Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Trở Về Nơi Hoang Dã

"Có lẽ cũng như những đứa trẻ khao khát được khám phá thế giới hoang dã, tôi đã từng tưởng tượng mình đang ăn mặc như những nhà thám hiểm thường thấy trên TV, đầu đội mũ cứng, mặc quần áo kaki trắng ngà và đôi giày chuyên dụng. Tôi tưởng tượng ra mình đang đứng trước cây baobab, sờ vào vỏ cây thô cứng, áp tay vào thân cây mát rượi và ngước mắt lên nhìn ánh mặt trời chói chang của vùng đất châu Phi. Đối với tôi lúc bấy giờ, đó chỉ là ước mơ, và tôi chưa bao giờ nghĩ rằng mình có thể thực hiện được ước mơ ấy. Vậy mà chỉ còn khoảng 20 tiếng nữa là tôi sẽ thực sự đến vùng đất đó, thực sự thực hiện ước mơ thưở nhỏ." Cuốn sách này ghi lại hành trình năm năm theo đuổi đam mê của nhà bảo tồn động vật hoang dã Trang Nguyễn. Từ lời hứa năm nào với chú gấu tội nghiệp bị nhốt lấy mật, cô gái 9x nhỏ bé quả cảm đã thực hiện những những chuyến đi xuyên địa cầu, đương đầu với những khó khăn cả về vật chất và tinh thần, thậm chí cả căn bệnh ung thư khi đơn độc ở đất khách quê người. Đầy ắp thông tin về môi trường và tình cảm dành cho mẹ thiên nhiên, Trở về nơi hoang dã còn là một cẩm nang thiết thực về việc bảo vệ Trái đất thân yêu cho mỗi người. Cuốn sách được minh họa bởi họa sĩ Đào Văn Hoàng, một người tâm huyết và gắn bó sự nghiệp nghệ thuật với công tác bảo tồn động vật hoang dã. "Cách viết, lối kể chuyện giản dị nhưng vẫn đầy màu sắc, đôi khi lại rất dí dỏm, và đôi khi ngập tràn cảm xúc mãnh liệt, làm cho người đọc cứ bị cuốn hút để lật tiếp hết trang này tới trang khác, chắc chắn không phải là một kỹ năng mà nhà khoa học, nhà bảo tồn nào cũng có được." - Hồng Hoàng, Giám đốc Trung tâm Hành động và Liên kết vì Môi trường và Phát triển (CHANGE) ***   Trang Nguyễn sinh năm 1990, là một nhà bảo tồn động vật hoang dã. Bắt đầu tham gia các hoạt động về bảo tồn động vật hoang dã vào năm 16 tuổi, Trang Nguyễn là người sáng lập và điều hành tổ chức WildAct tại Việt Nam. Hiện nay cô đang thực hiện các dự án bảo tồn động vật hoang dã ở Nam Phi, Campuchia và Việt Nam. Trang Nguyễn là đại sứ cho quỹ United for Wildlife của hoàng gia Anh. Năm 2018, cô nhận được giải thưởng Future for Nature cho các nhà bảo tồn động vật hoang dã quốc tế, lọt vào top 30 Under 30 Forbes Vietnam và Women of the Future – South East Asia. *** Điều phi thường làm nên một cuộc đời ý nghĩa Việc bảo tồn động vật hoang dã, việc nghiên cứu thực địa ở trong rừng đòi hỏi rất nhiều yếu tố về sức khỏe, sự kiên trì và lòng nhiệt huyết,… vượt qua mọi mặc cảm “Bọn con gái ở thành phố thì biết gì về rừng?”, “Con gái vào rừng thì làm được gì?”, “Có lội được sông không?” , “Nhìn gầy gò thế này thì làm được gì?” cơ hội được sống an nhàn như bao cô gái khác, Trang Nguyễn đã thực hiện lời hứa năm nào với chú gấu bị hành hạ, cô gái nhỏ quyết tâm bảo vệ động vật hoang dã. Những chuyến đi vô cùng khắc nghiệt, sự yêu thương động vật hoang dã được thể hiện qua từng câu chữ khiến người đọc vô cùng xúc động và khâm phục khả năng phi thường của tác giả. Đồng cảm hơn với thế giới tự nhiên Có thể với chúng ta, những màn xiếc thú, biểu diễn điêu luyện của những con vật ở sở thứ hay rạp xiếc đem lại sự thích thú thế nhưng bạn không biết đằng sau những màn biểu diễn ấy là những nỗi đau không ai thấu. Những con vật bị xiềng xích, đánh đập và thậm chí là bị bỏ đói trong quá trình luyện tập. Con người có cảm xúc và động vật cũng vậy. Thế tại sao chúng ta lại thờ ơ với những cảm xúc của động vật chỉ để có được giây phút vui vẻ cho chính mình? “Liệu chúng ta có sẵn sàng đánh đổi điều tuyệt vời mà thiên nhiên đang mang lại chỉ để mua vui bằng vài tiếng cười độc ác không?” Điều ý nghĩa mà cô gái nhỏ góp phần làm cho Thế giới thêm tốt đẹp “Chỉ có cuộc sống vì người khác mới là cuộc sống đáng quý” (Albert Einstein) Thay vì chọn cuộc sống an nhàn như bao cô gái khác ở thành phố, những chuyến đi thực địa ở rừng, Trang Nguyễn hết sức đau lòng trước vấn nạn săn bắn động vật hoang dã trái phép, nạn chặt phá rừng, làm tổn hại nghiêm trọng đến mẹ thiên nhiên. Không chỉ những động vật hoang dã đứng trước nguy cơ diệt vong mà con người cũng sẽ phải trả giá cho những hành động làm tổn hại đến thiên nhiên. Những câu chữ mà Trang Nguyễn viết như truyền đến nguồn động lực cho chúng ta sống đúng đắn với thế giới tự nhiên. Cảm nhận của độc giả “Trang cũng quý hiếm như thiên nhiên hoang dã mà cô yêu, không chỉ bởi cô là một người Việt Nam với bộ hồ sơ đáng ngưỡng mộ với nền tảng giáo dục quốc tế và kinh nghiệm thực tế, mà còn bởi cô là phụ nữ. Không chịu khuất phục trước những định kiến xã hội, những gì Trang làm được có tính tiên phong và lan tỏa. Để nghành bảo tồn tiến xa hơn ở Việt Nam trong việc bảo vệ những loài quý hiếm đang bị đe dọa, không thể thiếu được những người như Trang.” - Josh Kempinski(Giám đốc Chương trình Việt Nam. Fauna & Folra International) “Cách viết, lối kể chuyện giản dị nhưng vẫn