Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Trái Tim Đam Mê

Giàu có, xinh đẹp và đầy khiêu hãnh, Kristen Haardrad luôn luôn là nỗi khao khát của các anh chàng Viking chưa vợ. Nhưng với một trái tim tuổi trẻ đầy khao khát tình yêu như nàng thì cái vịnh Horten thật vô cùng nhỏ bé. Kristen trốn gia đình lên tầu đi tìm tình yêu cho chính mình. Royce, một thủ lĩnh Saxon tài giỏi, đẹp trai, nhưng có một mối căm thù sâu sắc đối với tất cả người Viking. Liệu khi gặp Kristen ngang ngược, thông minh, xinh đẹp chàng có bị cuốn hút và quên đi mối thù kia không? Chàng và nàng có tìm được hạnh phúc thật sự? *** Johanna Lindsey, tên thật là Johanna Helen Howard, sinh ngày 10 tháng 3 năm 1952 tại Đức, nhưng lại là một trong những nhà văn nổi tiếng ở Mỹ. Bà được mệnh danh là một trong những tác giả thành công nhất trên thế giới về tiểu thuyết lịch sử lãng mạn. Các tác phẩm của bà thường xuyên lọt vào danh sách bán chạy nhất do New York Times bình chọn.   Lindsey xuất bản cuốn sách đầu tay vào năm 1977, với tựa đề Captive Bride, và ngay lập tức đưa tên tuổi của bà đến với các độc giả yêu văn học. Đó chính là độc lực để bà tiếp tục cho ra đời rất nhiều cuốn tiểu thuyết ăn khách khác.   Tính đến năm 2006, những tác phẩm của bà đã bán được trên năm mươi tám triệu ấn bản và dịch ra mười hai ngôn ngữ trên toàn thế giới.   Bằng lối kể chuyện hài hước song cũng không kém phần lãng mạn và bất ngờ, Johanna đã không hề khiến người đọc thất vọng với những câu chuyện của mình. Bà đã gắn kết những con người với hoàn cảnh và số phận hoàn toàn khác biệt, tưởng chừng như không bao giờ có thể ở bên nhau, và cho hộ một kết thúc viên mãn.   Không chỉ có vậy, giọng văn tinh tế và vô cùng đặc trưng của Johanna cũng là điều luôn hấp dẫn độc giả. Mỗi nhân vật của bà luôn được khắc họa với cá tính nổi bật. Ngoài ra, chính sự kiên cường của họ trong tình yêu cũng góp phần tạo ra nét đặc sắc cho ngòi bút của bà.   Mời độc giả đọc các tác phẩm của Johanna Lindsey đã và sẽ được Bách Việt xuất bản: Ma lực tình yêu (2012), Nàng công chúa lưu lạc (2012), Gã cướp biển quý tộc (2012), Em là của anh (2012), Hãy nói yêu em (2013), Người thừa kế (2015), The devil who tamed her, A rogue of my own, Let love find you. ***   Dirk Gerhardsen tiếp đất và lượn vòng đến gần bờ sông, nơi có một nàng gái tóc vàng đã dừng lại. Kristen Haardrad nhìn lại phía sau như thể nàng đã thấy hắn, rồi buộc con ngựa lại và đi xuống nước. Phía ngược lại, nước vịnh Horten chảy nhanh theo dòng của nó. Nhưng một vại đá cuội đã phân dòng nó, nước chảy yên ả, phẳng lặng như mặt hồ. Dirk biết rằng nó cũng ấm áp tuyệt vời và quá cám dỗ để lờ đi với một nàng gái. Anh ta biết Kristen đang đến đây khi thấy nàng rời ngôi nhà của chú Hugh và cưỡi ngựa theo lối này. Khi họ còn nhỏ, rất nhỏ, họ đã từng đi bơi chung với nhau, có cả những anh trai và anh em họ của nàng. Kristen có một gia đình lớn, một ông cậu của nàng, Jard, sống bên bờ vịnh này, và hàng tá những anh em nàng cậu xa, tất cả bọn họ tin rằng mặt trăng và mặt trời xoay quanh nàng gái này. Cho đến gần đây, Dirk cũng đã nghĩ vậy. Hắn đã cho nàng trái tim mình và hỏi cưới nàng, như nhiều người khác đã làm trước đây. Nàng đã từ chối – nhẹ nhàng, hắn đã miễn cưỡng đồng ý - nhưng sự thất vọng gần như hủy hoại hắn. Hắn nhìn thấy nàng lớn lên, từ một nàng bé cao, vụng về trở về thành một phụ nữ tuyệt vời. Không có gì hắn muốn nhiều hơn ước muốn Kristen là của riêng mình. Dirk nín thở khi nàng bắt đầu cởi bỏ áo choàng linen. Hắn đã hi vọng nàng sẽ làm vậy. Đó là lý do tại sao hắn đi theo nàng, hy vọng – Odin giúp hắn – nàng làm thật. Cảnh tượng còn hơn hắn có thể chịu được – đôi chân thon dài… những đường cong mềm mại của hông nàng, tấm lưng thẳng, mảnh khảnh chỉ được bao phủ bởi một bím tóc dày, nâu vàng. Chỉ cách đây hai tuần, hắn đã nắm trong tay bím tóc dày đó và kéo hông nàng sát vào hắn trong một nụ hôn, làm hắn gần như điên lên. Nàng đã tát hắn, cái tát làm hắn thật sự lảo đảo. Vì Kristen không phải là nàng gái chân yếu tay mềm; thật ra nàng chỉ thấp hơn hắn có 2 inches và hắn thì cao 6 feet. Điều này chẳng dọa được hắn. Vào lúc đó, đúng thời điểm đó, hắn thật sự nghĩ hắn có thể nổi điên nếu không thể có nàng. Thật may, Selig, người anh kế của nàng đã đến, nhưng không may vì khó mà Dirk gặp nàng lần nữa và kéo nàng xuống đất. Hắn và Selig đều bị thương trong cuộc chạm tráng đó, và Dirk đánh mất người bạn tốt này – không phải bởi vì họ đã đánh nhau, hay vì Norsemen đã sẳn sàng đánh nhau vì bất cứ lý do gì, mà vì những gì hắn đã cố làm với Kristen. Và hắn không thể phủ nhận rằng hắn có lẽ đã chiếm lấy nàng, ngay tại đó, trên sàn chuồng ngựa của cha nàng. Hắn ắt hẳn đã chết rồi nếu hắn thành nàngng. Và người mà hắn phải chiến đấu không phải là anh trai nàng hay những anh em họ khác, mà là cha nàng, Garrick, ông sẽ tay không mà giết Dirk. Kristen bây giờ đang ở trong nước, nhưng việc không còn nhìn thấy toàn bộ cơ thể nàng nữa không làm dịu được ngọn lửa đang xuyên qua các tĩnh mạch hắn. Hắn đã không nghĩ sẽ phải chịu tra tấn thế nào khi ngắm nàng bơi. Hắn chỉ lập luận rằng nàng sẽ một mình, không có gia đình nàng ở đây, và đây có lẽ là lần duy nhất hắn có thể gặp riêng nàng. Đã có tin đồn rằng nàng sẽ sớm kết hôn, với Sheldon, người con cả của Perrin, bạn thân của cha nàng. Dĩ nhiên trước đây cũng có vô số những tin đồn, khi Kristen 19 tuổi, và trong 4 năm gần đây, mỗi một chàng trai khỏe mạnh ở dọc vịnh này đều đã cầu hôn nàng. Nàng đang bơi ngữa trên mặt nước, những ngón chân hiện ra, đỉnh đùi mịn màng của nàng, ngực nàng… Loki dẫn dắt nàng, nàng đang mời gọi sự xâm phạm! Dirk không thể ngăn mình được nữa. Hắn vội vã xé toạc quần áo mình. Kristen đã nghe tiếng nước bắn tung tóe và nhìn theo hướng mà nàng đoán là nơi phát ra tiếng động, nhưng không có gì cả. Nàng nhanh chóng lượn một vòng, hồ nước ấm áp này không có ai khác ngoài nàng, chỉ có những làn sóng lăn tăn mà nàng đã tạo ra. Tuy nhiên, nàng bắt đầu bơi về phía bờ mà nàng đã để áo quần của mình, cùng với thứ vũ khí duy nhất của nàng, chiếc dao găm có nạm đá quý, nó đã cùn như một món trang sức chứ không còn là vũ khí nữa. Nàng đúng là ngốc khi đến đây một mình thay vì đợi một trong những người anh của mình đi cùng. Nhưng họ quá bận rộn chuẩn bị cho con tàu Viking của cha nàng, chiếc tàu mà tuần tới Selig sẽ xuôi miền đông, và ngày hôm nay ấm áp tuyệt vời sau một mùa xuân mát mẻ và một mùa động lạnh khác thường. Nàng không thể chống lại sự cám dỗ này. Đây như một cuộc phiêu lưu, làm những việc nàng chưa bao giờ làm, và nàng thật sự thích phiêu lưu. Nhưng tất cả những cuộc phiêu lưu của nàng trước đây đều chia sẽ với người khác. Và có lẽ là không khôn ngoan khi cỡi bỏ hết quần áo thế này, dù lúc này làm như vậy thật là một sự liều lỉnh tội tệ, và nếu Kristen là bất cứ thứ gì, thì đó là sự liều lĩnh. Luôn là như vậy, ngay bây giờ, nàng đã hối hận. Chỉ ngay khi chân nàng chạm đất, hắn đã đứng trước mặt nàng, to lớn và đầy đe dọa. Kristen rên thầm rằng đó là Dirk thay vì ai đó, vì hắn đã từng cưỡng bức nàng, và nhìn vào mặt hắn cứ y như cách đây 2 tuần. Hắn là một người đàn ông khỏe mạnh, rắn chắc, như anh Selig của nàng. Thật ra họ đã từng là bạn thân, cùng tuổi với nhau. Nàng cũng từng xem hắn là bạn, cho đến ngày hắn tấn công nàng trong chuồng ngựa. Hắn đã thay đổi, từ một cậu bé mà nàng cùng lớn lên, cùng cưỡi ngựa, đi săn, đi bơi. Hắn ta quả là đẹp trai với mái tóc vàng sậm và đôi mắt nâu vàng. Nhưng hắn không phải là Dirk mà nàng biết, nàng rất sợ những gì đã xảy ra ngày hôm đó lại tái diễn. “Em không nên đến đây, Kristen.” Giọng hắn nhỏ, khàn khàn. Mắt hắn ta bị thu hút bởi những giọt nước lấp lánh trên hàng mi dài của nàng.Nước đang nhỏ giọt xuống đôi gò má cao và chiếc mũi thẳng. Nàng liếm môi và hắn ta rên lên. Kristen đã nghe thấy và mở to mắt, không phải sự cảnh báo, mà là nguy hiểm. Đôi mắt đó giống như cha nàng, xuyên qua bầu trời, biển cả và mặt đất, với ánh mặt trời đằng sau để làm chúng thàng màu xanh biển sáng. Chỉ ngay lúc này, chúng có màu ngọc lam, hoảng loạn, như bão biển đang dậy sóng. “Để tôi đi, Dirk” “Anh nghĩ là không đâu” “Nghĩ lại đi.” Nàng không lên giọng, không cần phải làm vậy. Cơn giận của nàng là bằng chứng trong mỗi đường nét trên khuôn mặt nàng. Nhưng Dirk là một con ác quỷ đang quay lưng, con quỷ của sự thèm khát. Đã qua rồi cái suy nghĩ thật may mắn sao hắn không cưỡng bức nàng trước đây. “Ah, Kristen.” Hắn đưa tay tóm lấy đôi vai trần của nàng, giữ thật chặt khi nàng cố để thoát khỏi. “ Em có biết em đang làm gì với anh không? Em có biết gì về việc một người đàn ông có thể mất trí thế nào khi ham muốn một phụ nữ xinh đẹp như em không?” Một tia nguy hiểm lóe lên trong mắt nàng. “Anh mất trí nếu anh nghĩ…” Miệng hắn đáp xuống một cách hung bạo để ngăn nàng nói. Đôi tay hắn túm vai nàng kéo lại gần, ép ngực nàng vào hắn. Kristen ngạt thở. Miệng hắn đang chà xát môi nàng đau đớn và nàng ghét điều đó, ghét cảm giác cơ thể hắn áp sát vào nàng. Việc họ gần như cùng chiều cao làm cho cái nam tính của hắn ở ngay vị trí hắn tìm kiếm, và nàng ghét điều đó nhất. Nàng không ngờ nghệch đến nổi không biết cách mà một người đàn ông và một phụ nữ như thế nào khi họ ân ái. Mẹ nàng, Brenna, đã dạy nàng tất cả về việc này, nhưng đây không phải như thế, không khi mà nàng chỉ cảm thấy sợ hãi. Nàng nguyền rủa sức mạnh của hắn khi nàng cố gắng để thoát khỏi vòng tay hắn. Nàng ngưỡng mộ sức mạnh và sự can đảm của đàn ông nhưng không khi nó trực tiếp chống lại nàng. Dirk ắt hẳn không gặp trở ngại gì để tìm được lối vào và cướp đi đời con gái của nàng. Nàng sẽ giết hắn nếu hắn làm thế, hắn không có quyền đó. Chỉ nàng mới có quyền tặng nó cho người mà nàng muốn cho, nàng sẽ vui sướng làm điều đó. Nhưng không phải như thế này, và Dirk không phải con người. Nhận ra môi hắn đang ở giữa hàm răng mình, nàng cắn mạnh, móng tay nàng cắm sâu vào ngực