Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Oskeola Thủ Lĩnh Da Đỏ

TIỂU THUYẾT Số trang: 385 Khổ sách: 13x19cm NGUYỄN ĐỨC QUYẾT dịch NHÀ XUẤT BẢN TỔNG HỢP KIÊN GIANG - 1989 NGUYÊN BẢN Tiếng Anh Thomas Mine Reid “Oskeola, the Leader of Seminols” LỜI GIỚI THIỆU Tiểu thuyết Oskeola đến tay các bạn khi nó vừa tròn 130 tuổi. Hơn một thế kỷ đã trôi qua, nhưng dư âm cuộc chiến hào hùng và bi thiết của một dân tộc thượng võ, yêu tự do chống tại xâm lăng da trắng bạo tàn và xảo quyệt vẫn dội lên trong trang sách của Thomas Reid. Thomas Mine Reid sinh năm 1818 tại Irland xác xơ, nghẽo đói. Là một người rất giàu nhân ái, Reidcăm thù tận xương tủy bạo lựcvà độc tài trên đất nưóc mình, từ bỏ sắc áo thầy tu tin lành mà cha ông đã định trước. Hai mươi hai tuổi. Reid vượt biển sang Mỹ Châu, bắt đầu cuộc sống mới đầy phiêu lưu sóng gió. Trước khi trở thành cây bút bênh vực các cựu chủ nhân bất hạnh trên Tân lục địa, tác giả của những “Kỵ sĩ không đầu'’. “Thiếu nữ Cvarteron “Thủ lĩnh trắng”. “Chiếc vòng vàng”. “Trườn trên vách đá... lừng danh thế giới. Reid đã trải khá nhiều nghề.. Dạy học, buôn bán, làm nhà báo, diễn viên... Đặc biệt, chính Reid một thời cũng đã từng là lính, trong một trận đánh ngập máu với người da đỏ ông bị trọng thương, vùi giữa đống xác người và đã bị báo tử trên báo chí. May thay. “Con người một đời hai lần chết” (theo cách gọi của chính Reid.) ấy đã không sớm giã biệt,cuộc đời, nếu không hậu thế hẳn đã phải chịu thiệt thòi - thiếu những tác phẩm đầy hào khí da đỏ của ông. Trước Reid đã không ít người viết về chiến tranh da đỏ. Nhưng những cuốn sách sặc mùi thực dân của họ. Thôngqua các captivity (tù binh của người da đỏ) và Indian hater (kẻ thù địch, bài xích người da đỏ)đã bóp méo lịch sử, trơ tráo bôi đen danh dự, đạo lý, phẩm cách của các dân tộc da đỏ. Thomas Reid đã không làm như vậy. Tác phẩm của ông thấm đượm thiên cảm nồng nhiệt và kính phục chân thành đối với một dân tộc cao thượng, quả cảm, khẳng khái, giàu tình yêu, nhưng lịch sửbất công đã đang tâm áp đặt số phận hẩm hiu. “Oskeola” là một tiểu thuyết sử thi, với thủ lĩnh huyền thoại mà lịch sử và nghệ thuật đã và còn truyền tụng. Trong cuộc đấu tranh bền bỉ, không cân sức của các dân tộc da đỏ chống lại người Mỹ da trắng tàn bạo, Oskeola nổi lên như một thủ lĩnh kiệtxuất. Là một người yêu nước nhiệt thành, một nhàquân sự tài ba, một nhà ngoại giao xuất sắc, một chiến binh quả cảm, một tâm hồn cao thượng, thủy chung... Oskeola đã trở thành linh hồn cho cuộc kháng chiến, là niềm tin yêu, kính trọng của cả cộng đồng, là mối khiếp sợvà nể phục đối với kẻ thù xâm lược cùng lũ tay sai phản bội đồng bào và là mối cảm hoài đầy thi hứng cho các thế hệ sau. Trong cuốn tiểu thuyết không phải tất cả mọi chi tiết đều trung thành với sự thật lịch sử. Song điều có thật ấy là kẻ thù đã phải nhỏ lệ khi vĩnh biệt người con lỗi lạc của núi rừng da đỏ. Trước ngày Oskeola qua đời, lòng kính trọng sâu sắc đối với anh đã thôi thúc họa sĩ Jorge Ketlin hoàn tất chân dung chàng thủ lĩnh kiêu hùng lưulại cho hậu thế. Cuốn tiểu thuyết có một sức lôi cuốn kỳ lạ. Bạn đọc không những chỉ quan tâm đến kết cục cuộc chiến vô cùng gian khổ và kiêu dũng của người da đỏ xeminol, mà còn nóng lòng muốn biết số phận trung úy Jorge Rendolf cùng mối tình đầu đằm nàn, nồng thắm của chàng đối với nàng tiên da đỏ mà nữ thần ái tình Aphrodite phải ngậm ngùi nhường nhan sắc - Maiuymi, em gái Oskeola; số phận của Virginia, tiểu thư da trắng “trái tính trái nết”, em gái Jorge Rendolf và là người để Oskeola chôn chặt một khối tình vô vọng: số phận đại úy Gallaher yêu đời, chân thành và máu mê đấu súng: số phận Jec Đen trung thành, can đảm cùng nàng Viola xinh đẹp ; số phận ông lão săn cá sấu Hicmen... Và dĩ nhiên, độc giả rất muốn biết và nóng lòng chờđợi giờphút trừng phạt tên Jec Vàng phản phúc, lòng lang dạ thú mà cá sấu đớp không chết, cũng nhưgãArens Ringgold đểu cáng, thâm hiểm... Sau “Oskeola” đã có không