đầy màu sắc, đôi khi lại rất dí dỏm và đôi khi ngập tràn cảm xúc mãnh liệt, làm cho người đọc cứ bị cuốn hút để lật tiếp trang này tới trang khác, chắc chắn không phải là một kỹ năng mà nhà khoa học, nhà bảo tồn nào cũng có được” - Hồng Hoàng (Giám đốc Trung tâm Hành động và Liên kết vì Môi trường và Phát triển (CHANGE) Điều ý nghĩa mà cô gái nhỏ góp phần làm cho Thế giới thêm tốt đẹp Trích dẫn hay từ sách Hãy nhìn sâu vào thiên nhiên, bạn sẽ thấu hiểu mọi thứ rõ ràng hơn. (Albert Einstein) Tôi không muốn bảo vệ thiên nhiên, tôi muốn tạo ra một thế giới mà thiên nhiên không cần phải bảo vệ. (Khuyết Danh) Thiên nhiên lặng thầm mà tràn đầy tình yêu thương và khát vọng Tất cả đều biết nói, nếu lắng nghe bằng cả trái tim. Sự thật là những cánh rừng chẳng quan tâm tôi là nam hay nữ, béo hay gầy, da sạm hay da trắng. Thiên nhiên không đánh giá tôi là người thế nào qua vẻ bề ngoài của tôi, nó nhìn tôi bằng đôi mắt xanh thẳm, và đánh giá tôi bằng hành động của tôi, bằng cách tôi sống và điều tôi làm. Lời kết Không chỉ là tinh thần dũng cảm theo đuổi đam mê mà chính sự phấn đấu để bảo vệ động vật hoang dã đã làm cho cuộc đời của Trang Nguyễn đáng sống hơn bao giờ hết. Hy vọng bạn sẽ không bỏ qua một cuốn sách ý nghĩa như thế này, hãy dừng một chút, lắng nghe thiên nhiên nhiều hơn để góp phần làm những điều tốt đẹp cho thế giới tự nhiên nhé. *** Mình thật sự có cảm tình với những người “tay ngang” viết sách, như là chị Trang – nhà bảo tồn, Dương Minh Tuấn – bác sĩ, hay nhiều người viết tự truyện về cuộc đời mình. Mình thấy ngôn ngữ nó giản dị, chân thành, không cầu kỳ hoa mỹ. Từ trái tim đến với trái tim. Văn phong của chị Trang đúng là không có gì quá đặc biệt, nhưng chính những câu chuyện, những trải nghiệm, chính sự chân thành của chị đã đủ để thu hút người đọc rồi. Cuốn sách này kể về hành trình của chị Trang trong vòng 5 năm, từ lúc bắt đầu là một cô bé sinh viên thạc sĩ mới chỉ 21 tuổi, đến khi cuốn sách kết thúc là một “người lớn” trưởng thành hơn, và chững chạc hơn ở tuổi 26. Bên cạnh đó cũng có những câu chuyện về đời tư của chị như lúc điều trị ung thư và mối tình đáng yêu của chị và Brian. Đọc những câu chuyện của chị, mình cảm nhận được tâm huyết với ngành bảo tồn, tình yêu tha thiết của chị với thiên nhiên, với động vật hoang dã. Không cần những từ đao to búa lớn, không cần phải nói suốt mình yêu thiên nhiên như thế nào. Đọc những điều chị viết, thấy những việc chị làm, là tình yêu đó truyền được cả sang mình, tình yêu mãnh liệt với thiên nhiên ngập tràn trong những trang sách của chị. Đọc mà rạo rực, mà muốn làm ngay cái gì đó tốt cho môi trường, thiên nhiên. “Trở về nơi hoang dã” được viết bằng nỗi khát khao được trải lòng, được truyền lửa, được sẻ chia. Không chỉ truyền tình yêu, đam mê mà chị còn chia sẻ nhiều kiến thức bổ ích mà thú thật là nhiều điều trước giờ mình cũng không biết. Chính chị cũng viết rằng mình sợ nếu cuốn sách trở nên phổ biến lại có nhiều bạn trẻ vào rừng để ‘thử’ cảm giác đi rừng, mà không hề trang bị đủ kiến thức để sinh tồn cũng như hiểu biết để không làm hại môi trường hoang dã. “Bạn chỉ muốn bảo vệ những gì bạn yêu, và bạn sẽ chỉ yêu những thứ mà bạn có thể hiểu.” Đọc sách mình hiểu hơn về thực tế nạn săn bắn động vật hoang dã. Những con số đáng sợ về nạn săn trộm và buôn bán động vật hoang dã, cả những câu chuyện buồn về những con thú non mất mẹ hay những con thú bị nuôi nhốt, hành hạ… Đọc thấy rất ‘thật’, mà thật rồi lại xót xa, lại thấy con người tham lam đến nhường nào, lại thấy mình thờ ơ ra sao. Mình buồn thay những con người tự cho mình cái quyền chà đạp giống loài khác, cho mình cái quyền tàn phá thiên nhiên. Một cuốn sách non-fiction hiếm hoi làm mình khóc. Khóc vì nghị lực của chị Trang, khóc vì những nỗi đau mà con người gây ra cho thiên nhiên, cho động vật hoang dã. Khóc vì đến cuối cùng chị vẫn theo đuổi, và còn tìm được một người đồng hành trên chặng đường dài phía trước. Thế giới cần thêm những người phụ nữ như chị. Cảm ơn chị vì đã không từ bỏ, và cảm ơn chị vì đã kể câu chuyện của mình. Cuốn sách còn là định hướng cho những người muốn dấn thân vào ngành bảo tồn. Trong suốt những câu chuyện của chị, chị đã chia sẻ rất thật về những khó khăn khi làm bảo tồn, đặc biệt là với phụ nữ làm ngành này. Một con đường không dễ để đi, nhưng nếu bạn có tâm huyết và tình yêu đủ lớn, thì cứ vững vàng bước tới. Nếu như bạn là một người có quan tâm đến động vật hay thiên nhiên nói chung, đây là cuốn sách hoàn hảo dành cho bạn. Nhưng dù cho bạn không hứng thú lắm thì mình nghĩ cũng nên thử đọc xem sao, bởi vì chắc chắn nó sẽ làm cho bạn quan tâm thôi. Tin mình đi! “ Có lẽ chúng ta không thể cứu được tất cả các muôn loài, nhưng nếu không cố gắng, chúng ta sẽ mất đi tất cả.” (Sir Peter Scott) Trích dẫn nổi bật của sách Trở về nơi hoang dã 1, “Sự thực là những cánh rừng chẳng quan tâm tôi là nam hay nữ, béo hay gầy, da sạm nắng hay da trắng. Thiên nhiên không đánh giá tôi là người thế nào qua vẻ bề ngoài của tôi, nó nhìn tôi bằng đôi mắt xanh thẳm, và đánh giá tôi bằng hành động của tôi, bằng cách tôi sống và điều tôi làm.” 2, “Chiều tà ở Châu Phi quả thực rất đẹp. Con nắng gay gắt đã tắt, chỉ còn lại màu đỏ cam, vàng rực cả góc trời. Không khí dịu xuống, cũng là lúc những loài động vật bắt đầu hoạt động nhiều hơn: những loài hoạt động về đêm ‘khởi động’ để chuẩn bị cho những chuyến đi săn, những loài hoạt động vào ban ngày cố vớt vát những tia sáng cuối cùng để uống nước, tắm bùn, rồi í ới gọi nhau trốn vào những bụi cây lớn để tránh thú săn mồi.” 3, “Liệu chúng đã nghĩ gì khi giương cung tẩm chất độc chết người để bắn chú voi già tội nghiệp? Cảnh Satao phải vật lộn với sự đau đớn, tiếng kêu cứu thống thiết của Satao liệu chúng có nghe thấy? Có lẽ khi ấy, những kẻ săn trộm chỉ nhìn thấy cặp ngà to khỏe của Satao…Lòng tham cuối cùng cũng chiến thắng tình người.” 4, “Những chú voi con nghịch ngợm đang chạy quanh voi mẹ với đôi tai dang rộng vì phấn khích. Thế rồi, tôi nhận ra Jumbo, chú voi khoảng 3 năm tuổi từng bị những người khách du lịch vô trách nhiệm phóng xe quá tốc độ trong khu bảo tàng đâm phải. Chú voi tội nghiệp tự lết đi đằng sau cả đàn, thỉnh thoảng lại dừng lại để nghỉ chân rồi lại vội vã lết đi. Tôi có thể thấy cả đàn đều rất nhẫn nại chờ chú: thỉnh thoảng chúng dừng lại, ngoái về phía sau để chắc chắn rằng Jumbo vẫn đang theo kịp đàn. Những chú voi khác lúc lắc đầu, rướn vòi về phía sau như kêu gọi, động viên Jumbo cố lên. Cả đàn cứ di chuyển chậm như thế, cho đến khi Jumbo dường như đã mệt lắm rồi, chú đi chậm hẳn lại, vung vẩy chiếc vòi với vẻ cáu kỉnh. Những thành viên khác trong đoàn đều dừng cả lại, ngoái nhìn, có cô tỏ vẻ sốt ruột, dùng chân đá đất khô ở dưới tạo thành những đám bụi nhỏ. Tôi thắc mắc liệu chúng có bỏ mặc Jumbo không nhỉ? Thế rồi, điều kỳ diệu xảy đến: một bạn voi khác trong đàn, có lẽ chỉ hơn Jumbo vài tuổi, đi từ từ về phía Jumbo. Cô bé ấy nhẹ nhàng đặt trán mình đối diện với trán Jumbo, như để tỏ vẻ thông cảm, rồi dùng vòi của mình quấn lấy vòi của Jumbo, và dắt Jumbo tập tễnh từng bước một, từ từ, chậm rãi đi về phía cả đàn. Đó, là tình cảm gia đình. Đó là thứ tình cảm thiêng liêng, mạnh mẽ nhất mà nhiều khi thế giới loài người, vì bận rộn mà bỏ quên.” *** Và thế là tôi ngồi đó, cùng với nào ba lô, túi xách, võng, lều, nồi niêu, xong chảo và ti tỉ những vật dụng khác nữa, trong khi dân làng, từ đám trẻ nhỏ, đến phụ nữ, thanh niên, nam giới và người già lần lượt kéo đến, cùng với một đám gà qué thả rông của ai đó, tạo thành vòng tròn lớn, không ngại ngần nhìn tôi chằm chằm. Khỉ thật, tại sao tôi lại tự làm khổ mình như thế này cơ chứ? Tôi có thể như đám bạn cùng lứa ở nhà, đi làm ở một nơi nào đó ổn định, có mức lương kha khá, thỉnh thoảng đi du lịch đây đó, chụp vài bức ảnh selfie, có một cậu bạn trai cao ráo, yêu thương mình hết mực, có lẽ là chuẩn bị tính đến chuyện lập gia đình, lấy chồng và sinh con. Tại sao tôi lại không nghe theo lời khuyên của bố mẹ, đi một con đường bằng phẳng và sống đơn giản hơn… Thay vào đó tôi bị tắc ở đây, một cái làng bé nhỏ ở nơi khỉ ho cò gáy mà tôi còn chả biết là ở đâu nữa, với một đám người hiếu kỳ lạ mặt đang kéo đến ngày một đông, với đám quần áo và ba lô bẩn thỉu dính đầy bùn đất, với những vết gai cào đầy trên tay và chân, với vết bầm tím do bị ngã trên đùi. Vừa tức, vừa bực, vừa tuyệt vọng và căng thẳng, nước mắt tôi bắt đầu ứa ra, chảy thành dòng trên khuôn mặt. Và ngay lập tức tôi hối hận vì đã khóc - đám người bắt đầu chỉ trỏ, cười ngạo nghễ nhìn tôi như thể họ đang xem xiếc thú! * * * Bốn tháng trước đó… Tháng Tư năm 2012 là khoảng thời gian ban nhạc người Ireland - Westlife có những liveshow cuối cùng để chia tay khán giả ngay sau khi công bố về chuyện tan rã của nhóm. Vốn là một fan ruột của ban nhạc này từ năm 1998, dĩ nhiên tôi cũng đã tự mua cho mình một vé xem liveshow ở London vào đầu tháng năm. Thế nhưng, nếu muốn xem buổi diễn này thì tôi sẽ phải trì hoãn chuyến đi thực địa gần hai tuần. Một điều mà những nhà bảo tồn nghiêm túc sẽ không bao giờ làm! Thầy Giuseppe đã nhìn tôi một cách rất nghiêm khắc, khi tôi cầm cái vé xem ca nhạc một cách đau khổ, cố gắng trình bày với thầy rằng thì là mà, tôi đã phải canh chừng giờ bán vé như thế nào để mua được vé chỗ đẹp, đã phải tiết kiệm tiền ra sao, và trên tất cả - đây là buổi hòa nhạc cuối cùng của Westlife! Nhưng dĩ nhiên ông thầy người Ý vốn dĩ chỉ yêu chuộng cà phê thượng hạng, nhạc thính phòng và dành cả đời để nghiên cứu về vượn cáo của tôi không thể nào hiểu được vì sao tôi lại nhiệt tình với một ban nhạc “vớ vẩn” sắp tan rã đến như thế! Cuối cùng thì sau ngày hôm ấy, tôi đã suýt khóc khi phải nhượng lại cái vé này cho một fan khác ở tận Manchester. Mấy đứa bạn tôi đã cười phớ lớ và an ủi tôi rằng đó là “sự hy sinh cao cả cho khoa học”. Còn thầy Giuseppe thì nói đó là “sự lựa