Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cuộc Sống Ngắn Ngủi

Rosamund Morgan còn rất trẻ, mới hai lăm tuổi. Nàng mồ côi cả cha lẫn mẹ và lại rất giàu có. Nàng thông minh, xinh đẹp, có bằng ưu về lịch sử và là một nghệ sĩ piano tài năng. Nhưng, nàng sắp chết vì bệnh máu trắng. Sự ra đi của Rosamund là điều không thể tránh khỏi, song một số người lại muốn nhận được chúc thư của nàng, sớm hơn và tìm cách để đạt được điều đó. Và rồi những người xa lạ ở đâu bỗng bước vào cuộc đời Rosamund - họ muốn gì, liệu điều này có tác động đến quãng đời còn lại của nàng và có ảnh hưởng đến các chúc thư mà bao người đang thèm muốn. ***   "Một căn nhà nhỏ xinh xắn, dễ thương - Jane đọc - Hai phòng khách, hai phòng ngủ, phòng làm việc, công trình phụ và giàn nho ngoài hiên. - Sao cơ? - Robert hỏi. Anh chuyển vị trí con tốt trên bàn cờ rồi liếc về phía tờ báo để trên bàn cà phê. - Sao cái gì? - Hay ho gì cái giàn nho ngoài hiên mà lại đưa vào nhỉ. Chỉ tổ làm tối nhà chứ được tích sự gì. Anh không hiểu là làm thế nào mà quân trắng có thể đi hai nước chiếu tướng được. Quân đen chắc là ngớ ngẩn rồi. Bao nhiêu? - Bao nhiêu cái gì? - Thì cái căn nhà xinh xắn em vừa nói ấy giá bao nhiêu tiền? - Một trăm ba nhăm ngàn bảng - Jane trả lời. - Tức là gấp 11,25 lần thu nhập hàng năm cùa cả anh và em à - Robert nói không chút lưỡng lự. Jane ném tờ Everting Standard sang cho anh, tờ báo đánh văng con tướng trắng khỏi bàn cờ. Anh lẳng lặng đặt nó lại vị trí cũ, liếc mắt sang tờ báo đặt trên bàn lần nữa và rồi chống cằm đăm đăm nhìn bàn cờ. Ở phía bên kia lò sưởi, Jane với nét mặt rầu rầu ngồi bó gối trong chiếc ghế bành nhìn sang anh. - Anh thật là ngớ ngẩn mới đi dạy văn học Anh trong khi có thể giải được những nước cờ bí như vậy và thậm chí tính toán không cần suy nghĩ. Nhất định anh phải có cách nào đó để có thể kiếm ra tiền chứ - Cô nói. - Thì anh có bằng về văn học Anh mà lị - Robert trả lời - Ngoài việc đó ra anh chẳng làm được gì khác đâu. - Nhưng bây giờ có ai cần đến những sinh viên tốt nghiệp ngành văn chương đâu, ngoài những trường dạy thêm đáng ghét chẳng có triển vọng gì. - Anh chẳng hiểu gì về máy tính cả và sẽ chẳng bao giờ học được - Robert nói - A! Con mã. Mày chết này! Có thế chứ. Rất cao thủ - Anh chăm chú nhìn bàn cờ một lúc vẻ rất hài lòng trước khi bỏ quân cờ vào hộp - Anh đang ở đây với em mà, cưng. Có thật là em đang thèm khát một cái chuồng thỏ xa hoa với những chùm nho xanh quanh cửa không? - Không nhất thiết là thế, nhưng em muốn có một ngôi nhà tươm tất. Em đã ngấy lên tận cổ cái cảnh sống nghèo nàn này rồi. - Mình không phải hoàn toàn nghèo. Và vẫn còn may là mình được sống tương đốì giữa London đấy. - Và may là mình còn đủ cơm mà ăn và may là cả hai đều còn có việc làm để không đến nỗi phải sống nhờ vào của bố thí chứ gì. Em biết, em biết, em biết! Và em chán cũng vì thế đấy. Em đã hai bảy, còn anh hai chín, và năm năm nữa chúng ta cũng vẫn chỉ vậy thôi nếu không nói là sẽ khốn khổ hơn vì mọi thứ cứ đắt lên còn công việc thì thậm chí cứ ngày một ít đi. Em cần tiền. Tiền thật sự cơ. Và em cần ngay bây giờ. Em không muốn sống trong cái căn hộ tồi tàn từ thời Victoria với cái kho để than sửa lại thành bếp này đâu. Thử tưởng tượng một cái kho than dùng để làm bếp giữa năm một nghìn chín trăm tám hai này mà xem! Thật nực cười. Thử hỏi xem có bao nhiêu người dùng kho để than làm bếp? - Anh không biết - Robert nói - nhưng chắc chắn là ta có thể tìm được từ các con số thông kê điều tra dân số. Trông lên thì chẳng bằng ai, trông xuống đã chắc mấy ai bằng mình.” - Ôi, đừng pha trò ngớ ngẩn thế nữa đi - Jane hét lên - Anh không hiểu em muốn nói gì à?" Robert ngước lên nhìn cô, gật đầu không nói. Anh là người đàn ông cao lớn, điềm đạm và có vẻ trẻ hơn so với tuổi. Còn Jane vào những lúc buồn nản như thế này trông lại có vẻ già hơn. Nhưng những khi cô vui vẻ và tràn trề hy vọng thì khuôn mặt bừng sáng đầy sinh khí làm cô trông trẻ hẳn ra và hấp dẫn hơn bất kỳ vẻ đẹp hình thức nào. Cô có mái tóc hung đỏ, đôi mắt xanh, cả người như toát lên sự nhanh nhẹn, tháo vát, trừ những lúc làm công việc của một y tá chăm sóc bệnh nhân, mà quả thực là cô làm việc này cũng rất tốt. Họ đã sống với nhau năm năm, vậy mà chính Jane lại là người không muốn tổ chức đám cưới. - Chưa được - cô luôn nói vậy mỗi khi Robert đề nghị làm đám cưới - Em cảm thấy chưa ổn định lắm. Hãy đợi đến khi chúng mình kiếm được căn nhà tử tế một chút.” Anh cảm thấy hơi đau lòng khi nghe cô nói vậy, nhưng rồi cô thường xuyên nói ra những điều làm anh tổn thương. Robert không bao giờ để lộ ra là mình cảm thấy đau lòng. Cuộc sống đã dạy anh phải giấu tình cảm thật của mình. Khi còn là một đứa bé mới hai tuần tuổi, một viên cảnh sát đã nhặt được anh trong buồng điện thoại công cộng gần ga Waterloo, và trong mấy tháng sau đó nhà của anh là Bệnh viện Trẻ em. Các bác sỹ và y tá đã chiến đấu với tử thần, giành giật lại mạng sống cho cái hài nhi hấp hối ấy như thể nó là một hoàng thái tử, và khi họ đã hoàn thành phần việc của mình rồi thì họ giao lại nó cho Phòng Dịch vụ Xã hội. Nhận con nuôi, chứ không phải là đưa vào trại trẻ mồ côi, đang là trào lưu rất thịnh hành lúc bấy giờ, và trong mấy năm tiếp theo, đứa trẻ được chơi trong một căn phòng nhỏ cùng với một thằng bé Tây Ấn và một đứa trẻ Bắc Alien mồ côi, nó lớn phổng lên và tập đi, tập nói nhưng rất chậm. Gia đình tiếp theo nuôi nó được khoảng một năm, và cũng chính ở đây lần đầu tiên nó bắt đầu được biết thế nào là đau đớn, sợ hãi. Khi bà mẹ nuôi nó từ bỏ không tham gia Dịch vụ Xã hội, không phải do lỗi của bà mà là do lão chồng nghiện ngập, Robert lại bị chuyển đỉ, lần này là đến một nơi nương náu tạm thời do một giáo phái trông nom trong khi chờ đợi quyết định của các nhà chức trách xem phải làm gì với nó. Hóa ra đây lại là khoảng thời gian hạnh phúc duy nhất mà nó có được trong cả quãng đời niên thiếu cùa mình. Ánh nắng ấm áp chan hòa, bãi cỏ để chạy chơi, thỏ và mèo để chơi cùng thay vì căn nhà nhỏ bé chật chội sặc mùi sợ hãi. Hơn tất cả là một khuôn mặt với mái tóc sẫm màu, tuy xanh xao nhưng đôi mắt luôn nhìn thẳng vào nó mỗi khi người đó gọi tên nó, làm cho nó lần đầu tiên hiểu được rằng nó đích thực là Robert, và rằng trên thế gian này còn có người cũng biết đến điều đó, và rằng nó vẫn phải là Robert - mỗi ngày một lớn lên và mạnh khỏe thêm. Nó chẳng bao giờ học cách đặt tên cho một khuôn mặt, nhưng lại biết gắn liền khuôn mặt đó với một thứ tình cảm mà mãi đến tận sau này nó mới biết là tình yêu. Và khi khuôn mặt và giọng nói đó biến mất thì nó lại bị chuyển đi một lần nữa vì đó chỉ là một giải pháp tạm thời cho nó và còn có nhiều trẻ em khác có điều kiện khó khăn hơn cần được giúp đỡ - nó đã học được cách cảm nhận mất mát, đau buồn và tuyệt vọng. Và cả nghệ thuật để tồn tại. Để không bị tổn thương, anh hãy làm một kẻ vô cảm. Để khỏi bị thất vọng thì tốt nhất là đừng có hy vọng. Hãy tự tạo ra xung quanh mình một vỏ bọc dễ chịu để mọi đau khổ bên ngoài không thể xuyên qua, và trong cái vỏ bọc đó chỉ có bản thân mình, tuy cách biệt nhưng an toàn. Đó là hành trang sinh tồn của Robert Fenniman, cái tên được đặt theo người cảnh sát hôm đó đã tìm thấy anh và người bác sỹ chịu trách nhiệm chính trong việc cứu sống anh hồi ấy. Tính cách ôn hòa, điềm đạm chính là một phần đáng kể để hình thành nên cái vỏ bọc bảo vệ đó. Jane đã không nhận thấy điều này mặc dù cô luôn có cảm giác rằng cô sẽ chẳng bao giờ thực sự hiểu anh, cũng như là anh sẽ chẳng bao giờ biết được sự thật về cội nguồn của mình. Lịch sử ra đời của anh làm cho cô nửa lo âu, nửa bị mê hoặc, và không thể hiểu được làm sao anh có thể điềm tĩnh và thờ ơ đến vậy. Quá khứ của cô chẳng có gì là bí mật cả, nhưng về nhiều phương diện thì cuộc sống của cô lại hoàn toàn không ổn định, cũng giống như anh vậy. Bố cô đã từng là một nhà sáng chế, một người đàn ông bừa bãi và kỳ quặc mang chút hơi hướng thiên tài, nợ nần triền miên để rồi bắt đầu lại từ con số không. Mẹ cô thường xuyên bỏ đi rồi lại trở về với ông, và hiện giờ đang rất thỏa mãn sống một cuộc sống góa bụa ở một thị trấn nhỏ ven biển phía Nam, trông nhà cho ông em độc thân, hưởng thú điền viên và chơi bài brít. Jane thích mẹ theo cái cách cáu kỉnh của riêng cô, song lại luôn trở về mệt mỏi hơn bao giờ hết sau mỗi chuyến đi thăm bà và luôn miệng kêu ca về cuộc sống nghèo nàn và tự mãn quá quắt của mẹ. - Anh nghĩ là thể nào ông chú Walter của em cũng sẽ để lại cho em một ít tiền khi ông ấy mất - Robert nói. Họ thường nói với nhau những câu chuyện đại loại như vậy. Jane đã không mảy may hình dung được rằng sự bất mãn biểu lộ mãnh liệt ấy của cô đã chạm tới nguồn gốc của sự thiếu tự tin và bức bốì sâu thẳm trong anh. - Ông ấy thì làm gì có cái gì đáng giá - Jane nói vẻ khinh miệt. - Có cái nhà đấy thôi. - Cái nhà gỗ bé tẹo rẻ tiền giữa cả đống đến bốn trăm cái nhà cũng tồi tàn như nó ấy à. Không! Xin cảm ơn. - Em có thể bán nó đi mà. Robert với tay lấy cái hộp nhựa đỏ đựng các quân cờ, cảm giác đó làm anh thấy thỏa mãn. Anh đã nghĩ ra giải pháp đương đầu với vấn đề này và điều đó làm anh hài lòng. Nó tựa như một cái cọc chắc chắn cho anh bấu víu trong cơn phẫn nộ của Jane. - Cái nhà ấy có bán cũng chẳng mua nổi một túp lều ỏ London chứ đừng nói đến cái kho để than - Jane ước đoán. Robert biết rằng tốt hơn hết là họ nên chuyển đi khỏi London. Anh im lặng chờ đợi, đầu óc bị ám ảnh bởi nước đi tuyệt đẹp của con mã, trong khi Jane thao thao nói về những mơ ước đẹp đẽ hoang tưởng. Khi ván cờ hết nước đi, điều này thì chẳng mấy vì cơn giông tố có vẻ như trở nên tệ hơn bao giờ hết, anh sẽ lẩn tránh bằng cách tự nhủ mình bằng câu nói vĩ đại của Macbeth. "Ngày mai, ngày mai và ngày mai ..." Điều này chẳng dễ chịu gì, ngoài sự lo sợ trống rỗng đen tối với ý nghĩ mất Jane. Nhưng dù sao thì nó cũng giúp cho anh giữ được bình tĩnh để đánh giá và đối mặt với sự thật. Cuối cùng thì cơn bão cũng qua đi. Jane lại gần và ngồi xuống sàn bên cạnh cái ghế anh đang ngồi, dụi đầu vào gốỉ anh như một chú mèo hiền lành bày tỏ tình cảm với chủ.  - Em xin lỗi, anh yêu - Giọng cô nghẹn lại. - Anh cũng xin lỗi - Một tay vuốt mái tóc cô, tay kia vẫn cầm cái hộp đựng các quân cờ, anh nói: Anh thấy chỉ có một cách duy nhất để có thể giải quyết được vấn đề này - Thông thường trong những dịp như thế này anh thường đưa ra giải pháp như là cặp vé hạng nhất đi xem nhạc kịch ở Covent Garden hay một kỳ nghỉ cuối tuần ở Paris. Những “giải pháp” thường xuyên này, cùng với sách, đĩa nhạc và quần áo mới cho Jane, đã xóa sạch những gì hiện là nỗi ám ảnh của Jane về việc muốn có một “ngôi nhà xinh xắn”. Đã từ lâu, Robert nghiệm ra rằng cuộc trò chuyện tế nhị về các khoản vay nợ chẳng bao giờ được hưởng ứng cả. Đôi khi anh cũng có ý nghi ngờ rằng những mong ước cùa Jane là không tưởng, nhưng đề cập đến vấn đề này với cô hay cố gắng dưới bất kỳ hình thức nào để cô không ảo tưởng nữa có khác gì đưa quan hệ của họ đến bờ vực thẳm. - Cách gì, anh yêu? - Jane vừa hỏi vừa xích lại gần. Thay vì định nói “Chúng mình đến Caprice ăn tối đi”, anh bỗng sửng sốt và kinh hãi khi nghe thấy những lời mình thốt ra: - Hãy bỏ anh và tìm cho mình một người đàn ông có thể mua cho em tất cả những gì em muốn”. Không chỉ lời nói, cả giọng nói dường như cũng khác: chua chát, cay đắng, giận dữ và đau khổ, một giọng nói mà Jane thậm chí không hề biết đến và Robert nghĩ là đã hoàn toàn bị lãng quên trong suốt nhiều năm qua. Điều đó như thể Macbeth và các quân cờ đã quá căng thẳng để vượt qua cơn bão vừa kết thúc đến mức phá vỡ lớp vỏ bọc của anh. Jane co rúm người lại, trườn ra xa như thể anh đã đánh cô. - Anh nghĩ thế thật đấy à? Có phải anh muốn tống khứ em đi cho rảnh nợ không? Họ chằm chằm nhìn nhau trong giây lát, người này thấy rõ nỗi sợ hãi trong ánh mắt của người kia, và rồi họ ôm chầm lấy nhau như chẳng bao giờ có thể chia lìa. Tốỉ hôm sau, cũng vào tầm ấy, Jane về nhà và thông báo rằng cô đã suy nghĩ rất nghiêm túc rồi và đã quyết định phải chấm dứt cằn nhằn Robert, không rền rĩ với anh nữa và phải tự làm điều gì đó để có thể kiếm được nhiều tiền hơn. Đừng lo - cô nói thêm – Em sẽ không làm điều gì sai trái đâu, không bao giờ, dù bất cứ giá nào.” - Phúc đức quá - Robert uống cạn và rót thêm một ly nữa. Sống với Jane, người ta rất dễ mất đi những thói quen tiết kiệm. Trước khi gặp cô, anh thấy bằng lòng với những gì mình có. Hay nói khác đi, với anh một chút thôi cũng đã là nhiều rồi. Trong suốt mười năm sau khi bà mẹ nuôi, người đã nói với anh bằng giọng nói đem lại ý nghĩa lớn lao cho cái tên của anh ra đi, Robert đã có quá nhiều cơ hội để củng cố thêm cái vỏ bọc của mình. Chẳng có sự đốỉ xử thô bạo nào, nhưng vô cảm thì quá nhiều và thiếu thốn tình thương và niềm động viên. Rồi cuối cùng, khi bước vào tuổi mười sáu, anh được ông bà Quaker, cả hai đều là giáo viên đã nghỉ hưu nhận chăm sóc. Lòng tốt không dễ xúc động của họ rất thích hợp với Robert và họ cũng đã mở ra cho anh một cuộc sống trí tuệ. Dưới sự khuyến khích và hưóng dẫn của họ, anh bắt đầu đọc, học và trải qua các kỳ thi. Luôn rất thích ứng, luôn sẵn sàng điều chỉnh theo bất cứ điều gì anh muốn để anh chàng Robert trong vỏ không bị sợ hãi, anh nhanh chóng học được cách cảm thấy thoải mái khi đến trường. Cha mẹ nuôi vui mừng khi anh có giấy gọi vào đại học, và anh sung sướng cho họ và cho mình. Anh có thể và đã cảm nhận được lòng biết ơn, nhưng lại không thể nào cảm thấy hay bày tỏ tình yêu đốì với họ. Cũng may là họ không đòi hỏi điều này. Trong căn nhà tĩnh lặng của họ không có chỗ cho những cảm xúc mạnh mẽ. Nhẹ nhàng và lòng tốt; tôn trọng sở thích cá nhân của người khác, ưa thích đọc sách và tôn trọng sự thật là những bài học mà Robert đã học được từ gia đình cuối cùng nuôi anh này. Anh quen nhiều trong trường đại học nhưng không có bạn thân. Chẳng ai ghét anh song cũng chẳng có ai chú ý gì nhiều đến anh. Anh chẳng bao giờ gây ra điều gì rắc rốỉ, và luôn hòa nhập ở bất cứ nơi nào anh đến. Nhưng luôn luôn anh chỉ như một khán giả theo dõi diễn biến cuộc sống của những người xung quanh mà thôi: niềm hy vọng và sự sợ hãi, tình yêu và sự căm ghét - nhưng không bao giờ tham gia vai nào trong đó. Tránh những cảm xúc mạnh mẽ để không bị đau khổ, tránh những hy vọng cao xa vì chúng chỉ mang lại toàn thất vọng: đó là những bài học ban đẩu mà anh không bao giờ quên. Vì anh luôn tỏ ra điềm tĩnh và mãn nguyện, ở anh không bao giờ có dấu hiệu nào cho thấy sự cô đơn hay bất hạnh, nên thầy cô giáo cũng như các bạn sinh viên của anh đều cho rằng chắc chắn là anh có thân với một ai đó. Lối sống tách biệt nhưng không bất hạnh từ thời học đại học này đã theo anh đến khi ra đi làm. Robert chẳng có mục đích nào khác ngoài kiếm sống bằng cái cách mà sẽ không làm phật lòng ông bà Quaker, và đức tính kiên nhẫn cùng khiếu hài hước của anh rất thích hợp với nghề giáo và các bạn đồng nghiệp. Anh dạy ngôn ngữ và văn học Anh cho sinh viên nước ngoài, tham dự vào các hoạt động xã hội khi cần, nhưng không hề có quan hệ thân thiết với bất cứ một ai. Thời gian rỗi anh dành để đọc sách, chơi cờ, đi dạo một mình và thăm cha mẹ nuôi. Và rồi trong buổi liên hoan do một đồng nghiệp tổ chức, ai đó đã giới thiệu anh với Jane, cô chợt đến như một vầng nắng chói lòa phá vỡ cuộc sống khổ hạnh của anh, mang lại hơi ấm và làm tan đi sự cằn cỗi trong anh. Cô không để cho anh lảng tránh như những cô gái khác. Cô thích anh; cái vẻ bề ngoài lạnh lùng của anh như một thách thức với cô - cô yêu thích chính cái vẻ thách thức ấy ở anh, và cô quyết định phải làm cho anh chú ý đến mình, phải yêu mình. Trong hành trang của Robert, trong tất cả những bài học trường đời mà anh đã học, chẳng có điều gì dạy anh phải làm thế nào để chống trả những cuộc công kích dữ dội như vậy cả. Càng cố lẩn tránh, càng bị cuốn đi mạnh hơn. Và cuối cùng thì anh chẳng còn muốn trốn chạy nữa mà bước ra khỏi tình trạng vô thức như mặt đất thức dậy vào mùa xuân, và để cô dẫn dắt cuộc đời mình. Bây giờ thì anh không thể hình dung được cuộc sống mà không có Jane và cũng chẳng còn đường thoái lui. Anh đã phá vỡ cái nguyên tắc an toàn của bản thân và phải trả giá. Điều khá kỳ quặc là, gần gũi nhau như vậy nhưng Jane chưa bao giờ thành công trong việc đột nhập vào bên trong cái vỏ bọc của Robert. Có lẽ sẽ chẳng ai làm được điều đó. Có lẽ những tổn thương hồi nhỏ đã ăn quá sâu vào tâm hồn anh nên khó ai có thể hàn gắn lại được. Robert cũng phần nào hiểu được điều này và đôi khi anh cảm thấy giữa họ vẫn còn thiêu thiếu cái gì đó và rằng anh cần phải cởi mở hơn đốì với cô, chí ít là như cô luôn cởi mở về cuộc sổng và tâm tư của mình vậy. Anh trả lời cô những câu hỏi về quá khứ của mình với vẻ bình thản vốn có nhưng không bao giờ kể cho cô nghe về khuôn mặt và giọng nói đã ăn sâu vào tiềm thức anh trong nhiều năm qua. Đó là một thế giới huyền bí, quá mong manh và quý giá mà anh không muốn cho Jane biết đến. Cô phải cố phân tích nó từ xa, và anh đã bỏ lỡ điều gì đó mà ở một khía cạnh nào đó, thậm chí gần gũi với anh hơn cả bản thân Jane. Như vậy là vì một lý do nào đó, giữa họ đã có một hố sâu ngàn cách. Những khoảng quan trọng trong cuộc đời và cảm xúc mà họ chẳng thể gặp nhau. Nhưng về cơ bản là họ cần cho nhau và điều này giúp họ có thể tránh không nhìn vào cái khoảng cách đó. Tối nay cả hai người đều có vẻ như rất ý thức được mối nguy hiểm đang rình rập và thu mình lại trong sự cố gắng vượt qua ý nghĩ ảm đạm về buổi tối hôm trước. - Em không hiểu làm sào mà anh lại trở thành một công dân đáng kính như vậy - Jane nói giọng âu yếm - Điều này trái với mọi nguyên tắc xã hội học. Với sự dạy dỗ như anh được hưởng, chí ít anh phải là một thanh niên ngỗ ngược, và hiện giờ lẽ ra phải là một tên tội phạm nguy hiểm mới đúng. - Có lẽ phải vậy - Anh vừa cười vừa nói. - Tiếc là chẳng được cái may mắn như thế. Nếu cần làm điều gì bất hợp pháp thì chắc em sẽ phải làm một mình rồi. - Chắc không phải là em đang nghĩ đến việc ám sát các bệnh nhân giàu có đấy chứ - Robert bỡn cợt hỏi. - Đúng rồi, em đã nghĩ vậy đấy - cô trả lời anh cũng bằng giọng hài hước vậy - nhưng mà điều đó sẽ chẳng có tác dụng gì trừ phi họ để lại cho em thật nhiều tiền trong chúc thư, phải không?" Đôi mắt cô sáng long lanh trong tâm trạng hân hoan, tinh nghịch. - Anh không tin - Robert nói - Em mà nghỉ việc ở bệnh viện là rất tiếc đấy." - Em chẳng có sự lựa chọn nào khác sau cái lần cuốỉ cùng cãi lộn với bà quản lý bệnh viện. Và có khối điều đáng nói về dịch vụ chăm sóc bệnh nhân. Môi trường khác này, chọn được thời gian cho mình này, và ... - ... các bệnh nhân tư giàu có này, Robert cắt ngang - Anh biết em muốn nói gì rồi. Em định chiếm lòng tin cùa một bà lão ốm yếu nào đó để rồi nẫng đồ nữ trang của bà ta chứ gì. - Đúng là hiện có nhiều trường hợp thế thật - Jane nói giọng đã nghiêm túc hơn - Em có thể hiểu sự cám dỗ cùa nó, nhưng sẽ không bao giờ em làm vậy đâu. Đây là lợi dụng sự ốm yếu của người ta trong khi người ta tin tưởng giao cho mình chăm sóc. Nếu ai đó có chủ tâm muốn cho em một món quà thì đó lại là việc hoàn toàn khác. Chắc chắn không phạm pháp đúng không, em hứa với anh thế đấy, và điều đó chắc chắn chỉ đem lại thêm niềm vui cho người ta thôi chứ không phải là bớt đi đâu.’ - Anh có thể được biết đó là gì không? - Chỉ khi nào nó ảnh hưởng đến anh dưới bất kỳ hình thức nào thôi. Không phải bây giờ. - Nếu thế thì anh sẽ đi nấu vài món cho bữa tối đây để em đỡ phải vào cái kho than đó. Cô vênh mặt lên và đưa cho anh một túi đầy thức ăn vừa mua về. “Có thịt bê và một ít bột mua tận cái cửa hàng mới lộng lẫy ở phố Hampstead High đấy. Công việc ngày hôm nay của em phải đi qua phố ấy mà, em sẽ kể cho anh nghe lúc chúng mình ăn tối. Tối qua em thật đáng ghét phải không? Em sẽ nghĩ cách đền anh nhé.” “Cứ làm như mình còn bé lắm ý” - Robert nghĩ thầm khi mang túi đồ ăn vào bếp, tuy nhỏ nhưng rất tiện nghi. Trên thực tế thì khối người London còn phải thèm rỏ rãi căn nhà cách ga Paddington không xa của họ. Các buồng tuy nhỏ nhưng được sửa sang lại rất hoàn hảo; tàu qua lại hơi ồn một chút nhưng ở mãi cũng thành quen, và cặp vợ chồng trung niên trên gác thân thiện mà kín đáo. Thậm chí họ còn có một khoảnh khoảng vài mét để làm vườn và còn có vài tiếng được hưởng ánh nắng chiều trong những tháng hè. Điều lo ngại chính của Robert là hiện nay chủ nhà, một người có tuổi, lập dị nhưng nhân từ, có thể chết và họ sẽ phải chịu sự quản lý của một công ty bất động sản. Lúc bấy giờ thì Jane sẽ có lý do chính đáng để phàn nàn. Anh đặt thịt vào trong vỉ nướng và ao ước không biết đến lần thứ bao nhiêu là Jane có thể sẽ thấy hạnh phúc như anh, hài lòng như anh với những gì họ hiện có. Nhưng anh hiểu rằng mong muốn này cũng là không tưởng giống như sự thèm muốn không giới hạn của Jane đối với một cuộc sống xa hoa. Anh phải chấp nhận những ước mơ và hy vọng hão huyền của cô, cũng như cô phải chấp nhận thực tế là anh sẽ chẳng bao giờ kiếm được nhiều tiền cả. Khi yêu ai thì người ta phải chấp nhận những điều khó chịu này thôi. Và rốt cuộc, trong hoàn cảnh của anh, điều may mắn là Jane đã không yêu cầu anh phải là người trưởng thành trong khuôn phép, với một người có tuổi thơ như anh, lẽ ra anh đã không dám bước chân vào lĩnh vực tình ái nữa kia. Có lẽ anh đã điên khi yêu và phơi bày cái sinh vật nhút nhát trong vỏ bọc ra trước mọi thế lực phá hoại. Và tối qua, một cái gì đó đã rạn nứt. May mắn là Jane đã kịp nhận ra và nhanh chóng giúp anh sửa lại vết nứt đó. Vì thế bây giờ họ đang