biết bao nhiêu tiểu thuyết về người da đỏ bằng đủ các thứ tiếng khác nhau. Nhiều cuốn trong số đó đã từng vang bóng một thời, nhưng theo thời gian đã lùi dần vào quên lãng và an phận trong thư tịch, Riêng “Oskeola” cùng những tác phẩm tuyệt vời khác của Thomas Reid - những bài ca bất tuyệt về ý chí tự do, lòng nhân ái, và phẩm cách cao quí của con người - vẫn tràn đầy sinh lực, khỏe khoắn vượt qua bụi bặm của thời gian, đến với độc giả để chắc chắn chiếm lĩnh một góc tâm tư trân trọng và mến mộ. 1-1989 NHÀ XUẤT BẢN TỔNG HỢP KIÊN GIANG *** Thomas Mayne Reid là một tiểu thuyết gia người Mỹ gốc Scotland. Thomas Mayne Reid đã chiến đấu trong Chiến tranh Mỹ-Mexico. Nhiều tác phẩm của ông là về cuộc sống của người Mỹ. Trong các tác phẩm này, tác giả đã mô tả chính sách thuộc địa ở Hoa Kỳ, nỗi kinh hoàng của lao động nô lệ và cuộc sống của người da đỏ Mỹ. *** Bố tôi là chủ một đồn điền indigo - trồng chàm. Ông tên là Rendolf, và tôi cũng tên như vậy: Jorge Rendolf. Tôi mang trong mình dòng máu pha trộn với người da đỏ, bố tôi nguyên thuộc về dòng họ Rendolf vùng sông Roanoc, dòng dõi của công chúa Pocakhontas*. Ông rất tự hào về gốc gác da đỏ của mình, gần như kiêu hãnh nữa là khác. Có lẽ một người châu Âu bình thường sẽ cảm thấy điều đó có vẻ kỳ quặc, nhưng rõ ràng ở châu Mỹ những người da trắng, có tổ tiên da đỏ lại rất tự hào. Là một người metis* không phải là điều sỉ nhục, nhất là nếu anh ta có tài sản kha khá. Hàng trăm cuốn sách ca ngợi lòng cao thượng của người da đỏ cũng không thuyết phục bằng một sự thực giản dị là tất cả chúng tôi không một ai cảm thấy ngượng ngùng khi nhận mình là con cháu họ. Hàng trăm gia đình da trắng hiện giờ vẫn khẳng định họ là dòng dõi của công chúa miền Virginia ngày xưa. Nếu như những tự hào, gắn bó với họ là xác đáng thì công chúa Pocakhontas xinh đẹp thuở ấy hẳn phải là một kho báu vô giá đối với ông chồng. Tôi nghĩ rằng bố tôi đích thực là con cháu của công chúa. Chí ít thì ông cũng xuất thân từ một gia đình thuộc địa danh giá cũ. Hồi trai trẻ ông đã có hàng trăm nô lệ da đen, nhưng lòng hiếu khách và tính hoang tàng đã làm ông tán gia bại sản. Không chịu được tình cảnh sa sút khốn khổ, ông nhặt nhạnh mớ tài sản còn sót lại rồi đi xuống phía nam, làm lại cuộc đời. Tôi ra đời trước khi xảy ra biến cố đó, và quê hương tôi vẫn là Virginia, nhưng khi tôi bắt đầu nhận thức được thì gia đình tôi đã ở bên bờ sông Xuoni xinh đẹp, miền đất Florida*. Tuổi ấu thơ của tôi đã êm đềm trôi qua tại đây, cũng tại đây tôi đã đón nhận những niềm vui sướng đầu tiên của tuổi trẻ, đã ngất ngây, rạo rực với mối tình đầu. Giờ đây tôi vẫn nhớ như in ngôi nhà gỗ sồi xinh xắn sơn màu trắng, vẫn thấy rõ những tấm rèm xanh bên khung cửa sổ. Quanh nhà có gác hiên với những cột gỗ khắc chạm công phu đỡ mái. Bên phải khu nhà là rừng cam, bên trái là cả một khu vườn mênh mông. Xa xa, phía ngoài bãi cỏ là khu rừng thưa xanh rì chạy thoai thoải tới tận bờ sông. Dòng sông tới đúng chỗ này thì gấp khúc, trông giống như một mặt hồ khá rộng với những cù lao nho nhỏ, hai bên bờ thấp thoáng rừng cây. Quanh hồ vô số chim chóc bay lượn rợp trời, từng bầy thiên nga nô giỡn ào ào trên mặt nước. Dải rừng thưa cạnh nhà mọc đủ thứ cây - những cây cọ với những tàu lá dài nhọn hoắt, những cây dải quạt lá xòe rộng bản, những bụi mộc liên, bụi hồi trổ bông thơm ngát, những khóm dây cầu vồng sặc sỡ. Trong rừng còn có một cây sồi khổng lồ, cành cây mọc ngang thân với tán lá dầy xanh tốt quanh năm, che mát cả một khoảng rộng dưới bãi cỏ. Tôi nhìn thấy dưới bóng sồi một cô bé xinh đẹp bận váy mỏng mùa hè. Chiếc khăn trắng trùm đầu không che kín những lọn tóc xoăn dài vàng óng. Đó là Virginia, em út và em gái duy nhất của tôi. Mớ tóc vàng óng ấy Virginia thừa hưởng của mẹ, nhìn mái tóc không ai có thể nghĩ rằng cô có gốc gác da đỏ. Cô đang giỡn với hai con thú yêu quí của mình - con hươu dama và chú hươu con bé xíu có bộ lông sặc sỡ. Virginia bóc cam cho hai mẹ con hươu ăn, chúng rất thích cam. Cạnh đó còn một con vật nữa mà Virginia cũng rất yêu - chú sóc đen lông mượt láng với cái đuôi luôn ngúc ngoắc. Chú sóc hiếu động nhảy thoăn thoắt, mỗi lần nhảy là mỗi lần làm hươu con hoảng sợ, nép sát vào hươu mẹ hay chay lại nhờ em gái tôi che chở. Quanh nhà rộn tiếng chim lanh lảnh. Rồi tiếng chó sủa, tiếng mèo kêu, ngựa hí. Phía sau nhà là một cảnh tượng hoàn toàn khác, có thể không hấp dẫn bằng nhưng không kém phần sôi động. Mọi người đang làm việc. Sát nhà là một khoảng rộng, rào kín bằng cọc sắt. Chính giữa là một mái che khổng lồ tựa trên những dãy cột gỗ to và khỏe. Dưới mái che thấy rõ hàng dãy máng ngâm bằng gỗ trắc bá. Các máng ngâm xếp thành ba tầng, nối với nhau qua hệ thống vòi mở. Đó là nơi người ta ngâm chàm để chế phẩm nhuộm màu xanh. Phía xa là những nếp nhà nhỏ xíu xếp thành dãy của người da đen. Những ngôi nhà bé nhỏ ấy dường như cố co lại, giấu mình trong khu rừng cam. Không khí thơm ngát mùi hoa rộ vàng, rồi mùa trái chín. Phía trên những mái nhà cũng lại những thân cọ đường bệ vươn cao hay ngả mình xòe lá giống hệt như ở bãi cỏ trước nhà. Bên trong bức tường vây có mấy dãy nhà nữa, trông thô kệch, tường ghép gỗ súc sù sì, mái ván. Đó là khu chuồng ngựa, kho ngũ cốc và nhà bếp. Từ nhà bếp có một hành lang ngỏ ăn thông lên tòa nhà chính, mái hành lang lợp ván, cột đỡ dựng bằng gỗ bá hương. Ra sau tường vây tới cánh đồng bát ngát, chạy tít tắp tới những viền rừng trắc bá che khuất chân trời. Đây chính là khu vực trồng chàm. Tuy vậy ở đây cũng có ngô, lúa, khoai tây, mía. Các loại lương thực đó chỉ đủ đáp ứng nhu cầu tại chỗ chứ không bán. Indigo trồng thành hàng lối thẳng tắp. Rừng chàm mọc không đồng bộ: chỗ thì vừa mới trồng, lá nhỏ xíu giống như cỏ chĩa ba, chỗ đã trưởng thành, cao đến hơn hai foot*, hoa nở rộ. Đôi khi hoa chàm nở giống hệt như những con bướm nhỏ, nhưng người ta không để cho chúng nở hết độ. Chúng phải chịu một số phận khắt khe: người ta sẽ cắt nghiền những cánh hoa màu huyết dụ không thương tiếc. Bên trong bức tường vây và ngoài ruộng chàm hàng trăm người tất bật với công việc. Ngoại trừ một, hai người trong số họ, số còn lại đều là nô lệ người Phi. Đông nhất là dân đa đen, trong đó kể chung cả dân mulat, xambo, tertxeron, cvarteron*. Tuy nhiên, ngay những người thuần túy gốc Phi cũng không phải ai cũng đen cả, nhiều người da màu đồng. Một số trông khá dị hình - môi dày, trán thấp, mũi tẹt và dĩ nhiên không thể có vóc dáng cân đối. Nhưng số khác thân hình, khá đẹp, thậm chí có nhiều người trông rất hấp dẫn. Nhiều cô gái cvarteron trong số họ trông gần như da trắng. Tất cả mặc quần áo lao động. Đàn ông mặc quần vải gai mỏng, sơ mi màu rực rỡ, đội mũ đan bằng lá cọ. Dăm ba người ăn bận khá bảnh, một số lại cởi trần trùng trục, nước da đen bóng láng dưới nắng trưa trông như phiến gỗ lim. Phụ nữ ăn mặc sặc sỡ hơn, họ mặc váy sọc hoa và quấn khăn vải kẻ ca rô. Nhiều người mặc váy thêu rất đẹp. Mái tóc quấn như khăn xếp càng làm cho họ có một vẻ đẹp đặc biệt. Cả đàn ông và đàn bà đều làm việc ở đồn điền indigo. Họ cắt chàm và bó thành bó, tốp thợ khác kéo chàm về dưới mái che, quăng lên máng ngâm trên cùng. Rồi lại một tốp thợ nữa tiếp tục công việc - dẫn nước vào và “ép” chàm. Số thợ còn lại dùng xẻng gạt chất bột lắng vào cửa kênh tháo, chuyển xuống khâu cuối cùng là sấy khô và đổ khuôn. Mỗi người làm một việc nhất định, và phải nói là họ làm khá vui vẻ. Họ cười nói, đùa giỡn, hát hò suốt buổi. Tuy nhiên, tất cả bọn họ đều là nô lệ của bố tôi. Bố tôi đối xử với họ rất tốt, rất hiếm khi ông dùng đến roi vọt, có lẽ vì thế mà đám thợ luôn vui vẻ và thoải mái. Những hình ảnh dễ chịu ấy đã in sâu vào trí nhớ tôi. Chính nơi ấy tôi đã đi qua những tháng năm thơ bé, chính nơi ấy tôi đã khởi đầu cuộc sống có ý thức của mình.   Mời các bạn đón đọc Oskeola Thủ Lĩnh Da Đỏ của tác giảe Thomas Mayne Reid.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Linh Sơn