chọn đúng đắn” để “sử dụng thời gian cho việc có ích hơn”. Điều cần làm ngay sau đó là phải đi tiêm chủng để phòng bệnh. Đây là một trong những điều bắt buộc dành cho những sinh viên nghiên cứu tại Anh để đảm bảo về sức khỏe khi đi thực địa. Đến Madagascar thì không cần phải tiêm phòng bệnh vàng da, nhưng vẫn phải tiêm chủng chống uốn ván, viêm gan A, viêm gan B và phòng dại. Bên cạnh đó tôi cũng phải đến phòng y tế của trường để xin thuốc uống chống sốt rét. Loại thuốc này thật rắc rối, vì mỗi ngày tôi đều phải uống vào một giờ nhất định. Và vì tôi đi ba tháng nên phải uống đủ lượng thuốc của bốn tháng (uống 2 tuần trước khi đi và 2 tuần sau khi về). Vì là con gái, nên chúng tôi cũng được khuyên rằng nên uống thuốc tránh thai. Một là nếu uống liên tục không nghỉ, thì chúng tôi có thể làm tạm mất kỳ nguyệt san trong vòng hai hoặc ba tháng khi đang ở trong rừng, mặc dù vậy tôi cũng phải nhấn mạnh rằng đây là do bất khả kháng vì nó không có lợi cho sức khỏe. Khỏi phải nói có tháng bất tiện như thế nào trong điều kiện không có nhà vệ sinh và nước sạch. Hai nữa là nếu có chuyện không hay xảy ra trong rừng, thì ít ra chúng tôi cũng vẫn được “bảo vệ” bằng cách này. Mời các bạn đón đọc Trở Về Nơi Hoang Dã của tác giả Trang Nguyễn.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Người Của Giang Hồ - Nguyễn Hồng Lam
Khi nói đến giang hồ là nói đến những tên tội phạm - điều đó đúng, nhưng một tên cướp giật, một tên móc túi, trộm vặt mà gọi là giang hồ thì chắc chắn là sai. Cho dù qua mỗi thời kỳ, giới giang hồ mang một đặc điểm hoàn toàn khác nhau thì thế giới ấy vẫn chưa bao giờ biến mất hay đứt đoạn. Giới giang hồ vẫn có những đặc trưng riêng, luật lệ riêng. Thoạt kỳ thủy, hai tiếng “giang hồ” được dùng để định danh một lớp người phiêu bạt, lấy việc hành hiệp trượng nghĩa, giúp kẻ yếu người cô giành lại sự công bằng làm mục đích; lấy phô diễn tài năng, hơn thua cao thấp - chủ yếu về sức mạnh võ nghệ - làm niềm vui... Với ý nghĩa đó, “giang hồ” được nhìn nhận như một lối sống, một loại tính cách, đẹp và mã thượng. Tuy nhiên, cái đẹp ấy chỉ còn tồn tại trong sách kiếm hiệp đa phần là hư cấu. Theo thời gian, hai tiếng “giang hồ” đã biến chất, tha hóa hẳn. Đến nay, nó chỉ còn lại như một khái niệm về tội lỗi và cái ác, “giang hồ” được hiểu như từ định danh về một thế giới gồm toàn những kẻ sống ngoài vòng pháp luật, kết bè kết đảng và thủ lợi bằng con đường phạm pháp. Nhưng, việc phân tích các khái niệm không phải là trách nhiệm của chúng tôi. Đó là công việc của các nhà xã hội học. Với cuốn sách này, chúng tôi chỉ muốn khắc họa lại một cách chính xác những khuôn mặt cộm cán nhất của giang hồ miền Nam trong thế kỷ XX. Để bạn đọc tiện theo dõi và nhận diện rõ nét quá trình tha hóa của thế giới giang hồ, những khuôn mặt trong sách được sắp đặt theo đúng trình tự thời gian mà họ sống. Bắt đầu từ Sơn Vương Trương Văn Thoại từ những năm 1930, đến thời “hai tay ba đao” của những năm 60-70, với những Đại Cathay, Sơn Đảo, Lâm Chín ngón, Điền Khắc Kim, Năm Vĩnh v.v..., đến những Năm Cam, Hải “bánh”... cuối thế kỷ XX. *** Rất có thể bạn sẽ chẳng tán đồng, nhưng dù sao, tôi vẫn cứ tin rằng đôi khi những biến cố lớn, những sự kiện đáng nhớ trong đời lại có khởi nguồn hoặc đến với chúng ta một cách hết sức ngẫu nhiên. Ngẫu nhiên, tôi đến với nghề báo. Ngẫu nhiên, tôi gắn công việc và thời gian của mình với những chuyến đi… Những lúc một mình với chiếc xe gắn máy cà tàng rong ruổi qua từng miền đất lạ của rẻo đất cong cong hình chữ S, tôi thường cảm thấy lòng dội lên một cảm giác lâng lâng khó tả. Lâu dần thành quen, công việc đã vô tình biến tôi thành một tín đồ của chủ nghĩa xê dịch, luôn phải đi và muốn đi. Thú vị là ở chỗ, những lúc rong ruổi đường xa, tôi lại có cơ hội để gặp lại tuổi thơ trong những cơn mơ mòng hiệp khách, chủ yếu hình thành từ những trang sách ngấu nghiến đọc trộm và đam mê khám phá. Cũng ngẫu nhiên như thế, năm 1997, cái địa danh “bãi vàng Phước Sơn” đã tình cờ lọt vào tai tôi và nằm lại đó như một bí ẩn nhiều sức hút. Năm ấy, mưa lũ không lớn lắm. Nhưng ở một xứ sở mà cơ sở hạ tầng còn yếu kém như đất nước thân yêu của chúng ta thì không cần lớn, thiên tai cũng dư sức gây đại họa. Riêng tại Quảng Nam, với trận lụt “không lớn lắm” năm ấy, toàn tỉnh đã có “97 người chết và mất tích”. Thật ra, “chết” với “mất tích” cần phải được hiểu chẳng qua cũng chỉ là một! Trước cơn rùng mình, nổi gai ốc của tôi, Thiếu tá Nguyễn Đức Thành, Phó phòng PX15 Công an tỉnh đã cay đắng bổ sung: – Đó là chưa kể những người đã bỏ mạng tại bãi vàng Phước Sơn đấy. Dân đào vàng toàn người tứ xứ, sợ luật pháp nên không ai trình, ai báo. Dù cố gắng mấy, ngành công an cũng không thể thống kê chính xác được. Chỉ riêng bãi Nguyễn Văn Ngọc đã có 21 người chết. Tỉnh phải đem máy xúc lên đào suốt cả tuần mới lấy được xác các nạn nhân! ... Mời các bạn đón đọc Người Của Giang Hồ của tác giả Nguyễn Hồng Lam.