hắn cùng lúc đó. Nàng cắn mạnh thêm cho đến khi hắn bỏ tay khỏi người nàng; lúc này nàng đẩy hắn ra cho đến khi họ thay đổi vị trí. Hắn có thể tấn công nàng để có thể tiếp tục, nhưng nàng dĩ nhiên sẽ xé toạc môi hắn ra và hắn chắc chắn nhận ra điều đó. Nhưng nàng không có cơ hội, tiếp tục cắn chặt môi hắn cho đến khi bất ngờ đá vào bụng hắn. Nàng nhả môi hắn ra vào đúng ngay lúc nàng dùng bụng hắn là ván đệm, bật chạy về phía bờ sông và Dirk bật ngược xuống nước. Việc hắn ngã xuống nước cho nàng thời gian để thoát khỏi mép nước và túm chặt dao găm trước khi hắn đến gần. Nhưng hắn không thử. Nhìn vào vũ khí của nàng làm hắn do dự một chút. “Em lắm trò như là con gái của Loki vậy!” Dirk thốt ra một cách đau đớn, chùi máu ở môi, trừng mắt giận dữ với nàng. “Đừng so sánh tôi với ông thần của anh, Dirk. Mẹ tôi nuôi lớn tôi là con chiên Thiên Chúa” “Anh không quan tâm em tin vào vị thần nào,” hắn vặn lại. “Bỏ con dao xuống, Kristen.” Nàng lắc đầu. Giờ nàng đã bình tĩnh, hắn nhìn thấy điều đó, bây giờ nàng có vũ khí trong tay. Và, nhờ Odin, nàng thật lộng lẫy, đứng đó hoàn toàn khỏa thân với những giọt nước lấp lánh khắp cơ thể, ngực nàng đầy đặn như trêu chọc hắn, cái bụng phẳng, mềm mại được bao phủ bởi đám cỏ rối hung vàng trải ra giữa hai chân nàng. Và nàng đang thách thức hắn, thách thức hắn di chuyển về phía nàng, và nắm chặt cái dao găm như thể nàng biết sử dụng nó vậy. “Anh nghĩ mẹ em đã dạy em nhiều thứ hơn là chỉ yêu mến Chúa trời.” Sự cay đắng trào lên giọng hắn. “Cha và anh trai em không bao giờ dạy em sử dụng thứ đồ chơi đó, cũng không tha thứ cho em vì đã học nó, vì đó sẽ là sĩ nhục khả năng bảo vệ em của họ. Quý bà Brenna đã dạy em các trò của người Celtic, phải không? Sau nhiều năm lẽ ra bà ta nên học được rằng các kỹ năng của Celtic không ăn nhầm gì với chiến binh or cướp biển vùng Bắc và Tây u chứ. Bà ấy đã dạy em điều gì nữa, Kristen?” “Tôi biết sử dụng mỗi loại vũ khí trừ rìu vì đó là thứ vũ khí vụng, không cần phải biết cách sử dụng.” Nàng trả lời một cách tự hào. “Vụng chỉ bởi vì em không đủ sức để dùng nó,” hắn đáp trả một cách cáu kỉnh. “Và cha em sẽ nói gì nếu ông ấy biết? Anh cá là ông sẽ dung roi da mà quất hai người.” “Anh sẽ nói với cha tôi à?” Nàng chế nhạo. Hắn nhìn trừng nàng. Dĩ nhiên hắn không kể với cha nàng, vì lúc đó hắn sẽ phải giải thích tại sao hắn biết việc đó. Và cái nhếch mép trên môi nàng nói lên rằng nàng đã biết. Nghĩ đến Garrick Haardrad, người cao hơn hắn cả 30cm và vẫn còn rất đường bệ, đã làm nguội một ít hăng hái của hắn – không phải tất cả. Hắn nhướng mày thăm dò phản ứng của nàng. “ Anh có gì không ổn mà em từ chối anh, Kristen?” Câu hỏi làm nàng kinh ngạc, được thốt ra nhẹ nhàng kèm theo chút bối rối. Hắn đứng trước nàng với ánh mắt trống rỗng và niềm kiêu hãnh cứng nhắc. Mắt nàng do dự quét qua người hắn. Nàng không khó chịu với những gì nàng thấy, nàng đã từng nhìn thấy những người đàn ông khỏa thân khi cùng bạn thân của mình, Tyra, lẽn vào nhà tắm của chú nàng, trốn sau thùng nước và nhìn các anh họ nàng tắm. Dĩ nhiên chuyện đó cách đây 10 năm rồi, và có sự khác biệt chứ. Nàng chưa bao giờ nhìn thấy cái vật đàn ông đang thẳng tưng và đầy kiêu hãnh như Dirk hiện giờ. Kristen thành thật trả lời với hắn, vì đáng phải như thế. “Anh không có gì không được cả, Dirk. Anh có thân hình rất đẹp và bắt mắt. Cha anh có một trang trại giàu có và anh là người thừa kế. Một người phụ nữ chắc chắn rất hài lòng lấy anh làm chồng.” Nàng không thêm rằng Tyra thậm chí sẽ mặc cả với các vị thần để có được hắn và đó là lý do tại sao Kristen sẽ không có ý với hắn. Tyra đã yêu người đàn ông này 5 năm, nhưng hắn không biết điều đó. Và Kristen đã thề sẽ không bao giờ kể với ai bí mật của bạn mình, nhất là Dirk. “Anh chỉ đơn giản là không dành cho tôi, Dirk Gerhardsen,”. Nàng kết thúc một cách chắn chắn. “Tại sao?” “Anh không làm tim tôi xao động.” Hắn nhìn nàng ngờ vực,gặng hỏi “ Điều đó có liên quan gì đến việc kết hôn chứ?” . Mọi thứ, nàng nói với bản thân mình. Với hắn, nàng chỉ nói “ Tôi xin lỗi, Dirk, Tôi không muốn kết hôn với anh. Tôi đã nói với anh rôi.” “Có thật em sẽ kết hôn với Sheldon?” Nàng có thể nói dối và dùng nó như cái cớ để thoát khỏi tình thế này, nhưng nàng không muốn nói dối chỉ để làm mọi thứ dễ dàng hơn. “Sheldon như là một người anh trai đối với tôi, bố mẹ tôi muốn tôi cưới anh ấy nhưng tôi cũng đã từ chối.” Và anh ấy thấy nhẹ nhõm, nàng nhủ thầm, vì anh ấy cũng xem tôi như em gái, cũng cảm thấy không thoải mái với cái viễn cảnh một đám cưới giữa chúng tôi.“Rồi em sẽ phải chọn ai đó, Kristen. Mọi đàn ông ở dọc cái vịnh này đều đã hỏi cưới em một lần rồi, có khi hơn. Em lẽ ra đã cưới lâu rồi.” Đây không phải là chủ đề hay ho gì với Kristen, bởi vì nàng rõ hoàn cảnh của mình hơn bất cứ ai, không có người đàn ông độc thân nào ở quanh sông này nàng muốn cưới cả. Nàng muốn có một tình yêu đẹp như bố mẹ nàng đã có với nhau, nhưng nàng biết cuối cùng rồi nàng cũng phải từ bỏ. Nàng đã hoãn lại nhiều năm rồi, bằng cách từ chối tất cả những lời cầu hôn, và bố mẹ nàng để mặc nàng làm vậy vì họ yêu thương nàng. Nhưng nàng không thể tiếp tục làm thế nữa rồi. Nàng điên tiết với Dirk vì đã làm nàng nhớ lại sự tuyệt vọng của mình, cái mà đã ở trong đầu nàng nhiều năm qua. “Tôi chọn ai không liên quan tới anh, Dirk, vì đó sẽ không phải là anh. Nghĩ lại đi và tìm người khác, xin đừng làm phiền tôi nữa.” “Anh có thể chiếm đoạt em, Kristen, và buộc em phải cưới anh,” hắn cảnh cáo nhẹ nhàng. “ Vì em đã từ chối quá nhiều lời cầu hôn rồi, cha em sẽ vui mừng trao em cho anh sau khi anh đã hủy hoại em” Đó là một khả năng. Dĩ nhiên cha nàng sẽ đánh hắn nhừ tử trước. Nhưng nếu Dirk vẫn sống sau đó, nàng sẽ bị ép lấy hắn. Sự thật thì nàng không còn là thiếu nữ nữa để mà xem xét. Kristen quắc mắt nhìn hắn. “Nếu cha tôi không giết anh, tôi sẽ làm việc đó. Đừng ngốc thế, Dirk, tôi sẽ không bao giờ tha thứ cho trò bẩn thĩu đó” “Nhưng em sẽ là của anh.” “Tôi nói tôi sẽ giết anh!” “Anh nghĩ là không,” hắn nói với quá nhiều tự tin vì ham muốn nàng. “Anh nghĩ rất đáng để liều.” Mắt hắn ở trên ngực nàng khi hắn nói câu đó. Kristen cứng người. Lẽ ra nàng không nên đứng đó mà nói chuyện với hắn. Lẽ ra nàng nên nhảy lên Torden và cưỡi thẳng đi thay vì túm lấy con dao găm mà đối mặt với hắn. “Giờ thì thử đi, chết tiệt đôi mắt của anh, tôi sẽ giết anh sớm hơn.” Kristen rít lên. Dirk nhìn vào con dao của nàng lần nữa và thấy nàng dơ nó lên theo cách nó chắc chắn sẽ trúng mục tiêu trước khi hắn có thể tước nó từ tay nàng. Chỉ khi nàng không cao bằng hắn, và sức mạnh thì thường đi kèm với chiều cao… Cơn giận của hắn bốc lên lần nữa, nhưng bây giờ nó hướng về mẹ nàng, bà ta đúng là điên rồi mới day nàng kỹ năng chiến đấu. Hắn gầm gừ “Em sẽ không luôn có món đồ chơi đó trong tay, Kristen.” Nàng hếch cằm. “ Anh là một tên ngốc mới cảnh báo tôi thế. Bây giờ tôi sẽ bao giờ để anh bắt gặp một mình nữa đâu.” Hắn kích động. “Vậy thì em nên chắc rằng cửa phòng luôn khóa khi đi ngủ, bằng cách nào đó, vào ngày nào đó, sớm thôi, anh sẽ có cách chiếm được em.” Kristen không thèm đáp trả lời đe dọa đó, mà khom người để nhặt nhạnh quần áo dưới chân và kéo chúng qua vai. Không rời mắt khỏi Dirk, nàng lui lại túm lấy dây cương của Torden và đi về phía con ngựa của mình. Khi đi một khoáng xa, nàng nắm lấy cái bờm trắng mượt mà của Torden và nhảy lên lưng nó.” Nàng có thể nghe thấy những lời nguyền rủa điên tiết của Dirk phía sau lưng mình, nhưng nàng chẳng quan tâm, điều nàng đang lo bây giờ là làm sao mặc quần ao vào mà không phải cho ngựa đi chậm lại, trước khi nàng đến gần lãnh địa của Haardrad và ai đó sẽ trông thấy nàng. Nàng sẽ không thể giải thích, và sự thật sẽ làm sự do của nàng bị giới hạn một khắc khe, còn Dirk Gerhardsen thì rơi vào đống lộn xộn. Nếu không phải vì những cấm kỵ đó, nàng sẽ thừa nhận những gì xảy ra, nhưng nàng đánh giá cao sự tự do của mình. Cha nàng lo lắng về nàng như thế đủ rồi. Mẹ nàng thì không, trong suốt những mùa hè mà cha nàng ra khơi và mang theo các anh trai cùng đi, bà đã dạy cho nàng rất tốt các kỹ năng tự vệ. Brenna đã dạy nàng cách bí mất để học từ cha nàng kỹ năng và xảo thuật cần thiết để sử dụng vũ khí chống lại kẻ địch mạnh hơn mình, phải có thủ đoạn bởi vì dù nàng có cao hơn mẹ nàng ½ foot, mạnh hơn hầu hết phụ nữ, nàng cũng không đủ mạnh so với 1 người đàn ông. Kristen tự hào vào khả năng tự vệ của nàng, nhưng đây là lần đầu tiên nàng kiểm chứng khả năng đó. Ngoài Selig, lớn hơn nàng 2 tuổi, còn có Eric, 16 tuổi, và Thorall, 14 tuổi, cả hai đứa đã to lớn gần bằng người cha vĩ đại của họ rồi. Nàng còn có người anh họ Athol, chỉ lớn hơn Selig vài tháng, và hàng tá anh em họ xa bên nhánh của cha nàng nữa, họ sẽ chiến đấu thậm chí tới chết để giảm tối thiểu tổn thương cho nàng. Không, nàng sẽ tự vệ tốt và không cần phải chứng minh bản thân như mẹ nàng cảm thấy cần khi bà ở tuổi nàng. Cho đến hôm nay. Nếu như nàng ra khơi với Selig và bạn anh tuần tới để đến các thị trấn thương mại ở Miền Đông, nàng sẽ không cần phải lo lắng về Dirk nữa – ít nhất cho đến khi nàng quay lại vào cuối mùa hè. Cho đến lúc đó, có lẽ hắn đã tìm được một nàng vợ rồi và sẽ không phiền nàng nữa. Trời ạ, nàng đã xin được tham gia chuyến đi này nhưng đã bị từ chối rồi. Nàng đã dư lớn để ra khơi với nhiều người đàn ông trẻ tuổi này rồi, dù đó là một trong những con tàu của cha nàng, với sự trông nom của Selig. Nếu Garrick không đi, nàng cũng không được đi, thế đấy. Thậm chí nàng đã tinh vi trêu chọc rằng có thể nàng sẽ gặp một ông hoàng kinh doanh như ông ở Birka or Hedeby để đem về làm chồng cũng không lay chuyển được ông. Nếu ông không ở đó để trông nom nàng như những lần ông đã đem nàng và mẹ nàng theo, thế thì, nhờ thần Odin, nàng phải ở nhà. Garrick đã không ra khơi tám năm nay rồi, ông thích trải qua hàng tháng hè với Brenna hơn, ông để bạn ông, Perrin, chỉ huy con tàu của mình, or Selig, vì giờ anh đã đủ tuổi làm việc đó. Bố mẹ Kristen sẽ cưỡi xuống phía bắc, một mình, và sẽ không quay lại cho đến hết hè. Họ sẽ cùng nhau đi săn, khám phá, yêu nhau, và Kristen luôn ước mình có sẽ có được tình yêu như họ. Nhưng ở đâu có thể tìm đc người đàn ông như Garrick, người rất dịu dàng hòa nhã với những ai ông yêu mến, và rất nguy hiểm, đáng sợ với những kẽ ngược lại, người có thể làm tim nàng đập nhanh hơn như cách Brenna đã thể hiện khi bà chỉ đơn giản nhìn vào Garrick? Kristen thở dài đánh thượt, cưỡi ngựa về nhà. Không có người đàn ông như thế, không phải ở đây. Oh, có một vài người khá lịch thiệp, nhưng không nhiều, dù là có nhiều gã khá là nguy hiểm. Miền bắc này đã sinh ra những người đàn ông dày dạn, khỏe mạnh, những hình mẫu tốt đẹp của đàn ông, nhưng không ai có thể khuấy động được trái tim nàng. Ở đâu đó chắc chắn có một người định mệnh dành cho nàng, có thể là một thương gia, or một thủy thủ như cha nàng – một người Đan Mạch, hay có lẽ là Thụy Điển, thậm chí là 1 người Na-uy đến từ Miền Nam. Tất cả bọn họ đều làm ăn ở các thị trấn thương mại lớn của Miền Đông. Nàng chỉ phải tìm ra anh thôi.   Mời các bạn đón đọc Trái Tim Đam Mê của tác giả Johanna Lindsey.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Một Chín Tám Tư