Linh Sơn là cuốn tiểu thuyết nổi tiếng của nhà văn Trung Quốc đoạt Giải Nobel Văn học năm 2000: Cao Hành Kiện - con người đa tài trên nhiều lĩnh vực như viết kịch, làm thơ, vẽ, viết lý luận và viết tiểu thuyết.  Linh Sơn không có truyện đủ đầu đuôi phát triển cùng xung đột, mâu thuẫn tới cao trào theo như chuẩn định. Linh Sơn cũng không có nhân vật (theo chuẩn mực thông thường) với đầy đủ diện mạo, hình hài, cốt cách, cảnh ngộ. Linh Sơn tựa như một gallery những gương mặt thấp thoáng, le lói, vừa thực vừa ảo. Nó như một bức tranh thuỷ mặc đẹp thăm thẳm nhờ những nét chấm phá điêu luyện của người hoạ sĩ.  Linh Sơn rất hiện đại ở bút pháp, bố cục nhưng cũng đầy khí cốt, hồn phách Trung Hoa. Vừa dân tộc tính, vừa hiện đại, cả hai đều ở mức cao, đó có lẽ là lý do mà tác phẩm này đã được Uỷ ban Giải thưởng Nobel lựa chọn để trao giải. *** Cao Hành Kiện (4/1/1940) là một nhà văn, nhà viết kịch, nhà phê bình người Trung Quốc đầu tiên và là công dân Pháp thứ 13 được trao Giải Nobel Văn học trong suốt 100 năm qua. Ông cũng còn được biết đến với tư cách là một dịch giả, đạo diễn sân khấu và họa sĩ. Ông sinh ra và lớn lên ở Cống/Cám Châu, Giang Tây, Trung Quốc. Ông tốt nghiệp trường Đại học Ngoại ngữ Bắc Kinh năm 1962 ngành tiếng Pháp. Sau khi tốt nghiệp ông được phân công đến Cục xuất bản ngoại văn làm phiên dịch. Trong thời kỳ Cách mạng Văn hóa (1966-1976) ông đã bị đưa vào trại học tập cải tạo và phải âm thầm thiêu hủy cả một va-li đầy bản thảo tác phẩm của mình, trong đó có một vài cuốn tiểu thuyết chỉ chờ ngày xuất bản và 15 vở kịch. Sau đó, ông bị gửi vào trại cải tạo giáo dục mất 7 năm. Năm 1975 ông trở về Bắc Kinh, làm việc tại Cục xuất bản Ngoại văn. Đến năm 1978 ông nhận chức phiên dịch cho Hiệp hội tác gia Trung Quốc. Năm 1980 ông về làm công tác biên kịch tại Kịch viện Nghệ thuật Nhân dân Bắc Kinh. Cao Hành Kiện là một trong những văn nghệ sĩ tiền phong của Trung Quốc đã cổ vũ, đấu tranh cho quyền sáng tác văn nghệ tự do và đích thực. Chính phủ Trung Quốc đã từng coi ông là một phần tử chống đối và các tác phẩm của ông đã bị cấm lưu hành từ năm 1986. Ông đã bỏ Đảng Cộng sản Trung Quốc năm 1989 sau vụ thảm sát Thiên An Môn. Năm 1988, ông sang Pháp sinh sống và nhập quốc tịch Pháp từ 1998, hiện cư ngụ tại ngoại ô Paris, khu Bagnolet. Mười chín năm sống ở Pháp, ông đã tập trung vào viết sách, soạn kịch và triển lãm nghệ thuật. Vào năm 1992 ông đã giành được giải Chevalier de l'Ordre des Arts et des Lettres (Huân chương về Văn học và Nghệ thuật) của Chính phủ Pháp. Sau khi ông đoạt giải Nobel năm 2000, báo chí Trung Quốc không rầm rộ về việc này, nhưng tờ báo ra hằng ngày Tin tức buổi chiều Dương Thành, vào năm 2001, trong một cuộc chỉ trích về Linh Sơn đã gọi ông là một "nhà văn dở tệ" và nói rằng việc ông đoạt giải Nobel thật là lố bịch. Linh Sơn là một tác phẩm nổi tiếng của ông, tổng hợp nhiều hình thái và thể loại văn chương gồm hồi ký, chuyện tình, phóng sự xã hội, thực tế, hư cấu, triết lý, đối thoại, độc thoại... hoà quyện vào nhau. Giáo sư Lee Mabel, người dịch tác phẩm Linh Sơn sang tiếng Anh (Soul Mountain) đã nhận định: "Linh Sơn là câu chuyện của người đi tìm sự an bình và tự do bên trong". Cao Hành Kiện còn là một họa sĩ vẽ tranh thủy mặc độc đáo. Ông đã cho tổ chức khoảng 30 cuộc triển lãm tranh khắp nơi trên thế giới và nhận được nhiều lời khen ngợi. *** Mi muốn kể cho nàng một chuyện có từ đời nhà Tấn. Chuyện ni cô đến xin bố thí ở cửa một đại tướng quân nổi tiếng vì ngạo mạn. Theo lệ, người ta báo với quản gia và quản gia cho ni cô một xâu nghìn đồng chinh. Ni cô từ chối, muốn gặp thí chủ, người ban tiền cho mình. Quản gia đành chuyển đạt lời thỉnh cầu này lên tổng quản gia, tổng quản gia muốn rũ gạt nhà sư nên đã ra lệnh cho gia nhân mang đưa cho ni cô một lượng bạc. Ai dám nói ni cô lại một lần nữa từ chối, lại yêu cầu gặp đích thân đại tướng quân, khẳng định chắc chắn rằng ông ta đang lâm nạn và ni cô đến đây để đặc biệt cầu kinh hóa giải cho ông ta. Tổng quản gia chỉ còn có thể trình lên và viên tướng ra lệnh đưa ni cô vào.     