quay trở lại những gì đã qua, không bao giờ dự kiến cho bất kỳ tương lai hiện thực nào cả, chỉ mơ mộng (trong trường hợp của Jane) hay trốn tránh trong các con số và quân cờ (trong trường hợp của bản thân anh) và thu xếp các giải pháp nho nhỏ cho mình như thể họ là một cặp bé thơ không tình yêu cố gắng bù đắp lại cho nhau những gì mà cuộc đời đã không dành cho họ. Nhưng chúng ta không thể cứ sống mãi như thế này được, Robert nghĩ trong khi xé gói đậu đông lạnh; chúng ta sẽ không thể che mãi cái vết rạn ấy bằng một tờ giấy. Nỗi hoang mang sợ hãi lại tăng lên cùng với ý nghĩ về một cuộc sống không có Jane. Anh đấu tranh tư tưởng, tự nhủ rằng mọi cái không thể hoàn toàn giống như trước khi có cuộc tranh cãi tối qua được bởi vì chẳng có ai hai lần tắm trên cùng một dòng sông, nhưng sự khác biệt không có nghĩa là tồi hơn. Có lẽ cuối cùng thì Jane cũng bắt đầu hiểu ra rằng tính khí của cô đã có tác động đến anh. Có lẽ cô sẽ phải cố gắng để dung hòa. Thực tế là những cuộc tán gẫu như vậy về việc kiếm tiền từ những bệnh nhân giàu có có thể là bước khởi đầu của quá trình dung hòa đó. Trong chốc lát, anh không tin là cô đã có một kế hoạch cụ thể trong đầu, ngoại trừ mong muốn rất hợp lý là đến lúc nào đó nhận được một món quà mà thôi Robert rất thích nấu nướng, và với những ý nghĩ vui sướng ấy, anh với tay lấy mấy quả cà chua cùng một ít cải xoong để tô màu cho bữa ăn, và gọi với lên nhà bảo Jane sắp xếp bàn ăn. Cũng chẳng có gì phải làm nhiều ngoài việc dọn chồng sách báo và đẩy mấy cái ghế bành lại gần lò sưởi. Jane vui vẻ làm mà không cằn nhằn như mọi khi về chỗ ở và phòng ăn chật chội. - Mâm cơm tuyệt đẹp - Jane tán dương sau một hai phút im lặng - Khi nào chán dạy học anh có thể chuyển sang làm đầu bếp được đấy, nghề này chẳng bao giờ lo thất nghiệp cả. Robert không thấy có ẩn ý gì trong nhận xét đó nên không có phản ứng gì. - Anh không hế phản đốì, nhưng anh tin là giờ thì họ cần em cung cấp thực phẩm cả năm cho trưòng đấy. - Em sẽ không nhận làm cho họ nếu anh có ý định tự mình mở một tiệm ăn nhỏ.” Họ không ngừng tranh luận sôi nổi về vấn đề này cứ như định thực hiện những việc đó thật. Robert phân vân không biết đó có phải là một phần nỗ lực của Jane trong việc chỉ ra rằng cô cũng có thể thực tế trong việc làm ăn kiếm tiền. Dường như anh thấy rằng mình cũng cần phải cố gắng để làm được như vậy, và anh đề nghị cô kể cho anh nghe về người bệnh ở Hampstead, vì anh có cảm giác là cô đang muốn được anh hỏi. Jane kể chi tiết cho anh nghe, và Robert quên bẵng đi sự căng thẳng giữa hai người và quên đi nỗi sợ hãi của mình. Họ ngồi sang ghế bành trước lò sưỏi uống cà phê, và Robert theo dõi biểu hiện diễn biến tình cảm của Jane trong khi nghe câu chuyện thương tâm và bi thảm của một kiếp người. Mời các bạn đón đọc Cuộc Sống Ngắn Ngủi của tác giả Anna Clarke.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Pháo Hiệu Đỏ
Tác phẩm Pháo Hiệu Đỏ khắc họa tinh thần chiến đấu của những người lính Liên Xô trong cuộc chiến tranh Vệ quốc, thông qua một trận đánh chiếm trường học với quân Đức. Cuốn Pháo Hiệu Đỏ này gồm hai truyện vừa: Pháo hiệu đỏ Gia đình đại úy Đôrôkhin *** Lời tác giả Các bạn thân mến! Cuốn truyện vừa nhỏ bé này đã được viết vào lúc nghỉ ngơi giữa các trận đánh hồi cuối năm 1942: thời kỳ gian khổ của cuộc chiến tranh mà đất nước chúng tôi đã tiến hành để chống chủ nghĩa phát-xít Đức. Tôi đã phục vụ trong một sư đoàn đã tham gia phòng thủ Moskva, về sau sư đoàn ấy đã tham gia cuộc phản công của quân đội chúng tôi đánh đuổi bọn xâm lược Hitler. Trong truyện vừa này, tôi cố kể lại về chủ nghĩa anh hùng của những người lính Xô-viết đã chiến đấu trên những phòng tuyến ngoại thành Moskva. So với hồi bấy giờ thì trong truyện vừa này không có điều gì đặc biệt và khác thường cả, truyện này chỉ nêu lên việc xảy ra bình thường ngoài mặt trận. Trong những ngày ác liệt này, chủ nghĩa anh hùng của nhân dân Xô-viết ở ngoài tiền tuyến cũng như ở hậu phương là một biểu hiện chung của mọi người và ở khắp nơi; hồi đó, chiến công là tiêu chuẩn trong tư cách con người. Nhân dân Xô-viết thuộc mọi lứa tuổi, mọi nghề nghiệp đều đứng lên chiến đấu chống quân thù. Đảng cộng sản đã đoàn kết toàn dân – và chúng tôi đã chiến thắng! Tôi vô cùng sung sướng là cuốn sách này của tôi sẽ được các bạn đọc, tôi hy vọng như thế. Chúng tôi, những người Xô-viết, hiểu rất rõ thế nào là chiến tranh, chúng tôi nhớ lại mọi điều: những trận ném bom thường xảy ra, những đám cháy của thành thị, tình trạng tâm thần căng thẳng tột độ, những hy sinh, những mất mát họ hàng thân thích… Và vì thế, hỡi các bạn thân mến, chúng tôi rất khâm phục tinh thần dũng cảm của các bạn! Nhân loại sẽ không bao giờ quên chiến công huy hoàng của các bạn, những người Việt Nam gan dạ, tự hào và tha thiết yêu tự do. Còn kẻ thù của các bạn, kẻ thù độc ác trong nhiều năm ngập ngụa trong những tội ác đẫm máu, thì nhất định sẽ bị đánh bại. Cũng như chủ nghĩa phát-xít Đức đã bị đánh bại – điều đó thì không còn nghi ngờ gì nữa. Cuối cùng thì thắng lợi bao giờ cũng thuộc về chính nghĩa, tự do và dũng cảm. Hỡi các chiến sĩ Việt Nam, chúng tôi hết lòng ủng hộ các bạn! Georgy Beryozko *** Đúng 17 giờ 30, trung úy Gorbunov dẫn quân mở đợt tấn công, và để chấp hành mệnh lệnh, trung úy vừa chiến đấu, vừa lao vút đến rìa phía đông của làng. Một bộ phận những xạ thủ của anh đã nằm trong những chiến hào phủ băng mà bọn Đức bỏ lại. Gorbunov vừa bắn tiểu liên vừa chạy đến ngôi trường đen sẫm. Ngọn lửa chập chờn chiếu sáng gian phòng trống, ngổn ngang những gạch vỡ. Gorbunov dừng lại và ngừng bắn. Anh nghe ở phía sau lưng có tiếng chân nện thình thịch và hơi thở hồng hộc của những người đang chiến thắng. Các chiến sĩ dùng báng súng mở toang những cánh cửa và lần lượt chiếm lớp này đến lớp khác. Tiếng hô “xung phong” đã ngừng bặt, và trung úy cất cao giọng khản đặc ra lệnh bắn ba phát pháo hiệu trắng. Theo mệnh lệnh đã quy định thì đó là dấu hiệu chiến thắng của anh. Những chiếc pháo hiệu bay vút lên bầu trời, và bây giờ thì chính Gorbunov phải chờ tín hiệu. Pháo hiệu đỏ ở hướng tây-nam sẽ phải báo cho anh biết về cuộc tấn công chung đã bắt đầu. Gorbunov nhận được lệnh yểm hộ cuộc tấn công của nhóm quân chủ lực có nhiệm vụ đánh chiếm, còn sau đó thì sẽ hợp nhất với nhóm đó để tiêu diệt quân thù. Mệnh lệnh rõ ràng và ngắn gọn, như mọi mệnh lệnh xuất sắc khác. Các chiến sĩ bố trí trong trường học. Họ nạp lại đạn, làm huyên náo, ăn tuyết – một sự khích động lớn đang nung nấu trong lòng họ. Sức mạnh đáng sợ của lòng căm thù dữ dội đã làm cho họ vùng lên, và chỉ vừa mới đây thôi, họ đã chạy trên lũy đất băng giá được những ánh lửa chói lòa bùng lên soi sáng. Nảy sinh từ ý chí muốn sống, sức mạnh đó đã làm tiêu biến nỗi lo sợ chết, và giờ đây sức mạnh đó vẫn đang tìm lối thoát. Tròng trắng của những cặp mắt dữ tợn ánh ngời lên trên những khuôn mặt đen sạm và tím lại vì băng giá. Hơi tỏa ra từ những cái mồm mở rộng, bay lơ lửng trên đầu. Gorbunov đứng giữa lớp vừa thét vừa ra lệnh. Qua lỗ thủng to tướng trên tường do đạn đại bác đã xuyên qua, nom thấy rõ mảnh trời trăng dày đặc sương mù. Những viên đạn sáng rực vút bay trong không trung màu lam nhạt. Gorbunov đi đến gần lỗ thủng, áp mình vào tường và nhìn ra ngoài. Ở phía trước, khoảng chừng một trăm rưởi thước, bọn Đức đang ở trên bờ cao của dòng mương xói phân cách làng với trường học. Chúng ẩn nấp trong những ngôi nhà gỗ đen ngòm, phủ đầy tuyết; ở hầm nhà thì chúng đặt những khẩu đại liên. Những nòng súng không nom thấy từ đó chĩa thẳng đến trường học và các chiến hào… Đằng sau ngôi nhà đó, mờ mờ hiện lên một dải rừng xanh phủ tuyết, giống như một đám mây đen sa xuống. Ở phía ấy, trong lòng sâu của đám mây đen kia, đáng lẽ phải lóe sáng lên ánh chớp của mũi tấn công chủ lực, nhưng dải rừng lúc đó thật là yên tĩnh và bí ẩn. Thỉnh thoảng những chiếc pháo sáng treo lơ lửng trên hàng tiền duyên tuyến phòng ngự của địch. Ánh sáng không sinh khí tỏa xuống mương xói, và Gorbunov nom thấy rõ rệt ở đáy mương xói một thành giếng phủ đầy băng, những lối mòn in hằn trên tuyết, những xác chết đã biến dạng tựa hồ như những vết mực nhòe. Ở đằng xa trên chân trời, một cái ấp đang cháy. Ngọn lửa vàng khè, hầu như bất động, le lói sáng trong màn đêm sâu thẳm và giá lạnh của tiết tháng giêng. Gorbunov vuốt mặt, sờ thấy trên má một thỏi băng con. Anh rứt nó đi và cảm thấy ran rát đau. Té ra là khi tấn công, anh bị xây xát mặt mà không biết. Anh lấy lòng bàn tay thu nhặt tuyết có lẫn cả gạch và áp vào má. Tuyết nhanh chóng tan ra. Trung úy nhìn bàn tay vấy bẩn nước đen đen, nghĩ rằng cần phải băng má lại, nhưng ngay lập tức, anh đã quên bẵng điều đó. - Trung úy đâu? – một giọng khản đặc thét lên trong bóng tối. Gorbunov nhận ra Medvedovsky, tiểu đội trưởng. - Có chuyện gì thế hở? – trung úy thét lên và chỉ đến bây giờ anh mới nhận thấy là mình luôn mồm thét to, mặc dù chẳng cần phải thét nữa. - Báo cáo đồng chí trung úy, các chiến sĩ hỏi, cớ sao bọn ác ôn kia được ngồi trong nhà sưởi ấm, còn chúng ta thì giẫm chân trong băng giá. - Củng cố vị trí rồi chứ? – cố kìm mình, trung úy hỏi khẽ. - Báo cáo có! – tiểu đội trưởng gào to. - Việc gì anh phải thét lên thế? – Gorbunov nói. - Tôi không thét ạ! – tiểu đội trưởng gào to. - Củng cố rồi, thế là được! – Gorbunov đáp. Anh cảm thấy nóng và dựng những vành tai của chiếc mũ lông lên. Khí phách hiên ngang vừa vui vẻ vừa dữ dội lạ lùng vẫn còn sôi nổi trong tâm hồn anh. Trong giây lát, một ý nghĩ điên rồ thoáng hiện trong óc trung úy: không chờ tín hiệu, cứ dẫn quân tấn công đánh chiếm làng mà không cần sự chi viện của ai cả. Một cảm giác tinh nghịch đã thôi thúc anh, giống như cảm giác của con bạc gặp vận đỏ đang đặt món tiền cái tăng gấp đôi. Nhưng mệnh lệnh là mệnh lệnh, không lôi thôi gì cả; và hơn nữa với lực lượng nhỏ bé mà anh hiện có trong tay thì cuộc tấn công vào một vị trí đã được củng cố chắc chắn sẽ thất bại thảm hại. - Hãy quan sát, – trung úy nói. – Có lẽ là chúng ta sẽ sưởi ấm cho đến tảng sáng. Các chiến sĩ túm tụm lại. Trong góc, những chiếc áo dài ngụy trang của họ ánh lên màu trăng trắng. Sau giờ phút căng thẳng đến kiệt lực của trận tấn công, giờ đây mọi người đều muốn ăn và hút. Họ gặm lương khô, và những ánh lửa thuốc lá lập lòe trong bóng tối. - Nó xông vào tớ, – Lugovykh thét to, anh ta là một nông dân mặt chữ điền, râu ria xồm xoàm, quê ở Ngoại Ural, – nhưng chính cu cậu thì lại sợ quá nên khẩu súng trường run rẩy trong tay. Tất nhiên là tớ chẳng bỏ lỡ cơ hội… - Tớ lễ phép bảo nó: “Đồ chó đẻ, đầu hàng đi!” còn nó thì đưa tay lấy lựu đạn. Tớ liền nói: “Tùy ngài thôi…” Dvoeglazov không nói hết câu và nhún vai. - Cậu bắn chứ? – Lugovykh thét to. - Nếu kẻ thù không hàng thì người