Một chín tám tư là tên một tiểu thuyết dystopia (phản địa đàng) phát hành năm 1949 của nhà văn người Anh George Orwell. Kể từ khi ra đời vào năm 1949, Một chín tám tư đã được xem là tác phẩm kinh điển về tư tưởng chính trị và khoa học giả tưởng. Nhiều từ vựng, khái niệm có trong tiểu thuyết như Big Brother, doublethink, thoughtcrime, Newspeak, Room 101, telescreen, 2+2=5 và memory hole đã đi vào đời sống (những người nói tiếng Anh). Tiểu thuyết cũng là nơi phổ biến tính từ Orwellian nhằm chỉ sự phủ nhận lịch sử, tung tin giả, theo dõi ngầm và tuyên truyền của nhà nước toàn trị. Năm 2005, tạp chí TIME đã đưa Một chín tám tư vào danh sách 100 tiểu thuyết tiếng Anh xuất sắc nhất từ 1923 đến 2005. Trong danh sách "100 tiểu thuyết xuất sắc nhất của Modern Library", Một chín tám tư đứng thứ 13 do ban biên tập bình chọn và thứ 6 do người đọc bình chọn. Năm 2003, tiểu thuyết đứng vị trí thứ 8 trong "The Big Read", theo một cuộc điều tra của BBC. *** Anh Cả và tiểu thuyết ‘1984’ Hôm qua, tôi xem cuốn phim “First, they killed my father” do Angelina Jolie đạo diễn. Cuốn phim, sản xuất năm 2017, mô tả thảm cảnh của một gia đình trung lưu ở Pnom Penh sau 1975 khi Khmer Đỏ chiếm Cambodia. Trong phim, có một chữ được nhắc đi nhắc lại nhiều lần là ‘Angkar‘, có nghĩa là Tổ Chức, nhưng có người dịch là ‘Anh Cả’. Khái niệm ‘Anh Cả’ làm tôi nhớ đến cuốn tiểu thuyết “1984” của văn hào George Orwell. Đối với nhiều người Việt Nam, đặc biệt là ở miền Nam, sẽ thấy cuốn phim “First, they killed my father” rất cuốn hút, vì nhiều người có thể tìm thấy mình qua những hình ảnh và nhân vật trong phim. Cuộc sống yên ấm của một gia đình trở thành đảo lộn sau khi Khmer Đỏ tiến vào ‘giải phóng’. Những gì xảy ra sau đó như tịch thu tài sản, tù cải tạo tập trung, tra tấn, giết chóc, v.v. làm cho người ta nhớ lại một thời kinh hoàng. Có những chi tiết nhỏ những đầy ý nghĩa như một cán bộ Khmer Đỏ đòi tước lấy cái đồng hồ của một người dân, vì Anh Cả cần cái đồng hồ đó, hay như chi tiết về một cựu viên chức giả vờ không biết tiếng Pháp để đóng vai người nông dân nhằm thoát bàn tay tử thần của đám cán bộ đang lăm le giết người. Thế nhưng cuối cùng thì anh ta cũng bị giết trong lúc cải tạo. Xuyên suốt cuốn phim, nhân vật vô hình “Anh Cả” được nhắc đi nhắc lại. Anh Cả biết hết. Anh Cả theo dõi mọi người. Anh Cả vĩ đại. Anh Cả bao dung và độ lượng. Nhưng trong thực tế, Anh Cả là kẻ giết người vô hình. Vô hình là vì không ai biết Anh Cả là ai. Đó chính là viễn ảnh của một xã hội được mô tả trong tiểu thuyết 1984. 1984 là một trong hai cuốn tiểu thuyết (cuốn kia là ‘Animal Farm’) nổi tiếng nhứt của văn hào George Orwell được xuất bản vào năm 1949. Trong 1984, Orwell cảnh báo thế giới về một viễn ảnh chế độ toàn trị sẽ gieo rắc lên xã hội, như hạn chế quyền tự do con người, kiểm soát hành vi, thậm chí suy nghĩ của dân chúng. Cảnh báo của Orwell thật ra đã thành hiện thực không chỉ ở các nước theo chế độ toàn trị, mà còn ngay tại những nước từng có thời tự xem là ‘Tự do & Dân chủ’ ngày nay. Khái niệm ‘Anh Cả’ / Big Brother / Angkar bàng bạc trong xã hội ngày nay. Nó không chỉ là những khẩu hiệu, biểu ngữ giăng trên đường phố, mà còn là những ‘Ứng dụng’ trong cái điện thoại động và máy tính cá nhân theo dõi từng bước đi, đếm từng hơi thở, và lắng nghe từng lời nói của chúng ta. Anh Cả ngày nay hiện diện mọi nơi. Tóm tắt ‘1984’ Câu chuyện xảy ra trong nước Oceania vào năm 1984 (nên nhớ ông viết trước đó và chỉ xuất bản vào năm 1949). Oceania là một nước theo thể chế toàn trị (totalitarian). Ngoài Oceania, còn có 2 nhà nước toàn trị khác là Eurasia và Eastasia. Oceania bị thống trị bởi một đảng gọi là Party. Party được sự lãnh đạo của một lãnh tụ ‘anh minh’ có danh xưng là Big Brother (Anh Cả). Anh Cả biến Party thành một tổ chức chuyên tẩy não dân chúng, đổi trắng thành đen, đổi đen thành trắng, làm cho người dân lẫn lộn không biết đâu là thực và đâu là giả. Mục tiêu của Party là làm cho người dân phải vâng lời lãnh tụ Big Brother một cách vô điều kiện. Nhà nước Oceania bao gồm một số bộ có tên rất … khác. Bộ Sự Thật (Ministry of Truth), Bộ Hoà Bình (Ministry of Peace), Bộ Tình Thương (Ministry of Love) và Bộ Dồi Dào (Ministry of Plenty). Những cái tên bộ hoàn toàn đi ngược lại ý nghĩa của nó. Chẳng hạn như Bộ Sự Thật chuyên trách tuyên truyền dối trá. Theo Bộ Sự Thật, 2 + 2 không phải là 4, mà là 5. Bộ Sự Thật kiểm soát tất cả báo chí, giải trí, và nghệ thuật. Trong nhà nước toàn trị, không có báo chí đối lập; tất cả phải phục vụ cho Party. Bộ Hòa Bình chuyên trách chiến tranh, lúc nào cũng sẵn sàng gây chiến với nhà nước Eurasia và Eastasia. Bộ Tình Thương là bộ đáng sợ nhứt vì nó có chức năng như là Bộ Công An, chuyên trách đàn áp và tra tấn người dân. Bộ Dồi Dào có chức năng kiểm soát nền kinh tế tập trung, kiêm luôn phân phối thực phẩm và hàng hoá cho dân. Cuốn tiểu thuyết xoay quanh 4 nhân vật: Winston Smith là một cán bộ cấp thấp, Julia là người yêu của Smith, O’Brien là giả lãnh tụ đảng đối lập, và Emmanuel Goldstein là Anh Cả. Ngoài ra, còn có nhân vật Charrington là chủ tiệm bán đồ cổ, và ông này là một người chỉ điểm, thành viên của Cảnh sát Tư tưởng. Winston Smith là một cán bộ trong Bộ Sự Thật. Công việc của Winston là thay đổi các sự thật lịch sử sao cho phù hợp với đường lối và chánh sách của Party / Đảng. Dù làm công việc đó, nhưng Winston không thấy thoải mái vì sự gian dối của Đảng. Chẳng hạn như Đảng nói nước Oceania luôn là đồng minh của Eastasia trong cuộc chiến chống Eurasia, nhưng sự thật thì không phải vậy. Hay như Đảng cho rằng Emmanuel Goldstein (lãnh tụ của nhóm Brotherhood) là người nguy hiểm nhứt, là Kẻ Thù Của Nhân Dân, nhưng Winston thấy không phải vậy. Winston trú ngụ ở tầng 7 trong một toà nhà tồi tàn, hôi mùi cải bắp luộc, còn thang máy thì thường bị hư hỏng. Trớ trêu thay, toà nhà này được Đảng đặt tên là “Victory Mansion” (Biệt thự Thắng Lợi). Thật ra, cái tên ‘Thắng Lợi’ được dùng cho rất nhiều sản phẩm (như thuốc lá, rượu, bia, cà phê, v.v.) của nước Oceania. Orwell mô tả Smith như là một công chức nghèo, uể oải với công việc và cuộc sống. Chiều về căn hộ, anh ta được ‘chào đón’ bằng những bài ca hay chương trình giải trí mang tính ‘cách mạng’ và tẻ nhạt. Còn cái màn hình thì hình như lúc nào cũng theo dõi mỗi bước đi và hành vi của anh. Còn ra ngoài nhà thì bất cứ anh đi đến nơi nào, Party đều theo dõi anh. Đi đường anh cũng thấy sự hiện diện của Party và lãnh tụ vĩ đại qua băng rôn và khẩu hiệu. Anh phải tỏ ra là một cán bộ trung thành với Party, về nếu không thì anh ta sẽ bị trừng phạt, thậm chí giết chết. Cảnh sát Tư tưởng lúc nào cũng có mặt để bảo đảm anh ta phải trung thành, mẫn cán với Party / Đảng. Winston càng ngày càng thấy bất bình trước sự trấn áp và kiểm soát của Đảng. Đảng cấm không được suy nghĩ tự do, không có tình dục, và không có bất cứ diễn đạt mang tánh cá nhân. Do đó, anh ta bắt đầu không ưa đảng và viết nhựt kí. Nói cách khác, anh ta đang trở thành một Tội phạm Tư tưởng. Winston thương thầm nhớ trộm một cô gái đồng nghiệp tên là Julia. Nhưng Winston sợ Julia là ‘gián điệp’ được cài cắm để theo dõi những kẻ Tội phạm Tư tưởng như anh ta. Một ngày kia, Winston nhận được thư của Julia với dòng chữ ‘I love you’ (em yêu anh), và thế là họ bí mật bắt đầu một mối quan hệ tình cảm. Càng yêu Julia chừng nào, Winston càng ghét Đảng chừng nấy. Một hôm, Julia và Winston nhận được lời mời ghé thăm O’Brien, lãnh tụ của Đảng. Tuy Đảng mang danh là của giai cấp lao động, nhưng O’Brien sống trong xa hoa.  