Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Một Gánh Xiếc Qua

Đó là một câu chuyện có thể khiến độc giả đọc xong không nhớ được tên nhân vật. Cũng như, các tiểu thuyết của Patrick Modiano không bao giờ đòi hỏi người đọc quá nhiều, ngược lại, chúng mang lại cả một thế giới huyền hoặc và tinh tế của tuổi trẻ, với nỗi hoang mang, kèm theo đó là lòng can đảm, những nỗi đau, và cả niềm hân hoan tràn ngập. Đến cả nỗi buồn, trong văn chương của Modiano, lúc nào cũng như thể sắp nhẹ nhõm bay đi. Một gánh xiếc qua giống như một chương đặc biệt của bản nhạc dài bao gồm cả Ở quán cà phê của tuổi trẻ lạc lối và Từ thăm thẳm lãng quên. Một bản nhạc đặc biệt da diết, như để nói lên một điều: Dẫu ở độ tuổi nào, bao giờ người ta cũng quá trẻ khi sống ở Paris. *** Trước khi bắt đầu đọc Một gánh xiếc qua thì mình đã từng xem trước một số bài đánh giá và cảm nhận về tác phẩm này, vì “đọc sách Modiano để trở thành chúa tể” chứng tỏ những cuốn sách này sẽ rất khó nhai. Thật may trí nhớ hạn hẹp của mình đã không phá hỏng trải nghiệm với Một gánh xiếc qua, ngược lại những thông tin mà mình nhớ được từ các bài review đã giúp mình hiểu được một số chi tiết trong truyện, cũng như tự nghiệm thêm một số thứ mà có lẽ phải nhiều ngày sau mình mới nhận ra được. Bài viết này là những cảm nhận đầu tiên của mình nên sẽ còn thiếu sót. Một ngày nào đó mình sẽ viết một bài cảm nhận đầy đủ hơn, chắc vậy. Một gánh xiếc đã qua có một câu chuyện đơn giản đến mức làm người đọc cảm thấy khó hiểu vì sao nó có thể tối giản như thế. Cuốn sách là một bản thuật lại diễn biến một chuyện tình xảy ra trong năm ngày liên tục từ một ngày thứ 5 của tháng 11 năm 1963 ở thành phố Paris. Cực kỳ đơn giản, nhưng cũng cực kỳ khó hiểu. Ta hiểu đơn giản đây là một chuyện tình, nhưng khó hiểu vì sao chuyện tình xảy đến quá nhanh và kết thúc cũng rất nhanh. Ta biết đơn giản đây là mối tình chân thành Obligado và Gisele, nhưng rồi sẽ cảm thấy khó hiểu vì trong những lời nói dối liệu họ có thật sự yêu nhau không. Ta đọc cái kết đơn giản nhưng cũng đầy chóng vánh sau 162 trang giấy, và khi suy ngẫm hồi lâu, một loạt câu hỏi sẽ đổ ra vì cái kết quá đỗi đơn giản như thế. Chúng ta được nghe Obligado kể về mối tình năm ngày của anh với Gisele, một cô gái xinh đẹp với quá khứ bí ẩn và sự chuẩn bị cho cuộc đời mới ở Rome. Nàng sẽ dẫn Obligado và người đọc tới một loạt các câu hỏi về thân phận thực sự của nàng, rồi nàng đưa chúng ta gặp gỡ những con người bí ẩn và một loạt câu hỏi khác. Thoạt tiên, ta sẽ tưởng tác giả đang sử dụng cốt truyện đơn giản kia để che lấp hành trình truy tìm danh tính thật sự của Gisele, nhưng khi tất cả sự thật sắp hiện ra trước mắt, bạn nhận ra dòng chữ kết thúc cho mối tình và cả cuốn sách đã hiện lên trước mắt bạn rồi. Vậy mục đích của tác giả là gì? Patrick Modiano chỉ muốn hé lộ chút thông tin về quá khứ của Gisele, hay tìm cách làm độc giả bàng hoàng và bất ngờ khó tả, hay chỉ đang mượn tay Obligado để kể cho chúng ta nghe một câu chuyện vỏn vẹn 160 trang sách? Chẳng ai biết được ý đồ của tác giả, và có khi chính ông cũng không xác định được ý đồ thật sự của mình là gì. Tác giả bày ra một mê cung với điểm đầu là văn phòng cảnh sát nơi Obligado và Gisele lần đầu gặp nhau, đường đi là năm ngày diễn ra chuyện tình, và điểm cuối ở khách sạn khi cuốn sách kết thúc. Nhiệm vụ của người đọc là băng qua mê cung do Patrick Modiano bày ra kia bằng mọi con đường có trong mê cung. Con đường người đọc đã chọn chính là cách hiểu của họ về cuốn sách, hay chính là cách hiểu về năm ngày diễn ra chuyện tình kia. Năm ngày của Obligado và Gisele về cơ bản là năm ngày của tình yêu, nhưng người đọc chúng ta có thể nhìn ra đó là năm ngày thay đổi trong tâm hồn của hai nhân vật, hoặc năm ngày để Obligado tiếp tục sống ở thành phố anh từng có ý định rời đi, hoặc năm ngày một cô gái điếm như Gisele thực sự được biết hai chữ hạnh phúc. Một gánh xiếc qua hay ở chỗ đó. Sự đơn giản trong cốt truyện là yếu tố để độc giả “phức tạp hoá” mọi thứ theo cách hiểu của họ. Sẽ không có một motif chung để review cuốn sách này, vì mỗi người chúng ta có một con đường riêng để truy tìm ý nghĩa ẩn sâu trong cái mê cung mà Patrick Modiano đã bày ra. Nhưng mê cung của Patrick Modiano thật quá ngắn. Vào cái lúc cao trào và mọi dự định về một cuộc sống mới sắp được thực hiện thì bùm, câu chuyện kết thúc. Câu chuyện diễn ra quá nhanh và kết thúc cũng thật quá nhanh. Những dòng chữ cuối cùng khiến cho độc giả bị ứ nghẹn bởi thứ cảm xúc khó tả và sự ngạc nhiên vô cùng. Mình sẽ không viết dòng chữ đó ở đây vì đây là chi tiết làm bùng nổ cảm xúc nhất, ít nhất với mình là vậy. Mình chỉ dám tiết lộ đây là một kết thúc không có hậu, một bad ending. Gisele đã rời khỏi cuộc tình năm ngày, để lại trong Obligado tới cả chục năm sau những ký ức tươi đẹp và rõ ràng đến nỗi anh có thể kể lại toàn bộ diễn biến và nội tâm của anh như chuyện mới xảy ra ngày hôm qua. Còn với người đọc, ngay cả những người đa cảm nhất cũng không thể rơi được một giọt nước mắt ngay khi họ đọc đến cuối truyện, vì câu chuyện đã kết thúc trước khi họ được chứng kiến một chuyện tình viên mãn. Thật sự quá đột ngột, và ta sẽ liên tục hỏi Patrick Modiano “Ông có nhất thiết phải làm như vậy không?”. Patrick Modiano xây dựng một chuyện tình đẹp đẽ giữa hai con người xa lạ ở Paris, ông để kế hoạch trong sang Rome tiến triển thật thuận lợi, và chỉ một chút nữa thôi, Obligado và Gisele có thể cùng nhau lên đường tiến về cuộc sống mới ở thành Rome lộng lẫy. Và rồi Patrick Modiano bóp vụn nó, chỉ trước lúc khởi hành độ 10 phút. Nhưng đó chính là cái tài kể chuyện của Patrick Modiano. Rất nhiều lần trong cuốn sách này Obligado đã tự hỏi và lo lắng Gisele “sẽ biến mất và để lại tôi với cái xe vô tích sự này”. Tác giả dùng những ý nghĩ và cảm xúc của Obligado để người đọc chúng ta cũng cảm thấy tò mò về thân phận bí ẩn của Gisele, e ngại về những người bạn và khoản tiền kỳ lạ trong một căn nhà cũ, lo lắng mỗi khi nàng biến mất trong một góc phố hay một tòa nhà. Đặc biệt nhất là ông sử dụng Obligado của hàng chục năm sau để kể về mối tình năm ngày. Điều đó có ý nghĩa gì? Vì những lời bộc bạch của Obligado trưởng thành trong lúc xen kẽ với lúc Obligado 18 tuổi cho ta biết rằng Gisele bằng một cách nào đó sẽ rời khỏi cuộc tình và từ bỏ kế hoạch trốn thoát tới Rome, để lại một Obligado có thể “òa khóc nức nở một cách ngu xuẩn” khi có người vô tình hỏi “Thế anh vẫn còn gặp cô gái đấy chứ?”