Đi Xuyên Hà Nội - Nguyễn Ngọc Tiến
Sau các cuốn tản văn 5678 bước chân quanh Hồ Gươm, Đi dọc Hà Nội, Đi ngang Hà Nội và tiểu thuyết Me Tư Hồng, nhà nghiên cứu Nguyễn Ngọc Tiến lại tiếp tục chủ đề những câu chuyện đời sống Hà Nội theo dòng lịch sử qua cuốn tản văn mới, Đi xuyên Hà Nội. Hà Nội của nhiều góc cạnh: những bước hình thành nên thành phố kiểu phương Tây do người Pháp lập bên cạnh những phố Hàng của Kẻ Chợ, những thú chơi hay phong tục của thời trước, những thăng trầm lịch sử. Có khi là câu chuyện nhiều ngổn ngang trong thân phận những ngôi biệt thự cũ giờ cái còn cái mất. Có khi là những phận đời nổi trôi theo thời cuộc: những nhà nho thất thế, một ông Tây say mê văn hóa bản địa và thành nhà Hà Nội học, những người con trai con gái của một thời yêu nhau trong sáng… Những chuyện nho nhỏ thú vị về thời điểm giao thông Hà Nội bắt đầu có đèn tín hiệu giao thông, cầu Long Biên khởi dựng ra sao, ăn mày Hà Nội hay chợ búa thế nào… Hay những dấu mốc lịch sử của những cuộc chiến tranh diễn ra trên mảnh đất Hà Nội, mỗi lần đi qua là để lại những tác động nghiệt ngã lên dấu tích vật chất lẫn văn hóa sống của con người. Cuốn sách Đi xuyên Hà Nội là sự cố gắng nhìn vào bản chất của đô thị ở khía cạnh khoa học nhân văn gần gũi, có sự khảo cứu sâu rộng các nguồn tư liệu, nên độ hấp dẫn nằm ở chính sự sống động ấy. Tất cả dựng nên một cách tự nhiên chân dung một Hà Nội vừa tài hoa vừa xô bồ, cổ kính mà luôn đầy chất đương đại. *** B ảng lảng và trần trụi Trong một thời gian dài bao cấp, ấn tượng về những trang báo thời sự là chúng khô khan, vắng bóng tính giải trí, và dường như sẽ nhanh chóng bị quên lãng trong các thư viện cũ kỹ. Những đã có một người chuyên tâm đi lục lại những trang thông tin hết thời ấy, chắp nối lại chúng và thổi hồn vào đấy thành những ghi chép khảo cứu sống động. Đó là Nguyễn Ngọc Tiến. Cho đến giờ, những khảo cứu của anh về một Hà Nội qua chiều dài lịch sử đã thành thương hiệu trong làng văn. Đọc những trang viết từ nhiều cuốn sách được tập hợp qua nhiều năm tháng miệt mài làm việc, tập trung quanh câu chuyện về một mảnh đất nhiều thăng trầm, người ta có thể thấy Nguyễn Ngọc Tiến tựa như một sử nhân của Hà Nội. Sau các tản văn, bút ký 5678 bước chân quanh hồ Gươm, Đi dọc Hà Nội, Đi ngang Hà Nội và tiểu thuyết Me Tư Hồng, Nguyễn Ngọc Tiến tiếp tục các truyện-sử về thành phố anh gắn bó qua tập sách mới - Đi xuyên Hà Nội. Đó là Hà Nội của nhiều góc cạnh: những bước hình thành nên thành phố kiểu phương Tây do người Pháp lập bên cạnh những phố Hàng của Kẻ Chợ, những thú chơi hay phong tục của thời trước, những gì phế hưng nơi này. Có khi là câu chuyện nhiều ngổn ngang trong thân phận những ngôi biệt thự cũ giờ cái còn cái mất. Có khi là những phận đời nổi trôi theo thời cuộc: những nhà nho thất thế, một ông Tây say mê văn hóa bản địa và thành nhà Hà Nội học, những người con trai con gái của một thời yêu nhau trong sáng... Anh tỉ mẩn lục lại xem quy tắc giao thông xưa, cầu Long Biên khởi dựng ra sao, ăn mày Hà Nội hay chợ búa thế nào... Hay những dấu mốc lịch sử của những cuộc chiến tranh diễn ra trên mảnh đất Hà Nội, mỗi lần đi qua là để lại những tác động nghiệt ngã lên dấu tích vật chất lẫn văn hóa sống của con người. Có những điều giản dị mà khiến người đọc ngỡ ngàng, hóa ra đã diễn ra chưa quá lâu mà tưởng như xa lăng lắc: ... Nhưng phải đến năm 1960 Hà Nội mới có ba cụm đèn tín hiệu được điều khiển thủ công tức là công an ngồi trong bốt bật công tắc gồm: Ngã năm Cửa Nam, ngã tư Điện Biên Phủ-Trần Phú và ngã tư Tràng Tiền-Hàng Bài. Ngã tư Điện Biên Phủ-Trần Phú tuy không đông đúc nhưng khu vực này có nhiều cơ quan ngoại giao nước ngoài nên phải có đèn tín hiệu cho ra dáng thủ đô. Ông Bính nhà ở đầu phố Bà Triệu kể rằng, năm 1964, khi đó ông 11 tuổi, gần như ngày nào cũng vào bốt xem các chú công an điều khiển và có vài lần “chú công an mỏi tay quá nhờ tôi bật công tắc”. (Đèn tín hiệu giao thông có từ bao giờ?) Đọc mà thương người Hà Nội ngày xưa, họ đã đi qua những khúc quanh thời cuộc, đọc mà không nén nổi những tiếng thở dài. Giọng văn thong thả, chậm rãi, có chút lãnh đạm làm tăng thêm cảm giác “truyền kỳ” của những câu chuyện lạ, nhất là những