O’Brien cho biết rằng cũng như Winstin và Julia, ông rất ghét Đảng. Ông đang tham gia nhóm Brotherhood (Hội Ái Hữu) nhằm lật đổ Đảng. O’Brien mời Julia và Winston tham gia Hội Ái Hữu và được tặng cuốn sách của Emmanuel Goldstein về tuyên ngôn của Hội. Winston say sưa đọc cuốn sách cho Julia nghe trong một tiệm. Đột nhiên, lính xông vào tịct thu cuốn sách, và người báo lính bắt là chủ nhân của tiệm tên Charrington, ông này là thành viên của Cảnh sát Tư tưởng. Winston được chở tối Bộ Tình Thương, và ở đó Winston lại gặp O’Brien. Lúc bấy giờ, Winston mới biết rằng O’Brien là một gián điệp của Đảng. O’Brien chỉ giả vờ là người của Hội Ái Hữu để gài bẫy Winston. Tại Bộ Tình Thương, đích thân O’Brien tra tấn và tẩy não Winston. Winston kháng cự, và thế là bị gởi đi giam cầm trong Phòng 101, nơi kinh khủng nhứt của Bộ Tình Thương dành cho những tù nhân sừng sỏ nhứt. Cách O’Brien tra tần ở Phòng 101 là buộc một lồng đầy chuột trên đầu của Winston, và để cho chuột gặm nhấm mặt của Winston. Cuối cùng thì Winston bị suy sụp và van xin O’Brien tha thứ cho mình, và hãy dùng hình thức tra tấn này cho Julia. Winston được thả trong điều kiện sức khoẻ tinh thần bị suy sụp hoàn toàn. Ở ngoài tù, Winston gặp Julia nhưng không còn cảm tình gì với nàng. Ngược lại, Julia cũng bị suy sụp tinh thần và không còn yêu Winston nữa. Winston chấp nhận Đảng và học cách yêu thương lãnh tụ Anh Cả. Phân tích ‘1984’ Nội dung câu chuyện tôi tóm tắt có lẽ không làm cho các bạn quan tâm, vì xem quá có vẻ quá … tầm thường. Có lẽ thế, nhưng ý nghĩa đằng sau nó thì không tầm thường chút nào, vì qua câu chuyện, văn hào đã phác hoạ một xã hội toàn trị có hình thù ra sao và vận hành như thế nào. Tác phẩm còn hàm chứa một thông điệp rất quan trọng mà George Orwell muốn gởi đến độc giả, đó là các chế độ toàn trị có khả năng gieo rắc nỗi kinh hoàng đến người dân. Đó cũng là một cảnh báo mà văn hào đưa ra từ những 80 năm trước. Luận đề căn bản của 1984 là thế giới sẽ được chia thành 3 siêu nhà nước toàn trị: Oceania, tượng trưng cho chế độ Stalin; Eurasia tượng trưng cho chế độ Phát-xít; và Eastasia tượng trưng cho xã hội theo tư bản chủ nghĩa. Tuy Oceania tượng trưng cho xã hội Stalin, nhưng câu chuyện lại không lấy Moscow làm bối cảnh mà là London. Tuy nhiên, ngày nay thì chúng ta có thể thấy cái nhà nước Oceania hiện diện ở bất cứ nơi nào trên thế giới, dưới hình thức này hay hình thức khác. Nước Oceania có ba thành phần: một nhóm nhỏ gọi là Nội Đảng (Inner Party), Ngoại Đảng (Outer Party) và nhóm lớn nhứt là Proles không nằm trong Đảng.  Nội Đảng bao gồm một nhóm nhỏ chóp bu của Đảng, có quyền điều hành và ra chánh sách. Ngoại Đảng là nhóm lớn hơn, bao gồm những cán bộ như Winston Smith, những kẻ bị tẩy não nặng nề và chỉ biết phục vụ cho Nội Đảng một cách vô điều kiện. Proles hay thường dân là nhóm lớn nhứt, ngoài Đảng, chẳng có quyền lực gì cả, và gần như vô nghĩa. Nhóm Probes này được quản lí bởi một lực lượng gọi là Cảnh sát Tư tưởng (Thought Police). Nhóm Proles chẳng có vai trò gì, và thường được Cảnh sát Tư tưởng cho chơi thể thao và những màn giải trí vớ vẩn khác để không chất vấn những gì Nội Đảng và Ngoại Đảng làm. Mục tiêu tối hậu của Nhà nước Oceania là kiểm soát toàn bộ xã hội và kiểm soát suy nghĩ của người dân. Để thực hiện mục tiêu này, Oceania dựa vào 2 trụ cột chánh: dối trá & tẩy não, và đàn áp. Dối trá & tẩy não được thực hiện bởi Bộ Sự Thật. Đàn áp thì do Bộ Tình Thương phụ trách. Bộ Sự Thật sáng chế ra một ngôn ngữ gọi là Newspeak. Trong thực tế, Newspeak là loại ngôn ngữ mới nhằm hạn chế tự do tư tưởng và xiển dương đường lối chủ trương của Đảng. Ngôn ngữ Newspeak thay thế tiếng Anh truyền thống. Newspeak không có những chữ mang tính phản kháng. Ngay cả suy nghĩ phản kháng cũng là bất hợp pháp, và suy nghĩ phản kháng trong tâm tưởng là một ‘tội phạm tư tưởng’ (thought crime). Tội phạm tư tưởng là loại tội phạm nặng nhứt trong nhà nước Oceania. Trong Newspeak có một chương trình một cách nói gọi là ‘Doublethinking‘ (Suy Nghĩ Kép). Khẩu hiệu của Doublethinking và cũng là chủ trương của Oceania là: Chiến tranh là hoà bình (War is Peace) Tự do là nô lệ (Freedom is slavery) Dốt nát là sức mạnh (Ignorance is strength) “Chiến tranh là hoà bình” có nghĩa là đặt quốc gia trong tình trạng chiến tranh thì người ta sẽ quên đi những bất công xã hội và thối nát của chế độ để chuẩn bị chiến tranh, và qua đó mà duy trì hoà bình trong nước. Điều này giải thích tại sao các nước toàn trị lúc nào cũng doạ công chúng rằng có một kẻ thù đang đe doạ đến sự tồn vong của chế độ (dù chẳng có đe doạ nào cả) để biện minh cho sự đàn áp của họ và làm cho dân chúng lúc nào cũng bị động, không có thì giờ suy nghĩ sâu xa. “Tự do là nô lệ” có nghĩa là tự do tuyệt đối sẽ dẫn đến một cuộc sống mà người ta chỉ theo đuổi những thú vui vật chất và nhục dục. Họ không thể nào suy nghĩ đến những vấn đề lớn hơn. Do đó, họ rất dễ trở thành nô lệ cho chế độ. “Dốt nát là sức mạnh” có thể hiểu rằng dốt nát là niềm vui. Khi người ta chạy theo niềm vui để thoả mãn nhu cầu cá nhân, người ta sẽ không quan tâm đến sự thật nữa. Sự dốt nát của họ là sức mạnh của nhà nước. Doublethinking là một ‘vũ khí’ lợi hại của Đảng (Bộ Sự Thật). Với Doublethinking, người ta có thể tin vào 2 điều hoàn toàn đối nghịch nhau. Đó chính là lí do tại sao các chế độ toàn trị rất thích nói về tự do, dân chủ, hoà bình. Chế độ Oceania lúc nào cũng nói rằng tự do là quí báu, nhưng chính chế độ đó lại tước đoạt quyền tự do tư tưởng của người dân. Dân chủ là một khẩu hiệu rất phổ biến trong nước Oceania nhưng trong thực tế người dân không có quyền bầu cử. Còn hoà bình thì chỉ là khẩu hiệu, vì trong thực tế Oceania lúc nào cũng chuẩn bị chiến tranh chống các nhà nước khác. Cho đến nay, chúng ta vẫn thấy nhan nhản những thủ thuật của Bộ Sự Thật trong tuyên truyền và tẩy não người dân. Vì nhà nước Oceania kiểm soát toàn bộ báo chí và hệ thống truyền thông, nên nó có thể nói bất cứ điều gì mà không quan tâm đến phản kháng. Nó nói 2 + 2 = 5 mà không ai dám nói khác. Nó đổi đen thành trắng, và trắng thành đen cũng chẳng ai nói khác được. Dần dần, theo thời gian những ‘tiêu chuẩn’ mới này thành chân lí và người dân phải chấp nhận. Để kiểm soát tư tưởng và tẩy não dân, Đảng duy trì một hệ thống kiểm soát tư tưởng có tên là Thought Police (Cảnh sát Tư tưởng). Cảnh sát Tư tưởng có thể theo dõi công dân mỗi phút và biết họ suy nghĩ gì! Bất cứ ai trong nhà nước Oceania suy nghĩ khác với Đảng là bị bắt bỏ tù và tra tấn. Nhà nước Oceania thích dùng những cách nói thậm xưng. Họ nói về những chiến thắng vang vội, và bất kẻ thù nào cũng bị đánh bại. Tiểu thuyết bắt đầu bằng nhà nước Oceania gây chiến với Eurasia và làm hoà với Eastasia. Nhưng sau đó thì Oceania đột nhiên làm hoà với Eurasia và gây hấn Eastasia. Cứ mỗi lần như thế, Oceania tuyên bố là chiến thắng. Họ khắc cái ‘chiến thắng’ đó bằng cách đặt tên cho các sản phẩm là ‘Thắng lợi’ / Victory. Người dân tưởng đó là thật và cũng tự hào và ảo tưởng về sức mạnh của Nhà nước Oceania. Nhà nước Oceania tuy bề mặt thì tỏ ra là một chánh quyền mạnh và vững chãi, nhưng trong thâm tâm họ rất yếu. Họ rất sợ dân. Họ nhìn đâu cũng thấy kẻ thù và ai cũng đáng nghi ngờ. Đó chính là lí do họ có đội quân Cảnh sát Tư tưởng. Một trong những cụm từ họ hay dùng là ‘Kẻ Thù Của Nhân Dân‘. Trong ‘1984’, Orwell mô tả các thành viên của Ngoại Đảng cứ mỗi lần họp họ dành ra 2 phút để làm Nghi lễ Thù Ghét chống lại Emmanuel Goldstein, người được xem là ‘Kẻ thù của Nhân dân‘. Tuy nhiên, cái nhãn đó chỉ được dựng lên làm biểu tượng nhằm đánh lạc hướng người dân từ một kẻ thù lớn hơn là Anh Cả! Cái mô hình Oceania dĩ nhiên là có mặt trong thế giới XHCN cũ. Ở Đức, sau khi thống nhất đất nước, người ta mới biết cơ quan mật vụ khét tiếng Stasi đã theo dõi người dân như thế nào. Họ dùng những người thân như cha mẹ, vợ chồng, bạn bè, đồng nghiệp làm điềm chỉ viên cho họ. Các điềm chỉ viên báo cáo rất chi tiết về người họ theo dõi, như gặp ai, nói chuyện về gì, suy nghĩ ra sao, thậm chí … ngủ với ai! Ngày nay, cái ngôn ngữ Newspeak cũng hay thấy ở những nước chuyển sang XHCN. Ở Tàu, sau cuộc ‘cách mạng’, chế độ mới thay đổi các cách nói và ngữ vựng cũ bằng những cách nói xa lạ và những từ ngữ khó hiểu. Họ cố tình tẩy não sao cho dân chúng phải đoạn tuyệt với ngôn ngữ của cha ông để lại và làm quen với một thứ ngôn ngữ mới. Ngôn ngữ Newspeak cũng có những chữ như tự do, dân chủ, hoà bình, v.v. nhưng ý nghĩa thật thì hoàn toàn ngược lại, y như Doublethinking. Trong cái nhìn của Orwell, không phải chỉ xã hội chủ nghĩa sẽ thất bại, nhưng một xã hội hiện đại (như ngày nay) và xã hội dân chủ đại chúng cũng sẽ thất bại. Trong xã hội ngày nay, những kẻ cai trị đã có trong tay những kĩ thuật và công nghệ để duy trì quyền lực và kiểm soát dân chúng. Trong xã hội Oceania, người dân tin vào những gì kẻ cai trị (Anh Cả) vì họ không thể nào nói lên những bất đồng chánh kiến, hoặc họ bị tẩy não và không nghĩ ra được một cách diễn giải khác. Có lẽ ý tưởng chánh của Orwell trong 1984 là những kẻ cai trị có khả năng ngăn chận những suy nghĩ độc lập của người dân. Lời cảnh báo đó vẫn còn tính thời sự. Dù đã gần 80 năm xuất bản, những khái niệm như Newspeak, Doublethink, Anh Cả, Tội phạm Tư tưởng, Cảnh sát Tư tưởng, v.v. vẫn còn liên quan. Ngay cả người dân ở Mĩ, Úc, Anh trong thời dịch bệnh có lẽ đều tìm thấy nhiều sự trùng hợp lạ lùng với những gì mô tả trong 1984. Chính vì thế mà mà ‘1984’ được xem là một kiệt tác, vì mức độ ảnh hưởng của nó xuyên thời gian. ___ [1] George Orwell tên thật là Eric Arthur Blair sanh năm 1903 và qua đời năm 1950, tức chỉ thọ 46 tuổi. Ông chết vì bệnh lao phổi. Ông xuất thân là một nhà báo và nhà phê bình, nhưng lại biết đến như là một nhà văn. Ông mô tả gia đình ông thuộc giai cấp trung lưu, thân phụ là công chức làm việc ở Ấn Độ (nơi ông sanh ra) và thân mẫu xuất thân từ một gia đình doanh nhân gốc Pháp. Sau một thời gian sống ở Ấn Độ, ông theo thân mẫu về Anh, nơi ông được gởi đi học tại những trường danh tiếng như Sussex và Eton. Ngay từ thuở đó cậu bé George đã biểu hiện một tư chất thông minh nhưng thụ động. Aldous Huxley là một trong những người thầy của Orwell. Tuy nhiên, ông không thích môi trường học đường. Sau trường học, ông làm cảnh sát một thời gian, nhưng ông cũng không thích nghề cảnh sát. Thật ra, ông lúc nào cũng cảm thấy xấu hổ vì đã làm cảnh sát. Sau khi bỏ nghề cảnh sát, ông lang thang ở London và Paris và sống trong một khu tồi tàn, chung nhà với những người ăn xin. Ở Paris ông làm nghề rửa chén trong nhà hàng. Có lẽ chính vì thế mà ông rất ghét chủ nghĩa đế quốc. Ông tự xem mình là một người xã hội chủ nghĩa, thậm chí là người cộng sản. Nhưng trớ trêu thay, hai tác phẩm Animal Farm và 1984 của ông lại là những cảnh báo về một viễn cảnh chế độ Nazi và Stalin áp đặt lên xã hội loài người. Mời các bạn đón đọc Một Chín Tám Tư của tác giả George Orwell & Phạm Nguyên Trường (dịch).