. Patrick Modiano nhá trước cho chúng ta một cái kết không mấy tốt đẹp, ông lại lồng thêm cảm giác nơm nớp và sợ sệt một lúc nào đó Gisele sẽ rời đi mất, và rồi tự hỏi nàng có thật sự yêu Obligado hay không. Để rồi khi chúng ta đọc đến những con chữ cuối cùng của cuốn sách, ta mới biết lý do cặp đôi chia lìa và câu trả lời cho nỗi băn khoăn khi nãy. Thế đấy, chúng ta đã sập vào cái bẫy của Patrick Modiano. Cái bẫy của ông tài tình tới mức người đọc cứ đi thẳng vào nó, và họ sẽ chẳng biết mình đang kẹt trong một cái bẫy nếu cuốn sách của họ nằm phủ bụi sau lần đầu đọc đầu tiên. Tuy thế, đây mới chỉ là bề nổi của Một gánh xiếc qua. Một gánh xiếc qua là một mê cung được tạo bởi kiến trúc xư tài ba Patrick Modiano. Ông tạo dựng một cốt truyện đơn giản đến khó tin bằng những con chữ đen cỡ 14, để khỏa lấp hàng tầng ý nghĩa ẩn sau cuộc tình ngắn ngủi kia. Đó là mối quan hệ giữa quá khứ, hiện tại và tương lai; là lý do để Obligado ở lại Paris thay vì trốn tránh quá khứ như cha mẹ; là cái tên thực sự của Obligado và Gisele. Nếu mình còn viết tiếp thì đây sẽ là một bài phân tích chứ không phải là một bài review nữa. Bề sâu của tác phẩm, tốt hơn hết các bạn hãy nên tự khám phá để tìm ra ý nghĩa thực sự mà tác phẩm dành cho bạn. Vả lại, tự tay cầm lên cuốn truyện và thưởng thức nó đến trang cuối cùng mà không biết trước điều gì đang chờ đợi vẫn là cách cảm thụ hay hơn cả. Bài review này chỉ đóng vai trò giúp các bạn xác định được phương hướng khi bước vào mê cung của Patrick Modiano, để các bạn không bị mắc vào cái bẫy vô hình ông đặt ra trước mắt. Và mình tin rằng, sau khi đọc hết 160 trang giấy kia, các bạn sẽ tự mình tìm được ý nghĩa riêng của tác phẩm với bản thân mình mà không phải theo một khuôn mẫu nào. Vì đó là cái tài của Patrick Modiano: tạo ra một cuốn sách giản đơn để độc giả tự bồi đắp cho chính cuốn sách bằng những suy nghĩ của họ. Đánh giá: 10/10. Tuyệt phẩm của nền văn học hiện đại. *** Cái tên ấy vô cùng lạ lẫm với đại đa số độc giả ngoài biên giới nước Pháp. Năm ấy, người ta hướng về Svetlana Alexievich, đợi cái tên Murakami Haruki được xướng lên, nhiều hơn là một nhà văn “ít tên tuổi”. Cứ như thể từ thinh không, Modiano xuất hiện, và ngay giây phút “ra đời” ấy, ông đã sừng sững bước lên bậc đá chỉ dành cho những người vĩ đại nhất. Tờ Telegraph trong một bài viết về ông thậm chí đã giật tít thế này: “Patrick Modiano - Chủ nhân giải Nobel Văn học, mà chúng ta chưa ai từng đọc tới”. Dĩ nhiên, đó chỉ là cách nói phóng đại mà nhà báo vui tính người Anh nào đã tạo nên. Nhưng quả thực, trước cái ngày định mệnh ấy, nhà văn của kinh đô ánh sáng Paris hầu như không để lại chút tiếng tăm nào vượt qua mảnh đất mình sinh ra. Ngay cả trong nước Pháp, ông cũng sống như một ẩn sĩ của làng văn, chẳng màng danh lợi, trốn tránh truyền thông. Dẫu vậy, không ai phải tranh cãi nhau về giải thưởng này, khác với những giải Nobel được trao cho Elfriede Jelinek hay Mạc Ngôn - những nhà văn nổi tiếng hơn ông rất nhiều. Văn chương của ông ngay lập tức được chú ý sau đó, và dĩ nhiên, dễ dàng hạ gục mọi người đọc còn đương nghi ngờ. Dù hiểu thế giới của ông hay không, dù yêu thích không khí Paris trong văn ông hay không thì tất cả đều đồng ý một điều, rằng: Ông xứng đáng là một cây bút ăn giải Nobel. Không cần phải được rọi sáng dưới ánh đa sắc lộng lẫy, bản thân những trang văn giản dị và ngắn ngọn của Modiano đã tiềm tàng sức hút ghê gớm đầy lạ kì. Những tác phẩm của ông là bài ca của nỗi buồn da diết, của những ẩn ức quá khứ bất tử, của những băn khoăn mông lung về bản thể thực sự của một con người. Khi lạc vào văn chương Modiano, ta sẽ bị cái khoảng không nhẹ bẫng, mơ hồ, tinh tế với những nhân dạng nhờ nhợ mắc kẹt trong những tình huống kì lạ - mà người ta gọi là Modianesque, cuốn lấy. Và khi ta gập trang sách cuối cùng và ngơ ngẩn ngước về thinh không, sẽ chỉ còn nỗi buồn ngân vang dừng lại trong tâm trí. Di sản của ông để lại phần lớn là những tác phẩm chỉ dài hai trăm trang sách trở lại. Thoạt đầu, ta ngỡ rằng rất nhiều cuốn giống nhau, là sự lặp lại nhau. Những suy nghĩ ấy thực ngây thơ, bởi văn của ông nói nhiều hơn độ dài của nó, những câu chuyện của ông đan xen lấy nhau, nhưng không hòa tan vào nhau mà mỗi câu chuyện là một mảnh ghép tạo nên vương quốc của kí ức. Giống như trò chơi Trí Uẩn, với bảy mảnh ghép mà thôi, ta có thể dệt nên cả thế giới. Trong ấy, có một bộ ba “na ná” nhau hơn cả, ba trường đoạn của một bản trường ca. Đó là cuốn “Một gánh xiếc qua”, “Từ thăm thẳm lãng quên” và “Ở quán cà phê của tuổi trẻ lạc lối”. Đó là những khúc ca Patrick Modiano dành cho Paris hoa lệ mà ông đã mắc kẹt trong nó như một tù nhân, dành cho những cuộc tình say đắm, và đặc biệt, dành cho những người trẻ đang sống mà chẳng thực sống. Nhưng hãy khoan đi đến hai tác phẩm phía sau, hôm nay, hãy chỉ khám phá và chia sẻ về chương đầu tiên của trường ca ấy: “Một gánh xiếc qua”. Đằng sau cuốn sách, dịch giả Trần Bạch Lan đã tóm lược một điều mà tác phẩm này muốn cất lên: “Dẫu ở độ tuổi nào, bao giờ người ta cũng quá trẻ khi sống ở Paris”. Đọc một cuốn sách không đơn thuần là tiếp nhận ngôn từ ở bề mặt, mà đó là một hoạt động tinh tế hơn thế rất nhiều. Ta phải bóc tách lớp chữ đen trên mặt giấy để giải mã những chi tiết tế vi, mà đôi khi chỉ thấy được khi ta trôi vào những khoảng không phía sau từ ngữ. Thiên chức của một nhà viết tiểu thuyết, chính Patrick Modiano đã nói trong Diễn từ nhận giải của mình: “...trước cái trang giấy trắng mênh mông của lãng quên để làm bật dậy vài lời đã nửa phần bị bôi xóa, như những tảng băng sơn lạc loài trôi dạt trên bề mặt của biển cả”. Ở tảng băng đó, phần nổi có khi chỉ mang vai trò của một chiếc mặt nạ, còn bề sâu, ấy mới là thứ người đọc phải xâm lấn. Nói dài đến vậy, để ta thấy rằng, tác phẩm của Modiano đích thực là một mê cung mà nếu chẳng tỉnh táo, ta sẽ bị cốt truyện đơn giản đến tối giản lừa