điều gợi nên suy ngẫm về khoảng cách giữa văn minh và u tối ở một đô thị vừa già cỗi lại vừa lắm nỗi ngây thơ... Nhiều chỗ tác giả chỉ đưa ra những con số và sự kiện mà người đọc cũng nghẹn ngào. Vì nỗi thương mình đã sống trong hoàn cảnh đó, hay thương một xã hội đô thị nhiều dâu bể? Trong cuốn sách này, tính chuyển động, sự trôi dạt nổi lên như một yếu tố chính. Từ những cái Tết ra đi và trở về (Đinh Hợi, Tết ra đi; Quý Sửu, Tết trở về), ngày chia ly của những người tản cư đi kháng chiến, người di cư vào Nam, người đi vùng kinh tế mới (Người Thăng Long-Hà Nội di cư), ngày đoàn viên của người từ nơi sơ tán hay mặt trận về (Hà Nội tháng 4-1975)... rất nhiều lần Nguyễn Ngọc Tiến nhấn mạnh tới tính động của dòng chảy đời sống Hà Nội. Nó vừa bảng lảng lại vừa trần trụi. Nó đẫm đầy chất tiểu thuyết. Vấn đề mà Đi xuyên Hà Nội tiếp nối các cuốn sách trước của cùng tác giả chính là giá trị của những trang truyện-sử phong tục xã hội, điều các chính sử thường bỏ qua, đặc biệt cần thiết ở một đô thị hậu thuộc địa. Sự lựa chọn đề tài đa dạng, gần gũi đời sống thường nhật cũng làm nên sự sống động của cuốn sách. Tất cả dựng nên một cách tự nhiên chân dung một Hà Nội vừa tài hoa vừa xô bồ, cổ kính mà luôn đầy chất đương đại. Khả năng bao trùm các đề tài về nơi này của Nguyễn Ngọc Tiến tiếp tục khẳng định một điều: còn rất nhiều thứ của Hà Nội xứng đáng để các nhà văn viết thật hay. Nguyễn Trương Quý Mời các bạn đón đọc Đi Xuyên Hà Nội của tác giả Nguyễn Ngọc Tiến.
Ngọc Sáng Trong Hoa Sen - John Blofeld
Ngọc sáng trong hoa sen (tựa tiếng Anh: The Wheel of Life) là cuốn sách nói về cuộc du hành của John Blofeld tại châu Á. Xuất bản năm 1959, quyển sách được sự đón nhận nhiệt thành của độc giả với số bán kỷ lục trên một triệu bản ngay trong năm đầu tiên ra mắt. Cho đến nay, dù thời gian trôi qua, nhiều sự kiện đã thay đổi nhưng Ngọc sáng trong hoa sen vẫn là một trong những cuốn sách giá trị về phương Đông và thường được dùng làm tài liệu tham khảo trong các trường đại học. Trong nửa thế kỷ qua, số người phương Tây thăm viếng phương Đông không phải là ít nhưng hiếm có ai lĩnh hội được tinh hoa của phương Đông như John Blofeld. Tất nhiên Lafcadio Hearn đã làm điều này, nhưng ông chỉ ghi nhận vài chi tiết huyền bí về châu Á. Alan Watts đi xa hơn trong việc tìm hiểu những giá trị tâm linh, nhưng ông cũng chỉ chú trọng về kỹ thuật và phương pháp chứ không đào sâu vào những phương diện khác. John Blofeld khác hẳn hai tác giả trên, ông không ghé thăm như một khách lạ mà sống hẳn ở đây gần trọn cuộc đời. Không những ông học hỏi và trải nghiệm nhiều, mà ở Ngọc sáng trong hoa sen ông còn chia sẻ với chúng ta những vui buồn của kiếp người trong giai đoạn giao thời giữa Đông và Tây lúc đó. Khi Trung Hoa Cộng sản thắng thế tại Hoa lục, ông phải rời Trung Hoa nhưng lòng vẫn luôn luôn hướng về mảnh đất này như quê hương thứ hai của mình. Khi cuộc Cách mạng Văn hóa bùng nổ, ông là người phương Tây đầu tiên đã viết kháng thư phản đối và gọi hình ảnh Hồng vệ binh đốt sách vở, phá đền miếu là những “hành động phá hoại tồi tệ trong lịch sử nhân loại”. Đau đớn trước thảm trạng hủy diệt văn hóa, ông âm thầm sưu tầm, phiên dịch các tác phẩm lớn của Trung Hoa ra Anh ngữ, không phải chỉ cho độc giả phương Tây mà còn cho cả thế hệ sau của người Trung Hoa lưu vong. Ông là một trong số ít người Tây phương thiết tha làm công việc bảo tồn truyền thống văn hóa Trung Hoa. Chính điều này đã bảo đảm cho giá trị văn hóa được truyền tải trong quyển sách Ngọc sáng trong hoa sen cũng như những quyển sách khác của ông. Cuốn sách gồm 9 chương: Chương 1: Mộng và thực Chương 2: Tứ hải giai huynh đệ Chương 3: Hổ cốt tửu và Thanh trúc địch Chương 4: Nhẹ bước tiêu dao Chương 5: Bắc Kinh Chương 6: Ngũ đài sơn Chương 7: Biển khổ Chương 8: Buổi giao thời Chương 9: Vầng dương tỏa rạng *** Tác giả cuốn sách: John Blofeld là một học giả người Anh, đã sống nhiều năm tại Trung Hoa, Tây Tạng, Ấn Độ và Thái Lan. Ông là một trong những người tiên phong trong việc giới thiệu truyền thống văn hóa, tôn giáo phương Đông cho người phương Tây. Ngoài việc phiên dịch các tác phẩm lớn của Trung Hoa như Kinh Dịch, Kinh Thi, Sử Ký, Nam Hoa Kinh