Hoa Của Phế Tích
Hoa của phế tích là một trong bộ ba tiểu thuyết được phanbook phát hành vào năm nay. Từ câu chuyện một đôi vợ chồng trẻ tự sát vì những lí do bí hiểm mở ra một cuộc điều tra, theo đó là những bước chân lần theo những khu phố cũ, những đại lộ, những tòa nhà… đậm dấu tích của quá khứ. Giọng văn chậm rãi với những câu chữ buồn mà đẹp đến nao lòng của Modiano mang đến cho độc giả những dư âm mãi váng vất. Để từ đó người đọc có thể thấy được văn chương của Patick Modiano là văn chương của ký ức, bất định tương lai. *** Patrick Modiano là Nhà văn Pháp với hơn 30 tác phẩm bao gồm tiểu thuyết, kịch bản phim,... các tác phẩm của ông đã được dịch 36 thứ tiếng trên thế giới, đạt nhiều giải thưởng danh tiếng, phải kể đến giải Nobel Văn học năm 2014. "Lối viết văn của Modiano rất dễ đọc. Các tác phẩm của ông trông có vẻ đơn giản bởi vì nó tinh tế, thẳng thắn, đơn giản và rõ ràng. Bạn mở sách đọc một trang, và sẽ nhận ra ngay là sách của ông ta, rất thẳng thắn, câu văn ngắn gọn, không cầu kỳ - nhưng nó rất là tinh vi trong cách đơn giản của nó."_ Bí thư thường trực của học viện Nobel Peter Englund Con chó mùa xuân là một trong bộ ba tiểu thuyết được phanbook phát hành vào năm nay. Vẫn với lối viết đơn giản mà tinh tế, Patick Modiano đã dần người đọc vào một hành trình lạ lùng khi hai con đường ngược nhau, cắt nhau nơi ký ức. Như một tất định của đời sống, có tồn tại rồi sẽ có lãng quên, cuối cùng thì không gì có thể níu kéo được hiện hữu thuộc về quá khứ, và tất cả được chứa đựng trong lặng im vĩnh viễn. Để từ đó người đọc có thể thấy được văn chương của Patick Modiano là văn chương của ký ức, bất định tương lai. *** Kho đựng nỗi đau (tựa gốc: Remise de peine, viết năm 1988), Hoa của phế tích (tựa gốc: Fleurs de ruine, 1991), Con chó mùa xuân (tựa gốc: Chien de printemps, 1993) được nhà văn Patrick Modiano (giải Nobel Văn học, 2014) hoàn thành trong ba mốc thời gian khác nhau, nhưng mang đầy đủ những nét đặc thù của không khí, phong cách văn chương ông. Kho đựng nỗi đau lần đầu tiên bức chân dung thời thơ ấu của chú bé Patrick cùng em trai sống trong căn hộ của những diễn viên xiếc ở vùng ngoại vi Paris. Hoa của phế tích là cuộc lần theo manh mối về một vụ tự sát với lý do bí hiểm của đôi vợ chồng kỹ sư trẻ tuổi vào một ngày tháng 3 năm 1933. Còn Con chó mùa xuân là cuộc dò tìm của một người viết tiểu thuyết trẻ tuổi với nỗ lực phục dựng bản tiểu sử của Jasen - một nhiếp ảnh gia sống và ghi chép về Paris nhưng căn cước cá nhân lại nhiều điểm mù bởi dư chấn của thời Đức tạm chiếm… Ba cuốn tiểu thuyết này là dẫn chứng xuất sắc, thuyết phục cho điều mà Patrick Modiano viết trong diễn từ nhận giải Nobel Văn học vào năm 2014: “Người ta có thể lạc lối hoặc biến mất trong một đô thị. Người ta thậm chí có thể thay đổi căn cước và sống một đời khác. Người ta có thể lao mình vào một cuộc điều tra rất dài lâu để tìm lại những dấu vết của một ai đó, và lúc khởi đầu chỉ có một hoặc hai địa chỉ trong một khu phố đã mất biệt. Chỉ dấu ngắn ngủi đôi khi hiện lên trên những phiếu tra cứu luôn luôn tìm được một âm hưởng trong tôi: Nơi cư trú cuối cùng được biết.” Trong lần ấn hành ba tiểu thuyết này, Phanbook cũng phát hành hộp giấy đựng sách Patrick Modiano với thiết kế đẹp, trang nhã dành cho độc giả sưu tầm đủ ba tác phẩm. *** VỀ NHÀ VĂN PATRICK MODIANO Patrick Modiano là nhà văn người Pháp, sinh năm 1945. Ông đạt giải Nobel văn học năm 2014. Nhiều tác phẩm của Modiano đã được in tại Việt Nam. Ba tác phẩm của Patrick Modiano do Phanbook ấn hành: Kho đựng nỗi đau, Hoa của phế tích, Con chó mùa xuân, đều do Hoàng Lam Vân dịch. *** Buổi tối Chủ nhật tháng Mười một ấy, tôi ở trên phố Abbé-de-l’Épée. Tôi đi dọc theo bức tường lớn của Học viện dành cho người câm điếc. Bên trái là tháp chuông nhà thờ Saint-Jacques-du-Haut-Pas cao cao. Tôi còn giữ kỷ niệm về một quán cà phê nơi góc phố Saint-Jacques, tôi hay đến đó sau khi xem phim, rạp Studio des Ursulines. Trên vỉa hè, lá rụng. Hoặc cũng có thể là các trang đã cháy thui của một quyển từ điển Gaffiot[1] cũ. Đây là khu phố của các trường và các tu viện. Vài cái tên cổ kính quay trở lại trong ký ức tôi: Estrapade, Conttescarpe, Tournefort, Pot-de-Fer... Tôi cảm thấy e sợ khi phải băng ngang những chốn tôi chưa từng đặt chân kể từ tuổi mười tám, hồi tôi còn hay lai vãng một trường trung học trên đồi Sainte-Geneviève[2]. Tôi có cảm giác các địa điểm vẫn cứ ở trong tình trạng mà tôi đã để chúng lại từ đầu thập niên sáu mươi, chúng bị bỏ hoang cùng quãng đó, cách đây đã hơn hăm lăm năm. Phố Gay-Lussac - cái phố im lìm ấy, nơi trước đây người ta từng dỡ đá lát và dựng chiến lũy[3] - cửa ra vào một khách sạn đã bị xây bịt lại và phần lớn cửa sổ không còn kính. Nhưng biển hiệu thì vẫn gắn ở đó, trên tường: Khách sạn Tương lai. Tương lai nào? Là tương lai, đã chấm dứt, của một sinh viên hồi những năm ba mươi, thuê lấy một căn phòng nhỏ tại khách sạn ấy, lúc vừa rời trường Sư phạm, và tối thứ Bảy thì mời các bạn học cũ đến chơi. Và họ đi vòng qua mấy khối nhà để tới rạp Studio des Ursulines xem một bộ phim. Tôi đi qua trước rào sắt và ngôi nhà màu trắng nhiều chớp cửa sổ, với rạp chiếu phim chiếm tầng trệt. Sảnh vào sáng đèn. Hẳn tôi có thể đi tiếp tới Val-de-Grâce, cái vùng yên bình ấy, nơi chúng tôi từng trốn, Jacqueline và tôi, để ông hầu tước không có cơ may gặp được nàng. Chúng tôi sống tại một khách sạn nằm đầu phố Pierre-Nicole. Chúng tôi tằn tiện với số tiền mà Jacqueline kiếm được bằng cách bán chiếc măng tô lông thú của nàng. Phố ngập nắng, vào buổi chiều Chủ nhật. Đám thủy lạp của ngôi nhà gạch nhỏ, đối diện trường Sévigné. Dây thường xuân phủ kín các ban công khách sạn. Con chó ngủ trong hành lang lối vào. Tôi đi đến phố Ulm. Nó hoang vắng. Có tự nhủ rằng vậy thì đâu có gì kỳ cục vào một tối Chủ nhật, tại cái khu phố chuyên cần và nhiều chất tỉnh lẻ này, thì tôi vẫn tự hỏi mình có đang còn ở Paris hay không. Trước mặt tôi là vòm tròn của Panthéon. Tôi sợ lại thấy chỉ có độc mình tôi, dưới chân tòa công trình cho người chết ấy, dưới ánh trăng, thế là tôi vội rẽ sang phố Lhomond. Tôi dừng lại trước trường Ái Nhĩ Lan. Một cái chuông điểm tám tiếng, có lẽ chuông của giáo đoàn Thánh Linh mà mặt tiền đồ sộ đang ở kia, bên tay phải tôi. Thêm vài bước nữa, tôi bước vào quảng trường Estrapade. Tôi tìm số 26 phố Fossés-Saint-Jacques. Một tòa nhà hiện đại, kia, trước mặt tôi. Chắc hẳn tòa nhà cũ đã bị phá đi chừng hai mươi năm về trước. Ngày 24 tháng Tư năm 1933. Cặp vợ chồng trẻ tự sát vì những lý do bí hiểm. Đúng là một câu chuyện lạ thường, những gì đã xảy ra đêm qua trong tòa nhà số 26, phố Fossés-Saint-Jacques, gần Panthéon, ở nhà ông và bà T. Ông Urbain T., kỹ sư trẻ tuổi, tốt nghiệp thủ khoa trường Hóa học, cách đó ba năm lấy cô Gisèle S., hăm sáu tuổi, hơn ông một tuổi. Bà T. là một phụ nữ xinh đẹp tóc vàng, cao và thanh mảnh. Về phần chồng bà, ông thuộc típ đàn ông tóc nâu đẹp trai. Cặp vợ chồng hồi tháng Bảy vừa rồi chuyển vào sống ở tầng trệt số 26, phố Fossés-Saint-Jacques, trong một cái xưởng được họ cải tạo thành nhà ở. Cặp vợ chồng trẻ rất gắn bó với nhau. Dường như chẳng mối lo lắng nào nhuốm lên hạnh phúc của họ. Tối thứ Bảy, Urbain T. quyết định cùng vợ ra ngoài đi ăn tối. Họ rời khỏi nhà vào quãng bảy giờ. Mãi khoảng hai giờ sáng họ mới về, cùng hai cặp khác. Gây ồn ào chối tai, họ đánh thức các hàng xóm vốn dĩ chẳng mấy quen thuộc với những biểu hiện ầm ĩ như vậy từ phía những người thuê nhà thông thường rất kín đáo. Chắc hẳn bữa tiệc đã có các biến cố bất ngờ. Quãng bốn giờ sáng, những người khách đi khỏi. Trong vòng nửa tiếng sau đó, vốn dĩ trôi qua trong im lặng, hai phát nổ sượng đục vang lên. Chín giờ, một hàng xóm, ra khỏi nhà, đi qua trước cửa nhà của vợ chồng T. Bà ta nghe thấy có tiếng rên rỉ. Đột nhiên nhớ đến những tiếng nổ trong đêm, bà ta thấy lo lắng nên đập cửa. Cửa mở ra và Gisèle T. xuất hiện. Máu chầm chậm chảy từ một vết thương thấy rõ dưới vú trái. Cô thì thầm: “Chồng tôi! Chồng tôi! Chết rồi”. Một lúc sau, ông Magnan, cảnh sát trưởng, tới nơi. Gisèle T. rên rỉ, nằm trên một cái đi văng. Trong phòng bên cạnh, người ta phát hiện xác chồng cô. Anh vẫn giữ chặt một khẩu súng ngắn trong bàn tay co quắp. Anh ta đã tự sát bằng một viên đạn bắn thẳng vào tim. Bên cạnh anh, một bức thư nguệch ngoạc: “Vợ tôi đã tự sát. Chúng tôi đã say rượu. Tôi tự sát đây. Đừng tìm...”.   