lọc, bị lạc lối trong khu phố mà chẳng hề nhận ra, ở góc đường, khuất sau cột đèn vàng vọt thờ ơ, chính là lối thoát mong đợi. Và “Một gánh xiếc qua” là minh chứng rõ rệt hơn cả cho quan niệm ấy. Hãy mở trang đầu tiên để đi vào thế giới huyền hoặc bí ẩn của Modiano, trong “Một gánh xiếc qua” - một thiên truyện tình mê hoặc, một nỗ lực lần lại sợi dây kí ức để giải đáp về hiện tại, một khao khát hướng người trẻ đến sự sống cao hơn, một lời khuyên về cách ta đọc một cuốn sách. “Một gánh xiếc qua” ở bề mặt của nó, ắt hẳn là một câu chuyện về tình yêu. Tình yêu của hai người trẻ. Cậu trai mới mười tám, đã bỏ học, nói dối mình đã hăm mốt, bị cha mẹ bỏ rơi và phải sống cùng “cấp dưới” của cha trong một căn hộ sắp biến mất - Obligado. Nàng là một người đẹp bí ẩn như đứng giữa sương khói - Gisèle. Họ tìm thấy nhau tình cờ, trong một buổi chiều Paris, lần lượt bị tra khảo. Obligado là người đầu tiên, bị hỏi về những cái tên khác lạ lẫm, chỉ vì “tên cậu xuất hiện trong sổ agenda của một người”. Kế đến là Gisèle, với một cuộc thẩm vấn dài hơn rất nhiều. Và Obligado quyết định chờ nàng, chẳng vì lý do xác đáng nào. Có lẽ, anh đã mơ màng nhìn thấy tình yêu, qua cái chạm mắt trong khoảnh khắc đó, khi anh rời đi. Chờ nàng, để rồi nàng nhờ anh cầm chiếc va li nặng mà trong ấy anh nghĩ là có vàng. Và để rồi họ ngủ với nhau, trong căn phòng tạm bợ của Obligado. Đời họ cắt nhau lãng xẹt như thế. Chỉ trong năm ngày bên nhau, năm ngày yêu nhau, mà ngỡ là cả một đời người. Họ lên kế hoạch trốn thoát khỏi Paris, để sang Rome kiếm một cuộc đời khác. Và tình thì si. Chàng trai trẻ sẵn sàng bỏ lại tất cả, dù hầu như anh chẳng còn lại gì, để trốn chạy cùng người mình yêu. Trong những ngày ấy, Gisèle đưa anh gặp những người lạ kì, những kiểu người chỉ lướt qua đời ta như cơn gió tạt vào ta rồi vĩnh viễn chìm vào hư không. Nhưng những người ấy đều được bọc trong bầu không khí của sự bí ẩn. Họ gặp Jaques de Baviere, một người đàn ông có lẽ mang một tình cảm đặc biệt với Gisèle, sẵn sàng cho họ mượn chiếc xe ôtô của mình. Họ gặp Ansart, một gã trung niên luôn có chút nuối tiếc hoặc buồn bã mỗi khi nói về tuổi trẻ, nhưng đồng thời cũng là kẻ có hành tung đáng nghi. Rồi Ansart muốn họ chuyển lời tới một người đàn ông vô danh - người sẽ biến mất, cùng với cả Ansart lẫn Jacques, ngay sau đó. Rồi thì Guelin, cái gã đã nói cho Obligado về tên thật của nàng, Suzanne Kraay, về việc nàng từng đi tù, từng cưới chồng và có lẽ, làm điếm ở ngôi nhà số 34 phố Desaix. Nhưng những cái tên ấy thì có nghĩa gì? Họ thi thoảng sẽ quấy rầy Obligado của tuổi bốn mươi. Nhưng chẳng ai làm anh đau đớn như Gisèle (hay là Suzanne nhỉ?). Nhưng chẳng cái tên nào ngoài tên người anh yêu có thể khiến trái tim anh run rẩy, đầu óc anh quay cuồng, và làm bất chợt có cái gì ươn ướt lướt dài dưới hàng mi anh... Ngay sau phi vụ Ansart, ngay trước khi họ rời bỏ Paris sang Rome tươi đẹp, cô mất. “Bạn gái cậu. Tai nạn. Ngay sau cầu Suresnes” - những dòng kết lại cuốn sách, đầy gấp gáp, đầy đau đớn. Như có gì nghẹn lại trong họng ta, ta chỉ có thể thốt lên vài ba từ, về cái chết của người yêu. Obligado như thể đã đoán ra được cái kết tất yếu ấy, ngay sau phi vụ mà anh tưởng chính mình là tòng phạm, mà ngẩn ngơ: “... tôi đã hiểu hết trước cả khi kịp nghe”. Obligado đã cô đơn hầu như cả phần đời tươi trẻ của mình. Cha anh ắt hẳn là một tội phạm từng làm nhọc lòng nhiều thẩm phán, đã sang Thụy Sĩ. Mẹ anh là một nghệ sĩ, đâu đó ở Nam Tây Ban Nha, chẳng rõ sống chết. Họ rời bỏ anh, để anh lại với Grabley, người đàn ông chung thuyền với người cha đầy những bí mật. Có lẽ chỉ đến khi Gisèle giành một chỗ trong đời anh, Obligado mới không sống như một bóng ma. Bóng ma trong một căn phòng rỗng tuếch, của một khu nhà sắp dỡ. Bóng ma trong trường đại học mà anh chẳng hề là sinh viên, dẫu có bằng chứng giả cho việc anh học tại ấy. Bóng ma ở đời khi Obligado luôn thiếu động lực, mơ màng về tương lai và u uất khi nhìn về quá vãng, luôn nghĩ người khác đúng còn mình sai, thiếu bản sắc riêng của một con người. Chỉ đến khi gặp nàng, anh mới có dũng khí và sức sống, để sẵn sàng rủa vào mặt tên Guelin: “...thằng già đê tiện!”, và dám đưa tiền cho gã gác đêm của khách sạn mà trước đó anh còn ngại ngần đối đầu, để có phòng cho cả hai người họ. Thế mà rồi nàng ra đi. Lời hẹn lát gặp của họ mãi mãi ra đi. Chẳng có Rome, chẳng có đời sống nào khác. Chỉ còn ở lại nỗi tiếc nuối. Những người yêu nhau có lẽ sẽ hiểu cảm giác ấy hơn cả. Dẫu cho người yêu không mất đi, nhưng chỉ cần tưởng tượng nên viễn cảnh ta thả tay nàng một lát, ta khuất bóng nhau vài giây là tuột khỏi nhau cả đời, ta đã có thể nức nở. Còn gì đau hơn việc người ta yêu, sẽ biến mất khỏi đời ta, và chỉ còn lại những kí ức có thể chìm vào lãng quên bất cứ lúc nào. Cái nức nở của Obligado ở độ tuổi bốn mươi, khi được một người hỏi về việc có còn gặp lại nàng không, như một vết chích côn trùng, ta cứ ngỡ là chẳng sao, để rồi khi dấu chấm kết chương đến thì nó hóa thân thành viên đạn bạc, xoáy vào vết thương kia một cách thô bạo: “Tôi kinh ngạc trước câu hỏi đến nỗi phải ấp úng một câu trả lời mơ hồ. Khi chỉ còn lại một mình, ngoài đại lộ, tôi đã òa khóc một cách ngu xuẩn”. Nhưng nước mắt của người đàn ông đã đi qua câu chuyên kia hai mươi năm thì có thể làm gì để vực dậy hiện tại? Câu chuyện tình ấy chẳng thỏa mãn bất kì ai. Nó buồn và để ngỏ nhiều điều mãi không được hồi đáp: Nàng thực sự là ai? Có phải nàng làm điếm ở căn nhà số 34 phố Desaix? Có thực là nàng quen Jacques, Ansart, Martine mới ba tuần? Phi vụ đem cho họ một phong bì tiền để tới Rome, thực chất có phải một vụ bắt cóc? Cái chết của nàng có phải một sự sắp đặt, để bịt miệng một nhân chứng cho cuộc bắt cóc kia? Nếu thế thì sao Obligado lại sống sót? Hay nàng tự kết liễu cuộc đời khốn khổ của mình? Ôi, câu chuyện tình của những điều ta chẳng biết. Modiano đâu có nói cho ta hay? Ta chỉ biết họ đã yêu, đã say, đã cuồng nhiệt. Ta chỉ rõ họ đã mơ, rồi giấc mơ đã tan vỡ. Ta chỉ hay tình yêu tuổi trẻ thì luôn đầy hoang mang - như cái cách Obligado luôn sợ nàng sẽ bỏ anh đi, nhưng cũng đầy bản lĩnh. Ta, sau rốt, thấy nỗi đau của tình yêu có thể ám ảnh mình, dẫu có chạy khỏi nó xa đến cả hai mươi năm. Mời các bạn đón đọc Một Gánh Xiếc Qua của tác giả Patrick Modiano & Cao Việt Dũng (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Vĩnh Biệt Gunxaru - Chyngyz Torekulovich Aytmatov