ta diệt nó, – Dvoeglazov nói. - Đúng thế! – Kochesov gào lên. – Tớ cũng làm như thế. Kochesov quê ở Baku, anh là một người xà ích có đôi vai rộng, vạm vỡ như ông hộ pháp, anh thở hồng hộc và chậm rãi đảo qua đảo lại cặp mắt tròn, tựa hồ như cặp mắt người say rượu. Vừa ngắt lời nhau vừa tranh nhau nói, các chiến sĩ kể lại trận đánh mà họ đã chiến đấu rất giỏi. Họ cảm thấy sung sướng vì họ còn sống và được thấy quân thù tháo chạy khỏi họ. Sự gần gũi của đồng đội giờ đây đã đem lại cho họ nỗi lòng khoan khoái rõ rệt. Việc cùng nhau chịu đựng nguy nan và cùng nhau vui hưởng thắng lợi đã xóa bỏ mọi điều không thích nhau giữa người này với người khác mà trong những hoàn cảnh khác thì có thể xảy ra. Vì bị kích động nhiều nên họ chửi rủa và đùa cợt lẫn nhau. Gorbunov gọi trung sĩ Rumyantsev đến chỗ mình. Một vệt xám rời khỏi tường và bò trên sàn. Trung sĩ đứng sau lưng Gorbunov. Ngoái lại, trung úy thấy khuôn mặt sạm đen với cái mũi hếch và đôi mắt ti hí tươi cười. - Cảm ơn, trung sĩ, – Gorbunov nói. – Anh không bị thương chứ? - Còn sống! – với một vẻ ngạc nhiên vui vẻ, Rumyantsev trả lời. Gorbunov mỉm cười nhìn trung sĩ. Chính anh ta, Rumyantsev, người đầu tiên len lén bò đến hầm súng máy, liệng vào đấy một quả lựu đạn, và khi bọn Đức sống sót chạy thục mạng, thì anh đã hét to đến nỗi mọi người đều nghe được: “Nào, các cậu ơi! Bọn phát-xít trong tay chúng ta rồi!” - Còn sống, – Gorbunov lặp lại, tỏ vẻ tán đồng, dường như chính điều đó là công lao chủ yếu của cá nhân trung sĩ. – Cừ lắm! Rumyantsev thích người chỉ huy của mình. Giờ đây anh đặc biệt khoái trá thấy nét mặt trông nghiêng của trung úy với gò má cao, cái mũi to và đôi môi mỏng. Trong sự nghiệp đầy nguy hiểm lớn lao ấy mà họ cùng nhau thực hiện, đời sống của mỗi người tùy thuộc không những vào sự khéo léo hay may mắn của cá nhân, mà còn vào điều những người khác đã xử sự và hành động như thế nào. Sau trận đánh thắng lợi, Rumyantsev cảm thấy một niềm tin vô hạn đối với trung úy. Anh cho là cái may mắn riêng của mình trong một chừng mực nào đó cũng là nhờ những hành động khéo léo của người chỉ huy. Anh lúng túng lặng thinh, không tìm được lời diễn đạt lòng biết ơn và khâm phục của anh. - Còn sống! – anh nhắc lại một lần nữa với giọng biết ơn. Trung úy giao cho một người chỉ huy cấp dưới của anh theo dõi xem ở hướng tây-nam pháo hiệu đỏ có xuất hiện không. Anh bảo Rumyantsev đi theo và ra đi xem xét trường học. Bước ra cửa thì hai người gặp Masha Ryzhova. - Chào đồng chí trung úy! – Masha nói khẽ, giọng hầu như là trẻ con. – Có gì mới không ạ? - Không, – Gorbunov nói. - Khó khăn lắm mới lần đến chỗ đồng chí được, – Masha nói. - Cô ta thì dù khó khăn đến mấy đi nữa, bao giờ cũng vẫn lần đến được cả! – Rumyantsev nói to. Cô gái thở dài, cất mũ và lắc đầu giũ làn tóc rối. Dưới ánh trăng lờ mờ, Gorbunov thấy khuôn mặt tròn trĩnh của cô với đôi mắt sâu trong bóng màu lam đẹp một cách lạ lùng. Cũng như mọi người trong đơn vị, anh tự hào về người nữ y tá của mình. Nhưng Masha là một cô gái trẻ măng, nên Gorbunov cho rằng anh có thể hỏi cô những điều mà không bao giờ anh hỏi người đàn ông. - Thế nào, chị đi đến đây có sợ không? – anh niềm nở nói. - Mọi người đều hỏi tôi như thế, – Masha nói. – Khoảng không quanh tôi thì rộng và nhiều, tôi chỉ chiếm một chỗ không lớn lắm ở trong đó. Thế thì vì sao đạn lại cứ phải nhất thiết trúng vào tôi? - Viên đạn là đồ ngốc, – trung úy âu yếm nói. - Đúng thế, – Rumyantsev bật cười. - Tôi chỉ phải băng cho ba người, – Masha nói. – Thiệt hại chỉ có thế thôi. - Ivanovsky thế nào? – trung úy hỏi. - Sẽ khỏi thôi, – Masha đáp. - Tội nghiệp, anh chàng thật không may, – Gorbunov nói. Chính trị viên Ivanovsky bị thương lúc mới bắt đầu tấn công. - Mệt kinh khủng, – Masha phàn nàn. - Thế thì chị hãy nghỉ đi, – trung úy nói. Gorbunov và Rumyantsev lần theo cầu thang bằng đá có tay vịn bị sập xuống, leo lên tầng hai. Trong gian phòng mà họ bước vào, có lẽ trước đây là thư viện của nhà trường. Sách nằm hàng đống trong góc, phủ đầy tuyết từ ngoài trời bay vào, Những tờ giấy bị xé ra nổi lên lờ mờ màu lam nhạt trên nền nhà đen thẫm. Gorbunov cúi xuống nhặt một quyển sách, Anh đọc trên trang bìa: – “Gogol. Taras Bulba”. Trung úy nhặt một quyển sách khác: “Jules Verne. Tám vạn dặm dưới nước”. - Sách hay đấy, – anh nói với Rumyantsev, rồi lấy tay áo phủi lớp sương muối trên bìa và để sách lại chỗ cũ. Trong khung cửa sổ hình chữ nhật tràn ngập ánh trăng, hai chiến sĩ đã đặt khẩu súng liên thanh. Chiếc bàn dài trắng xóa lạ thường vì bị phủ lớp sương muối. Gorbunov nói chuyện với các chiến sĩ, rồi đi tiếp. Trong một lớp học bên cạnh còn giữ được hai tấm các tông treo trên tường, trên đó có dán những tranh vẽ của học sinh. Trên một mẩu giấy con, có những chiếc phi cơ kỳ lạ đang bay; những bông hoa với tràng cân đối hướng về phía người xem. Những con người với những cặp chân quẹo đứng bên cạnh những ngôi nhà bé tí, đẹp đẽ, và mặt trời tua tủa những gai, hệt như một con nhím, chiếu sáng họ từ trên bầu trời quang mây. Sương muối bám trên những nếp cong của tờ giấy, trên những góc gãy của tấm các tông. - Thật giống hệt như cháu Lena nhà tôi đấy, – Rumyantsev thốt lên. – Con gái của tôi, cũng là nữ họa sĩ cơ đấy. - Chúng nó vẽ tuyệt thật! – Gorbunov nói tin tưởng. Anh đã hai mươi bốn tuổi, chưa vợ. Nhưng đứng trước những tranh vẽ mà trên đó có ghi tên họ của các tác giả theo đủ mọi hướng “Vitya Pogorelov, lớp II”, “Zoya Surovtseva, lớp I”, “Dusya Pyatakova, lớp I”, “S. G. Lukashin, lớp II”, “Nina Volkova, lớp II”, trung úy cảm thấy nếu anh không phải là bố của những đứa bé ấy, thì cũng là người anh cả của chúng. Anh khâm phục chúng, với tư cách một người bà con gần gũi nhất. Và với tư cách là một người bà con, anh cảm thấy rất hài lòng với ý nghĩ là chính anh cùng với các chiến sĩ của mình đã trả lại trường học cho bé Nina Volkova. Bọn Đức đã đuổi các em đi khỏi nơi này, đã phá phách thư viện và làm bẩn các lớp học, – còn trung úy, trong khi đánh đuổi bọn Đức đi, anh đã làm một công việc thật là thiêng liêng. Anh đã làm cho chính nghĩa được thắng lợi. Ý nghĩ đó nảy ra sau trận đánh, dường như là một phần thưởng vì đã trải qua những trận thử thách đầy gian khổ. Chính ngay trong trận chiến đấu, trong tiếng nổ ầm ầm của kim loại, trong đám khói thuốc súng thơm thơm, trong hoạt động căng thẳng đến tột độ, anh cảm thấy hình như chỉ có những cái gì đang diễn ra chung quanh mới có ý nghĩa mà thôi. Khi tiếng súng tiếng đạn đã ắng lặng thì tất cả những điều gì đã bị lãng quên giờ đây lại lơ mơ hiện ra trong trí nhớ, lần lượt điều nọ nối đuôi điều kia, dường như trở lại với cuộc sống, cuộc sống một lần nữa đã giữ gìn được. Gorbunov nhớ lại rằng anh làm nghề khí tượng và tốt nghiệp trường đại học một thời gian không lâu trước chiến tranh, rằng mẹ anh, Natalia Sergeevna Gorbunova, đang ở Saratov, rằng chị anh đã lấy chồng và em anh đi bộ đội. Anh buồn nhớ những đồng chí đã hy sinh trong chiến đấu và hỏi xem quân bưu đã đưa thư đến chưa. Anh thấy đói và phái người đi hỏi xem bao giờ thì người ta sẽ đưa cơm nước đến. Ý thức về ý nghĩa cao cả và tính chất chính nghĩa của cuộc chiến đấu mà anh đang tham gia, đã đem lại cho lòng anh một niềm kiêu hãnh tràn đầy. Cũng như mọi quân nhân khác, trung úy không đánh giá cao những người đàn ông ở lại hậu phương, nhưng thỉnh thoảng anh cũng thương hại nghĩ đến họ. Những người đó thì không bao giờ được biết nỗi hân hoan mà hiện giờ Gorbunov đang cảm thấy khi nhìn vào những tấm các tông của học sinh. Gorbunov đứng ngắm tranh vẽ trong vài giây, rồi nhanh nhẹn bước đi, dường như có một sức mạnh kỳ diệu nâng anh lên. Anh đi qua những chốn quê hương thân mến mới giành giật lại được trong tay quân cướp nước bằng một trận chiến đấu ác liệt. Anh cảm thấy mình là người bảo vệ cho những người yếu đuối – cho Gogol, Jules Verne, Nina Volkova, những người sẽ trở lại đây, theo sau các chiến sĩ của anh. Anh là một người đem lại hạnh phúc. Đi qua dãy hành lang ngổn ngang những bàn học, Gorbunov bước vào gian phòng có treo những giá trống không trên tường. Anh là người giải phóng, và ngọn gió chiến thắng đã thổi xốc anh tiến lên. Trung úy lấy chân đá mạnh vào cái ống của chiếc mặt nạ Đức đề phòng hơi độc, cái ống ấy chạm vào tường kêu loảng xoảng. Trong lớp rơm trải trên sàn, thấy lấp lánh sáng những vỏ đồ hộp. Cửa phòng bên cạnh đã đóng chặt, và trung úy mở toang cửa ra. Gian phòng ở góc tràn ngập ánh sáng xanh lam. Ngay đối diện cửa, một người cao, có râu, mặc áo vét-tông đen, đứng áp sát tường. Đầu của người đó ngoẹo ra sau, mặt ngửa lên, và hai mắt sợ hãi sáng lên nhìn chằm chằm những người đang đi vào. Gorbunov suýt nữa thì kêu lên: “Anh làm gì ở đây thế?”, nhưng nghẹn lời và nghiến chặt quai hàm. Hai chân không giày của người đó lơ lửng trên sàn. Một cái khung ảnh bằng gỗ dán có đường chạm trổ, nằm gọn trong bàn tay duỗi nắm chặt, chắc là nó bị giật ra trong giây phút giãy giụa cuối cùng của người đó để tìm chỗ bấu víu. Một sợi dây điện mảnh choàng qua cổ, chạy thẳng lên trần nhà. Các cửa sổ đều không có kính, và tuyết phủ lên tấm vải trải giường nhàu nát, lên bàn, lên áo của người bị xử giảo. Gorbunov và Rumyantsev tháo dây thòng lọng cho cái thi hài nặng nề, cứng đờ như một tấm gỗ, rồi khiêng đặt lên giường. - Chắc là thầy giáo… – Rumyantsev thốt lên. - Vâng, – trung úy nói. Trời bỗng sáng bật hẳn lên. Ngọn lửa xanh nhạt của chiếc đèn dù Đức chiếu sáng gian phòng. Tròng trắng lồi ra của cặp mắt đùng đục như thủy tinh trên mặt cụ già, lấp lánh lên, dường như trong giây lát sức sống đã sáng lên. Trong chiếc khung gỗ dán mà cụ giáo viên không muốn rời ra, có tấm ảnh một cô bé đeo hai chiếc nơ trên mái tóc. - Đồ quỷ sứ! – trung sĩ cau có lầu bầu. Hai người đi ra và lặng thinh bước xuống bậc cầu thang. - Chắc là cháu gái của cụ, – trung sĩ phỏng đoán. Gorbunov hình dung thấy cụ giáo viên già vùng vẫy đôi tay, quào bấu trên tường cố giữ cho thân hình không rơi vào cõi chết. - Có thể là thế, – trung úy nói lạnh lùng. Anh cảm thấy nghẹn lời, khó nói về cụ già bị hành hạ. Trong trận đánh gần đây, Gorbunov đã tự tay mình bắn chết một tên lính phát-xít. Nhớ lại điều đó, anh thấy nhẹ nhõm hơn trong lòng. Anh đi đến gần người quan sát đang đứng cạnh lỗ thủng ở tường. Chẳng hiểu vì sao Gorbunov cảm thấy là hình như ngay bây giờ anh sẽ ra lệnh tấn công. Anh khát khao được trả thù ngay lập tức, trả thù một cách đầy đủ. - Báo cáo đồng chí trung úy, không có pháo hiệu đỏ, – người quan sát báo cáo. - Anh xem kỹ rồi chứ? – Gorbunov hỏi. Và cả hai người nhìn về hướng tây-nam, về phía dải rừng xa xăm, phủ đầy tuyết, dải rừng bí ẩn và đen sẫm, giống như một đám mây dông. Mời các bạn đón đọc Pháo Hiệu Đỏ của tác giả Georgy Beryozko.