Khi nhìn thấy khuôn mặt của nhà sư mặc dù đầy bụi nhưng rất thanh tú và thoát tục, vị tướng nghĩ ngay ni cô không có chút nào là kẻ lừa bịp hay một mụ đàn bà chuyên trò dâm tà, ông bèn hỏi nhà sư muốn gì. Ni cô tiến lên, chắp tay chào rồi lùi lại nói đinh ninh rằng từ lâu đã nghe thấy đại tướng quân hào hiệp và khoan dung. Ni cô từ xa đặc biệt đến đây để thực hành bảy bảy bốn chín ngày chay giới vì vong linh của mẹ tướng quân đã chết. Đồng thời ni cô cầu xin Phật A Di Đà giáng phúc cho viên tướng, phù hộ độ trì cho ông tai qua nạn khỏi. Cuối cùng, viên tướng ra lệnh cho quản gia xếp đặt một gian phòng ở sân trong và cho gia nhân sửa soạn bàn hương ở đại sảnh.     Từ hôm ấy, tiếng tụng kinh gõ mõ cứ vang lên từ sáng đến chiều trong tướng phủ. Thời gian trôi đi, viên tướng cảm thấy ngày một nguôi dịu trong lòng và sự kính trọng của ông đối với vị sư nữ không ngừng tăng lên. Nhưng mỗi chiều vị sư nữ trẻ lại bỏ ra một giờ tắm táp. Viên tướng ngạc nhiên: nhà sư không tóc thì việc gì phải bận đến đầu tóc cùng trang điểm như một người đàn bà bình thường. Vậy tại sao tắm, nghi lễ đơn giản để thanh tẩy tâm can trước khi thay hương, lại kéo dài đến như thế? Hơn nữa, vào lúc ấy, người ta nghe thấy nước chảy không ngừng. Ni cô dội nước lên mình liên tục hay sao? Tướng quân bắt đầu bị sự tò mò ám ảnh. ... Mời các bạn đón đọc Linh Sơn của tác giả Cao Hành Kiện.
Đồng Hồ Xương - David Mitchell
Mỗi người trong chúng ta là một chiếc “đồng hồ xương”, thời gian hữu hạn trôi qua, và những gì còn lại là xương cốt. Trái với con người hữu thời là những kẻ vô thời, bất tử nhờ tự nhiên hoặc bằng cách tước đoạt mạng sống của người khác, nhưng những kẻ ấy liệu có hạnh phúc hơn khi không thấy thời gian hữu hạn? Năng lực đặc biệt, khả năng thấy trước tương lai, tuổi thọ… không bù đắp được sự cần thiết về gia đình, tình bằng hữu đối với con người. Cuốn tiểu thuyết mới nhất đầy ấn tượng của Mitchell mở đầu với câu chuyện của Holly Sykes, một thiếu niên người Anh với khả năng có thể nghe được những giọng nói độc ác. Với Holly là người dẫn đường, Mitchell đã đưa người đọc của mình qua những câu chuyện thần thoại của hàng loạt người kể thuộc các thể loại khác nhau, đã thực sự đạt tới đỉnh điểm của trận chiến mà ở đó thiện và ác xoay vần mà không hề phóng đại. Cái nhìn của ông về tương lai có thể u ám, nhưng khả năng kể chuyện của ông khiến cho The Bone Clocks trở nên thú vị, đặc biệt đối với những người hâm mộ trung thành, những người sẽ được gặp lại nét quen thuộc trong các tác phẩm trước đây của Mitchell. Trận chiến gần như vĩnh viễn không kết thúc ở rìa của thế giới hàng ngày; “những chiếc đồng hồ xương” là những bầy người, cam chịu chạy xuống và chết. Đó là một chuyến đi không tưởng khi chúng ta theo chân Holly Sykes, từ người thiếu niên đào tẩu đến một bà già chứng kiến sự thất bại của văn minh. *** Mình kéo toang rèm cửa. Bầu trời khát khô, dưới sông đầy tàu thuyền lớn nhỏ lô nhô nhưng trong đầu mình chỉ có đôi mắt màu sô cô la của Vinny, dầu gội đầu chảy xuống lưng chàng, mồ hôi lấm tấm trên vai chàng, rồi nụ cười tinh quái của Vinny. Tim mình như muốn vỡ tung. Chúa ơi, ước gì mình thức dậy ở nhà Vinny trên phố Peacock, chứ không phải trong căn phòng chết giẫm này. Đêm qua những lời ấy như tự thốt ra, “Lạy Chúa, em yêu anh quá chừng, Vin à,” rồi Vinny phả khói thuốc thành đám mây nhỏ, rồi Vinny giả giọng như Thái tử Charles, “Phải nói rằng, ta cũng ưa ở cùng cô lắm, Holly Sykes à,” mình cười muốn són cả ra, mặc dù vẫn hơi bực vì chàng chẳng đáp “Anh cũng yêu em”. Thiệt tình. Nhưng mà, đàn ông con trai hay ra vẻ vớ vẩn bông lơn để mà che giấu cảm xúc, chẳng phải báo vẫn viết vậy sao. Ước gì mình gọi được cho Vinny ngay bây giờ. Ước gì người ta chế ra điện thoại có thể gọi mọi nơi mọi lúc. Giờ này hẳn chàng đang cưỡi chiếc Norton đi làm trên Rochester, chàng mặc áo da có chữ LED ZEP đính đinh bạc. Tháng Chín này mình tròn mười sáu tuổi, chàng sẽ chở mình trên chiếc Norton. Dưới nhà có tiếng đóng cửa tủ đánh rầm. Má. Còn ai đóng cửa kiểu đó nữa. Hay má biết rồi? Mình nghĩ mà quặn cả ruột. Không có đâu. Hai đứa vô cùng cẩn thận. Má đang tuổi mãn kinh nên nóng nảy. Chỉ có vậy thôi. Đĩa Fear of Music của Talking Heads đang nằm trong máy, mình hạ cây kim máy xuống. Vinny mua tặng mình đĩa này, hôm đó là ngày thứ Bảy thứ nhì tụi mình gặp nhau ở tiệm đĩa Magic Bus Records. Đĩa hay tuyệt. Mình thích bài “Heaven” và “Memories Can’t Wait” nhưng nói chung cả album không có lấy một bài dở. Vinny đã từng đến New York, từng xem Talking Heads biểu diễn. Dan bạn của Vinny làm bảo vệ ở đó nên cho Vinny vào sau cánh gà, Vinny đã gặp David Byrne và ban nhạc. Năm sau mà đi tiếp thì chàng sẽ dẫn mình theo. Mình thay đồ, ngắm mấy vết cắn yêu trên người rồi ước gì tối nay lại được đến thăm Vinny, nhưng chàng bận đi gặp bạn ở Dover. Đàn ông rất ghét đàn bà hay ghen, nên mình giả bộ không ghen gì hết. Stella - bạn thân nhất của mình, đã đi London để đi săn đồ cũ ở chợ Camden. Má nói mình còn quá nhỏ, không thể đi London mà không có người lớn, vậy là Stella rủ Ali Jessop. Ngày hôm nay mình chỉ còn trông mỗi việc hút bụi ở quầy bar để kiếm ba bảng tiền tiêu vặt. Chán mớ đời. Rồi phải ôn tập để chuẩn bị thi tuần tới. Thực lòng chỉ muốn nộp giấy trắng, dẹp hết tam giác tam giếc Py-ta-go và tiểu thuyết Chúa ruồi với vòng đời sâu bọ nhảm nhí. Có khi làm vậy luôn. Ừ, biết đâu đó. ... Mời các bạn đón đọc Đồng Hồ Xương của tác giả David Mitchell.
Cành Hoa E Ấp - Pearl S. Buck
“Ai giống nhau thường hợp nhau” ngạn ngữ Tây phương có nói thế. Nhưng người ta có thể quên được câu này để kết hôn ngoài giới của mình, ngoài xứ sở về nòi giống của mình không? Hoặc không hề đến một mối tình đằm thắm, phải lưu ý đến nói của tri năng? Hoặc cuối cùng, tình yêu khác mạnh để vượt tất cả những trở ngại ngăn cách hai người khác nhau? Đó là đề tài khó khăn và đau thương của cuốn tiểu thuyết này của Pearl Buck. Ở Kyoto, dưới thời bị chiếm đóng, một thiếu nữ Nhật xinh đẹp gặp một sĩ quan Mỹ và nhận lời kết hôn với chàng. Từ đó, hai gia đình ra sức chống lại cuộc hôn nhân này. Tôn giáo, màu da, những truyền thống ngàn xưa và biết bao yếu tố đã xen lẫn trong cuộc tranh luận đau thương này mà tình yêu cố bám víu vào để khỏi bị chìm ngập. Với sự hiểu biết sâu xa về Đông phương và tâm linh người Nhật, về tâm lý của dân tộc Mỹ và tình cảm đặc biệt của người Mẹ, Pearl Buck đã viết tác phẩm Cánh hoa e ấp, một trong những tác phẩm nổi trội nhất của bà. Giá trị của tác phẩm là trình bày cho độc giả biết một vấn đề điên đảo mà sự tiến triển của thế giới nẩy sinh ra hàng ngày. *** Pearl Buck (tên thật là Pearl Comfort Sydenstricker, có tên Trung Quốc là Trại Chân Châu) là con một nhà truyền giáo người Mỹ. Sau khi ra đời chưa đầy 5 tháng, bà đã được cha mẹ đưa sang Trung Quốc sinh sống. Từ nhỏ và suốt cả cuộc đời bà yêu mến và thích tìm hiểu cuộc sống của người dân Trung Quốc, cảm thông với những người dân địa phương bị nhiều tầng áp bức. Năm 15 tuổi, bà được gửi trọ học tại một trường dạy Anh văn ở Thượng Hải. Năm 17 tuổi, cha mẹ cho Pearl Buck về Mỹ, học tại Trường Đại học Randolph Macon (tiểu bang Virginia). Năm 1917 bà kết hôn với một mục sư và theo chồng đi truyền giáo tại miền Bắc Trung Hoa. Từ năm 1922, bà dạy ở Đại học Nam Kinh và Kim Lăng. Năm 1925, Pearl Buck bắt đầu viết cuốn tiểu thuyết đầu tiên Gió Đông, Gió Tây (do chạy loạn Quốc dân đảng, năm 1930 mới xuất bản được). Sau đó hàng loạt tiểu thuyết nổi tiếng khác về đề tài Trung Quốc ra đời, như Đất Lành, Những Người Con Trai, Một Nhà Chia Rẽ, Người Mẹ, Những Đứa Trẻ Chậm Lớn… trong đó tiểu thuyết Đất Lành được nhận giải Pulitzer năm 1931. Năm 1933, bà được Đại học Yale tặng bằng Cử nhân Văn chương Danh dự. Năm 1938, bà được Đại học West Virginia và Đại học St. Lawrence trao tặng bằng Tiến sĩ Văn chương Danh dự. Năm 