Vĩnh biệt tác giả "Một ngày dài hơn thế kỷ" Nhà văn Kyrgyzia nổi tiếng Chyngyz Torekulovich Aytmatov, tác giả của những tác phẩm làm rung động hàng triệu con tim trên thế giới đã qua đời tại Bệnh viện Nuremberg ở CHLB Đức vào hồi 15 giờ 31 phút ngày 10/6. Hãng DPA của CHLB Đức đưa tin nhà văn Kyrgyzia qua đời vì bệnh phổi.  Chingiz Aitmatov đã lâm bệnh từ mấy tháng trước tại Kazan, nơi ông tham gia quay phim "Một ngày dài hơn thế kỷ". Ông được đưa vào điều trị tại bệnh viện tốt nhất ở Tatarstan (Nga). Ngày 16/5, Aitmatov được đưa sang Đức chữa trị và ông đã vĩnh biệt chúng ta ở tuổi 80. Aitmatov sinh năm 1928 tại làng Sheker, vùng Talass của Kyrgyzia. Tuổi thơ ông rong ruổi trên những cánh đồng và thảo nguyên vùng Trung Á thơ mộng. Lớn lên, Aitmatov đến sinh sống cùng gia đình tại Moskva. Nước Nga với những cánh rừng bạch dương hùng vĩ và những con người nhân hậu đã nuôi dưỡng tâm hồn Aitmatov, hun đúc nên những tác phẩm bất hủ của ông. Chính vì thế, những tác phẩm của Aitmatov đều thể hiện bằng hai thứ tiếng Kyrgyzia và Nga. Từ năm 1952, những tác phẩm đầu tiên của Chingiz Aitmatov lần lượt ra đời.  Đến nay, những tác phẩm của nhà văn đã được tái bản tới 650 lần trên thế giới và được dịch sang 170 ngôn ngữ khác nhau với số lượng lên đến 60 triệu bản. Tiểu thuyết cuối cùng của nhà văn "Khi nào núi đổ (nàng dâu vĩnh viễn)" vừa được xuất bản tại Moskva năm 2006. Năm nay ở Kirgizia là "Năm Chingiz Aitmatov".  Mới đây, tại Thổ Nhĩ Kỳ, một ủy ban vận động đề cử Aitmatov làm ứng cử viên giải thưởng Nobel Văn học được thành lập. Sáng kiến đề cử Aitmatov do Hội nghị Bộ trưởng các nước Thổ Nhĩ Kỳ, Azerbaijan, Kazakhstan, Uzbekistan, Kyrgyzstan, Turkmenistan, Altai, Tatarstan, Tuva... đưa ra. Hội nghị khẳng định Aitmatov là nhà hoạt động văn học xuất sắc của cộng đồng Turkic. "Chingiz Aitmatov được coi như biểu tượng tinh thần và nhân phẩm của tất cả nhân dân Turkic trên toàn thế giới, còn toàn bộ cuộc đời nghệ thuật của ông có ý nghĩa quốc tế sâu rộng"- Tổng thống Thổ Nhĩ Kỳ Abdull Gul tuyên bố.  Chingiz Aitmatov đã từng giữ các chức vụ như Tổng biên tập tạp chí "Văn học nước ngoài", Thư ký Hội Nhà văn Liên Xô. Ông được phong danh hiệu nhà văn nhân dân của Kyrgystan, Anh hùng Lao động XHCN, được nhận giải thưởng Lênin, 3 lần đoạt giải thưởng Quốc gia Liên Xô, Đại biểu Xôviết tối cao Liên Xô, Ủy viên BCH T.Ư Đảng Cộng sản Kyrgyzia. 16 năm cuối đời, Aitmatov làm đại sứ của Kyrgyzia ở châu Âu. Nước Nga đau đớn nhận tin Aitmatov qua đời. Tổng thống D.Medvedev gửi lời chia buồn sâu sắc đến gia quyến của nhà văn. Chủ tịch Hội các nhà xuất bản Nga Mikhail Seslavinsky nêu rõ: "Trong những ngày cuối đời, Aitmatov luôn trăn trở rằng phải làm tất cả để giữ mối quan hệ nhân văn bền chặt giữa các nước cộng hòa trong không gian hậu Xôviết. Ông tham gia các cuộc hội thảo và luôn là người bạn thân thiết, gần gũi của đất nước chúng ta. Sự nghiệp sáng tác của ông là một phần không thể thiếu trong không gian văn học của đất nước chúng ta".  Ngoại trưởng Pháp Bernar Kushner vô cùng thương tiếc nhà văn Kyrgyzia, ông cho rằng Aitmatov luôn sống mãi trong lòng những người hâm mộ như một nhà văn vĩ đại nhất của thế kỷ XX. Nhà hoạt động văn hóa xã hội Mikhail Veller khẳng định sự ra đi của Aitmatov đã để lại khoảng trống, mất đi một mắt xích quan trọng trong không gian văn hóa hậu Xôviết. Bạn đọc Việt Nam mến yêu Chingiz Aitmatov qua những tác phẩm: "Người thầy đầu tiên", "Núi đồi và thảo nguyên", "Giamilia", "Cây phong non trùm khăn đỏ", "Vĩnh biệt Gunxarư", "Một ngày dài hơn thế kỷ", "Đoạn đầu đài"... Đó là những thiên truyện đã thực sự làm ngây ngất những con tim luôn khát khao với cuộc sống mến yêu, với thiên nhiên thấm đẫm tình người. Chingiz Aitmatov thực sự là cây đại thụ trong nền văn học Xôviết, một nhà văn chói ngời với những tư tưởng nhân văn. "Vĩnh biệt Gunxarư"! Vĩnh biệt Chingiz Aitmatov! Nhà văn của nhân dân Chingiz Aitmatov (Mạnh Hiền) *** Đôi nét về tác giả: Chinghiz Aitmatov sinh ngày 12-12-1928 tại vùng thung lũng Talax, làng Sheker, huyện Kirov, tỉnh Talas (Kyrgyzstan). Sau khi học xong lớp 6, C. Aitmatov làm thư ký cho Xô viết xã ở ngay quê mình. Ông bắt đầu hoạt động văn học khi còn là sinh viên Trường ĐH Nông nghiệp Kirghizia. Năm 1956-1958, ông theo học Trường Viết văn Gorky tại Matxcơva. Năm 1958, hai tập truyện ngắn của Aitmatov (bằng tiếng Nga và tiếng Kirghizia) đã được xuất bản ở Frunze. Ông được giải thưởng văn học Lênin 1963 với chùm truyện đầu tay: Giamilia, Người thầy đầu tiên, Cây phong non trùm khăn đỏ và Mắt lạc đà. Sau đó ông tiếp tục viết và đã đoạt Giải thưởng quốc gia Nga năm 1969, Giải thưởng quốc gia Liên Xô năm 1977, Anh hùng Lao động XHCN (1978), Viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học, Nghệ thuật và Văn học châu Âu, Viện Hàn lâm Khoa học nghệ thuật thế giới... Năm 1990, ông được tổng thống Goorbachev cử làm Đại sứ đặc mệnh toàn quyền tại Bỉ, Hà Lan, Luxemburg. Năm 1994-2008, ông là Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Cộng hòa Kyrgyzstan tại Bỉ, Hà Lan, Luxemburg, đại diện toàn quyền của Kyrgyzstan tại Liên hiệp châu Âu và UNESCO. Năm 2008, tổng thống nước Cộng hòa Kyrgyzstan quyết định chọn làm Năm Aitmatov. Chiều 10-6-2008, ông qua đời tại Bệnh viện Nuremberg (Đức) vì tuổi già lại mắc bệnh thận và phổi, hưởng thọ 80 tuổi. *** Tác phẩm Truyện núi đồi và thảo nguyên (1963) Jamilya (1958) Cây phong non trùm khăn đỏ (1961) Người thầy đầu tiên (1962) Mắt lạc đà Vĩnh biệt Gyulsary (1966) Con tàu trắng (1970) Lên núi Phú Sĩ (đồng tác giả với Kaltay Mukhamedzhanov) Sếu đầu mùa (1975) Con chó khoang chạy trên bờ biển (1977) Và một ngày dài hơn thế kỷ (1980, sau đổi tên là Буранный полустанок) Đoạn đầu đài (1986) Тавро Кассандры, (1996) Встреча с одним бахаи (trò chuyện với Feyzolla Namdar, 1998) Когда падают горы (2006) Материнское поле (2012) Mời các bạn đón đọc Vĩnh Biệt Gunxaru của tác giả Chyngyz Torekulovich Aytmatov.