Made in Vietnam
Lời bạt của Đoàn Cầm Thi: Bạn muốn viết văn ? Nếu viết tình yêu, tựa đề nhất định phải bắt đầu bằng “Chuyện tình kể” như­ hai nhà văn đ­ương thời danh tiếng nhất Việt Nam. Đừng nên coi thường chữ “kể”, nó cho ngư­ời ta dốc bầu tâm sự như­ dốc n­ước khỏi chai. Kỷ niệm ơi kỷ niệm, có ngư­ời Việt nào không tôn thờ kỷ niệm ? Ngay trong cái tựa đó, tùy thẩm mỹ mà sẽ thêm “trong nắng chiều” “lúc mư­a khuya” mộng mơ Tự lực văn đoàn, hoặc “trư­ớc bình minh” “buổi ban mai” hồn nhiên hiện thực xã hội chủ nghĩa. Sau đó, bạn sẽ chia nhân vật thành hai tuyến thiện và ác, đương nhiên nhân vật tốt phải là tấm gương cho độc giả soi vào. Còn nếu muốn tỏ ra sắc sảo hơn, bạn có thể làm như­ nhà văn nam danh tiếng : ác tí ti thiện tí ti. Hãy để cho nhân vật nữ bị em chồng hiếp, bố chồng nhìn trộm khi tắm, đừng kể lể gì về những khoái cảm hay giận dữ của cô ta, mà cho cô thốt lên lời đức hạnh : “Khổ chứ. Nhục lắm. Như­ng thương lắm”. Sẽ có nhà phê bình ví cô với Đức mẹ đồng trinh cho mà xem ! Cho đến năm 2001, mọi cuộc tranh luận sôi nổi nhất của văn học Việt, chính thống hay không chính thống, đều luẩn quẩn ở cái Tâm : cả ngư­ời đọc lẫn ngư­ời viết ai cũng lo nó không cạnh tranh nổi môn luân lý học. Cuộc bút chiến Trí thức/Phản trí thức vư­ợt trùng dương, sau một hồi náo nhiệt, cũng bị cái Tâm cho xí xóa hòa cả làng. Về câu chữ, chỗ nào cần thư­ơng cảm ắt phải có nư­ớc mắt, lá mà rơi thì đ­ương nhiên phải xào xạc. Nhịp điệu thì lúc nhặt lúc khoan, lên xuống tuỳ cảm hứng. Đôi lúc nên xen kẽ vài đoạn thơ, gọi nôm na là “tiếng nói vô thức”. Bạn cũng cần có vài xen kiếm hiệp cho thêm ly kỳ, kiểu c­ưỡi ngựa bắn súng hay công an đuổi bắt tù v­ượt ngục, hay cả hai. Nếu có chút ngoại lai nữa thì tuyệt : Tây bắc này, Cali này, hứng lên có thể cho cô gái Mèo khóc ở Ba lê hoa lệ. Cuối cùng xin đừng quên những câu giầu tính suy t­ư như­ “Tình yêu đấy là một hung thần” hay “Về bản chất đàn bà đứng về phía trật tự… Không có trật tự nào dung được tình yêu to lớn”. Bí quyết là làm thế nào cho ngư­ời đọc phải cảm thấy ở tận cùng văn bạn là nỗi cô đơn, sự trải đời, khả năng yêu th­ương và đau đớn, là con ngư­ời viết hoa ! Họ phải sờ đư­ợc cả nếp nhàu trên mặt bạn ! Họ phải nhìn bạn như­ tín đồ thiên chúa giáo nhìn Giê-su chịu nạn ấy chứ ! Cứ viết như­ thế đi, nếu không thành công, bạn sẽ chẳng thất bại. Như­ng nếu bạn lại bảo : “Rằng hay thì thật là hay…” ? Viết một tiểu thuyết không kết không mở không cao trào-xung đột-mâu thuẫn, không thắt nút-mở nút, một tiểu thuyết không ch­ương đoạn, không dấu xuống hàng, ý này vắt sang ý kia, tiết kiệm chấm phẩy và các mỹ từ, thán từ cùng các câu trau chuốt. Tạo cho tiểu thuyết một nhịp điệu gồ ghề. Tránh cho ng­ười đọc các đoạn tả cảnh tả tình, phân tích tâm lý nhân vật vừa dông dài vừa vô nghĩa. Tha cho họ những xúc động, ngợi ca. Viết tình yêu mà không cần phải trữ tình. Kể một Việt Nam đ­ương đại mà không nhất thiết phải lôi ra các vết th­ương chiến tranh, chế độ toàn trị, quan liêu tham nhũng, đói nghèo hay suy đồi đạo đức. Made in Vietnam của Thuận là một thử nghiệm như­ thế. Nó sẵn sàng lặp lại, từ hai lần trả lời không khác nhau một dấu chấm dấu phẩy của giám đốc Nguyễn Đức L­ương, từ hai mư­ơi người bạn trai cùng tên Khánh của nhân vật nữ chính, từ các buồng tắm giống nhau như­ những giọt n­ước của ngư­ời dân thủ đô thời mở cửa, từ cái phải làm phải ăn phải mặc, ng­ười phải gặp trong bảy ngày tết Nguyên đán. Made in Vietnam là cái nhàn nhạt của xã hội Việt Nam hôm nay, ở đó thời gian cứ trôi đi mà chẳng ai nói “Tại sao thế ?”, chẳng ai hỏi “Phải chăng ta đang yêu cái mà tám m­ươi triệu ngư­ời khác đang yêu, sống cuộc sống mà tám m­ươi triệu ng­ười khác đang sống ?”. Và tr­ước hết, nó cùng ng­ười đọc kiếm tìm một thẩm mỹ mới, một nhận thức mới về văn học. *** Cuối cùng Hà Nội cũng đến được năm 2000. Đêm mồng một tháng một một phụ nữ trẻ Hà Nội tên là Trần Minh Phượng lên giường ngủ từ chín giờ tối, sớm hơn thói quen đúng một tiếng, để chuẩn bị cho buổi đi làm lần đầu tiên trong đời vào sáng hôm sau, để trở thành một cán bộ công nhân viên nhà nước. Kĩ sư canh nông Nguyễn Thanh Bình, chồng của Phượng, không thể xem vô tuyến trong lúc vợ ngủ đã ngồi đánh xi cả năm đôi giầy màu đen cỡ bốn mươi ba. Đêm hôm ấy, giám đốc Nguyễn Đức Lương hoà giải với vợ bằng cách quay lại phòng riêng của hai vợ chồng sau ba đêm ngủ trên đi-văng phòng làm việc. Cũng đêm hôm ấy, nhiều người Việt Nam nhớ lại bài trả lời phỏng vấn các nhà báo Mỹ của cố thủ tướng Phạm Văn Đồng, hai mươi năm trước, về tương lai của chủ nghĩa xã hội có khẳng định câu trả lời sẽ là năm 2000. Hai mươi năm đã qua, Hà Nội không còn là thành phố của thế hệ những người nói tiếng Pháp còn nhanh hơn tiếng Việt. Hai mươi năm đã qua, Hà Nội cũng không bỡ ngỡ nhiều khi bước vào năm cuối của thiên niên kỉ. Bởi vì thực ra năm 2000 của Hà Nội đã bắt đầu từ hai mươi năm trước, từ một nụ cười chiến thắng đại diện cho ba triệu nụ cười của thủ đô, cho sáu mươi triệu người dân Việt. Năm 2000 Hà Nội đếm được hai mươi nghìn khoảng không gian khép kín, khoảng nào cũng nép dưới gậm cầu thang, cũng giới thiệu giải pháp tối ưu biến nhà kho thành văn phòng. Hai mươi nghìn gậm cầu thang là hai mươi nghìn chuyện cơm bữa của thành phố nơi dân cư rất ư giản dị, coi trang trí nội thất là điều xa xỉ. Giữa khu phố cổ hay vùng mới mở rộng, đâu đâu cũng bắt gặp những diện tích mười mét vuông sáng bán phở, ngày cho thuê băng hình, tối cà phê giải khát. Hà Nội năm 2000 của năm triệu sinh mạng sùng sục sống vứt qua một bên những gì không thuộc nhu cầu ăn, uống, ngủ, nghỉ sau hai mươi năm phấn đấu cho năm triệu con người mới xã hội chủ nghĩa. Bởi vậy mười mét vuông phòng làm việc của Tâm Sự Bạn Gái trực thuộc tòa soạn báo Phụ Nữ đến năm 2000 càng thấy không cần dấu đi gốc gác nhà kho của mình. Đổi mới trên nguyên tắc tôn trọng hoàn toàn cái đã có. Chiếc cửa sổ xanh duy nhất nhện nhởn nhơ chăng mạng, hai cánh cửa chỉ còn lại một ô kính, mấy tờ giấy báo dán trên khung gỗ cũng đã ngả màu xanh, mỗi khi gặp gió hớn hở vẫy đám vữa túm năm tụm ba trên trần nhà, rồi cả bọn quay ra cùng lớp bụi trong phòng làm đủ hai mươi vòng khiêu vũ. Trên tường, năm chục cô gái trong áo may ô đỏ, quần đùi đỏ, ngắn hơn quần đùi đàn ông, đi guốc đỏ, nở năm mươi nụ cười, tạo nên một cuộc thi hoa hậu được tổ chức kiểu Hà Nội. Người ngồi, kẻ đứng, người nghiêng phải, kẻ nghiêng trái, động tác duy nhất được tập luyện trước là hếch mông, góc bốn mươi lăm độ làm chuẩn. Đấng nam nhi nào trông thấy cảnh này mà chẳng thốt lên vài tiếng thở dài. Đi về đâu hỡi em, mọi trò thi cử đều phù du, sao không nhìn gương các hoa hậu đi trước. Các ứng cử viên phái nữ phớt lờ. Cả năm chục cô chẳng ai bảo ai cứ cong người mãi, chúm chím mãi chẳng hướng về ai mà hướng về đống bàn ghế, thư từ, sách báo ba ngày một lần được xếp lại trong một trật tự hết sức mất lịch sự. Tâm Sự Bạn Gái chắc phải rất ý tứ mới có thể tâm sự được trong một không gian như vậy. Bốn giờ chiều, căn phòng tanh bành như sau phiên chợ. Bốn giờ chiều, chiếc bóng đèn sáu mươi oát tự động bật sáng rồi khép nép đứng trong một góc, thành thử ánh sáng chỉ rón rén đến hai phần ba căn phòng là dừng lại, giống y hệt lần nguyệt thực lâu nhất trong lịch sử Hà Nội. Phần không được chiếu sáng âm thầm giấu đi những thành quả của nền kinh tế kế hoạch sẽ được nhà nước tổng kết tháng 5 năm 2000: bộ máy vi tính, chiếc quạt điện, cái siêu đun nước cùng phích và bộ ấm chén uống chè. Cứ thế từ bao lâu không rõ, Tâm Sự Bạn Gái, người và đồ vật, chen chúc trong phòng làm việc cựu nhà kho, chiều cao chỉ cao hơn người Hà Nội bảy xăng-ti-mét. Chiếc cửa sổ để thông thống hai mươi tư giờ một ngày cũng không đủ khả năng tắm rửa lũ không khí lúc nào cũng nặng mùi giấy mốc nhưng không biết chạy đi đâu, trong phòng thì ngột ngạt còn bên ngoài là hai quán bia hơi, hàng ngày cho vào lò thiêu hoàn vũ vài chục xác động vật từ thú rừng đến gia súc, không con nào rõ thời điểm qua đời. Đầu năm một nghìn chín trăm tám mươi có một phụ nữ tên là Trần Thị Lan đến tòa soạn xin việc. Sau mười chín năm ngồi lại trong phòng Tâm Sự Bạn Gái, cô đã trở thành người đàn bà kín đáo nhất tòa soạn, quyến rũ nhất làng báo, lộng lẫy như trên sân khấu. Một hôm cô đến phòng tổ chức tự nguyện xin thôi việc để vào Sài Gòn. Ngày làm việc cuối cùng cô đến tòa soạn, giấu mình trong chiếc áo măng tô mùa đông màu cà phê. Vào đến căn phòng quen thuộc cô mới trút bỏ áo khoác để lộ chiếc may ô đỏ, chiếc quần đùi đỏ và đôi guốc cao gót đỏ, giống hệt như năm mươi cô gái đang dự thi hoa hậu trên tường. Cả ngày hôm ấy cô không đi ra khỏi phòng cũng không ai vào phòng cô, mà nói chung đã từ lâu không ai vào phòng cô cả. Ngày cuối cùng cô đã ngồi lại tâm sự đủ tám tiếng với Tâm Sự Bạn Gái không một lỗi văn phạm, không một lần tẩy xóa, rồi ra đi không một lời từ biệt. Không một ai nghe nói về cô nữa. Tâm Sự Bạn Gái phải đóng cửa chín tháng trời. Cho đến một ngày cuối năm một nghìn chín trăm chín mươi chín, có một phụ nữ trẻ đến tòa soạn xin việc. Cô chính là Phượng, ba mươi hai tuổi, đã có gia đình, đã có một con. Cô nghĩ tâm sự với bạn gái còn hơn ngồi tâm sự một mình nên rất vui vẻ nhận việc, lại còn cho rằng cô may mắn. Ngày thứ hai năm 2000 cô bắt đầu đến làm việc trong căn phòng ẩm ướt, cả sàn nhà cả bốn bức tường méo mó, cả năm mươi cô gái, năm mươi nụ cười đều sũng nước. Cô đành phải chọn một chiếc ghế đẩu nguyên vẹn để cho cả hai chân lên, còn cổ và đầu co vào cái khăn quàng cổ to xụ. Cô để cửa mở cho hơi nước bay bớt ra ngoài, ai đi qua cũng vô tình nhìn vào tận bên trong, nhìn vào tận cuộc thi hoa hậu đã từ lâu nổi tiếng trong tòa soạn. Ba ngày sau khuôn mặt và cơ thể cô chia các đồng nghiệp thành ba nhóm ý kiến khác nhau. Nhóm thứ nhất bảo cô tầm thường vô vị. Nhóm thứ hai cho là cô cực kì hấp dẫn vì cô luôn giấu mình dưới một vài thứ gì đó, ví dụ như hơi nước, ví dụ như chiếc khăn len to quá cỡ, chiếc áo choàng quá dài. Nhóm thứ ba gồm những người thích phụ nữ tươi trẻ thì không ưa cô, lại còn ví cô với con gà trúng mưa. Sáng sớm ngày thứ ba trưởng phòng biên tập gọi điện giục Tâm Sự Bạn Gái gấp rút bài vở cho báo Tết. Phượng trả lời tết năm nay hay tết năm sau. Cả một núi thư cao hơn đầu cô cái nọ dính vào cái kia vì ẩm, cái nào cũng dài hai trang. Tổng biên tập thuộc về nhóm ý kiến thứ hai nên đề nghị cô đi ăn trưa cùng ở quán cơm bụi Trần Hưng Đạo, nhưng nói thêm chỉ được ăn trong năm phút thôi. Không khí chạy sô của toàn xã hội đã bẩy tung cả những kẻ ù lì nhất. Những ai còn đủ hai chân đều thấy nên sử dụng chúng một cách triệt để, như thể bao nhiêu may mắn, tài lộc nằm cả ở cung di. Năm phút ăn trưa cùng tổng biên tập đủ để Phượng hiểu là các đồng nghiệp của cô cũng lao đi các cơ sở, nào ai nỡ câu nệ chuyên môn. Năm phút ăn trưa tổng biên tập cũng gợi ý cho cô mỗi nghề có một phép màu nhiệm riêng, ví dụ như cô có thể vừa tâm sự bạn gái, vừa là nhà báo đa năng. Báo chí ngày nay như cơm bình dân, mỗi nhà báo là một đầu bếp trái nghề, bí quyết giữ khách duy nhất là giá rẻ và nêm nhạt ai ăn cũng được, nếu cần mặn có thể xin thêm chén nước mắm. Mỗi bài báo là một món nẫu sẵn đã có công thức khỏi tính toán canh chừng, hôm trước còn thừa hôm sau có thể cho vào đun lại, còn bốc nổi hơi tức là còn xơi được. Phương châm chung là càng tiết kiệm, càng đỡ mất công, càng lợi.    Mời các bạn đón đọc Made in Vietnam của tác giả Thuận.
