nhân tiếp theo tại quán cà phê và anh vẫn nghi vấn cô gái tên Laurel này liệu là nạn nhân hay người tình của Dean. Khi không thấy Dean xuất hiện, Russ bước vào quán để thăm dò cô gái tên Laurel kia, và thật bất ngờ khi cô gái gọi tên anh và bày tỏ niềm vui mừng vì anh đã đến. Cô ta nói anh giống như bức ảnh cô đã thấy và rất vui được gặp anh. Russ choáng váng và dần nhận ra tên tôi phạm xảo trá kia đã dùng tên anh để làm quen và tán tỉnh Laurel qua mạng, thậm chí hắn còn tự xưng là cảnh sát nữa. Nhưng cơn bàng hoàng trước mánh lừa đảo của Dean cũng không làm anh kinh ngạc bằng việc nhận ra anh đang bị Laurel thu hút đến thế nào. Nàng thật ngây thơ, xinh đẹp và cần được che chở biết bao. Laurel mắc chứng khiếm thính, cô đã sống cô đơn suốt sáu năm trời và chỉ khao khát tìm kiếm một người đàn ông ở bên để thỏa mãn những nhu cầu cơ bản nhất của một người phụ nữ. Dean đã đánh trúng vào điểm yếu đó của cô, dẫn dụ cô vào trò lừa đảo của gã. Thật may Russ Evans thật đã có mặt ở đây... Sự cuốn hút giữa Russ và Laurel giống như một cơn bão lốc, nhưng tên lừa đảo nguy hiểm Trevor Dean vẫn lảng vảng theo dõi Laurel, đặc biệt khi cô là một phụ nữ đơn độc ngây thơ sống trong tòa biệt thự giàu có, đó quả là một con mồi ngon lành mà Dean không thể bỏ qua. Kẻ lừa đảo giấu mặt Trevor rình rập tiếp cận và lọt vào được nhà Laurel trong khi cô vẫn không hay biết và tưởng hắn là thợ sửa mạng khiến độc giả hồi hộp nghẹt thở… Mối quan hệ của Russ và Laurel sẽ đi đến đâu? Dean sẽ làm gì để đạt được mục đích xấu xa của hắn? Erin McCarthy đã tạo nên một câu chuyện cuốn hút, đầy đam mê và hồi hộp trong Môi kề môi. *** Laurel đưa những ngón tay mát lạnh vuốt cho phẳng vạt váy phía trước và liếc mắt hết nhìn người phiên dịch ngôn ngữ ký hiệu lại nhìn lên sân khấu, để nàng có thể thấy mọi thứ đang diễn ra. Nàng đã đứng sau cánh gà gần hai năm trời để chờ đợi thời khắc này, và nàng không muốn bỏ lỡ một thứ. Nền bê tông của phòng tập thể dục rung lên, tiếng ầm ầm đập lên chân nàng khi hàng trăm cử nhân đi qua để nhận bằng tốt nghiệp. Nàng đã chờ đợi, làm việc và mơ ước để tiến tới bục vinh quang của ngày hôm nay, và bây giờ khi đứng trên đó rồi thì nàng rất hồi hộp, nàng sợ sẽ bỏ lỡ một ký hiệu nào đó từ người phiên dịch đúng lúc nàng quay đi. Nàng bồn chồn trong ghế ngồi của mình, và quay đầu nhìn mọi hướng, lướt mắt khắp cả sân vận động lần nữa. Nàng không thể tìm thấy Russ giữa rất nhiều khuôn mặt trong đám đông tối thăm thẳm, ánh đèn chỉ chiếu tới những người sẽ tốt nghiệp hôm nay. Nhưng nàng biết anh có ở đó, luôn như vậy, nâng đỡ nàng, yêu thương nàng. Như nàng ủng hộ và yêu anh, từng giây phút trong mỗi ngày. Một cậu ngồi cạnh đập vào chân nàng. Cậu ta cũng điếc, và họ đã nói chuyện suốt buổi lễ trù bị ngày hôm qua. Cậu ta ít hơn nàng vài tuổi, tốt nghiệp ngành luật và nhận bằng kỹ sư. Chúng ta cạnh nhau. Anh ta chỉ tay và mỉm cười. Laurel hít sâu và cố giữ bình tĩnh. Cảm ơn. Đây rồi. Nàng là một giáo viên, hoàn toàn được chứng nhận và sẵn sàng lên lớp vào cuối mùa hè này. Mặc dù rất hồi hộp, nhưng nàng vẫn cảm thấy cực kỳ ổn. Nàng đã làm được. Với niềm vinh dự. Nàng đứng lên và nở một nụ cười sáng chói với người phiên dịch. “Tôi không thể tìm thấy Laurel.” Russ lướt mắt qua khu các cử nhân ngồi một lần nữa, tự hỏi không biết tại sao anh không thể nhìn thấy nàng. Nàng đã nói nàng được xếp ngồi hàng ghế thứ tư, ở phía cuối, cạnh chỗ người phiên dịch đang đứng. ... Mời các bạn đón đọc Môi Kề Môi của tác giả Erin McCarthy.