và Đạo Đức Kinh ra tiếng Anh, ông còn soạn thảo nhiều bộ sách giá trị về Phật giáo như “Bodhisattva of Compassion”, “The Road to Immortality”, “The Zen teaching of Huang Po”, “The Zen teaching of Hui Hai”, “Tantric Mysticism of Tibet”. Ông là chủ bút tờ Trung Đạo (The Middle Way), cơ quan ngôn luận của Hội Phật giáo Thế giới. Ông qua đời năm 1987. *** Dịch giả cuốn sách:. Ông tên thật là Vũ Văn Du, sinh năm 1950 tại Hà Nội. Nguyên Phong rời Việt Nam du học ở Mỹ từ năm 1968 và tốt nghiệp cao học ở hai ngành Sinh vật học và Điện toán. Ngoài công việc chính là một kỹ sư cao cấp tại Boeing trong hơn 20 năm, ông vẫn tiếp tục nghiên cứu trong vai trò nhà khoa học tại Đại học Carnergie Mellon và Đại học Seattle, Mỹ. Ông còn giảng dạy tại một số đại học quốc tế tại Trung Hoa, Hàn Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ về lĩnh vực công nghệ phần mềm. Song song với vai trò một nhà khoa học, Nguyên Phong còn là dịch giả nổi tiếng của loạt sách về văn hóa và tâm linh phương Đông. Trong số đó, có thể kể đến các ấn phẩm: Hành Trình về phương Đông, Ngọc sáng trong hoa sen, Bên rặng Tuyết sơn, Hoa sen trên tuyết, Hoa trôi trên sóng nước, Huyền thuật và đạo sĩ Tây Tạng, Trở về từ cõi sáng, Minh triết trong đời sống, Đường mây qua xứ tuyết… *** T ôi rời Almora một cách phấn khởi. Chưa lúc nào lòng tôi lại chan chứa một hy vọng lớn như vậy. Bao cảm giác buồn chán, thất vọng đều tiêu tan, tôi thấy thoải mái, an lạc như vừa lột xác. Trong bao năm qua, chưa lúc nào tôi biết rõ mình sẽ phải làm gì như lúc này. Kể từ khi được Kim Cương trưởng lão thu nhận, làm lễ điểm đạo và sau đó đi du lịch khắp Trung Hoa, tôi đã gặp gỡ nhiều danh sư. Tôi đã học hỏi, thực hành nhiều pháp môn khác nhau nhưng không thành công bao nhiêu. Dù cố gắng tham cứu về Thiền Tông, Tịnh Độ Tông và các pháp môn khác nhưng lần nào tôi cũng nhìn thấy mình trở về với Mật Tông. Dĩ nhiên Mật Tông có hàng trăm, hàng ngàn tông phái khác nhau nhưng chỉ đến lúc này tôi mới hiểu rõ con đường phải đi. Nếu tin vào nhân duyên thì tôi phải nói rằng trước lúc đó tôi chưa đủ duyên nên mọi sự đều ẩn tàng, không rõ rệt. Dù Hòa thượng Ninh Hải đã tiên tri nhưng tôi vẫn không sao hiểu được. Tại Wat Chalem, hình như có một mãnh lực kỳ lạ gì thôi thúc, hình ảnh một cánh rừng núi với cây cối xanh ngắt đã hiện lên một cách vô ý thức trong tâm tôi nhưng tôi vẫn không biết được nơi nào mà tôi phải tìm đến. Phải đợi đến khi gặp Lạt ma Govinda tôi mới ý thức rằng đã đến lúc tôi phải trở về nhà, tìm đến người trưởng môn của phái Dolijang (Sgromal-janku) để hoàn tất nghi thức nhập môn mà trước đây tôi đã vô tình bỏ dỡ. Hơn lúc nào hết tôi biết mình thực sự muốn gì và phải tìm kiếm gì. Cuộc gặp gỡ Lạt ma Govinda đã để lại cho tôi một ấn tượng hết sức sâu đậm về tu sĩ này. Thật ít người phương Tây nào lại quán triệt được những tinh hoa phương Đông như ngài. Theo chỗ tôi được biết thì chỉ có hai người Âu xứng đáng được coi như là những người tiên phong, đã mở đường dẫn lối cho những người khác: Lạt ma Govinda và giáo sư Evans Wentz. Lạt ma Govinda là một người Âu đã xuất gia tại Sri Lanka nhưng qua Tây Tạng học hỏi với các danh sư Kim Cương Thừa. Ông đã viết rất nhiều sách và để lại cho thế giới một kho tàng tranh vẽ mà ông đã sưu tầm được tại Tây Tạng. Giáo sư Evans Wentz là một học giả của Oxford đã tháp tùng một phái đoàn các khoa học gia Âu Mỹ qua phương Đông nghiên cứu. Phái đoàn của ông đã đi khắp nơi học hỏi ghi nhận và sau cùng lên Hy Mã Lạp Sơn. Tại đây họ đã tiếp xúc được các bậc cao nhân, ẩn sĩ và được chỉ dẫn rất nhiều. Sau một thời gian học hỏi, họ quyết định không trở về châu Âu nữa mà chọn một đời sống tu hành trên rặng núi Tuyết này. Chỉ có hai người, giáo sư Evans Wentz và Baird Spalding lãnh trọng trách trở về Anh quốc hoàn tất cuộc nghiên cứu bằng một hồ sơ tường trình cuộc du khảo của họ[13]. Sau đó giáo sư Spalding cũng bỏ lên Tuyết sơn tu học, chỉ còn giáo sư Evans Wentz tiếp tục dịch thuật nhiều sách tham khảo có giá trị khác, đặc biệt là các sách vở về Kim Cương Thừa mà ngày nay vẫn được các học giả coi là những tài liệu hết sức giá trị. ... Mời các bạn đón đọc Ngọc Sáng Trong Hoa Sen của tác giả John Blofeld.