Phố Tàu Chinatown
Toàn bộ câu chuyện diễn ra trong vòng hai tiếng đồng hồ khi hai mẹ con nhân vật chính bị kẹt lại trên một chuyến tàu điện ngầm vì có nghi ngờ đoàn tàu bị đánh bom. Trong hai tiếng đó là một cuộc độc thoại nội tâm bất tận, đầy tiếc nhớ quá khứ và những nhận xét sắc bén về cuộc sống và số phận, khi nhân vật chính nhìn lại cuộc đời của mình, từ Hà Nội đến Leningrad rồi Paris, những con người đã đi qua đời mình, nhất là Thụy, người tình Trung Hoa từ thuở nhỏ, một mối tình đầy trắc trở, rồi sau đó trở thành người chồng chạy trốn, đến một Chinatown (Chợ Lớn) vô hình nào đó, nơi không mảnh vụn quá khứ nào bắt kịp được.       ““Un milliard de chinois. Et moi. Et moi. Et moi (Một tỉ người Trung Hoa. Và tôi. Và tôi. Và tôi).” Lời bài hát của Jacques Dutronc mang vị ngọt-đắng trong độc thoại nội tâm dài đầy táo bạo này của một phụ nữ Việt Nam trẻ tuổi sống ở Belleville. Ngồi trên tàu điện ngầm, cô nhớ về Hà  Nội và tình yêu duy nhất của mình, từng bị hy sinh cho cuộc chiến biên giới Việt-Trung. Về cái thời cô còn chưa biết đến từChinatown, còn giờ đây nó đã trở thành số phận của cô. Giành được một thành công lớn tại Việt Nam, cuốn tiểu thuyết của Thuận, hiện sống ở Paris, làm nhòe đi các ranh giới giữa cái thực và hư cấu. Thỉnh thoảng chị nhét vào đây đó vài trang một cuốn tiểu thuyết khác được đưa vào đầy khéo léo, theo một lối mỉa mai tạo nên một mối liên hệ khó nhận ra với tác phẩm của Duras, và mang đến cho chúng ta, một cách đầy bình dị, một khúc ca xé lòng về lưu vong.” (Augustin Trapenard – Magazine Littéraire, 4/2009) *** Đây là lần thứ hai Chinatown được xuất bản tại Việt Nam. Cuốn tiểu thuyết vừa mang nặng nuối tiếc quá khứ vừa cay độc những khi cần này không chỉ chinh phục người đọc Việt Nam mà còn bắt đầu đến với độc giả Pháp qua bản dịch của Đoàn Cầm Thi (NXB Seuil, 2009). Toàn bộ câu chuyện diễn ra trong vòng hai tiếng đồng hồ khi hai mẹ con nhân vật chính bị kẹt lại trên một chuyến tàu điện ngầm vì có nghi ngờ đoàn tàu bị đánh bom. Trong hai tiếng đó là một cuộc độc thoại nội tâm bất tận, đầy tiếc nhớ quá khứ và những nhận xét sắc bén về cuộc sống và số phận, khi nhân vật chính nhìn lại cuộc đời của mình, từ Hà Nội đến Leningrad rồi Paris, những con người đã đi qua đời mình, nhất là Thụy, người tình Trung Hoa từ thuở nhỏ, một mối tình đầy trắc trở, rồi sau đó trở thành người chồng chạy trốn, đến một Chinatown (Chợ Lớn) vô hình nào đó, nơi không mảnh vụn quá khứ nào bắt kịp được. *** Đồng hồ đeo tay chỉ số mười. Thằng Vĩnh nhỏm dậy kêu mỏi. Nó ngủ trong tàu điện ngầm. Đầu ngả vào vai tôi. Tàu đến một ga nhỏ thì dừng lại. Mười lăm phút rồi vẫn không nhúc nhích. Người ta phát hiện một túi du lịch vô chủ. Người ta nghi âm mưu đánh bom một cái ga hiu hắt thế này chứa một âm mưu khác nguy hiểm hơn nhiều. Tôi không biết nên ngồi đợi xem âm mưu ấy nguy hiểm đến mức nào. Hay ra ngoài bắt một cái xe buýt mà đi tiếp. Thằng Vĩnh lại ngả đầu vào vai tôi ngủ. Mười hai tuổi nó cao bằng Thụy lúc mười sáu tuổi. Buổi trưa nó ăn căng tin ở trường. Một đĩa khoai tây nghiền. Một khoanh thịt bò rán. Hai lát giăm bông. Hai lát phó mát. Sữa chua. Kem. Bánh ngọt. Buổi trưa Thụy ăn cơm ở nhà. Thụy đi học về là vào bếp nấu cơm. Ba anh em hai bơ gạo, nửa mớ rau muống, sáu con tôm. Thằng Vĩnh cao bằng Thụy năm mười sáu tuổi. Tóc nó cũng cắt cao như tóc Thụy. Mắt nó cũng xếch như mắt Thụy. Trong lớp bạn bè gọi nó là thằng Trung Hoa. Ra đường người ta gọi nó là thằng Trung Hoa. Ở quận Mười Ba người ta nói với nó bằng tiếng Quảng Đông. Cả trường gọi Thụy là thằng Tàu. Thằng con cháu Đặng Tiểu Bình. Thằng tay sai Bắc Kinh. Cả phố gặp Thụy đều hỏi thế nào bao giờ về nước. Giường tủ bàn ghế bán hết chưa. Thầy hiệu trưởng được mời lên công an khu vực. Học trò Âu Phương Thụy cần được theo dõi sát. Học trò Âu Phương Thụy gia đình xin được ở lại Việt Nam sinh sống. Chính phủ đang xem xét. Chính phủ chưa quyết định gì. Nhưng cần theo dõi sát. Đại hội Đảng vừa có công hàm Bắc Kinh là kẻ thù số một của nhân dân Việt Nam. Học trò Âu Phương Thụy cần được theo dõi sát. Có thể chưa có biểu hiện gì. Nhưng nhiệm vụ của chúng ta là theo dõi sát. Từ công an khu vực về, thầy hiệu trưởng họp ban giám hiệu. Từ ban giám hiệu về, cô giáo chủ nhiệm họp cán bộ lớp. Hôm sau cả lớp nói với nhau thằng Thụy có vấn đề. Hôm sau nữa toàn trường xôn xao gia đình thằng Thụy bị công an chống gián điệp theo dõi. Gia đình thằng Thụy thường xuyên nhận tài liệu mật của Bắc Kinh. Trong lớp không ai chơi với Thụy. Không thầy cô giáo nào gọi Thụy lên bảng. Trong trường, mỗi khi Thụy đi qua, mọi người im lặng nhìn đi nơi khác. Giờ tập quân sự, Thụy được ngồi nhà. Thư gửi chiến sĩ đảo Trường Sa, Thụy được miễn viết. Năm cuối cấp học sinh cá biệt cũng được chiếu cố kết nạp đoàn. Nhưng Thụy thì không. Người ta không đả động gì đến Thụy. Người ta làm như không biết Thụy là ai. Người ta làm như không có Thụy trong lớp. Mười sáu tuổi Thụy cao bằng thằng Vĩnh bây giờ. Tóc Thụy cắt cao. Mắt Thụy xếch. Trong xe ô tô, Thụy ngả đầu vào vai tôi ngủ. Thụy kể Thụy sinh ở Yên Khê. Chúng tôi sinh cùng năm. Thụy trước tôi ba tháng hai ngày. Hôm sau cả lớp nói với nhau tôi phải lòng Thụy. Hôm sau nữa toàn trường xôn xao tôi bị thằng tay sai Bắc Kinh bắt mất hồn. Thầy hiệu trưởng mời bố mẹ tôi tới văn phòng. Cô giáo chủ nhiệm gọi tôi ra gặp riêng. Cô giáo dạy toán gọi tôi ra gặp riêng. Thầy giáo dạy văn gọi tôi ra gặp riêng. Thầy giáo tiếng Anh gọi tôi ra gặp riêng. Bí thư liên đoàn trường gọi tôi ra gặp riêng. Em nên tập trung để dẫn đầu cả lớp kỳ thi cuối năm. Em nên tập trung để đạt kết quả cao nhất kỳ thi hết cấp. Em nên tập trung để mang lại danh dự cho toàn trường kỳ thi đại học. Người đem trách nhiệm trao cho tôi. Người mang thi cử ra làm tôi sợ. Không ai đả động gì tới Thụy. Không ai tỏ ra muốn biết Thụy. Bố mẹ tôi cũng làm như không biết Thụy. Ba năm tôi học cấp ba, bố mẹ tôi không bao giờ nhắc đến Thụy. Năm năm tôi học đại học ở Nga, bố mẹ tôi cũng không bao giờ nhắc đến Thụy. Bố tôi bảo nên tập trung để sau năm năm được cái bằng màu đỏ. Mẹ tôi bảo được cái bằng màu đỏ rồi làm gì thì làm. Bố mẹ tôi đều hy vọng tôi sẽ quên Thụy. Hai mươi ba năm nay bố mẹ tôi hy vọng tôi quên Thụy. Thằng Vĩnh nhỏm dậy lần nữa. Âm mưu nguy hiểm vẫn đang đợi công an đặc nhiệm đến điều tra. Tôi vẫn không biết nên ngồi đợi hay ra bắt xe buýt. Ba người khách cùng toa nhăn nhó. Có đi nữa hay không thì phải báo. Một ngày ba tiếng trong phương tiện công cộng còn gì là đời. Tôi quay lại bảo tôi cũng một ngày ba tiếng trong phương tiện công cộng. Chẳng ai phản ứng. Tôi nói thêm hắn cũng thế, hắn cũng một ngày ba tiếng trong phương tiện công cộng. Ba người khách vẫn không phản ứng. Tôi bảo tên hắn dài lắm, có đánh vần cũng chẳng ai nhớ được. Cũng chẳng để làm gì. Có lẽ cứ gọi hắn là hắn. Từ bàn làm việc hắn gọi điện cho tôi. Hắn gọi cho tôi mười lăm phút giữa ngày. Tôi ngồi gặm bánh mì trong phòng giáo viên. Bác sĩ bảo stress. Stress vì phương tiện công cộng. Ba tiếng một ngày. Stress không có ở thế giới thứ ba. Người thế giới thứ ba mắc nhiều bệnh hiểm nghèo nhưng không ai mắc bệnh stress. Việt Nam thế giới thứ ba nhưng Việt Nam bốn mùa cây trái. Việt Nam rừng vàng biển bạc. Việt Nam có vịnh Hạ Long kỳ quan thế giới, có Sài Gòn hòn ngọc Viễn Đông, có Marguerite Duras giải Goncourt văn học. Stress không có ở thế giới thứ ba. Stress chỉ Việt Nam mới chữa được. Hắn đi Việt Nam mười hai lần. Mười một lần từ Bắc vào Nam bằng xe máy Liên Xô. Hắn làm tây ba lô. Hắn ăn đường ngủ chợ, về đến Charles de Gaulle còn mỗi quần soóc và áo may ô, tóc dài đến vai, người toàn nốt muỗi đốt. Trong tàu điện ngầm người ta nhìn hắn nghi ngờ. Ở Việt Nam nhân viên khách sạn nhìn hắn lắc đầu. Mày đày đọa thân mình làm gì, tôi hỏi hắn. Mày tưởng mày hơn tao, hắn hỏi tôi. Hắn hỏi tôi nhiều chuyện. Lâu ngày có nhớ nước chanh của mẹ không. Bố mày còn vác được xe đạp lên gác chứ. Thằng Vĩnh vẫn sưng họng à. Thằng Paul vừa lây sang thằng Arthur hôm qua. Cuối năm bọn đồng nghiệp của mày có cái đề nghị gì hay ho không. Bọn phòng tao rủ nhau đi ăn hiệu. Quán Xích Lô. Lần này đến lượt tao được chọn. Tao sẽ gọi món chim quay của thằng Vĩnh. Con Yamina năm tới lưu ban thì học cùng lớp với thằng Yasin em ruột nó à. Cô Feng Xiao hồi này thế nào. Sắp về quê bốc mộ Đặng Tiểu Bình chưa. Hắn hỏi tôi nhiều chuyện. Không bao giờ hắn đả động đến Thụy. Không bao giờ. Hắn làm như hắn không biết Thụy là ai. Về Việt Nam hắn tránh đi cùng chuyến với thằng Vĩnh. Quay lại Pháp hắn cũng tránh đi cùng chuyến với thằng Vĩnh. Hắn sợ gặp Thụy ở sân bay. Tôi hỏi hắn nhiều chuyện. Không bao giờ tôi hỏi chuyện vợ hắn. Không bao giờ tôi đả động đến đời tư của hắn. Cả quá khứ lẫn hiện tại. Tôi không cần biết. Tôi tự bảo không có nhu cầu biết. Tôi tự bảo không hơi đâu kiểm tra đời tư của hắn. Thằng Paul, thằng Arthur gặp mẹ chúng nó một tháng mấy lần, ở đâu, bao lâu, không bao giờ làm tôi để ý. Tôi không biết số điện thoại cơ quan hắn. Mỗi lần gọi điện thoại đến nhà hắn tôi đều phải mở sổ tay. Mười năm nay hắn không chuyển nhà lần nào. Nhưng tôi vẫn mở sổ tay. Thế nào mọi thứ ổn chứ. Công việc tốt chứ. Không ai sưng họng chứ. Thằng Vĩnh muốn nói chuyện với thằng Paul và thằng Arthur. Hai khả năng xảy ra. Hoặc thằng Vĩnh nói chuyện với một trong hai thằng kia, ba mươi phút. Tôi trả bao điện thoại vô hạn định nội thành và ngoại ô Paris. Hoặc, không thằng nào có nhà à. Không sao. Không quan trọng đâu. Không phải gọi lại đâu. Chuyện trẻ con ấy mà. Hắn nhắm mắt cũng đọc được số điện thoại nhà tôi, điện thoại phòng giáo viên trường tôi, điện thoại cầm tay của tôi, điện thoại hàng xóm của tôi, điện thoại cô Feng Xiao. Ba năm tôi đổi ba lần địa chỉ e-mail. Hắn chẳng cần sổ tay cũng không bao giờ nhầm. Wanadoo, Club-internet, Liberty.surf. Tên tôi, đệm Thụy. Tên Thụy, đệm tôi. Họ tôi, họ Thụy. Họ Thụy, họ tôi. Tôi cũng không nhớ nữa. Tôi cũng phải mở sổ tay. Nhưng hắn chấp hết. Không cần sổ tay hắn cũng không bao giờ nhầm. Đi đâu xa, về quê nhà hắn ở Rennes, hắn cũng viết cho tôi. Cúc cu thế nào. Hôm nay Chủ nhật sắp đi lễ nhà cô Feng Xiao à. Qua Tang Frères nhớ mua ba con bồ câu về quay cho thằng Vĩnh. Sắp ra phim Người Mỹ trầm lặng. Đợi tao về đi xem cùng nhé. Thằng Vĩnh gửi đến nhà tao. Bà dì tao sẽ lại cho cả ba thằng ăn chim quay. Nhưng hắn bảo hắn thích gọi điện cho tôi hơn. Mày có cái mặt khó đăm đăm nhưng giọng không đến nỗi. Thậm chí được. Tiếng Pháp của mày pha nhiều tạp âm lắm. Nào Việt. Nào Liên Xô. Nào Hà Nội. Nào Leningrad. Năm năm học tiếng Anh ở Nga không được dạy đại học Thanh Xuân thì làm giáo viên cấp hai ngoại ô Paris cũng được. Làm giáo viên cấp hai còn hơn làm thành viên hội năm triệu người Pháp thất nghiệp. Tao thấy giọng mày không đến nỗi. Nói chuyện với mày qua điện thoại đỡ mệt hơn là nhìn cái mặt khó đăm đăm của mày. Stress