Lửa Hận - Jessica Hall
Một bi kịch của sự ghen ghét, hận thù, danh vọng đã khiến một người đàn bà trở thành kẻ đánh mất nhân tính, đẩy đưa bao số phận vào chốn hiểm nguy, mạng sống như ngàn cân treo sợi tóc. Với ngòi bút sắc bén, đôi khi có phần cay đắng, trần tục, Jessica Hall đã vén lên một bức màn cuộc sống đầy rẫy tội ác, hận thù và cả sự phân biệt sang hèn, giai cấp... Thế nhưng, ẩn sâu trong đáy trần tục ấy, vẫn lóe lên một tia sáng bất biến chiếu rọi mọi tâm hồn, đó chính là tình yêu thương, lòng bao dung độ lượng và niềm khát khao hạnh phúc. *** M ẹ anh đã có lời mời cả hai người đến dự Lễ hội Trắng Đen, và rất mừng là Sable đã vui lòng đón nhận lời mời thân mật ấy. “Chắc chắn. Ba anh đã hứa sẽ khiêu vũ với em mà, ông ấy nói còn đi bản vanxơ đẹp hơn anh nữa kia”. Nàng cầm tay anh và ngắm nhìn bộ đồ dạ vũ của anh. “Anh đâu thể sở hữu em nguyên cả buổi tối, phải không, ngài điệp viên 007 Jame Bond?” Anh bật cười và đưa nàng ra thang máy. Sau vụ tấn công cố sát cuối cùng của bà Laure, Jean-Del những muốn giữ cho Sable tránh xa báo chí nhưng nàng vẫn một mực muốn đối diện với giới truyền thông để làm rõ ngọn ngành những chuyện vừa qua. Họ hàng nhà Gamble và cộng đồng Cajun lần lượt vây lấy nàng, và giờ đây phần lớn bạn bè của Marc cùng các hội đoàn đều cam kết hỗ trợ cho các dự án cộng đồng Cajun của Sable. Sable vui mừng về sự hỗ trợ đó nhưng không mấy quan tâm đến sự chú ý dành cho nàng. “Em mang trong mình dòng máu của LeClare”. Nàng nói với Jean-Del. “Nhưng không nhập mình vào với xã hội ấy. Em vẫn là một người Cajun và em mãi mãi tự hào về điều đó”. Lễ hội lên đến đỉnh điểm khi họ về đến nhà Gamble và được đích thân bà Elizabet ra đón tận cửa. “Mẹ bắt đầu lo lắng rồi đấy”. Bà nói khi hôn lên má Jean-Del rồi quay sang ngắm Sable. “Xem nào, cháu sắm bộ áo váy này ở đâu vậy?” Nàng nhìn lại mình. “Cháu mua nó ở một quầy hàng mới tại Metairie và nghĩ nó hợp cho buổi tối hôm nay”. ... Mời các bạn đón đọc Lửa Hận của tác giả Jessica Hall.
Lễ Diễu Hành Phục Sinh - Richard Yates
Ai cũng có thể là một phóng viên hào nhoáng và vô trách nhiệm hoặc đơn thuần là một người sửa bài cần mẫn, nhưng đây lại là một người viết tiêu đề, biên tập bản thảo! Người mà phải đọc tất cả những tin tức phức tạp hàng ngày để lựa chọn ra những ý chính và tóm tắt lại bằng những từ đắt ý, khéo léo sắp xếp vừa vặn trong một chỗ trống có giới hạn - ông là một nhà báo tuyệt vời và là một người cha xứng đáng với danh tiếng của mình. Và người phụ nữ ấy: nhỏ bé, năng động, có một cuộc sống dường như gắn liền với giá trị không tưởng mà bà cho là “nhạy bén”. Bà mải mê với tạp chí thời trang, với việc ăn mặc có thẩm mỹ và đã nhiều lần cố gắng chỉnh lại mái tóc của mình, nhưng không thể giấu nổi đôi mắt hoang mang và thật sự, chưa bao giờ bà biết cách tô son trên môi của mình - một đôi môi luôn thể hiện dáng vẻ của sự thiếu kiên định đến mức độ đáng kinh ngạc và đầy yếu đuối. Hai người, đã từng yêu nhau say đắm, và hơn thế, họ từng là vợ chồng. Họ có hai cô con gái vô cùng xinh xắn, đáng yêu: Sarah và Emily. Tuy nhiên, không một ai trong hai chị em đó có được cuộc sống hạnh phúc, và nhìn lại thì dường như mọi bất hạnh đều bắt đầu từ việc ly dị của cha mẹ họ. Là nạn nhân của một cuộc hôn nhân tan vỡ, Sarah và Emily như hai cây non phải nương tựa, che chở cho nhau qua giông bão cuộc đời. Hai cô gái sớm