Trên Ngọn Tình Sầu - Du Tử Lê
Bài thơ được viết năm 1967, linh hồn chính của bài thơ là một cô giáo - Lê Huyền Châu (Cháu ruột của Giáo Sư Lê Ngọc Trụ). Có thể coi đây là mối tình đầu của nhà thơ Du Tử Lê. Họ không đi đến hôn nhân được vì sự khác biệt giữa hai gia đình Nam Bắc. Năm 1975 nhà thơ Du Tử Lê định cư ở Mỹ, Huyền Châu còn ở lại Việt Nam. Hai mươi sáu năm sau, 1991, ông về thăm lại người yêu cũ, và có ý định đem Huyền Châu đi. Nhưng vì còn cha mẹ già . Cô từ chối. Hiện nay cô vẫn còn độc thân và vẫn còn cư ngụ tại căn nhà cũ ở Bến Chương Dương. Tùy bút Trên Ngọn Tình Sầu gồm có:  Tóc Trên Đầu Vẫn Từng Ngọn Riêng Tây Thư Viết Từ Garden Grove City Mỗi Chúng Ta Là Một Vùng Đất Trũng. Và, Những Bức Tranh Không Ngày Tháng, Không Chữ Ký Người Chối Từ Hai Chữ “Nhà Văn!” *** Du Tử Lê (sinh 1942) tên thật là Lê Cự Phách, là một nhà thơ Việt Nam đang định cư ở nước ngoài. Ông sinh năm 1942 tại huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam, miền Bắc Việt Nam. Sau Hiệp định Genève, 1954, Lê Cự Phách di cư vào Nam cùng với gia đình. Đầu tiên ông định cư ở Hội An, Quảng Nam, sau đó là Đà Nẵng. Đến năm 1956, ông vào Sài Gòn và theo học trường Trần Lực, trường Chu Văn An, sau cùng là Đại học Văn Khoa. Ông làm thơ từ rất sớm, khi đang còn học tại trường tiểu học Hàng Vôi tại Hà Nội. Sau khi di cư vào Sài Gòn, Du Tử Lê bắt đầu sáng tác nhiều tác phẩm dưới nhiều bút hiệu khác nhau. Bút hiệu Du Tử Lê được dùng chính thức lần đầu tiên vào năm 1958 cho bài "Bến tâm hồn", đăng trên tạp chí Mai. Du Tử Lê từng là sĩ quan thuộc Quân lực Việt Nam Cộng Hòa, cựu phóng viên chiến trường, thư ký tòa soạn cuối cùng của nguyệt san Tiền phong (một tạp chí của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa), và là giáo sư dạy giờ cho một số trường trung học Sài Gòn. Năm 1973 tại Sài Gòn, ông được trao Giải thưởng Văn chương Toàn quốc, bộ môn Thơ với tác phẩm Thơ tình Du Tử Lê 1967-1972. Ngày 17 tháng 4 năm 1975, Du Tử Lê cùng với Mai Thảo và Phạm Duy bị kết án tử hình vắng mặt trên đài phát thanh của Mặt trận giải phóng Miền Nam vì có thái độ chống đối cộng sản quyết liệt. Sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, ông sang tỵ nạn bên Hoa Kỳ. Hiện ông đang sống ở miền Nam California, tiếp tục nghề viết, và là nhân viên khế ước của đài tiếng nói Hoa Kỳ từ năm 1996. Ông cũng từng là chủ nhiệm các báo Việt ngữ Nhân chứng, Tay Phải, và Văn nghệ ở Hoa Kỳ. *** “đời tẻ nhạt liếm môi mình cũng nhạt. “tóc trên đầu vẫn từng ngọn riêng tây.” (thơ dtl.)   1. C hiếc xe hối hả như muốn chạy đua cùng mặt trời đang bị những sợi giây vô hình vội vã kéo lên cao. Nắng sớm từngchùm lọt qua cành, nhánh những rặng xoài nặng trái. Nhác trông, như những chiếc võng xanh ương, treo lửng, đu đưa bởi gió đồng. Trên những thửa ruộng lúp xúp chân lúa mới gặt, nước đọng từng vũng do sự nấn, nuối của những trận mưa rào mấy ngày trước. Xa xa, đôi ba cánh cò trắng soải chân, buồn bã, bay. Tựa chúng không chút bận tâm về việc hình ảnh chúng bị hắt lại từ những tấm kính không gian trong suốt, dựng theo chiều thẳng đứng; được chia lô bởi những thân cổ thụ cụt đầu, đã khô quắt; nhưng vẫn muốn phô diễn lần cuối, sự có mặt ngạo nghễ (dẫu tuyệt vọng) của mình. Nếu không kể tài xế, chiếc xe có bốn người cho ba hàng ghế. Hai phụ nữ. Một trung niên. Tóc ngắn. Bề ngoài, cô cho thấy là một người đã miễn nhiễm với tất cả mọi biến động thời thế, xã hội. Nhưng đôi mắt nửa nghiêm khắc, nửa tinh anh của cô, lại cánh giác những ai sáng ý rằng, đó là một người nhạy cảm mà, cái tâm từ của cô, lúc nào cũng sẵn sàng đào những hố, hầm cho cô sập bẫy-xót-xa. Ta cũng có thể nói, đó là người phụ nữ được sinh ra để quên mình, sống cho kẻ khác. Người còn lại, tóc dài. Còn trẻ. Nhưng dường như mái tóc của cô cũng tự hiểu rằng, nó không đủ tiềm năng cạnh tranh với chiều cao của cô. Chiều cao của một cây…liễu. Đó là một phụ nữ có nét đẹp sang cả của khối…nước đá. (Loại nước đá không tan dù cho bạn có phơi nó dưới ánh nắng hay, sức nóng ở độ nào!) Họ rì rầm nơi băng ghế áp chót. Chỉ trời hiểu họ nói gì, với nhau!?! Nơi băng ghế ngay sau lưng tài xế, là phần đất “quy hoạch” của hai người đàn ông. Người trẻ, ở khoảng tuổi trên dưới dưới bốn mươi. Nhưng những nếp nhăn đã thấp thoáng, không chỉ trên vầng trán bướng bỉnh mà, cả nơi đuôi mắt. (Tôi xin nói riêng với bạn mà không sợ sai rằng, đó là loại thanh niên đánh bạn sớm với những con rết nhiều chân.) ... Mời các bạn đón đọc Trên Ngọn Tình Sầu của tác giả Du Tử Lê.