Dường như, theo cuộc điều tra, Urbain và Gisèle T., sau bữa tối, đã đến một quán bar ở Montparnasse. Tối hôm trước, từ phố Fossés-Saint-Jacques, tôi đã đi bộ tới giao lộ nơi có quán Dôme và quán Rotonde, sau khi để lại sau lưng khu vườn Đài Thiên văn tối tăm. Vợ chồng T. hẳn đã đi theo cùng con đường như tôi, vào cái đêm năm 1933 ấy. Tôi chợt thấy mình đang ở một cái nơi mà tôi đã tránh kể từ những năm sáu mươi. Cũng như khu Ursulines, khu Montparnasse làm tôi nghĩ đến tòa lâu đài của nàng công chúa trong khu rừng ngủ. Tôi từng có cùng cảm giác ấy, hồi hai mươi tuổi, khi thuê phòng để trú vài đêm tại một khách sạn trên phố Delambre: Thời ấy Montparnasse đối với tôi đã có dáng vẻ của một khu phố sống sót sau chính nó và đang chậm rãi thối rữa, cách xa khỏi Paris. Những lúc trời mưa trên phố Odessa hay phố Khởi Hành, tôi thấy như thể mình đang ở một bến cảng vùng Bretagne, dưới làn mưa phùn. Từ nhà ga, hẵng còn chưa bị phá hủy, bốc lên những bụm không khí của Brest hay Lorient. Bữa tiệc, ở đây, đã kết thúc từ lâu. Tôi còn nhớ rằng biển hiệu của quán Jimmy’s ngày xưa vẫn còn treo trên bức tường của phố Huyghens, và nó bị rơi mất dăm ba chữ, gió ngoài khơi đã thổi tung chúng đi mất. Đó là lần đầu tiên - theo các báo hồi tháng Tư năm 1933 - cặp vợ chồng trẻ bước vào một quán ban đêm của khu Montparnasse. Họ đã hơi quá chén trong bữa tối chăng? Hoặc giả, hết sức đơn giản, họ muốn phá vỡ, dẫu chỉ trong một buổi tối, dòng chảy êm đềm cuộc đời họ? Một nhân chứng khẳng định đã trông thấy họ, quãng mười giờ tối, tại quán Café de la Marine, một sàn dancing, ở số 243, đại lộ Raspail; một người khác, ở quán cabaret tên là Isles, trên phố Vavin, đi cùng hai phụ nữ. Cảnh sát cho công bố ảnh họ nhằm kêu gọi những lời chứng rất có nguy cơ cần phải được thẩm tra kỹ vì có rất nhiều phụ nữ trẻ tóc vàng và chàng trai tóc nâu, như Urbain và Gisèle T. Trong vòng vài ngày, người ta tìm cách xác định hai cặp trai gái mà vợ chồng T. đã đưa về nhà họ, trên phố Fossés-Saint-Jacques, rồi cuộc điều tra được khép lại. Gisèle T., trước khi chết vì các vết thương, đã cất tiếng nói, nhưng những kỷ niệm của cô mơ hồ. Đúng, họ đã gặp, tại Montparnasse, hai phụ nữ, hai người xa lạ mà cô chẳng hề biết gì... Và những người đó đã lôi kéo họ tới Le Perreux, tại một sàn dancing nơi có hai người đàn ông đến với họ. Rồi họ tới một ngôi nhà, ở đó có một cái thang máy màu đỏ. Tối nay, tôi đi theo dấu chân họ trong một khu phố ủ dột được tòa tháp Montparnasse phủ tấm màn tang tóc. Trong ngày, nó che giấu mặt trời và phóng cái bóng của nó lên đại lộ Edgar-Quinet cùng các phố lân cận. Tôi để lại sau lưng quán Coupole mà người ta đang phá đi dưới một mặt tiền bằng bê tông. Tôi thấy thật khó mà tin rằng Montparnasse xưa kia từng biết đến một cuộc sống về đêm... Chính xác thì vào thời nào tôi từng sống ở cái khách sạn trên phố Delambre kia? Quãng năm 1965, khi tôi làm quen với Jacqueline và không lâu trước khi tôi lên đường đi Viên, bên Áo. Căn phòng bên cạnh phòng tôi được thuê bởi một người đàn ông trạc ba lăm tuổi, một người đàn ông tóc vàng mà tôi hay gặp trong hành lang, rốt cuộc tôi cũng bắt đầu quen biết ông ta. Tên ông ta? Cái gì đó giống như Devez hay Duvelz. Lúc nào ông ta cũng ăn vận hết sức chỉn chu và đính một huy chương trên hàng cúc áo. Nhiều lần, ông ta từng mời tôi uống một cốc, rất gần khách sạn, tại một quán bar, Rosebud. Tôi không dám từ chối, ông ta có vẻ rất thích nơi đó. - Ở đây tuyệt quá... Ông ta nói giọng nhiều âm răng, giọng của một người con nhà gia giáo, ông ta đã kể với tôi là ông ta từng ở hơn ba năm “vùng bưng biền”[4] và tại đó, ông ta đã kiếm được tấm huy chương kia. Nhưng cuộc chiến tranh Algérie khiến ông ta thấy lộn mửa. Ông ta đã cần rất nhiều thời gian thì mới hồi phục được từ đó. Ông ta sắp sửa kế tục bố ông ta làm chủ một doanh nghiệp dệt sợi lớn trên miền Bắc. Rất mau chóng, tôi nhận ra rằng ông ta không nói cho tôi sự thật: Về “doanh nghiệp dệt sợi” ấy, ông ta luôn luôn mơ hồ. Và ông ta tự nói ngược với chính mình, một hôm khẳng định với tôi là từng tốt nghiệp trường Saint-Maixent, ngay trước khi sang Algérie, rồi, tới hôm sau, rằng ông ta đã hoàn toàn học bên Anh. Đôi khi, cái giọng đầy âm răng của ông ta nhường chỗ cho giọng đớt của một kẻ bán hàng rong. Chắc cần phải có chuyện tôi bước đi, tối Chủ nhật ấy, trong khu Montparnasse, thì cái tay Duvelz - hay Devez - kia mới có thể đột nhiên hiện ra từ hư vô như thế. Một hôm, tôi còn nhớ, chúng tôi đã tình cờ gặp nhau trên phố Rennes, và ông ta đã mời tôi một bốc bia - như ông ta nói - tại một trong những quán cà phê thuộc giao lộ Saint-Placide buồn thảm. Quán cabaret tên Isles, trên phố Vavin, nơi hẳn người ta phải để ý thấy sự hiện diện của cặp vợ chồng, chiếm tầng hầm của tiệm Vikings. Bầu không khí đậm màu sắc Scandinavia cùng gỗ ốp tường sáng màu của Vikings trông thật tương phản với cái quán rượu nhọ nhem ấy. Chỉ cần đi xuống hết cầu thang: Từ những ly cocktail và các món nhẹ Na-uy ở tầng trệt, người ta sục thẳng vào giữa những điệu nhảy Martinique. Có phải vợ chồng T. đã gặp hai người phụ nữ ở đó? Tôi có cảm giác phải là tại Café de la Marine, đại lộ Raspail, về phía Denfert-Rochereau. Tôi còn nhớ căn hộ nơi Duvelz từng dẫn chúng tôi, Jacqueline và tôi, đến, cũng nằm ở đầu đại lộ Raspail đó. Cả lần ấy nữa, tôi cũng không dám từ chối lời mời của ông ta. Trong vòng gần một tuần, ông ta đã nằn nì cả hai chúng tôi một tối thứ Bảy nào đó cần phải tới nhà một người bạn gái của ông ta, ông ta rất muốn giới thiệu chúng tôi với người ấy. Bà mở cửa cho chúng tôi và, trong bóng tối lờ mờ của tiền phòng, tôi không nhìn rõ khuôn mặt bà. Phòng khách lớn, nơi chúng tôi bước vào, khiến tôi choáng váng vì vẻ xa xỉ của nó, chẳng hề tương hợp với căn phòng nhỏ của Duvelz, trên phố Delambre. Ông ta ở đó. Ông ta giới thiệu chúng tôi với nhau. Tôi đã quên mất tên bà: Đó là một phụ nữ tóc nâu đường nét hài hòa, một bên mặt, ở đoạn gò má, có vết sẹo lớn. Chúng tôi, Jacqueline và tôi, ngồi xuống trường kỷ. Duvelz và người phụ nữ, trong phô tơi, đối diện với chúng tôi. Chắc bà khoảng ba lăm, cùng độ tuổi với Duvelz. Bà tò mò nhìn chúng tôi. - Em có thấy họ thật duyên dáng không, cả hai?, Duvelz hỏi, bằng giọng nói nhiều âm răng của mình. Bà chăm chăm nhìn chúng tôi. Bà hỏi chúng tôi: - Hai người có muốn uống gì không? Giữa chúng tôi xuất hiện một quãng ngại ngần. Bà rót rượu porto mời chúng tôi. Duvelz uống một ngụm lớn. - Thoải mái đi, ông ta nói. Đây là một người bạn lâu năm... Bà ném về phía chúng tôi một nụ cười rụt rè. - Thậm chí chúng tôi từng đính hôn với nhau. Nhưng cô ấy đã phải lấy người khác... Bà không hề nhíu mày. Bà vẫn ngồi rất thẳng ở phô tơi, tay cầm ly rượu. - Chồng cô ấy hay đi vắng... Chắc chúng ta có thể tận dụng điều đó để đi chơi chung cả bốn người... Các bạn nghĩ sao? - Đi chơi đâu? Jacqueline hỏi. - Nơi nào các bạn muốn... Thậm chí chúng tôi còn không có nhu cầu ra ngoài. Ông ta nhún vai. - Ở đây thật hay... Phải không? Bà vẫn ngồi rất thẳng ở phô tơi. Bà châm một điếu thuốc lá, có lẽ để che giấu sự căng thẳng. Duvelz đã lại làm thêm một ngụm porto nữa. Ông ta đặt ly của mình lên cái bàn thấp, ông ta đứng dậy và bước về phía bà. - Cô ấy thật xinh đẹp, phải không? Ông ta đưa ngón tay trỏ lướt trên vết sẹo ở má. Rồi ông ta cởi cúc cái áo của bà và vuốt ve hai vú. Bà không hề động cựa. - Hồi trước chúng tôi đã gặp một tai nạn ô tô rất nghiêm trọng, ông ta nói. Bà hất tay ông ta ra bằng một động tác dữ tợn. Bà lại mỉm cười với chúng tôi. - Chắc hai người đói rồi... Giọng bà trầm và thoáng có âm sắc nước ngoài, dường như vậy. - Anh có thể giúp em mang bữa tối vào đây không? bà hỏi ông ta, giọng khá xẵng. - Tất nhiên rồi. Họ đứng dậy, cả hai. - Toàn đồ lạnh thôi, bà nói. Hai người thấy có được không? - Rất được, Jacqueline đáp. Ông ta đã choàng tay quanh vai bà và kéo bà ra khỏi phòng khách, ông ta thò đầu qua khe cửa mở. - Các bạn có thích sâm banh không? Ông ta đã đánh mất cái giọng nhiều âm răng. - Rất thích, Jacqueline đáp. - Có ngay đây. Chỉ còn lại chúng tôi trong phòng khách, vài phút, và tôi dồn hết nỗ lực ký ức để tập hợp lại càng nhiều chi tiết càng tốt. Những cửa sổ bệ thấp nhìn xuống đại lộ mở hé vì trời nóng. Đó là số 19 đại lộ Raspail. Năm 1965. Một cây đàn piano loại có đuôi đặt tận về cuối phòng. Trường kỷ và hai phô tơi đều làm bằng cùng một thứ da màu đen. Cái bàn thấp, bằng kim loại dát bạc. Một cái tên như là Devez hay Duvelz. Vết sẹo trên má. Cái áo bị cởi cúc. Một làn ánh sáng rất rực của đèn chiếu, hay nói đúng hơn là của đèn pin. Nó chỉ rọi sáng một mảnh nhỏ của décor, một giây phút đơn lẻ, mà để những gì còn lại trong bóng tối, bởi chúng ta sẽ chẳng bao giờ biết được đoạn sau các sự kiện và nói cho đúng thì hai người kia là ai. Chúng tôi lẻn ra khỏi phòng khách và, thậm chí còn không khép cửa lại, chúng tôi đi xuống cầu thang. Lúc nãy, chúng tôi đã dùng thang máy để lên, nhưng nó không màu đỏ, giống cái thang máy mà Gisèle T. từng nhắc đến. Mời các bạn đón đọc Hoa Của Phế Tích của tác giả Patrick Modiano & Hoàng Lam Vân (dịch).