1938 Pearl Buck nhận giải thưởng Nobel vì các tác phẩm mô tả đời sống nông thôn Trung Hoa một cách phong phú và xác thực (chủ yếu với tiểu thuyết Đất Lành và hai cuốn tự truyện Người Tha Hương (1936) viết về người mẹ và Thiên Thần Chiến Đấu (1936) viết về cha của bà). Sau khi nhận giải, Pearl Buck tiếp tục sáng tác rất nhiều, ngoài văn xuôi bà còn viết kịch, kịch bản phim, tiểu luận và sách cho thiếu nhi. Bà cũng là người đã dịch Thủy Hử (All men are brothers) và một số tác phẩm văn học Trung Quốc sang tiếng Anh. Trong Thế chiến II, Pearl Buck viết nhiều sách báo chính luận chống chủ nghĩa phát xít. Những năm 50, bà xuất bản một số tác phẩm về đề tài gia đình và xã hội Mỹ, kí bút danh I. Sedge. Năm 1951, Pearl Buck được bầu làm thành viên Viện Hàn lâm Nghệ thuật và Văn học Hoa Kỳ. Năm 1955, bà li dị chồng và tục huyền với giám đốc một hãng quảng cáo. Cuối đời, bà quan tâm đến đề tài các nhà bác học nguyên tử buộc phải chế tạo vũ khí giết người hàng loạt. Đồng thời, bà tích cực tham gia các hoạt động từ thiện, xã hội như: sáng lập ra tổ chức không vụ lợi Hiệp hội Đông Tây (The East and West Association, 1941) nhằm truyền bá những hiểu biết giữa các dân tộc trên thế giới; cùng chồng lập nên tổ chức Căn nhà tình nghĩa (Welcome Home, 1949) giúp trẻ mồ côi; lập ra Quỹ Pearl S. Buck (The Pearl S. Buck Foundation, 1963) và tặng cho quỹ này 7 triệu đôla. • Tác phẩm đã dịch ra tiếng Việt: Gió Đông, gió Tây; Ảo vọng; Sống vì đất; Tiếng gọi đồng quê; Lá thư Bắc Kinh; Tình yêu sau cùng; Người mẹ; Nhớ cảnh nhớ người; Yêu muộn; Nạn nhân buổi giao thời; Mấy người con trai Vương Long; Đứa con người yêu; Một phút một đời; Một lòng với em; Một cuộc hôn nhân; Lưu đày; Lưu đày biệt xứ; Cánh hoa e ấp; Đông phương huyền bí qua truyện cổ thần tiên; Truyện Đông phương; Người vợ tiên; Những người đàn bà tuyệt vời trong gia đình Kennedy; Những người đàn bà trong gia đình Kennedy; Tà áo xanh; Nỗi buồn nhược tiểu; Người yêu nước; Ngoài chân mây; Hứa hẹn; Bão loạn; Mẫu đơn; Quỷ địa ngục chẳng bao giờ ngủ; Yêu mãi còn yêu; Ba người con gái của Lương phu nhân; Trái tim kiêu hãnh; Một trái tim tự hào; Biên giới tình yêu; Tình cõi chân mây; Nô tì Mẫu Đơn; Đóa hoa ẩn mình; Trang; Người thành phố; Bí mật đời nàng; Người yêu nước; Thiên Hậu; Người cung nữ; Từ Hi Thái hậu; Con rồng linh diệu; Hạt giống của rồng; Vương Nguyên; Đất lành; Chuyện Kinh Thánh; Những người con của tiến sĩ Lương; Tiếng nói trong nhà; Tử thần và rạng đông; Người mẹ già; Những mảnh hồn sầu xứ.” *** Josui đi yên lặng trong một đường phố ở Los Angeles. Ngày hôm ấy, nàng sửa soạn một công việc thật khổ tâm, không sao tránh được. Nàng dậy sớm và sau khi trang điểm kỹ lưỡng, nàng mặc một bộ quần áo màu xanh nước biển mới nguyên, chiếc áo khoác ngoài che thân hình đầy mập của nàng. Số tiền cha nàng gửi ở một ngân hàng ở San Francisco đủ cho nàng ăn mặc, trả tiền phòng và tiền ăn trong một ký túc xá tầm thường. Những gì còn lại, nàng phải trông chờ vào cứu tế cuộc. Nàng đã hỏi một người xa lạ địa chỉ một tổ chức bảo vệ thiếu nhi. Chính đến cơ quan này, ở một hộ khá nghèo mà nàng tới sáng nay. Cửa mở, Josui đi vào. Người nữ thư ký ngập ngừng nhìn nàng. — Xin cho biết quí danh. — Sakai. — Xin mời cô vào. Josui tuân lời. Nàng đứng trước một người đàn bà tuổi trung niên vẻ mặt hiền hậu ngồi ở một bàn giấy, sắc mạo không xứng với chân giá trị của mình. — Cô Sakai, tôi biết giúp ích gì cho cô? — Tôi nghe nói ở đây có săn sóc trẻ con… — Cô sắp sinh nở? — Vâng, không ngay lúc này, nhưng tôi phải sửa soạn trước. — Cô có gia đình không? — Không. Người nữ thư ký ghi nhận những lời khai của Josui. — Cô có muốn giữ đứa bé không? — Không, tôi có một mình, tôi không thể giữ nó được. Nàng đã tập luyện nói câu này và nói không chút khó khăn. Ồ! Lennie, nàng dỗ dành, an ủi mãi tận trong đáy lòng! Nó mới yên tĩnh làm sao! Tưởng như nó nghe thấy những lời nàng nói. ...Mời các bạn đón đọc Cành Hoa E Ấp của tác giả Pearl S. Buck.