bước vào thế giới tình yêu, như một người dạn dày, từng trải. Chính Sarah là người cho Emily biết kiến thức đầu đời về tình dục, khi chúng đang ăn kem que và đùa cợt với nhau quanh cái võng bị đứt ở sân sau nhà chúng ở Larchmont, New York. Emily lắng nghe đầu óc cô bé đầy những suy nghĩ băn khoăn và xáo trộn. Sẽ thế nào, khi mà Sarah được giao nhiệm vụ tham gia diễu hành trong ngày lễ Phục sinh, để một nhiếp ảnh gia chụp từ văn phòng quan hệ cộng đồng. Trông cô thật đáng yêu, có thể nói, chưa khi nào trông cô lại đáng yêu đến thế, khi vận chiếc váy đắt tiền bằng lụa dày - mốt dành cho những quý bà Trung Quốc trước chiến tranh, và đội một chiếc mũ rộng vành dệt bằng rơm. Cô sánh bước cùng Tony - chàng “hoàng tử” luôn đem đến những điều “tuyệt vời”. Cả hai cười với nhau rất lãng mạn trong cái nắng tháng Tư, tạo nên một bức ảnh ấn tượng đăng trên bản tin Chủ nhật của tờ Thời báo New York. Bức ảnh ấy còn được đóng khung treo trên tường và có giá trị mãi mãi. “Lễ diễu hành Phục sinh” là sự hồi sinh của nhà văn Mỹ Richard Yates và ông được đánh giá là một nhà văn lớn. Đây là một tác phẩm văn xuôi duyên dáng và thể hiện được chiều sâu của bi kịch. *** Đọc tiểu thuyết “Cuộc diễu hành phục sinh” của nhà văn Richard Yates, tôi cứ thấy có một đôi mắt u buồn, đau đáu, đắng đót đằng sau mỗi thân phận con người.  Ngập tràn trong cuốn tiểu thuyết là những cuộc làm tình chớp nhoáng, nóng bỏng nhưng phía sau ấy vẫn cháy lên những khao khát nào lớn hơn nhu cầu xác thịt. Richard Yates đã tung ra hai cuộc đời tương phản. Một bên là cuộc đời tự do của Emily với những cuộc làm tình, với rượu mạnh và những kì nghỉ dài bất tận. Một bên là cuộc đời nhạt nhẽo, buồn tẻ của người chị Sarah gắn liền với hôn nhân, với bạo lực, với cô độc và những vùng vẫy khao khát trong sự bất lực đến tuyệt vọng. Những thân phận con người trong tiểu thuyết “Cuộc diễu hành phục sinh” được nhà văn Richard Yates móc nối với nhau bằng hôn nhân, sex, rượu mạnh và nỗi cô đơn bất hạnh triền miên của con người.  Richard Yates không cần tạo ra sức hấp dẫn trong tiểu thuyết của mình bằng cách khai thác những sự kiện xã hội, những biến cố lịch sử vĩ đại. Thực tế cho thấy, ngay từ thiên tiểu thuyết đầu tiên danh tiếng “Con đường Cách mạng” của mình cho đến thiên tiểu thuyết “Cuộc diễu hành phục sinh”, ông là nhà văn có biệt tài đào sâu vào tận cùng nỗi đau thân phận. Cả cuốn tiểu thuyết chỉ xoay quanh cuộc đời của ba nhân vật chính, ba mẹ con nhà Grimes: Pookie, Emily và Sarah.  Những con người bình thường nhất, thậm chí là thấp kém nhất trong xã hội Mỹ qua ngòi bút của nhà văn Richard Yates đã trở thành biểu tượng đời sống tinh thần với nỗi tuyệt vọng triền miên kéo dài trong lịch sử nước Mỹ.  Richard Yates đã quăng nhân vật của mình vào cơn bão khốc liệt và rồi dang tay đón những “đứa con” mang trên thân thể mình đầy những thương tích bầm giập ở bên kia. Nhà văn chấp nhận hiện thực xã hội nghiệt ngã của nước Mỹ, chính vì thế, chỉ bằng thân phận ba người phụ nữ bất hạnh, ông đã khái quát cả một bức tranh rộng lớn về lịch sử đời sống nước Mỹ.  Độc giả Việt Nam sẽ có cơ hội để nhìn khác hơn về xã hội Mỹ những năm chiến tranh Việt Nam qua thiên tiểu thuyết này. Ở đó là một cuộc sống lặng lẽ, buồn tẻ và nhạt nhẽo. Bao người vùng vẫy trong một cuộc sống không lý tưởng với những nỗi cô đơn, bế tắc và tuyệt vọng. Chúng ta sẽ cảm nhận được sự ngây thơ của nhiều thanh niên Mỹ về chiến tranh ở những cuộc làm tình chớp nhoáng trước khi lên đường.  