Những Vị Khách Của Tiệm Bá Nghệ Tada
“Những vị khách của tiệm bá nghệ Tada” miêu tả cuộc sống của một số khách hàng của tiệm bá nghệ Tada đã xuất hiện ở tập 1 cũng như cuộc sống, mối quan hệ của Tada và Gyoten một năm sau khi Tada để Gyoten tá túc ở nhà mình. Gyoten đã ăn nhờ ở đậu tiệm bá nghệ Tada đến năm thứ hai, vậy mà mối quan hệ giữa Tada và Gyoten vẫn chỉ dừng ở mức đồng nghiệp chẳng phải, bạn bè hãy còn xa. Chẳng những thế, hai người còn như nước với lửa, Tada thì cặm cụi với từng đơn hàng nhỏ, trong khi Gyoten thì bơ đời, làm biếng, và chỉ thảng hoặc mới tỏ ra được việc. Chỉ là, qua những lần cùng nhau tiếp xúc với khách hàng đã khiến họ lần lần hiểu rõ nỗi đau của nhau. Dần dần, mỗi người lại trở thành niềm an ủi thầm lặng của người kia, là chỗ dựa để có thể tìm lại niềm tin và lòng dũng cảm đối mặt với quá khứ… *** Tada Keisuke, một nhân viên bán ô tô quyết định bỏ nghề, mở tiệm bá nghệ. Gyoten Haruhiko, một nhà nghiên cứu bệnh lý bỗng nhiên bỏ việc, lang bạt nay đây mai đó. Hai người bạn cấp ba chung lớp chưa một lần trò chuyện và chẳng khác nào hai đường thẳng song song ấy chỉ vì một lần trùng phùng nơi trạm xe buýt mà bước vào cuộc sống của nhau. Để rồi, ngày ngày họ rong ruổi khắp những con phố ở Mahoro trên chiếc xe tải nhẹ, làm đủ loại việc vặt mà khách yêu cầu; dắt chó đi dạo, thăm nom người ốm, quét dọn vườn tược, sửa chữa chuồng chó… Hai con người với hai tâm hồn cô độc chưa bao giờ cố để hiểu nhau, càng chẳng đòi hỏi gì ở đối phương, chỉ lặng lẽ sống như vậy qua ngày. Bởi họ biết rằng, một ngày nào đấy, hạnh phúc nhất định sẽ lại tìm đến mình dưới một hình hài nào đó thật khác. *** Miura Shion Cô sinh năm 1976 tại Tokyo, là con gái một học giả cổ điển nổi tiếng của Nhật Bản, vì vậy tình yêu với sách của tác giả được nảy sinh từ khi còn rất trẻ . Khi còn là sinh viên năm cuối khoa Văn Thư tại Đại học Waseda, cô bắt đầu tìm kiếm cho mình một vị trí biên tập, một công ty văn học đã nhận ra được tài năng viết lách của cô và thuê cô để bắt đầu viết một cột nhận xét sách trực tuyến ngay cả trước khi cô tốt nghiệp. Cô đã giành được nhiều giải thưởng lớn như:  Giải thưởng Naoki lần thứ 135.   Giải thưởng Oda Sakunosuke và Giải thưởng Nhà sách Nhật Bản năm 2012.   Một số các phẩm của cô đã được chuyển thể cho phim ngắn hoặc phim truyền hình. Sách của cô đã được dịch sang tiếng Trung, tiếng Hàn, tiếng Việt, tiếng Anh, tiếng Đức và tiếng Ý. Tác phẩm: Bước Chạy Thanh Xuân Người Đan Chữ Xếp Thuyền Tiệm Bá Nghệ Tada Trước Ga Mahoro Những Vị Khách Của Tiệm Bá Nghệ Tada Khúc Ngẫu Hứng Trước Ga Mahoro ... *** Viên đá lấp lánh Trời mưa rả rích. Tada Keisuke ngưng tay lau cửa sổ văn phòng đồng thời cũng dừng luôn bài “Tiếng mưa điệu Chopin”* đang ngâm nga trong miệng. Hắn ngó xuống con phố trước mặt qua bậu cửa, cẩn thận không để lớp dầu trên da trán lưu dấu lại cửa kính. Con đường ẩm ướt không người qua lại in bóng khoảng trời nhiều mây loáng lên một màu xám ngoét. Tada mơ màng trong những tưởng tượng trẻ con hết sức, người ta phát lệnh giới nghiêm rồi à, hay một căn bệnh lạ nào đó đang hoành hành và loài người sắp tuyệt diệt đến nơi? Nhưng mà, nếu thế thật thì cũng đỡ, chẳng phải lo làm lụng chi nữa. Ba ngày nay tiệm bá nghệ Tada đang nhàn rỗi quá thể. Nhưng chẳng phải do bọn hắn làm biếng đâu. Tại cái điện thoại của tiệm nhất quyết muốn ngủ đông trái mùa đấy. Mưa dầm mưa dề khiến số đơn hàng của tiệm cứ tuột dốc không phanh. Trong cái bầu không khí nhớp nháp này, chẳng mấy ai lại muốn thuê người lạ đến nhà mà dọn dẹp cả. Tỉa tót vườn tược ấy à, cũng không đâu. Chỉ khi thấy trời trong xanh người ta mới có hứng làm sạch cho xung quanh thôi. Mà sau đợt hoa anh đào rụng thì lại chẳng mấy bận được thấy trời xanh ló dạng. Cứ cái đà này lại chẳng mấy mà vào mùa mưa mất thôi. Tada đành ngâm nga tiếp điệu nhạc hòng giấu đi tiếng thở dài, đồng thời tay cũng làm việc trở lại. Mỗi lần dùng miếng giẻ khô lau đi lớp bọt xà phòng nhỏ li ti là khung cửa sổ lại càng gần hơn với màu trời. “Đói thấy mồ!” Nghe tiếng người, Tada quay lại. Gyoten Haruhiko vừa dựng người dậy khỏi ghế xô pha. Cậu ta cũng ở nhà cơ đấy, hắn nghĩ. Con người này vừa mới đánh một giấc ngủ trưa ngon lành, và mặc cho Tada loay hoay làm việc. Gyoten thả chân xuống sàn, tóc rối bù một búi to tướng. “Tôi vừa mơ cái này kỳ lắm nha! Thế nào mà một ông sư lại đứng đọc kinh ở bùng binh cửa Nam chứ. Tôi thì vừa ngồi xổm vừa liên tục thảy mấy viên đá phát sáng vào cái bát ông sư ấy cầm. Kiểu muốn bảo “Thôi đừng tụng kinh nữa’ mà ông ta nhất quyết không chịu thôi.” Rõ vớ vẩn! Bụng thì nghĩ vậy nhưng Tada vẫn im lặng quay ra cửa sổ. Tất nhiên không bỏ sót hình ảnh cậu ta nghiêng đầu khó hiểu. “Đã cuối năm rồi sao ta?” “Không phải cuối năm cũng lau cửa sổ! Bẩn thì phải lau!” “Ầy…” Nói vậy chứ Gyoten nào có định động chân động tay chi. Mà Tada cần mẫn lau cửa sổ thế này cũng chỉ là để kiểm định lại đống đồ dọn vệ sinh, chứ chẳng phải hắn mắc bệnh ưa sạch không thể sống chung dẫu với một vết bẩn nhỏ hay gì. Lâu lắm rồi mai tiệm bá nghệ mới lại có đơn hàng. Nghĩ vậy thôi là đã khiến Tada không thể ngồi yên một chỗ rồi. Ấy thế mà cái con người kia lại chẳng mảy may nghĩ rằng phải chung tay vào giúp sức cho chủ nhà kiêm ông chủ của mình đâu. “Này, tôi đói bụng lắm rồi!” “Có bánh bao người ta cho đấy thôi!” Tiếng bước chân bước ngang qua phòng, rồi tiếng nồi niêu hay ấm đun nước chi đó loảng xoảng trong bếp. “Tada… Nấm mốc làm ổ trên bánh bao rồi đây này…” Ai biết! Mốc cũng xơi đi! Bụng thì quở vậy chứ sau đó thấy im ắng quá hắn lại đâm lo. Một tay vẫn cầm miếng giẻ vừa lau cửa sổ, Tada chui qua tấm rèm ngăn giữa khu tiếp khách và khu sinh hoạt. Gyoten đang đứng quay mặt vào bồn rửa. Tada đi vòng sang nhòm vào thì đúng lúc cậu ta đang giơ cái bánh ra trước mặt và định ngoạm lấy phần đáy. Còn mặt trên của bánh thì đã khoác một lớp nấm mốc xanh như bột trà. “Thôi thôi thôi!” Tada cuống cuồng tóm lấy cánh tay Gyoten. “Mốc thế này rồi còn định ăn là sao hả cái thằng này. Đói thì đi mua đồ mà ăn.” “Thôi… Phiền chết được!” Gyoten đặt cái bánh bao xuống bồn rửa, quay sang lục lọi kệ để đồ. Tada tranh thủ ném luôn cái bánh vào thùng rác. “Chẳng có cóc khô gì thế này,” Gyoten lầm bầm. Kể cũng lạ. Bình thường cậu ta có mấy khi tỏ ra hào hứng với việc ăn đâu. Lượng calo cậu ta hấp thụ từ rượu có khi còn nhiều hơn thức ăn có hình dạng ấy chứ. Chuyện gì đang xảy ra thế này. Thời tiết năm nay cũng lạ mà cái dạ dày của Gyoten cũng bất bình thường. Mưa nhiều lại hóa ham ăn, cậu là ốc sên đấy à? Chẳng buồn nhận ra ánh nhìn đầy ám muội của Tada, Gyoten cực chẳng đã rót whisky vào cốc rồi quay về xô pha. Miệng ư ử bài “Tiếng mưa điệu Chopin” rất điêu luyện. À vâng, xin lỗi vì đã bắt cậu nghe tôi hát mà như đọc kinh ạ! Tada còn đương trong cơn chán nản thì cửa văn phòng mở tung. “Khỏe không, mấy anh bá nghệ?” Một giọng nói tươi rói quen thuộc vang lên. Không ngoài dự liệu, hắn vừa vén rèm, thò mặt ra buồng tiếp khách thì y như rằng đã thấy Lulu và Hicy ở đó. Hicy còn đang ôm chihuahua trên tay. Con chihuahua được khoác cho một chiếc áo mưa dành cho chó màu hồng chói. Lulu cũng vận một chiếc áo mưa cùng màu cộng thêm đôi giày cao gót. “Mưa dầm mưa dề thấy ngán quá à. Chẳng làm ăn chi được!” Lulu chào hỏi qua loa rồi cởi ngay áo mưa sà xuống ngồi cạnh Gyoten. Từ dưới lớp áo mưa lộ ra chiếc váy màu tím bóng lộn khiến Tada có cảm giác như vừa gặp con ác mộng cuồng loạn sắc màu. Hicy thả con chihuahua xuống, cởi áo mưa cho nó rồi mới ngồi vào ghế xô pha đối diện Gyoten. Con chihuahua lắc mình cho không khí tràn khắp bộ lông rồi chạy đến chỗ chân Tada, ngoáy tít cái đuôi thay cho lời chào. Tada cúi xuống xoa đầu nó. “Quà nè!” Nói đoạn, Hicy đặt một hộp giấy lên chiếc bàn tròn. Gyoten từ nãy chẳng đếm xỉa chi tới những vị khách không mời, chỉ mải đắm chìm với ly rượu cuối cùng cũng chịu phản ứng. “Đồ ăn hả?” “Cái quán mới mở trước ga ngày nào khách cũng xếp hàng dài ấy. Bánh kem phô mai của hàng đó đó.” “Các cô cất công xếp hàng đấy à?” Tada chêm vào, Hicy nhún nhẹ vai. “Chúng tôi tỷ phú thời gian mà. Tranh thủ lúc đợi người ta tía tót bộ lông cho con Hana thôi.” Nghe Hicy nói hắn mới để ý, dưới tai con chihuahua được cài một bông hoa nhỏ xinh màu hồng. Trang phục cho chó, rồi thì tiệm làm đẹp cho chó… Ừm… cái kiểu chiều chuộng này thì hắn xin hàng rồi. Trong lúc Tada ngắm con chihuahua lông lá bóng mượt thì Gyoten mở hộp bánh kem phô mai. “To dữ!” Gyoten hớn hở nói, sau đó rời khỏi ghế xô pha nhảy chân sáo vào bếp. Đầu gối cậu ta còn huých cả vào vai Tada đang lom khom. “Ái ui…!” Mời các bạn đón đọc Những Vị Khách Của Tiệm Bá Nghệ Tada của tác giả Shion Miura & Nhật An (dịch).
Lời Hứa Về Một Cây Bút Chì
Hành trình từ 25 đô-la đến 250 trường học dành cho trẻ em trên toàn cầu và câu chuyện phi thường của một CEO nuôi chí thay đổi thế giới bằng giáo dục. Adam Braun bắt đầu làm việc hè tại các quỹ đầu tư khi anh mới mười sáu tuổi nhằm mục tiêu có được một sự nghiệp thành công ở phố Wall. Nhưng trong một chuyến du lịch, anh đã gặp một cậu bé ăn xin trên đường phố của Ấn Độ. Anh hỏi cậu muốn điều gì nhất trên đời này, thì nhận được câu trả lời đơn giản: "Một cây bút chì." Chính mong ước nhỏ nhoi này đã thôi thúc Adam làm vô số điều đáng kinh ngạc trước khi thành lập ra tổ chức PoP (Bút chì hứa hẹn), một tổ chức mà Braun bắt đầu chỉ vẻn vẹn với 25 đô-la và sau đó xây dựng được hơn 250 trường học trên khắp thế giới.   Lời hứa về một cây bút chì tái hiện lại cuộc hành trình của Adam Braun. Mỗi chương giải thích một bước rõ ràng mà mỗi người có thể làm để biến những tham vọng lớn nhất của họ thành hiện thực. Nếu bạn cảm thấy náo nức và sẵn sàng cho quá trình chuyển đổi, nếu bạn đang tìm kiếm định hướng và mục tiêu cuộc đời, cuốn sách này là dành cho bạn. Được dẫn dắt bởi những câu chuyện và các chia sẻ đầy cảm hứng, cuốn sách sẽ cung cấp cho bạn những công cụ để tạo nên một câu chuyện đáng kể trong cuộc sống của chính bạn.   “Adam chính là đại diện cho cơn trở mình mà thế giới của chúng ta cần – cơn trở mình mà ở đó những bộ óc sáng láng nhất của thế hệ chúng ta tập trung giải quyết những vấn đề nhức nhối nhất của thời đại. Càng có nhiều người biết đến câu chuyện của anh, cơn trở mình càng diễn ra mau lẹ và dứt khoát.” - Ben Rattray, nhà sáng lập kiêm CEO của Change.org  “Một câu chuyện truyền cảm hứng với những bài học thiết yếu cho hành trình kiến tạo một cuộc sống đầy ắp ý nghĩa, đam mê và mục đích.” - Deepak Chopra *** Cuốn sách kể hành trình theo đuổi mục đích sống cao cả của chàng trai trẻ người Mỹ - Adam Braun, từ chỗ chỉ sở hữu 25 USD tới xây 250 trường học khắp thế giới. Lời hứa về một cây bút chì (The Promise of a Pencil) là tác phẩm của Adam Braun - một doanh nhân, nhà hoạt động từ thiện và tác giả 32 tuổi người Mỹ. Anh là người sáng lập quỹ từ thiện Pencils of Promise - tổ chức phi lợi nhuận xây dựng trường học và mang đến các tiện ích giáo dục cho trẻ em ở những nước đang phát triển. Cuốn sách kể về hành trình giác ngộ và theo đuổi mục đích sống ý nghĩa của Adam Braun. Anh biết kiếm tiền từ năm 12 tuổi, có tư duy kinh doanh tài chính nổi trội, 16 tuổi đã thực tập tại một quỹ đầu tư, tốt nghiệp trường đại học danh giá, làm việc trong một công ty danh tiếng với nhiều cơ hội thăng tiến... Tuy nhiên suốt quá trình trưởng thành, đặc biệt từ năm 22 đến 25 tuổi, Adam Braun luôn trằn trọc vì không tìm được ý nghĩa cuộc sống. Adam đã đi du lịch bụi qua nhiều quốc gia kém phát triển trên thế giới và bị ấn tượng mạnh với một cậu bé ăn xin bên sông Hằng. Mơ ước lớn nhất của cậu bé là có được một chiếc bút chì để tập viết. Adam nhận ra tầm quan trọng của giáo dục nên khi về Mỹ, anh quyết tâm từ bỏ con đường thăng tiến đang thuận lợi, bắt đầu hành trình mới - lập quỹ thiện nguyện Pencils of Promise. Quỹ ban đầu chỉ có 25 USD. Đến nay, cùng cộng sự, Adam đã xây được hơn 250 trường học, cung cấp hàng chục triệu giờ học cho trẻ em nghèo trên toàn thế giới. Pencils of Promise đã nhận được giải thưởng của nhiều tổ chức uy tín trên thế giới như Liên hiệp Quốc, Diễn đàn Kinh tế thế giới, Quỹ sáng kiến Toàn cầu Clinton... Cuốn sách là hành trình đầy chông gai nhưng cũng đầy lôi cuốn của chàng trai trẻ. Từ câu chuyện của chính mình, Adam truyền kinh nghiệm và cảm hứng cho mọi người, đặc biệt là những người trẻ tuổi. Trong cuốn sách, Adam Braun cũng viết lại những kiến thức, kinh nghiệm xương máu trong việc gầy dựng và phát triển một tổ chức thiện nguyện. Cuốn sách từng đứng thứ hai trong danh sách bán chạy nhất của New York Times sau khi phát hành tháng 3/2014. Sách cũng đứng vị trí hàng đầu trên Amazon chỉ sau năm ngày phát hành và được LinkedIn liệt kê là một trong "Năm cuốn sách mỗi người độ tuổi 20 cần đọc". Tại Việt Nam, Lời hứa về một cây bút chì được đề cử Giải thưởng sách hay 2016 ở hạng mục sách kinh doanh. Di Ca *** Lời Hứa Về Một Cây Bút Chì là cuốn hồi ký của Adam Braun. Anh là nhà sáng lập của tổ chức PoP (Pencils of Promise). Tổ chức của anh bắt đầu cuộc hành trình với 25 đô la nhưng đến nay đã xây dựng được 250 trường học trên khắp thế giới. Nhờ vào những đóng góp của mình cho xã hội, Adam đã vinh dự được lọt vào danh sách “30 Under 30” của tạp chí Forbes và “50 Người Sẽ Thay Đổi Thế Giới” của tạp chí Wired. Adam Braun là chàng trai trẻ người Mỹ gốc Do Thái, gia đình anh nuôi dạy con cái rất nghiêm khắc và luôn coi trọng giáo dục. Những ngày đầu, Adam chỉ có ước mơ như bao người là có một công việc, một căn hộ và đó chính là cuộc sống lý tưởng. Hạnh phúc với anh lúc đó là gì? Là một tủ quần áo chật cứng những bộ comple công sở ấn tượng, là tấm danh thiếp in tên của một công ty danh giá khiến anh đi đâu cũng được trọng vọng. Lời Hứa Về Một Cây Bút Chì vừa là một cuốn sách phát triển bản thân, nơi Adam Braun chia sẻ những bài học của anh về tìm kiếm, phát triển và thổi bùng đam mê với công việc; đó vừa là cuốn hồi ký của Braun kể lại hành trình anh và tổ chức Pencils of Promise đi khắp nơi để gom góp những sự giúp đỡ và xây dựng gần 300 trường học trên khắp thế giới. Trong suốt cuộc đời mình, chàng trai trẻ người Mỹ luôn hết mình với khao khát giúp thế giới tốt đẹp hơn nhờ giáo dục. Một câu hỏi mà anh thường dành cho những đứa trẻ mình gặp gỡ trong cuộc hành trình của mình là: “Nếu em có thể có bất cứ thứ gì trên đời, em muốn có gì nhất?” Và, cuộc đời Adam rẽ sang một hướng khác, khi anh nhận được câu trả lời của một cậu bé Ấn Độ: “Một cây bút chì ạ” Kể từ ngày hôm ấy, Adam thắp lên trong mình ước mơ xây dựng trường học cho trẻ em nghèo trên toàn cầu và thành lập lên tổ chức PoP để hiện thực hóa ước mơ ấy. Mong muốn nhỏ nhoi của cậu bé Ấn Độ đã thôi thúc anh phải trao đi nhiều hơn, trao cho các em nhỏ trên khắp thế giới cơ hội được học tập, được tiếp thu tri thức và được sáng tạo hết khả năng của mình. Lời Hứa Về Một Cây Bút Chì vừa kể lại câu chuyện của Adam và PoP, vừa lồng vào đó những bài học – mà Adam gọi là những lời tâm niệm anh đúc rút được trong suốt cuộc hành trình của mình. Vừa là một cuốn sách phát triển bản thân, vừa là câu chuyện có thực từ những nhân vật bằng xương bằng thịt, sách sẽ cho chúng ta trải nghiệm qua nhiều cung bậc cảm xúc, để cùng vui với tác giả khi họ thành công, để được tiếp thêm sức mạnh khi họ gặp khó khăn mà không hề gục ngã. Bạn sẽ thu được tiếp sức với rất nhiều thông điệp tích cực từ cuốn sách này. Đoạn trích hay từ cuốn Lời Hứa Về Một Cây Bút Chì • “Khi xuất thân từ dòng dõi những người sống sót sau nạn diệt chủng người Do Thái dưới thời Hitle, ta sẽ lớn lên với ý thức rằng gia đình mình từng bị tước đi tất cả. Những gì thôi thúc ta tiếp tục sống và rồi thay đổi gần như hoàn toàn cuộc sống của ta là sức mạnh của ý chí, sự nâng đỡ của những người khác và niềm tin vào giáo dục.” • “Tôi tin rằng bất kể bạn xuất phát từ đâu trong đời, nó cũng không ảnh hưởng đến điểm đích mà bạn sẽ chạm tới. Và rằng, chẳng có công cụ nào có thể mở khóa khả năng một người có thể thay đổi vị trí của chính mình trong đời dễ dàng hơn là việc cho họ tiếp cận một nền giáo dục có chất lượng” • “Bất kể bạn bao nhiêu tuổi và có địa vị như thế nào, nếu bạn không hài lòng với con đường bạn đang đi, đó là lúc bạn nên viết lại tương lai của mình. *** Giới thiệu Vào một chiều thu nắng đẹp ngay trước sinh nhật lần thứ 25 của mình, tôi ghé vào một ngân hàng lớn ở thị trấn. Lúc này, tôi đang sở hữu tất cả những gì mà tôi từng cho là sẽ khiến mình hạnh phúc – công việc, căn hộ, cuộc sống mơ ước. Tủ quần áo của tôi chật cứng những bộ com-lê công sở ấn tượng, tấm danh thiếp in tên của một công ty danh giá, khiến tôi đi đâu cũng được trọng vọng. Trông tôi giống một thanh niên đang trên đúng con đường cần đi, tạt qua ngân hàng để ký gửi khoản tiền lương hàng tháng của mình. Nhưng từ sâu thẳm lòng mình, tôi không còn ham mê cuộc sống mà tôi đã tạo ra. Mục đích duy nhất mà tôi phụng sự lúc này chỉ là tư lợi. Niềm hạnh phúc của tôi đã phai nhạt dần theo thời gian dù hiếm khi tôi để lộ điều đó ra ngoài. Luôn có giọng nói văng vẳng bên tai khiến tôi trằn trọc mỗi đêm, nhủ tôi rằng nếu không tìm được ý nghĩa đích thực cho cuộc sống, tiền bạc sẽ chẳng còn giá trị gì. Nó nói với tôi, tôi sẽ tìm được sự viên mãn hơn nhiều nếu đong đếm cuộc sống của mình bằng mục đích sống thay vì tiền bạc. Và rằng tôi không nên chậm trễ nữa, rằng đây là “thời cơ” để bắt đầu hành trình theo đuổi những giấc mơ lớn của cuộc đời. Thật lạ, đôi khi ta cảm thấy một khao khát thậm chí còn lớn hơn con người thực của mình. Đó là cảm giác của tôi lúc này. Tôi muốn trở thành một phần của thứ gì đó lớn lao, vượt khỏi tầm với cũng như những tài sản mà đôi bàn tay mình có thể nắm giữ. Dù sợ rời bước khỏi con đường an toàn đến đâu đi nữa, tôi vẫn cần biết chuyện gì sẽ xảy ra nếu tôi dấn thân vào một địa hạt mới, nơi ẩn chứa khát vọng và những cơ hội bất tận. Điều đáng sợ nhất là tôi không phải là một doanh nhân thành đạt chuyên gây dựng rồi bán các công ty của mình. Tôi cũng không có một sự nghiệp lâu dài đủ để chứng minh rằng tôi thành công. Tôi cũng không có hàng triệu đô-la để yên tâm về tài chính. Tôi chỉ là một gã trai bình thường với 25 đô-la giắt túi và muốn chứng minh rằng ai cũng có khả năng làm thay đổi thế giới bất kể họ bao nhiêu tuổi, có địa vị ra sao hay đến từ nơi nào. Vì thế tôi đã sử dụng khoản tiền ít ỏi đó của mình để mở một tài khoản mới với hy vọng một ngày nào đó tôi có thể xây dựng được một ngôi trường. Tất cả những gì diễn ra sau đó đều là thành quả của bước đi đầu tiên này. Niềm tin vô hình đó đã lan ra, mở rộng sang các nền văn hóa và lục địa khác. Kể từ đó tôi đắm mình vào lĩnh vực giáo dục toàn cầu. Tôi tin rằng bất kể bạn xuất phát từ đâu trong đời, nó cũng không ảnh hưởng đến điểm đích mà bạn sẽ chạm tới. Và rằng, chẳng có công cụ nào có thể mở khóa khả năng một người có thể thay đổi vị trí của chính mình trong đời dễ dàng hơn là việc cho họ tiếp cận một nền giáo dục có chất lượng. May mắn là chúng ta có khả năng mang lại cho mọi trẻ em trên thế giới một nền giáo dục chất lượng ngay bây giờ. Chúng ta không tìm kiếm một loại vắc xin diệu kỳ hay dò tìm một nguồn tài nguyên bí ẩn nằm sâu dưới lòng đất mà nhiều khả năng là không tồn tại. Ngay lúc này, chúng ta đã có tất cả các công cụ cần thiết trong tay. Thế nhưng, vẫn có đến 57 triệu trẻ em không được đến trường và hàng triệu trẻ khác đang ngồi trong lớp học mỗi ngày, mà không thể đọc thông viết thạo. Giáo dục là một vấn đề không đơn giản, đòi hỏi một loạt các giải pháp phức hợp. Chẳng có giải pháp đơn giản nào cho vấn đề giáo dục trẻ em trên thế giới, song cuộc khủng hoảng giáo dục toàn cầu vẫn luôn là vấn đề có khả năng giải quyết nhất và là vấn đề nhân quyền quan trọng trong thời đại chúng ta. Nhờ biết rằng cuộc khủng hoảng này có thể giải quyết, tôi đã có được niềm hy vọng và mục đích sống. Tuy nhiên, không một cá nhân nào có thể tự mình giải quyết các vấn đề toàn cầu. Thay vào đó, chúng ta cần đến một nỗ lực tập thể, và mỗi người đều giữ một vai trò không thể thiếu trong nỗ lực ấy. Câu chuyện này sẽ cho bạn biết những gì sẽ xảy ra khi bạn thừa nhận rằng mình có thể trở thành một người hơn bản thân mình hiện tại, và rằng bạn không cần phải có những nguồn lực lớn lao mới tạo ra được sự khác biệt trên thế giới. Đó là câu chuyện về những gì có thể mở ra khi cảm hứng đến và bạn nhận ra rằng phần thưởng có được nhờ sống có mục đích vô cùng phong phú và lâu bền. Đó là câu chuyện về cuộc đời tôi (dù tôi đã thay đổi tên của một số nhân vật do yếu tố riêng tư), nhưng đây cũng có thể là câu chuyện của bất kỳ ai. Mỗi chương trong 30 chương của cuốn sách này đều được đặt tên bằng một câu chú. Những câu chú này là những tấm biển dẫn lối chỉ đường cho tôi khi phải đối mặt với những quyết định lớn nhỏ trong cuộc đời. Chúng đã trở thành những chân lý thiết yếu đối với tôi. Tôi viết chúng ra đây với hy vọng thúc đẩy, sẻ chia chúng với mọi người và chúng sẽ được áp dụng theo những cách thức giúp mỗi người vững bước trên hành trình của riêng mình. Mỗi câu chuyện có một ý nghĩa riêng nhưng khi được đặt cạnh nhau, chúng tạo nên một lộ trình mà tôi mong có thể giúp bạn biến ước mơ của mình thành hiện thực. Nếu một trong những câu chuyện ở đây nhen lên thứ gì đó trong bạn, hãy lắng nghe cảm giác thôi thúc mà lý trí thì khuyên nhủ phớt lờ còn con tim lại thôi thúc dấn bước. Sự khác biệt lớn nhất giữa người sống với những ước mơ của mình và những người ôm mộng là quyết định biến tia lửa động lực đầu tiên thành hành động ngay lập tức. Hãy bước bước nhỏ đầu tiên, rồi đi theo dấu chân mà bạn muốn để lại phía sau. Ai cũng có một động lực thực hiện một cuộc biến chuyển to lớn thôi thúc trong lồng ngực. Tôi hy vọng cuốn sách này sẽ giúp bạn tìm thấy động lực ấy của mình. Mời các bạn đón đọc Lời Hứa Về Một Cây Bút Chì của tác giả Adam Braun & Hải Đăng (dịch).