Phía Đông Mặt Trời - Julia Gregson
Là chuyến hành trình của nàng Rose đến Ấn Độ để chuẩn bị cho kế hoạch kết hôn với một người đàn ông mà cô không hề quen biết. Đi với Rose còn có Victoria, cô phù dâu, đang tìm kiếm một đấng phu quân. Ngoài ra, một phụ nữ khác đi cùng hai cô gái cũng muốn nhân chuyến đi khám phá Ấn Độ để tìm lại tuổi thơ của mình. *** "Ấm áp, quyến rũ, đầy thuyết phục và không thể buông tay một khi quyết định đọc Phía Đông mặt trời." (NHS Magazine) "Một cuốn tiểu thuyết đầy màu sắc với bối cảnh diễn ra tại Ấn Độ trong những năm cuối thập niên 1920 tác động đến tất cả (các tuyến nhân vật), những câu chuyện được kể một cách hoàn hảo, không thể dự đoán." (The Times) *** London, tháng chín năm 1928 Phụ nữ, có trách nhiệm, hai mươi tám tuổi, yêu trẻ em, có kiến thức về Ấn Độ, nhận làm bảo mẫu trong chuyến đi từ Tilbury tới Bombay với thù lao thanh toán bằng một nửa chi phí cho lộ trình. Điều kỳ diệu cuối cùng cũng đã đến với Viva Holloway, sau khi cô phải mất ba đồng sáu xu trả cho mẩu quảng cáo của mình trên ấn bản tháng Chín của tờ Quý cô. Năm ngày sau, Viva có mặt tại một nhà hàng ở Derry & Toms, nội đô thành London, chờ đợi cuộc hẹn với khách hàng đầu tiên của mình, quý bà Jonti Sowerby đến từ Middle Wallop, Hampshire. Thay vì mặc bộ váy bằng lụa may mắn tìm được trong một lần dạo chợ mua bán đồ cũ từ thiện, Viva đến với cuộc hẹn phỏng vấn trong bộ dạng của một người đánh máy thuê, công việc cô đang nhận làm tạm thời dăm bữa nửa tháng, cô ghét cay ghét đắng bộ âu phục được may từ thứ vải len xù xì xám xịt đang khoác trên người. Mái tóc dày đen nhánh thường ngày vẫn rủ từng lọn hoang dại buông hờ xuống bờ vai giờ được Viva buộc túm lên thành búi ẩm ướt thắt chặt trên đầu. Cô bước vào phòng trà được trang hoàng lộng lẫy tràn ngập những tiếng rì rầm cười nói, xen lẫn giữa những tiếng ồn ào là giai điệu rời rạc của người nghệ sĩ đang nhấn nhá từng phím trên chiếc dương cầm đặt trong góc phòng. Một người phụ nữ nhỏ nhắn, mảnh dẻ, trên đầu đội một chiếc mũ màu xanh khá đặc biệt (nom hệt như một chiếc lồng kín đặc được trang trí bằng những sợi lông chim tua tủa đâm ngược ra sau) nhanh nhẹn đứng dậy vẫy chào Viva. Ngồi sát bên cạnh bà ta là một cô gái khá bụ bẫm, im thin thít từ giây phút đầu tiên, tên cô, Victoria, con gái của Sowerby. Một tách cà phê được mang ra, nhưng khá nhạt, không có bánh ngọt đi kèm. Từ sáng đến giờ Viva vẫn chưa có chút gì bỏ bụng, ánh mắt cô liếc nhanh về phía chiếc bánh ngọt được trang trí bằng những hạt óc chó nom khá ngon miệng nằm im lìm trong tủ kính phía dưới quầy hàng. “Trông cô ta mới kinh khủng làm sao”, bà Sowerby lập tức quay sang than vãn với cô con gái, như thể không hề nhận thấy một Viva bằng xương bằng thịt đang ngồi ngay trước mắt. “Mẹ”, Victoria phản đối, giọng cô gái trẻ khá lạ, và khi bắt gặp ánh mắt cô gái ngước lên nhìn mình, Viva chợt nhận ra Victoria sở hữu một đôi mắt tuyệt đẹp: to tròn, sâu hun hút và xanh thẳm thẳm như những đóa xa cúc lam. Tôi xin lỗi vì đã không thể ngăn những lời bà ấy vừa thốt ra, hai đóa xa cúc lam như muốn nói với Viva như thế. Cuối cùng thì Sowerby cũng chịu đi thẳng vào vấn đề, bằng chất giọng khô khan, hướng về Viva, bà tóm tắt vấn đề của họ, rằng Victoria chuẩn bị sang Ấn Độ để làm phù dâu cho cô bạn gái thân nhất của mình, Rose, con bé, theo như những gì bà Sowerby kể lại bằng chất giọng lè nhè đầy ắp sự khoe khoang, “đang chuẩn bị đính hôn với đại úy Jack Chandler thuộc trung đoàn kỵ binh số 3 tại nhà thờ thánh Thomas ở thành phố Bombay”. Người bảo mẫu họ thuê trước đây, bà Moylett, đã quyết định từ chối không đi cùng vào phút chót - nguyên nhân từ chối, theo như những gì Sowerby kể lại, là bởi bà Moylett đột nhiên được một quý ông già cả thuê mướn làm bảo mẫu cho gia đình ông ta. Viva đặt tách cà phê xuống bàn, trong mắt người đàn bà đứng tuổi trước mặt, cô như một thứ gì đấy được gọi tên bằng hai tiếng tuyệt vọng, gánh trên vai niềm khao khát không thể che đậy về mong muốn những khó khăn của mình sẽ nhanh chóng được bà ta giải quyết. “Tôi khá hiểu Bombay”, cuối cùng Viva cũng lên tiếng, chỉ dựa vào một sự thật duy nhất: tròn mười tám tháng, cô từng nằm ngửa trên cánh tay mẹ mình để cùng bà bước dọc thành phố Bombay; vài năm sau, khi Viva tròn năm tuổi, một lần nữa cô có mặt trên bãi biển, ngon lành mút que kem mát lạnh ngọt lịm dưới nắng trời Bombay, và lần cuối cùng, ấy là khi cô lên mười, bàn chân Viva lại chạm vào Bombay, kể từ đấy, chưa một lần cô quay lại thành phố này. “Chắc chắn Victoria sẽ được trông nom cẩn thận”. Cô gái hướng ánh mắt đầy ắp hy vọng vào Viva. “Chị có thể gọi tôi là Tor nếu thích”, Victoria nhẹ nhàng. “Các bạn đều gọi tôi bằng tên ấy”. Khi người bồi bàn đến bên cạnh, bà Sowerby bắt đầu cao giọng phàn nàn về đồ uống, rồi yêu cầu một chút nước thuốc hãm thay cho thứ “trà Anh tầm thường”. “Một nửa máu trong người tôi thuộc về nước Pháp”, bà giải thích, không quên bĩu môi như để chứng minh cho điều mình vừa nói. “Cô biết gì về những chiếc rương đựng hành lý khổ lớn?”. Bà Sowerby vừa nói vừa kiểm tra một chiếc răng của mình bằng chiếc gương nhỏ xíu gắn trên mặt trong của hộp phấn bỏ túi. “Đấy là một trong những điều bà Moylett đã hứa hẹn sẽ giúp đỡ chúng tôi”. Đến lúc này thì phép màu thực sự xảy ra với Viva: một tuần trước, khi cô sục sạo nghiền ngẫm đến nát tờ Người tiên phong với hy vọng tìm được một công việc thích hợp, tình cờ cô đã đọc được mẩu quảng cáo của một người thợ may tên Ram về vấn đề bà Sowerby đang quan tâm. Viva bình tĩnh nhìn thẳng vào mắt bà Sowerby. “Sản phẩm của hãng Viceroy là tốt nhất”, cô nói. “Mặt trong chúng được viền thép trước khi bọc vải bạt bên ngoài. Bà có thể tìm mua tại cửa hàng Quân trang và quân dụng. Tôi không nhớ chính xác giá thành của loại rương này nhưng tôi đoán khoảng hai mươi lăm si-ling một chiếc”. Không gian bên trong nhà hàng đột nhiên xao động. Tiếng leng keng lách tách của dao nĩa thìa ly chạm vào nhau đột nhiên im bặt. Một quý bà xinh đẹp, khá quyến rũ trong bộ váy áo nhạt màu chậm rãi bước vào, miệng khẽ nhoẻn cười khi tiến về phía bàn bà Sowerby. “Xin giới thiệu, đây là bà Wetherby”. Tor tươi cười đứng dậy ôm hôn chào đón người phụ nữ xinh đẹp vừa bước vào. “Cô ngồi xuống đây”, Tor nom hoạt bát hẳn lên, vỗ nhẹ vào chiếc ghế bên cạnh chỗ cô ngồi. “Cháu và mẹ đang nói với nhau về công việc, kinh khủng, những chủ đề tẻ nhạt”. “Phải đấy, Victoria”. Bà Sowerby xen vào, “bé giọng thôi, không cả cái nhà hàng này nghe hết chuyện của chúng ta đấy”. Rồi bà quay sang Viva. “Bà Wetherby đây là mẹ của Rose, con bé sắp đính hôn với ngài đại úy Chandler ở Ấn Độ ấy. Con bé xinh đến nao lòng”. “Tôi không thể chờ đến lúc được gặp bạn ấy”. Tor đột nhiên hào hứng, khuôn mặt cô bừng lên rạng rỡ. “Rose rất vui tính, một người bạn hoàn hảo, bất kể ai tiếp xúc với Rose đều yêu quý bạn ấy - bọn tôi chơi với nhau từ hồi còn để chỏm, đến trường cùng nhau, cưỡi chung những chú ngựa Pony xinh xắn...”