lắm. Bốn chín đồng nghiệp trường mày đều nói thế à. Hắn bảo hắn được mỗi cái nhớ dai. Lý lịch tôi hắn đọc vanh vách. Sinh nhật tôi, sinh nhật thằng Vĩnh, cả tôi lẫn thằng Vĩnh đều quên. Hắn nhớ tất. Không cần sổ tay hắn cũng nhớ tất. Không cần đọc giấy khai sinh, hắn cũng biết tôi sinh ở bệnh viện Bảo vệ bà mẹ và trẻ em, thằng Vĩnh sinh ở bệnh viện Nhi Thụy Điển, nặng hai cân chín, dài sáu mươi phân. Mười hai năm sau, thằng Vĩnh cao thêm một mét, nặng gấp mười lần, đi giày số ba chín. Mười hai năm sau, một giờ trưa Chủ nhật thằng Vĩnh đòi ăn chim quay. Nó bảo cơm Việt Nam có món chim quay cung cấp đủ ca lo như bữa trưa căng tin trường nó. Nghỉ hè nghỉ tết về Việt Nam nó thích ăn trưa phố Tạ Hiền. Anh phục vụ thấy nó đến là mang ra ba suất chim quay, một suất cơm rang. Anh phục vụ biết cả nó không ăn củ kiệu, không uống bia Shingtao mà uống Coca Cola. Coca Cola nhà máy rượu bia Hà Nội liên doanh với công ty cổ phần hữu hạn Tai Feng bà nội nó làm đại diện. Bà nội nó ngày nó ra đời chỉ đợi cuối tháng đi lĩnh hưu non cùng ông nội nó, cùng chín ông bạn chín bà bạn nữa của phố Lương Ngọc Quyến, hai mươi cán bộ công nhân viên bốn mươi lăm tuổi đã được phòng tổ chức khuyên viết đơn xin thôi việc. Mười hai năm sau, một giờ trưa Chủ nhật, tôi bảo thằng Vĩnh mẹ mệt lắm tuần sau mới mua được ba con chim bồ câu về quay húng lìu. Nó khóc lóc mẹ lúc nào cũng kêu mệt. Nếu mẹ hết tiền, con cho mẹ vay. Tiền của Thụy cho nó. Tôi không động đến. Nó bảo con muốn độc lập. Mười tám tuổi là con đi làm. Mười tám tuổi là con có hộ chiếu. Một hộ chiếu Việt. Một hộ chiếu Pháp. Một hộ chiếu Trung Hoa. Con sẽ nói ba thứ tiếng. Lúc đó tiếng Hoa sẽ mạnh hơn tiếng Anh. Un milliard de chinois. Et moi. Et moi. Et moi. Tôi trêu thằng Vĩnh. Tôi biết nó thích tôi trêu thế. Tôi biết nó thể nào cũng lăn ra ngủ. Nó vẫn còn mệt vì trận nhảy dù cùng thằng Paul và thằng Arthur hôm qua. Hai thằng này rủ sáu năm nữa đi nghĩa vụ quân sự ở Irak. Thằng Vĩnh phẩy tay. Sáu năm nữa, chiến tranh Irak còn hay hết, nó cũng mang hộ chiếu Trung Hoa nhảy dù xuống Bagdad. Sáu năm đủ để các doanh nghiệp Trung Hoa qua mặt các đối thủ Hoa Kỳ và Anh Quốc, đủ để công ty cổ phần Tai Feng của bà nội nó mở thêm mấy chục chi nhánh ở Vùng Vịnh. Sáu năm nữa tôi bốn lăm tuổi. Thụy bốn lăm tuổi. Tương lai tôi còn hai mươi năm dạy học để cuối đời hưởng lương hưu Bộ Giáo dục. Tương lai Thụy có thể là Hồng Kông, Irak, Hoa Kỳ hay Rwanda. Tiếng Hoa của Thụy sáu năm nữa sẽ có giá thêm sáu lần. Họ Âu của Thụy sáu năm nữa sẽ đông thêm sáu lần. Thằng Vĩnh ngủ. Tôi ngủ gục bên cạnh. Tôi đang định làm một giấc mơ xem Thụy và tôi dắt tay nhau đi lĩnh lương hưu thì hắn gọi điện. Hắn đánh thức cả tôi lẫn thằng Vĩnh. Không cần nhấc máy tôi đã biết là hắn. Chủ nhật bốn giờ chiều. Nếu không chẳng may qua đời, như hắn thường nói, hắn sẽ còn tiếp tục gọi điện cho tôi. Chủ nhật bốn giờ chiều. Ngay cả khi hắn đi chơi xa. Ngay cả khi hắn về quê ở Rennes. Ngay cả khi trời ở đấy mưa cả ngày hay nhiệt độ trung bình ba mươi lăm, biển không xa, rất xanh và ít sóng. Ngay cả dưới mặt trời Củ Chi, Yên Bái, Cà Mau. Chủ nhật bốn giờ chiều. Hắn quen tất cả các nhân viên điện đài. Hắn biết nói chào anh chào chị lúc đến. Chào anh chào chị lúc đi. Các nhân viên khách sạn nhìn hắn lắc đầu nhưng các nhân viên điện đài tỉnh lẻ cả ngày ngồi rít thuốc lào thấy hắn cũng hay hay. Các nhân viên điện đài tỉnh lẻ gọi hắn là anh người Pháp. Anh người Pháp vào làm cốc nước chè. Anh người Pháp đến gọi điện cho bạn gái đấy hả. Cụm từ tây ba lô năm hai nghìn linh ba vẫn chưa vượt biên khỏi Hà Nội và Sài Gòn. Người Củ Chi, Yên Bái, Cà Mau vẫn vừa vặn ngây thơ để tin các anh người Pháp đều dân tư bản. Không tư bản mà trả hai trăm nghìn đồng mười phút điện thoại. Hai trăm nghìn đồng không đủ nghe Thanh Lam song ca với Hồng Nhung ở cả Hà Nội lẫn Sài Gòn nhưng hai trăm nghìn đồng đủ mua bốn mươi cân ngô ở Yên Bái, bốn mươi cân sắn ở Củ Chi, bốn mươi cân bột mì ở Rạch Giá. Lần cuối cùng hắn gọi điện ở cafénet phố Hàm Long. Năm ngoái hai trăm nghìn đồng mười phút đi EU. Năm nay quân đội cạnh tranh nhà nước hạ giá một nửa. Nguyên phố Hàm Long có tới năm cafénet. Hắn hét thi cùng ba người bên cạnh cũng gọi đi EU. Cổ họng Pháp nhỏ hơn cổ họng Việt nên tôi được nghe hai người đi Đức, một người đi Pháp. Cả ba cùng bàn cách gửi con du học. Cả ba cùng trằn trọc tiếng Đức tiếng Pháp sau này biết nói với ai, bằng Đức bằng Pháp sau này làm công ty nào. Cả ba cùng nhất trí trường Đức trường Pháp còn rẻ hơn đại học trong nước. Ở Đức ở Pháp không có ngày hiến chương các nhà giáo, phụ huynh cũng đỡ phải bắt máy bay Vietnam Airlines sang Đức sang Pháp mà kỷ niệm, mà vác cam đến nhà giáo viên. Bốn giờ chiều Hà Nội. Mười một giờ trưa Paris. Mười một giờ trưa hè Paris. Tôi nằm trong chăn. Hắn quần soóc áo may ô 39 độ. Tôi ôm máy vào lòng nghe hắn thi hét. Hai mươi phút hét hắn lạc cả giọng. Ba người bên cạnh chắc vẫn còn hét vài lần mười phút nữa. Hắn bảo hắn thích gọi điện cho tôi hơn là viết mail. Mặt mày khó chịu lắm nhưng giọng thì không đến nỗi. Bốn tạp âm trộn vào nhau như cơm rang thập cẩm nhưng tao hiểu được. Không đến nỗi. Thậm chí được. Chủ nhật bốn giờ chiều. Chưa cần nhấc máy, tôi đã biết là hắn. Mới nghe hắn chào, tôi đã biết hắn sẽ đề nghị chạy ba vòng công viên Belleville. Tôi phẩy tay. Cả tao và thằng Vĩnh đều bận. Bà nội nó sang họp với đại diện công ty Tai Feng ở Pháp. Bà nội nó mang cho nó một két Coca Cola để uống với chim quay. Bà nội nó bảo bao giờ về, lại cho một két nữa mang đi, cho cả ba con chim quay Tạ Hiện lên máy bay mà ăn. Một đĩa cơm rang Vietnam Airlines với hai lát giò lụa toàn bột mì và mì chính không đủ ca lo cho nó. Hắn bảo tôi cứ ở nhà mà lo cung cấp ca lo cho bà nội thằng Vĩnh. Hắn không chào. Hắn đặt máy xuống. Lần nào đến Hà Nội, hắn chẳng ghé nhà tôi, lần nào bố mẹ tôi chẳng tranh thủ tâm sự tôi và thằng Vĩnh bị Thụy và bố mẹ Thụy bỏ rơi ra làm sao. Lần nào kèm theo quà cũng có thư, kèm theo thư có câu hỏi bao giờ tôi và hắn cưới nhau, bao giờ tôi về Việt Nam cùng hắn để ra mắt họ hàng. Ra mắt họ hàng là quan trọng nhất. Mười hai lần đi Việt Nam hắn thừa biết. Mười hai lần đi Việt Nam hắn đủ khôn để biện hộ với bố mẹ tôi. Để bố mẹ tôi hôm sau biện hộ lại với họ hàng. Một cháu mới chuyển trường. Một cháu mới chuyển cơ quan. Một cháu đang đi học tại chức. Một cháu đang đi công tác nước ngoài. Ông cụ bên ấy mệt. Bà cụ bên ấy không được khỏe. Thằng Vĩnh về Việt Nam hè năm ngoái. Sáu trăm euro vé khứ hồi. Một trăm euro tiền tiêu vặt. Nửa tháng lương của tôi. Ông bà nội thằng Vĩnh không cho được nó nửa tháng lương nhưng đem ô tô ra tận sân bay đón. Cũng để ra mắt họ hàng. Tiếng Việt của thằng Vĩnh không trôi chảy. Nhưng dạ thưa tiếng Hoa của nó lại rất trơn tru. Cái lưỡi của nó cũng vẫn hợp chim quay Tạ Hiện. Tình hình Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa nó nói đâu trúng đấy. Ông bà nội nó biết lương giáo viên cấp hai của tôi không đủ thuê nhà quận Mười Ba. Nhưng thằng Vĩnh chiều thứ Tư đi học tiếng Hoa ở phố Tolbiac. Tiếng Hoa quận Mười Ba không là tiếng Bắc Kinh nhưng người Bắc Kinh bây giờ cũng không nói tiếng Bắc Kinh. Người Hà Nội bây giờ cũng không nói tiếng Hà Nội. Ông bà nội nó thấy không có gì đáng phàn nàn về nó, không có gì đáng phàn nàn về tôi. Bố mẹ Thụy không bao giờ phàn nàn về tôi. Không bao giờ. Bố mẹ Thụy đến tận nhà hộ sinh đón tôi. Bố Thụy bế thằng Vĩnh đi trước. Mẹ Thụy cầm tay tôi đi sau. Bố Thụy đặt tên nó là Vĩnh. Bố tên Thụy. Con tên Vĩnh. Vĩnh Thụy trước đây là phạm thượng. Mẹ Thụy áy náy. Bố Thụy bảo Vĩnh tiếng Hoa là vĩnh cửu. Bố là Âu Phương Thụy. Con là Âu Phương Vĩnh. Sau này có con gái đặt tên là Hằng. Hằng cũng như Vĩnh. Hằng cũng đẹp bằng Vĩnh. Bố mẹ Thụy bàn tương lai. Cháu nội trai tên Vĩnh. Cháu nội gái tên Hằng. Kế hoạch hóa gia đình Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa chặt gấp đôi kế hoạch hóa gia đình Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Con gái Trung Hoa sau này hiếm lắm. Con gái Trung Hoa sau này muốn lấy ai cũng được. Hằng họ Âu, mắt xếch, tiếng Hoa. Hộ chiếu Trung Hoa hay không không quan trọng. Un milliard de chinois. Et moi. Et moi. Et moi. Hằng đến tuổi vị thành niên một tỉ người Hoa thành một tỉ rưỡi. Trung Hoa thành quốc gia không biên giới. Cả Hằng lẫn Vĩnh đi đâu cũng không sợ mất gốc, mất tiếng, mất món chim quay Tạ Hiện. Bố mẹ Thụy bàn tương lai. Bố mẹ Thụy bàn giao tôi và thằng Vĩnh cho bố mẹ tôi. Một tuần sau khi tôi ra viện. Bố mẹ thấy không có gì phàn nàn về con. Duyên số các con không thành đừng trách bố mẹ. Tôi không bao giờ trách bố mẹ Thụy. Tôi không bao giờ trách Thụy. Mười hai năm tôi không hết nhớ Thụy. Tôi để hắn một mình ra Bắc vào Nam bằng xe máy Liên Xô làm tây ba lô ăn đường ngủ chợ, về đến Charles De Gaulle còn mỗi quần soóc áo may ô. Hôm ra đón thằng Vĩnh, tóc vẫn còn dài tới vai. Người vẫn còn đầy nốt muỗi đốt. Tôi hỏi hắn đày đọa thân mình bao nhiêu cho vừa. Hắn hỏi tôi mày tưởng mày hơn tao. Thằng Vĩnh chưa kịp chào đã phát biểu mẹ cắt đầu gì kinh thế, đừng để cô Feng Xiao tự do thái quá. Nó chỉ thằng bé bên cạnh bảo đây là thằng Hao Peng bạn con. Tôi đã nghe nói nhiều về thằng Hao Peng. Thằng Hao Peng cùng học với thằng Vĩnh một lớp tiếng Hoa ở phố Tolbiac. Hai thằng hẹn nhau ở phòng đợi sân bay Băng Cốc. Thằng Vĩnh xuất phát từ Hà Nội. Thằng Hao Peng xuất phát từ Bắc Kinh. Mười hai tiếng máy bay về Paris đủ để thằng Hao Peng cho thằng Vĩnh một vòng Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Thượng Hải bây giờ như Chicago. Tàu điện ngầm vừa mới vừa êm không có ăn mày hát xin tiền bao giờ. Quảng Đông mới xử một vụ hối lộ lớn chưa từng thấy, năm tử hình mười tù chung thân. Côn Minh tháng sau sẽ khánh thành nhà máy điện nguyên tử công suất lớn nhất thế giới. Đại hội toán học quốc tế năm ngoái ở Bắc Kinh, đích thân chủ tịch Giang Trạch Dân cắt băng khai mạc. Quảng Đông được vào từ điển Guinness nhờ đứng đầu tỉ số cao lâu trên đầu người, đứng đầu tỉ số chim quay bán ra trong tháng. Hàng Châu nhà tao xây khách sạn nổi, mỗi phòng một sân gôn, một bể bơi ngoài trời, bể bơi còn cao hơn mặt nước biển. Hồ Nan nhà mày cũng phát triển lắm. Nghe nói đang xây xa lộ cầu vồng sáu làn xe, xuyên từ ủy ban nhân dân tỉnh tới quảng trường Thiên An Môn. Tứ Xuyên nhà cô Feng Xiao sắp tới sẽ kỷ niệm trọng thể mười năm ngày mất Đặng Tiểu Bình, cả tỉnh dự định nhập về tám triệu cái bình nhỏ để xây đài tưởng niệm cho cố chủ tịch vĩ đại nhất Trung Hoa. Mười hai tiếng đủ cho thằng Vĩnh tim nhảy thình thịch. Máy bay hạ cánh thằng Vĩnh thấy thằng Hao Peng đáng chơi nhất trong số bạn bè ở Paris. Thằng Hao Peng không bao giờ đến lớp muộn. Thằng Hao Peng nói tiếng Quan Thoại. Thằng Hao Peng dịch từ Hoa sang Pháp nhanh hơn cả cô giáo.    Mời các bạn đón đọc Phố Tàu Chinatown của tác giả Thuận.