Yêu và Hận - Teresa Medeiros
Với một lần đổ súc xắc, hành động đáng xấu hổ đã được thực hiện. Nam tước Lindsey Fordyce đã chơi và thua, bây giờ con gái xinh đẹp của ông, Rowena, sẽ phải trả giá. Bị đưa đến một lâu đài hùng vĩ, cô gái ngây thơ sôi nổi ấy ép mình phục vụ một hiệp sĩ tăm tối và kinh khủng bị buộc tội sát nhân… và nhiều thứ nữa. Hiệp sĩ Gareth xứ Caerleon đẹp trai, ủ ê đang chờ đợi cơ hội phục thù. Nhưng khi hắn mưu tính sử dụng nàng Rowena thật thà để tiêu diệt những bóng ma trong quá khứ đày ải của mình, hắn không bao giờ hình dung được sẽ bị ngã vào trong chiếc bẫy lụa do chính hắn giăng – trở thành nô lệ cho một nỗi khao khát không thể nào dập tắt… *** Teresa Medeiros sinh năm 1962 tại Mỹ, là tác giả chuyên viết tiểu thuyết lãng mạn. Đến nay, sáng tác của cô đã bán được 7 triệu cuốn và dịch ra hơn 17 thứ tiếng.  Medeiros ra mắt tác phẩm đầu tay năm 21 tuổi (1983). Nhưng đến năm 1989, cái tên Medeiros mới trở thành hiện tượng, khi tác phẩm Quý bà chốn tình trường (Lady of Conquest) của cô đoạt giải Tác phẩm Văn học hay nhất của năm, thuộc thể loại Lịch sử - Lãng mạn. Medeiros hấp dẫn độc giả bởi những cốt truyện đa dạng, không chỉ đơn thuần lãng mạn như một câu chuyện Lọ Lem - Hoàng tử đẹp tựa cổ tích mà có lúc mang hơi hướng trinh thám như Đóa hồng xôn xao, lúc lại giằng xé cuộc tình tay ba như như Kẻ cắp trái tim hoặc như một biến tấu lạ như trong bộ tác phẩm Người tình Bóng tối và Dạ tiệc lúc nửa đêm…    Người tình bóng tối và Dạ tiệc lúc nửa đêm khiến người xem hồi hộp đến ngạt thở bởi những câu chuyện diễn ra trong bối cảnh đêm tối, gió mưa, bóng ma với những ma cà rồng chuyên ăn thịt người lúc ẩn lúc hiện. Sau trang sách, thông điệp được gửi đến vẫn là tình yêu, là niềm tin vào cái đẹp trong cuộc sống, như Julian trong Người tình bóng tối đã nói: “Dù là một ma cà rồng hay là một người đàn ông, anh cũng sẽ chỉ yêu một mình em”.  *** Nước Anh năm 1279 .   Chàng trai lẻn vào trong nhà không một tiếng động. Bước chân hắn ngập ngừng khi mùi hương thoang thoảng của lá hương thảo như những chiếc móng vuốt tinh vi cào nhẹ vào xương sống hắn. Hắn nhắm mắt một thoáng, để cho hương thơm bao phủ hắn như đêm hôm trước, khi mẹ kế của hắn nhún chào hắn trong phòng khiêu vũ. Sự mềm mại của những lọn tóc loăn xoăn đen nhánh của bà ta chải nhẹ vào má hắn khi bà ta dạy hắn từng bước của vũ điệu mừng Giáng Sinh với sự kiên nhẫn ngọt ngào nhất đã làm hắn thối chí. Hắn mở mắt; đôi bờ mi sẫm màu viền quanh đôi hố sâu ảm đạm.   Hắn không nên đến đây. Việc viết nhạc có thể học tại bàn của cha hắn. Bài học về tác phong nhã nhặn có thể học trong sảnh lớn. Hắn có thể học kỹ năng hiệp sĩ nào trong phòng ngủ của mẹ kế của hắn được chứ? Cha hắn sẽ trở về từ cuộc chiến trong khoảng hai tuần nữa. Hắn chỉ muốn gặp bà – để nói lời cám ơn về sự tử tế và những chăm sóc của bà khi cha hắn vắng mặt.   Những ngọn giáo va loảng xoảng bên ngoài ô cửa sổ để mở, tiếp theo sau là tiếng cười ầm ĩ.  Khu vực sân sau bên dưới, nơi những người cận vệ đang đấu thương, dường như là một thế giới tách biệt. Trước mắt hắn, ánh nắng thấm đẫm căn phòng ngủ trống trải. Thất vọng và nhẹ nhõm cùng lúc chụp lấy hắn khi hắn lướt về phía trước với một vẻ duyên dáng vượt xa hơn lứa tuổi mười bốn.   Những tấm màn lụa màu xanh lộng lẫy, thăm thẳm, tương tự màu mắt của bà, bị kéo khỏi chiếc giường lộn xộn. Hắn nép vào bên dưới bức trướng chạm trổ, bàn tay hắn run rẩy khi chạm vào chỗ hõm trên chiếc gối lông vũ nơi đầu bà đã nghỉ ngơi. ... Mời các bạn đón đọc Yêu và Hận của tác giả Teresa Medeiros.