. Viva bỗng thấy cơn đau nhói lên trong lồng ngực, những cảm xúc thân quen chợt ùa về - những kỷ niệm không bao giờ quên về những người bạn thân thiết từ thời thơ ấu. “Victoria”, bà Sowerby mắng khẽ cô con gái. Những chiếc lông chim xanh thẫm cắm trên mũ rủ xuống im lìm ngang chân mày khiến bà trông giống như một chú chim bé bỏng đang bị kẻ khác làm mếch lòng. “Mẹ không chắc chúng ta phải kể cho cô Holloway đây nghe mọi chuyện. Chúng ta vẫn chưa quyết định, đúng không nào? Hơn nữa, Rose yêu quý của chúng ta đang ở đâu?”. “Tại tư gia của bác sĩ”. Giọng bà Wetherby trở nên lúng túng. “Cháu biết đấy...”. Nhấp một ngụm cà phê, Wetherby trao đổi với bà Sowerby một ánh nhìn thoáng qua, như ra dấu. “Hai mẹ con cô đã có cả một buổi sáng tuyệt vời nhất bên nhau từ trước đến nay trước khi cô để con bé rời khỏi xe”, giọng bà Wetherby nhẹ như thở. Bọn cô cùng đi mua quần áo, vợt tennis, một giờ sau cô gặp lại Rose tại Beauchamp, con bé chuẩn bị sắp xếp đồ đạc đưa về nhà chồng. Cuộc đời tẻ nhạt của con bé cuối cùng cũng hoàn toàn chấm dứt sau đêm nay. Cô không nghĩ mình có thể mua được nhiều áo quần đến thế chỉ trong một ngày. Giờ thì, cô gái xinh xắn này là ai vậy?”. Lập tức Viva được giới thiệu với bà Wetherby như một “bảo mẫu chuyên nghiệp”. Wetherby mỉm cười, điệu đà đặt một tay lên vai Viva, vui vẻ chào hỏi cô bằng tất cả niềm hứng khởi có trong người bà. “Tôi vừa mới phỏng vấn cô ta xong”, bà Sowerby nhanh nhảu nói với Wetherby. “Cô ta hiểu rõ Ấn Độ như lòng bàn tay, không chỉ có thế, cô ta còn biết khá rõ mọi vấn đề liên quan đến rương hòm hàng hóa - cô ta bảo sản phẩm của Viceroy là tốt nhất”. “Các cô gái bao giờ cũng nhạy cảm”, giọng bà Wetherby đột nhiên đượm mùi âu lo. “Chúng chỉ cảm thấy an tâm khi có ai đấy theo cùng và để mắt đến mọi chuyện”. “Nhưng tôi e là chúng tôi chỉ có thể trả cô năm mươi pao cho việc trông nom cả hai con bé”, giọng bà Sowerby chắc nịch, “không thêm không bớt một xu nào nữa”. Viva nhanh chóng lẩm nhẩm vài phép tính trong đầu, giá vé một chiều từ London đi Bombay là tám pao. Cô đã để dành được một trăm hai mươi pao, chắc chắn cô sẽ cần nhiều tiền hơn khi đặt chân đến Bombay. “Nghe có vẻ hợp lý”, Viva thản nhiên trả lời, cố giữ giọng thật nhẹ nhàng như thể những lời mình vừa thốt ra chỉ là những thứ quen thuộc vẫn xảy ra mỗi ngày. Tor thở phào, rối rít. “Ơn Chúa!”. Cô gái không giấu giếm niềm hân hoan. “Tuyệt thật đấy!”. Viva bắt tay chào tạm biệt ba người đàn bà trước mặt, nhanh nhẹn rời khỏi nhà hàng bằng những bước dài hoan hỷ; những điều sắp tới mới thật sự là một miếng bánh ngọt ngào: một con bé nhút nhát với cặp mắt xanh biếc, cùng một bà mẹ nom rõ ngớ ngẩn rõ ràng đang trong cơn tuyệt vọng; bạn gái của con bé, Rose, chuẩn bị kết hôn và không còn lựa chọn nào khác. Cuộc hẹn tiếp theo diễn ra tại khách sạn Hải quân, tại đây Viva sẽ gặp gỡ bà Bannister cho những nhiệm vụ sắp tới: bảo mẫu cho một nam sinh đến gặp bố mẹ cậu bé đang sinh sống ở Assam. Cô quờ tay vào túi xách tìm mẩu giấy ghi cuộc hẹn. Tên cậu bé, Guy Glover. Ít phút sau Viva đã đối mặt với bà Bannister, một quý bà mặt mũi lúc nào cũng cau có, hai hàm răng sin sít, có vẻ là một người khá nóng nảy. Chắc phải ngoài bốn mươi, Viva thầm đoán, mặc dù chưa bao giờ cô được xem là người chính xác trong trò đoán tuổi người đối diện. Bà Bannister gọi hai tách trà ấm, không bánh ngọt, không cả bánh qui đi kèm. Bannister nhanh chóng đi thẳng vào vấn đề, bởi theo như lời bà ta nói, thì đúng ba giờ rưỡi bà phải bắt chuyến tàu trở về Shrewsbury. Anh trai của bà ta, chủ đồn điền chè xanh ở Assam, và vợ của ông ấy, Gwen, đang rơi vào tình thế “tiến thoái lưỡng nan”. Con trai của họ, Guy, đứa con duy nhất, đột ngột nhận được yêu cầu rời khỏi trường học. Thằng bé chỉ mới mười sáu tuổi. “Thằng bé khá khó tính, nhưng như tôi đã nói, ẩn sau vẻ khó tính ấy là một đứa trẻ cực kỳ tốt bụng”, bà cô của khách hàng trấn an Viva. “Nó đã theo học tại trường thánh Christopher suốt mười năm nay và chưa một lần quay trở lại Ấn Độ. Vì một số lý do khác nhau, tôi không có thời gian để giải thích với cô tại sao chúng tôi lại không thể tiếp tục chăm sóc thằng bé ở đây mặc dù chúng tôi rất muốn điều đấy. Nhưng sau tất cả, bố mẹ Guy đã quyết định sẽ tốt hơn cho nó khi ở Ấn Độ. Nếu cô chăm nom nó cẩn thận, họ sẽ thanh toán toàn bộ chi phí cho chuyến đi của cô”. Viva có cảm giác khuôn mặt cô lúc này đang đờ đẫn vì vui sướng trước những lời bà Bannister vừa thốt ra. Nếu toàn bộ chi phí chuyến đi lần này được bố mẹ cậu bé thanh toán, cô sẽ giữ được nguyên vẹn năm mươi pao của bà Sowerby, cô có thể dùng nó để trang trải cho một kỳ nghỉ xả hơi ở Ấn Độ, ơn Chúa vì điều đó. Phấn khích với viễn cảnh trước mắt, thậm chí trong đầu của Viva lúc này không mảy may một chút nghi ngờ tại sao một thiếu niên ở tuổi mười sáu lại không thể tự mình thực hiện được một cuộc hành trình không lấy gì làm khó khăn, hay chí ít, cô không hề thắc mắc tại sao bố mẹ của cậu bé, ông bà Glover, lại không thể quay về nước Anh để đón đứa con trai duy nhất của hai người. “Tôi gửi cô bản đồ trường học của Guy và một khoản tiền tạm ứng trước”, Bannister nhanh nhảu. “Cảm ơn cô đã nhận lời”. Bà nhanh chóng kết thúc mọi thủ tục và đứng dậy. Nhìn điệu bộ vội vàng đến hấp tấp của Bannister khi rời khỏi nhà hàng bước đến bên cạnh xe taxi, chiếc áo choàng mưa của bà ta khẽ phập phồng phần phật sau lưng theo chiều gió, Viva chợt bùng lên nỗi áy náy, cô tự hỏi tại sao người ta lại có thể dễ dàng bị lừa dối đến thế, đặc biệt là khi họ đang muốn nghe về điều mình đang nóng lòng chờ đợi. Viva không phải hai mươi tám tuổi như lời cô nói với các khách hàng, cô chỉ mới hai lăm, và Ấn Độ trong cô chỉ là một chấm nhỏ ký ức mơ hồ xa xôi từ những ngày còn thơ ấu, bao nhiêu năm đã trôi qua, ngần ấy lần vật đổi sao dời. Những gì Viva biết về Ấn Độ lúc này có lẽ giống như những gì cô biết về một nơi xa xôi nào đấy nằm trong lòng mặt trăng vẫn treo trên đầu London bao nhiêu năm qua. ... Mời các bạn đón đọc Phía Đông Mặt Trời của tác giả Julia Gregson.