Chúng ta sẽ thấy khao khát được sống một cuộc sống hoà bình, an phận của những người tìm mọi cách trốn lính. Nỗi đau của nước Mỹ qua ngòi bút nhà văn Richard Yates là nỗi đau về những thế hệ thanh niên bị o bế tâm hồn. Đọc “Cuộc diễu hành phục sinh”, người đọc sẽ thực sự bất ngờ bởi trực diện bức tranh xã hội tình dục ở nước Mỹ. Nhà văn Richard Yates xây dựng số phận hai nhân vật chính là hai chị em nhà Grimes: Sarah và Emily với hai sự lựa chọn cuộc sống đối nghịch nhau. Sarah muốn có một gia đình ổn định với một người đàn ông mà cô yêu và tôn thờ như tất cả những người phụ nữ khác và như chính niềm ao ước của mẹ cô, Pookie.  Emily kịch liệt phản đối hôn nhân, đặc biệt là khi cô biết sự thật về những bạo hành mà người chị của mình phải chịu từ người chồng vũ phu. Dường như nhà văn Richard Yates xây dựng Emily trở thành một biểu tượng của cuộc sống tự do để cổ xuý cho khao khát tìm hạnh phúc qua cách sống ấy. Nhưng có lẽ là không phải như vậy. Những cuộc làm tình của Emily với bao nhiêu người đàn ông mà chính cô cũng không nhớ nổi được Richard Yates miêu tả vô cùng nóng bỏng. Emily chưa bao giờ yêu những người đàn ông đưa cô lên giường. Thế nhưng, cô vẫn lao vào những cuộc làm tình ấy không mệt mỏi để khao khát kiếm tìm một thứ vô hình. Hạnh phúc chăng? Không có ai trả lời cho cô điều ấy cả. Để rồi cuối cùng, có lẽ cô yêu Howard và mệt mỏi muốn dừng cuộc đời mình ở đó. Nhưng Howard đã ra đi. Thiên tiểu thuyết kết thúc ở sự cô độc của Emily, không gia đình, không người thân, không bạn bè, không tình yêu. Cô gục ngã trong những ký ức về người chị gái Sarah, người chị gái yêu quý của cô đã bị người chồng giết chết trong một lần say rượu.  Chỉ với hơn ba trăm trang tiểu thuyết, nhà văn Richard Yates đã xây dựng trọn vẹn ba cuộc đời bất hạnh nhà Grimes. Thành công xuất sắc ở khả năng miêu tả tâm lý và xây dựng một thế giới nội tâm sâu thẳm đầy bí hiểm, nhà văn đã đẩy nhân vật của mình vào tận cùng nỗi tuyệt vọng của thân phận con người để phản ánh một cách chân thực nhất đời sống nước Mỹ thế kỷ XX và khao khát đi tìm một lối thoát cho người Mỹ.  Đọc “Cuộc diễu hành phục sinh”, chúng ta sẽ bị chìm đắm trong ma trận của những cuộc làm tình, những ly rượu mạnh, những cơn khủng hoảng tinh thần, những nỗi xót xa và cuối cùng cay đắng nhận ra nỗi đau về thân phận con người không phải là của riêng Richard Yates nói về người Mỹ mà nó còn mãi là nỗi đau chung của toàn nhân loại. Vân Hà *** Richard Yates sinh năm 03/02/1926 và mất ngày 17/11/1992 là nhà văn Mỹ. Ông đã viết rất nhiều truyện ngắn và tiểu thuyết về cuộc sống của người dân Mỹ giữa thế kỷ 20. Ông được coi là người đã chép lại hoàn hảo biên niên ký về đời sống sâu sắc và vô cùng phức tạp của nước Mỹ giữa thế kỷ 20 trong những tác phẩm kinh điển của mình - những khúc bi ca về sự cô độc của con người đã vạch trúng tâm thức của thời đại, phản ánh một cách khốc liệt đời sống hiện thực Mỹ. Cuốn tiểu thuyết đầu tay của ông, Revolutionary Road (Con đường cách mạng) đã đoạt giải thưởng Sách Quốc gia vào năm 1962. Rất nhiều tiểu thuyết của ông được dựng thành phim, Revolutionary Road (Con đường Cách mạng), The Easter Parada (Lễ diễu hành Phục sinh). Mời các bạn đón đọc Lễ Diễu Hành Phục Sinh của tác giả Richard Yates.