Người Dưng Chung Lối
Một câu chuyện của ba người dưng tình cờ “va” vào nhau trên đường đời: Xuân Vinh, Ngọc Uyển, Hải Lâm. Ba con người với ba số phận, hoàn cảnh và tính cách khác nhau, cùng gặp nhau tại một điểm đầy bất ngờ. Đây là câu chuyện của những người trẻ, nhưng trẻ mà phải bôn ba, vật lộn giữa cuộc đời với muôn vàn hỉ nộ ái ố. Câu chuyện của những con người, sáng mở mắt là nghĩ đến cách để sống trọn vẹn một ngày, không phí phạm. Câu chuyện của những mối tình đan xen, va đập vào nhau, không dữ dội, dằn vặt nhưng rất sâu và khó gỡ. Đây cũng là câu chuyện của bao điều chưa nói, còn để lại, mà rất có thể một nhân vật nào đó sẽ khiến người đọc nuối tiếc mãi không thôi… “Trên đời có hai thứ không thể trực tiếp nhìn thẳng, đó là mặt trời và lòng người.” “Quyền năng của một người yêu đơn phương chỉ được phép dừng lại ở việc giữ chặt hình bóng người đó trong lòng.” “Yêu một người thật không dễ dàng. Yêu một người mà còn phải cố gắng để người ta không nhận ra mình yêu họ ra sao thì càng khó khăn gấp bội.” *** LỜI TỰA Tôi không biết bạn nghĩ thế nào về những tình cờ giữa hai người dưng, hai trái tim không cùng chung nhịp đập? Còn riêng tôi, tôi luôn tin mọi sự gặp gỡ trên đời đều được sắp đặt bởi bàn tay số phận vô hình. Tôi luôn tin có những duyên đi kèm với phận, tôi luôn tin hai người nếu thật sự thuộc về nhau, họ sẽ tìm thấy nhau bằng một cách nào đó bất kể thời gian bao lâu và khoảng cách là bao xa. Bởi có những người không thường nhật xuất hiện trong cuộc sống của bạn, nhưng mãi mãi, họ luôn ở cạnh bạn tại những góc rất đỗi dịu dàng. Và như thế tôi viết câu chuyện này! Thương tặng những người luôn nắm giữ sự dịu dàng của trái tim tôi, những người mà theo thời gian, tôi tin, tình cảm chúng tôi dành cho nhau chẳng bao giờ lợt lạt. Thương tặng những người dưng, tôi thương nhất cuộc đời này... 28/1/2016 Lệ Thu Huyền *** NHỮNG ƯỚC MƠ BÉ NHỎ YÊN BÌNH Cuộc đấu tranh nội tâm của Ngọc Uyển vẫn chưa ngừng lại. Một phần trong cô cảm thấy mình như đứa trẻ lên năm phạm phải sai lầm, sợ hãi, ăn năn, bối rối, nhất là khi lúc này cô đang đứng trước mặt người đàn ông mà mình quá đỗi thương yêu. Nếu chìm đắm trong những cảm xúc rối ren này có lẽ cô sẽ gục xuống và khóc tức tưởi. Nhưng một phần khác mạnh mẽ hơn đang an ủi cô rằng, mọi chuyện đã qua, cô đã rời xa con người gớm ghiếc, đáng sợ, độc chiếm của Xuân Vinh. Ở đây cô không còn đơn độc một mình. Cô biết thế. Như được trái tim dẫn lối, bước chân cô tiến gần hơn về phía Lâm, ánh mắt cô vẫn còn đỏ hoe và ươn ướt, giọng cô nghẹt lại: - Anh đưa em về nhé! Hải Lâm gật đầu rồi quay sang phía Huệ: “Em đưa Uyển về, gặp lại anh chị sau nhé!” Trọng lặng lẽ đứng trông, còn Xuân Vinh vẫn ngồi yên trong ghế lái. Chẳng ai nói với ai câu nào, tất cả mọi ánh nhìn lạc vào hư không... Hải Lâm không lấy xe ngay, anh đưa Ngọc Uyển đi bộ ra khỏi con đường sâu hun hút của phố Hàng Trống. Cả hai như thể muốn một cái gì đó hơn là những bước chân yên lặng cùng nhau nhưng lại đều đợi người kia chủ động! - Mỗi khi không vui anh đều đi bộ vòng quanh bờ Hồ. Anh không chắc mọi chuyện sẽ tốt hơn lên nhưng ít nhất anh thấy nỗi buồn nguôi ngoai nhiều lắm. Ngọc Uyển quay sang nhìn Lâm và mỉm cười, giọng cô lí nhí: - Anh có thể mua kem cho em được chứ? Loại mà anh vẫn từng hay kể! - Đợi anh! Chỉ chưa đầy ba phút, anh trở lại với hai cây kem chanh bạc hà trong tay. Không biết vì nụ cười ấm áp của anh hay do vị lạnh của kem đã làm tê liệt những nỗi đau mà cô gồng mình chịu đựng trước đó? Như sợ đôi giầy cao gót khiến cô đau chân, Hải Lâm chủ động chọn chiếc ghế đá ngay sát cạnh hồ để cả hai dừng bước. Ngoài tiếng xe chạy trên đường chính ra, tất thảy mọi ồn ào của cuộc sống này đều đã nín lặng và bị bỏ lại ở phía sau. Giá như thời gian có thể dừng lại ở giây phút này, Ngọc Uyển ước ao như vậy! Chờ miếng kem cuối cùng tan ra trong miệng, cô mới nhỏ giọng nói về những chuyện mà mình nghĩ nên nói cùng Lâm: - Anh Vinh nói thích em, và em nghĩ mình không có lý do để đón nhận tình cảm ấy. Sự xuất hiện của anh ấy khiến em bất an, hoảng loạn và sợ hãi nữa. Em thấy nhớ Sài Gòn, nhớ Mây và nhớ những bình yên mà mình từng được có. “Hãy để những nỗi buồn được lãng quên em ạ. Bởi nếu em giữ mãi những điều không thoải mái trong lòng sẽ chẳng khác nào tự mình uống thuốc độc lại mong người khác chết. Ngày mai sẽ là một ngày mới. Chuyện hôm nay rồi cũng sẽ yên thôi!” Ngừng một lát, anh nói tiếp: - Nếu mệt mỏi quá, anh có thể cho em mượn vai để dựa! “Mượn rồi có phải trả phí không anh?” - Cô lém lỉnh hỏi lại anh. Lâm cười, anh lấy tay chậm rãi kéo đầu cô lại gần anh. Cô ngoan ngoãn dịch lại gần và ngả xuống bờ vai anh. Ngày đẹp nhất của cuộc đời cô, nếu như tất cả những chuyện trước đó không xảy đến, cô nghĩ vậy! Và chính ở khoảnh khắc đó, cô nghĩ những nỗi buồn cứ vậy sẽ trôi đi... - Có một thời anh từng mơ khi nào có tiền sẽ mua cho mình một căn nhà gỗ trên thảo nguyên, buổi đêm sẽ cùng người yêu ngắm sao và hít hà mùi hương của cỏ cây hoa lá. Nếu có thể mỗi buổi sáng thức dậy được đón bình minh trên biển cũng là một giấc mơ rất tuyệt vời. Ít nhất bây giờ với cây cọ này trước mặt, hồ nước bạc lấp lánh dưới chân, anh có thể tưởng tượng mình đang nằm ở Madives, coi như một giấc mơ bé nhỏ! Ngọc Uyển khúc khích cười, lần đầu tiên cô thấy Hải Lâm đáng yêu kiểu trẻ con đến vậy! - Chỉ đơn giản vậy thôi sao? Anh còn mơ gì nữa? - Sở hữu một chiếc du thuyền in hình trăng sao màu hy vọng, sau đó tự mình lái ra đại dương. Em thì sao? - Hồi mười tám tuổi, em ước gì mình có người yêu! - Anh chắc rằng ước mơ ấy đã thành hiện thực rất nhiều lần. Vì em xứng đáng được yêu thương và trân trọng. - Anh đoán sai rồi nhé. Em còn chưa biết tình yêu thật sự là gì! Sau này, em chỉ ước những điều bé nhỏ và có phần ngờ nghệch, buồn cười nữa. - Em yên tâm! Nó không thể nào kỳ cục bằng điều ước của anh đâu. - Ồ. Anh nói thử em nghe xem nào!” “Không. Em là người nói trước. - Dường như lúc nào anh cũng thích làm khó em. Thật không vui chút nào! Hải Lâm thấy tim mình trong phút chốc đập nhanh hơn lúc thường. Giọng nói của anh đang cố để vờ như bình tĩnh: - Thôi được... Nụ cười trên môi anh chầm chậm rồi mất dần, bầu không khí xung quanh anh đượm vẻ căng thẳng và như có một dòng điện đốt cháy cảm xúc trong anh. Sự hồi hộp đến từ trong giọng nói, tim anh như muốn vọt ra khỏi lồng ngực. Nhưng anh biết, chỉ có một cơ hội này thôi và anh nguyện lòng đánh cược tất cả. Anh nghiêng đầu về phía Ngọc Uyển và chậm rãi nói: “Anh ước gì, em sẽ quay sang đây và hôn anh!” Ngọc Uyển cảm nhận rất rõ sự căng thẳng của Lâm, và của cả chính cô. Điều anh nói vốn là điều cô mong muốn trong những giấc mơ, đến cả nghìn lần. Đề nghị của anh cô không đủ sức để chối từ và trái tim cô chỉ lối cho cô biết rằng, mình thật lòng muốn vậy. “Ít ra cho em thấy anh thật sự muốn thế chứ!” - Cô không chắc anh nghe thấy câu trả lời của mình vì gần như cô không đủ sức cất thành tiếng. Cô không biết mình phải làm gì, đưa tay lên chạm vào gương mặt anh? Hay đan những ngón tay mình vào bàn tay anh ấm áp? Ngọc Uyển ước cô có thể nghĩ ra một điều gì đó thật thú vị lúc này, nhưng tất thảy mọi chữ nghĩa đều bay biến trong đầu cô. Điều duy nhất còn tồn tại đó là hơi thở ấm áp của Hải Lâm mỗi lúc gần hơn, gần hơn. - Vậy… Anh... Ừm...! Một nụ hôn thật nhẹ mang theo cảm xúc ấm áp, ngọt ngào của cả hai. Ngọc Uyển chưa bao giờ trải qua điều gì tương tự vậy, như thể chỉ riêng anh mới gắn kết với cô bằng cả tâm hồn và thể xác. Khi nụ hôn ấy dừng lại, cô còn thoáng cảm giác một sự mất mát không thể nói nên lời. Ánh mắt anh trao cho cô đã gián tiếp nói với cô rằng, anh cũng có những cảm nhận tương tự như cô. Một sự khởi đầu tốt đẹp sẽ mang đến những điều tốt đẹp. Ngọc Uyển tin là như thế, và cô tin Hải Lâm là nốt nhạc đầu tiên cũng là duy nhất để cô viết lên câu chuyện tình yêu của chính cuộc đời mình... Trọng đi rồi, ba ngày trước. Anh đã không đón giáng sinh ở thành phố này cùng Huệ như anh đã từng hứa. Ngay cả một lời từ biệt, cũng không. Cuối tuần, Huệ có một cái hẹn cùng Vinh, vẫn là Cộng, vẫn là gác hai với những ánh đèn không đủ sáng và mùi thuốc lúc nào cũng lảng bảng. - Trọng nhờ anh chuyển cho em cái này!” Đẩy chiếc hộp về phía Huệ, Vinh nói. “Thực ra, Trọng yêu anh, đúng không? Huệ nhận ra sự bối rối thoáng chốc trên gương mặt Vinh. Nhưng cô không nhận được câu trả lời mà mình mong muốn. - Anh nghĩ trong lòng cậu ấy luôn có em. Sau này cũng vậy! - Cảm ơn anh. Nhưng câu nói của anh vẫn chẳng thể làm vơi đi mất mát trong em. Khi người ta sẵn sàng rời xa bạn thì có nói gì đi nữa, bạn vẫn chẳng là gì cả... - Ừm. Câu nói của em thật đúng, ít nhất là với anh lúc này! Huệ cười, trong nụ cười của cô có cả sự chua chát. - Điều một cô gái tìm kiếm suy cho cùng là cảm giác bình yên. Mà cảm giác đó anh không thể mang đến cho Ngọc Uyển. Ít nhất, trong suy nghĩ của em, Hải Lâm sẽ làm điều đó rất tốt. Xuân Vinh đưa mắt nhìn về phía cây bàng vẫn đang còn thay lá, có đôi chim tíu tít nô đùa như đang tìm nơi làm tổ. Có lẽ mùa thu sẽ qua nhanh thôi, và mùa đông cũng không dừng lại quá lâu ở thành phố này. Bởi anh biết, mùa xuân sẽ về vào một ngày không xa nào đấy... HẾT. Mời các bạn đón đọc Người Dưng Chung Lối của tác giả Lệ Thu Huyền.