Đo Thế Giới - Daniel Kehlmann
Cây bút trẻ Daniel Kahlmann đã tạo nên một tiểu thuyết thông minh, hài hước, giàu chất trí tuệ Đức nhất từ cuộc đời hai bậc thiên tài trong thời đại ánh sáng: Carl Friedrich Gauss và Alexander von Humboldt. Một người không thích cuộc sống mà thiếu đàn bà nhưng trong đêm tân hôn vẫn nhảy ra khỏi giường để ghi lại một công thức toán. Một người nhập thân vào khoa học và du hành như một kẻ tuẫn đạo: vượt qua đồng cỏ và rừng rậm, băng qua Orinoco, nếm thuốc độc, trèo lên trên đỉnh núi cao nhất mà con người từng biết, thám hiểm mọi hang hốc. Một người được coi như bộ não làm toán vĩ đại nhất sau Newton, chẳng coi nhân quần là gì, thậm chí chẳng cần rời khỏi nhà mình ở Gottingen để chứng minh rằng không gian cong. Một người vĩnh viễn tin vào tiến bộ xã hội, và rồi sẽ được lịch sử biết tới như một Columbus Đệ nhị. Câu chuyện là sự giao thoa thú vị giữa hai nhà bác học nổi tiếng Đức vào thế kỷ XIX, trong cái ý nghĩa tối thượng của các cuộc đời con người đi khám phá những quy luật bí ẩn của Tạo hóa, nhưng chẳng thiếu hài hước và châm biếm bởi những giăng mắc của trí tuệ siêu việt vào đời thường và xã hội. Với Đo thế giới, Daniel Kehlmann đã tỏ ra thoải mái một cách đáng ngưỡng mộ trong trò chơi tinh tế giữa hiện thực và hư cấu, đồng hành cùng những cái tên có trong mọi cuối lịch sử khoa học, chứng tỏ rằng văn chương vĩnh viễn có quyền năng không thể coi nhẹ trong việc tiệm cận những chân lý phổ quát của tự nhiên và con người.  ***  Nhận định   “Tác phầm của Kehlmann tỏa ra sự quyến rũ đây khơi gợi của những bậc thầy như Nobokov hay Proust.” – Stern   “Tiểu thuyết Đức hài hước nhất năm nay - tuyệt diệu!” – Suddeutsche Zeitung   “Kehlmann là một nhà văn kỳ lạ.” – Vrij Nederland   “Daniel Kehlmann là một trong những nhà kể chuyện tuyệt vời, tự tin trong giọng điệu, với sự kiểm soát bậc thầy các tình tiết… Đáng say mê!” – Der Spigel “Một thành công không nhỏ với một người đàn ông ở tuổi 31.” – The New York Times   “Lâu lắm rồi tôi mới được cười dữ dội như thế khi đọc một tiểu thuyết Đức… Nhà tiểu thuyết trẻ này đã bày ra một trò chơi văn xuôi với sự tinh tế lớn lao và óc hài hước sáng láng. Cốt truyện thì vững chắc và lời thoại thì tuyệt vời vui nhộn.” – Frankfurter Rundschau   “Vui tươi, hài hước, lại sâu sắc và thông minh một cách tao nhã.” – Frankfurter Allgemeine Zeitung “Tôi khuyên mọi người hãy đọc Daniel Kehlmann bằng được. Trí thông minh, tài quan sát và lời thoại như từ cõi tiên.” – Marcel Reich-Ranicki (“Giáo hoàng” của văn giới Đức)   “Một tiếu thuyết nổi trội!” – De Telegraaf   “Thông thái quá thể.” – Kirkus Review (starred)   “Chính là Tên của đóa hồng trong năm nay” – The Philadenphia Inquirer   “Một cây bút hài hước tinh tế, một bậc thầy về kỹ xảo kể chuyện cao cấp. Một thú vui chữ nghĩa hiếm gặp.” – Neue Zuicher Zeitung   “Đo thế giới không khác gì một sự kiện văn học.” – The Guardian *** DANIEL KEHLMANN sinh ngày 13.1.1975 ở Munich (Đức), Là con trai của một đạo diễn và một nữ diễn viên, đã theo học đại học ở Vienna (Áo) năm 1981, học Triết học và Văn học tại Vienna. Sau khi tốt nghiệp, Kehlmann viết luận án tiến sĩ về Khái niệm Cao Thượng của Immanuel Kant, nhưng “tôi bỏ cuộc sớm, vì việc viết văn quá trôi chảy”. Sau tác phẩm đầu tay Màn diễn của Beerholm (Beerholms Vorstellung), năm 1997, Kehlmann viết phê bình và tiểu luận văn học cho nhiều tờ báo lớn, từ 2001 dạy Nghệ thuật thi ca ở Đại học Mainz và Đại học Wiesbaden và Đại học Cottingen. Ông đi du lịch rất nhiều, và giành rất nhiều giải thưởng cho các tiểu thuyết và truyện ngắn, gần đây nhất là Cadide Award 2005... Daniel Kehlmann cũng là Viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học và Văn học Đức. Kehlmann hiện đang sống tại Vienna "Kehlmann là một nhà văn kỳ lạ." "Daniel Kehlmann là một người kể chuyện tuyệt vời, tự tin trong giọng điệu, với sự kiểm soát bậc thầy các tình tiết... Đáng say mê" "Một thành tựu không nhỏ với một người đàn ông ở tuổi 31." ***  TÁC PHẨM: - Màn diễn của Beerholm (Beerholms Vorstellung) tiểu thuyết, 1997 - Trong nắng (Unter der Sonne), tập truyện ngắn, 1998 - Thời đại Mohler (Mahlers Zeit), tiểu thuyết, 1999 - Chốn xa nhất (Der Ternste Ort), truyện dài, 2001 - Tôi và Kaminski (lch und Kaminski), tiểu thuyết,2003 - Đo thế giới (Die Vermessung der Welt), tiểu thuyết, 2005 - Carlos Montúfar đâu ? (Wo ist Carlos Montútar ?), tiểu luận, 2005 - Những chuyện đùa rất nghiêm túc (Diese sehr ernsten Scherze), tập bài giảng về thi ca ở Gottingen, 2007 *** GIẢI THƯỞNG: - 1998 Giải khuyến khích của Hội Văn học thuộc Hiệp hội Công nghiệp Liên bang - 2000 Học bổng của Hội Văn học Berlin - 2003 Giải khuyến khích của Văn phòng Thủ tướng Áo - 2005 Giải Candide của Hội Văn học Minden - 2005 Đề cử chung kết giải Booker Đức cho tiểu thuyết Đo thế giới (Die Vermessung der Welt) - 2006 Giải văn chương của Quỹ Konrad Adenauer; Giải Heimito von Doderer, Giải Heinrich von Kleist. *** 1 tháng Chín năm 1828. Sau nhiều năm, lần đầu tiên nhà toán học vĩ đại nhất nước mới lại rời thành phố quê hương để đi dự Hội nghị các nhà nghiên cứu tự nhiên của Đức ở Berlin. Dĩ nhiên ông không muốn tới đó. Hàng tháng ròng ông nhất quyết cự tuyệt, nhưng Alexander von Humboldt vẫn đeo đẳng cho đến khi ông ưng thuận trong một phút mềm lòng và hy vọng rằng ngày đó sẽ chẳng bao giờ tới. Và bây giờ thì giáo sư Gauss trốn trong chăn. Khi Minna gọi ông dậy vì xe ngựa đã sẵn sàng và quãng đường xa xôi lắm, thì ông quặp chặt lấy gối và cố tống bà vợ biến đi cho khuất mắt bằng cách nhắm tịt mắt lại. Khi mở mắt ra thấy Minna vẫn đứng đó, ông gọi vợ là đồ nhiễu sự, dốt nát và là nỗi bất hạnh trong những năm cuối của đời mình. Thấy nói vậy vẫn vô ích, ông gạt chăn ra rồi đặt chân xuống đất. Mặt mũi cau có, rửa ráy sơ sài, ông đi xuống gác. Eugen, con trai ông, đang đợi ở phòng khách với hành lý đã gói ghém xong. Nhìn thấy cậu, Gauss lên cơn thịnh nộ: ông đập tan cái bình đặt trên bậu cửa sổ, giậm chân bành bạch và vung tay chân loạn xạ, không im miệng trở lại cả khi Eugen và Minna, mỗi người một bên, đặt tay lên vai ông và thề thốt là người ta sẽ chăm sóc ông tử tế và ông sẽ sớm về nhà, mọi việc sẽ chỉ thoáng qua như một cơn ác mộng. Ông chỉ bình tĩnh lại khi bà mẹ già nua bị tiếng ồn ào quấy rầy từ trong phòng mình tiến ra, bẹo má ông và hỏi có chuyện gì với thằng cu can đảm của bà. Không một chút thân thiện, ông chia tay mẹ và Minna, hờ hững xoa đầu con bé gái và thằng út. Rồi ông sai người ta đỡ mình lên xe ngựa. Chuyến đi là một cực hình. Ông mắng Eugen là đồ vô dụng, giật lấy cái ba toong của cậu và đâm thật lực vào bàn chân cậu. Ông nhíu mày nhìn ra cửa sổ một hồi lâu rồi hỏi, bao giờ thì con gái ông mới lấy chồng, tại sao không đứa nào chịu lấy nó, nguyên cớ gì ? Eugen vuốt lại mái tóc dài, mân mê chiếc mũ đỏ bằng cả hai tay và không muốn trả lời. ... Mời các bạn đón đọc Đo Thế Giới của tác giả Daniel Kehlmann.
Con Tàu Trắng - Chyngyz Torekulovich Aytmatov
CON TÀU TRẮNG của Chyngyz Torekulovich Aytmatov là một câu chuyện buồn kể về một cậu bé có những ước mơ không ai hiểu được. Bố mẹ chia tay, cậu ở với ông ngoại Mômun già nua ở một trạm gác rừng hẻo lánh. Cậu bé sống bằng những món ăn đơn giản và tâm hồn chất chứa những những huyền thoại và truyền thuyết đẹp đẽ mà ông Mô-mun kể. Trong đó có câu chuyện về Mẹ Hươu Sừng.Theo truyền thuyết, Hươu sừng Maran đã cứu bộ lạc Kirghidi khỏi bị diệt vong và được coi là tổ mẫu của người Kirghidi. Đây là huyền thoại từ ông Mômun. Còn cậu bé cũng có một huyền thoại của riêng mình- Con tàu trắng".Những khi trèo lên núi tìm bóng con tàu trắng, nó cứ mơ cái ngày nó bước xuống sông, biến thành cá và bơi ra biển, bơi thẳng ra chỗ con tàu trắng để gặp người bố làm thuỷ thủ của nó và bảo: Bố ơi, con là con của bố đây!" Nhưng cậu bé mơ mộng phải đối mặt với một thế giới không huyền thoại và đầy bạo lực. Ông ngoại bị ép phải bắn con hươu Maran mà cậu tin là Mẹ Hươu Sừng...Kẻ ép ông cậu bắn hươu tàn nhẫn hơn, đem cho cậu phần thịt xẻ từ con hươu Maran đã chết... Bi kịch đầu tiên xảy ra với ông già Mô mun.Vì cháu trai của ông "không hề ngờ rằng ông nó nằm đây để đền nợ về câu chuyện hoang đường của mình về Mẹ Hươu Sừng, rằng do bị cưỡng ép, ông đã giết chết những gì mà chính ông đã gieo vào tâm hồn thằng bé khiến nó suốt đời không quên – ông đã xúc phạm đến lòng tôn kính tổ tiên, đến lương tâm và những lời dạy bảo của chính ông, nó có biết chăng rằng ông làm việc đó là vì người con gái khốn khổ của ông, là vì nó, đứa cháu trai của ông…Và bây giờ, ngã gục vì đau xót và nhục nhã, ông già nằm như người bị giết, mặt úp sấp, không đáp lời thằng bé." Bi kịch thứ hai xảy ra nặng nề hơn với cậu bé."Không ai nhận thấy thằng bé từ trên giường tụt xuống và ra khỏi nhà. Nó vừa kịp rẽ vào góc nhà là ói mửa liền. Thằng bé vịn vào tường, rên rỉ, khóc qua làn nước mắt, nó nức nở nghẹn ngào, lẩm bẩm: Không, thà làm cá còn hơn. Ta sẽ bơi đi nơi khác. Thà ta làm cá còn hơn." Cậu bé muốn đi tìm Con tàu trắng... Con tàu trắng như là một bài thơ dài .Sự băn khoăn, tiếc nuối và nỗi đau ẩn trong từng trang sách. Ngay cả ở nơi sơn cùng thủy tận ta cũng không còn chốn nương thân. Khi đối diện với cô đơn, cùng lúc có thể ta phải đối diện với sự hiển hiện của các ác làm tan vỡ mọi giấc mộng đẹp nhất. Dường như khi đau đớn và tổn thương hiện hữu, chỉ có sự tỉnh táo mới cứu nổi ta. *** Nó có hai huyền thoại. Một của riêng nó, không ai biết. Chuyện kia do ông kể. Rồi chẳng còn huyền thoại nào cả. Ở đây xin thuật lại câu chuyện đó. Năm đó nó vừa tròn bảy tuổi, mới lên tuổi thứ tám.. Mở đầu, nó được mua một chiếc cặp, chiếc cặp giả da mầu đen, có chốt kim loại bật tanh tách luồn qua móc gài. Có túi ngoài để đựng các thứ lặt vặt. Tóm lại là một chiếc cặp học trò hết sức bình thường mà lại rất lạ kỳ. Có lẽ mọi chuyện đều bắt đầu từ đó. Ông nó mua cái cặp ở ô tô bán hàng lưu động khi chiếc ô tô đó đến đây. Chiếc ô tô đó đưa hàng đến bán cho những người chăn gia súc trong núi, dôi khi cũng tạt vào trạm gác rừng của ông cháu nó ở hẻm Xan-Tasơ. Từ trạm gác này, khu rừng cấm qua các khe hẻn và các sườn dốc leo lên tận thượng nguồn. Ở xóm trạm gác chỉ có ba gia đình. Tuy vậy, ô tô bán hàng đôi khi vẫn ghé thăm những người coi rừng. Là một thằng bé duy nhất trong cả ba hộ, bao giờ nó cũng là người trước tiên trông thấy chiếc ô tô bán hàng. -Xe đang đến đấy, - Nó vừa gào ầm lên vừa chạy tới các cửa lớn và cửa sổ.- Ô tô bán hàng đến đấy. Con đường cho xe chạy tới đây khởi đầu từ ven hồ Ix xưc-Kun, luôn luôn qua các khe núi và bờ sông, toàn đá và ổ gà. Cho xe chạy trên con đường như thế không phải là dễ dàng gì. Đến núi Karaun, đường từ đáy lũng hẹp lên trên cao, rồi lại đổ xuống theo sườn núi dựng đứng trơ trụi, chạy dài mãi đếnn sân nhà những người gác rừng. Núi Karaun ở ngay cạnh xóm, mùa hè ngày nào thằng bé cũng chạy lên núi chiếu ống nhòm nhìn ra hồ. Ở đấy, bao giờ cũng nhìn thấy hết mọi thứ trên đường cái, rõ như trên lòng bàn tay: cả người đi bộ, cả người cưỡi ngựa, cà cố nhiên cả ô tô. Lần ấy vào một ngày hè nóng bức, thằng bé tắm trong cái đập nước của mình và từ đấy nó nhìn thấy chiếc ô tô tung bụi trên sườn dốc. Cái đập ở ria bãi sông, trên đá sỏi. Ông nó chất đá đắp nên cái đập ấy. Nếu như không có cái đập thì chưa biết chừng thằng bé đã mất mạng từ lâu. Thì có lẽ như bà nó nói, nước sông đã rửa trắng xương nó từ lâu và cuốn trôi tuột ra hồ Ix xưc-Kun, cá và các loài thủy tộc tha hồ mà ngắm nghía. Sẽ chẳng ai tìm kiếm và đau buồn xót thương nó. Bởi vì ai bảo đi nhảy xuống nước làm gì, vả chăng người ta cũng chẳng thiết gì nó lắm. Hiện thời chuyện đó chưa xảy ra. Chứ nếu xảy ra chuyện chẳng lành thì không chừng bà sẽ chẳng nhảy xuống cứu nó đâu, thật thế đấy. Nếu nó là máu mủ ruột thịt thì chẳng nói đằng này bà lại bảo nó là người dưng. Mà người dưng thì dù có nuôi nấng chăm sóc thế nào đi chăng nữa cũng vẫn cứ là người dưng. Người dưng nước lã…Ừ, nhưng nếu nó không muốn là người dưng thì sao? Tại sao chỉ có nó bị coi là người dưng? Có thể không phải nó, mà chính bà mới là người dưng thì sao? Nhưng chuyện ấy sau này sẽ nói, cả chuyện đập nước cũng để sau…     Vậy là nó nhìn thấy chiếc ô tô bán hàng từ xa, chiếc xe đang xuống núi, bụi cuốn bốc lên đường theo sau xe. Thằng bé mừng quýnh lên, như thể là nó biết chắc là nó sẽ được mua chiếc cặp. Nó lập tức lên cạn, xỏ đôi chân gầy guộc vào ống quần, và người còn ướt nước, tái ngắt ( nước sông vẫn lạnh) , nó chạy trên con đường mòn về sân, để là người đầu tiên báo tin người bán hàng đang tới. Thằng bé chạy nhanh, nhảy qua những bụi cây và chạy vòng qua những khối đá tảng nếu không đủ sức chạy qua, không dừng lại lấy một giây ở bất cứ chỗ nào: dù là bên những đám cỏ cao hay bên những khối đá, mặc dù nó biết đấy hoàn toàn không phải là những vật thông thường. Chúng có thể bực tức và ngáng chân cho ngã, “ô tô bán hàng đã đến rồi. Tớ sẽ trở lại sau.”- nó vừa chạy vừa nói với” Lạc đà nằm” (đấy là tên nó đặt cho khối đá hoa cương có bướu lún sâu dưới đất đến ngang ngực.). Bình thường, không bao giờ nó đi qua mà không vỗ vào bướu con “Lạc đà” của mình. Nó vỗ về con lạc đà như chủ vỗ về con vật, như ông nó vỗ về con ngựa thiến cộc đuôi của ông, nhân đi qua thì tiện tay làm thế thôi, như có ý bảo: mày đợi đây nhé, tao đi có việc một lúc. Nó có khối đá ’Yên ngựa": khối đá nửa trắng nửa đen, đốm khoang , lưng oằn xuống có thể ngồi lên như cưỡi ngựa. Còn có khối đá “Chó sói”, rất giống con chó sói lông màu nâu đốm bạc, ót rất khoẻ, gồ trán nặng nề. Thằng bé thường len lén bò tới gần và nhắm bắn. Nhưng khối đá nó thích nhất là “chiếc xe tăng”- khối đá kiên cố vô cùng, ở ngay cạnh sông, chỗ bờ bị xói mòn. Nom cứ như “Chiếc xe tăng” sắp từ trên bờ lao xuống nước, bò đi và sông sẽ sủi réo , tung lên những đợt sóng nhào trắng xoá. Trên màn ảnh, xe tăng cũng từ trên bờ lao xuống nước và bò đi…Thằng bé ít được xem phim, nên nó nhớ như in tất cả những gì đã được xem khi ông đèo cháu đến xem phim ở trại quốc doanh nuôi vật giống, trại này thuộc địa khu lân cận, phía bên kia núi. Chính bởi thế trên bờ sông mới xuất hiện “Chiếc xe tăng” sẵn sàng lao xuống nước, vựơt qua sông. Ngoài ra còn có những khối đá khác, “có hại” hoặc “hiền từ”, thậm chí “ranh mãnh” hay “đần độn”. .. Mời các bạn đón đọc Con Tàu Trắng của tác giả Chyngyz Torekulovich Aytmatov.