Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Một Nỗi Đau Riêng - Kenzaburo Oe

Kenzaburo Oe là nhà văn Nhật Bản thứ hai được trao giải Nobel Văn học (năm 1994). Buổi lễ mừng giải thưởng danh giá của Kenzaburo Oe là một ngày hội vô cùng đặc biệt. Các nhạc công hàng đầu của "đất nước mặt trời mọc" đã biểu diễn mười tác phẩm của nhạc sĩ trẻ Hikari Oe- người con trai tật nguyền, người đã khiến Kenzaburo Oe tìm được "lối đi" trong sáng tác văn chương và khiến ông cùng con trai như được "tái sinh"... Kenzaburo Oe thuộc lớp nhà văn hậu chiến, hiện tên tuổi đang được xếp hàng đầu trong danh sách các nhà văn Nhật Bản. Sinh ngày 31 tháng 1 năm 1935 tại đảo Shikoku, một trong bốn hòn đảo lớn nhất của Nhật Bản, cuộc đời ông đã chứng kiến và đồng hành cùng những thăng trầm của một đất nước được bao bọc bởi biển cả, với ba ngàn hòn đảo lớn nhỏ.  Năm Kenzaburo Oe lên 4 tuổi, Thế chiến thứ hai bùng nổ ở khu vực châu Âu và năm sau lan sang khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Đất nước của ông dưới thời Nhật Hoàng Hirohito là một thành viên của trục phát xít Berlin - Roma - Tokyo, đã gây ra biết bao tội ác đối với nhân dân các nước trong khu vực châu Á. Giống như hết thảy những người Nhật Bản cùng thế hệ, những hồi ức ảm đạm về cuộc chiến tranh phi nghĩa, về sự ngã gục của nước nhà khi Thế chiến hai kết thúc luôn đè nặng trong lòng Kenzaburo Oe. Nhưng nổi lên trên hết, trong tâm hồn nhạy cảm của một người có khiếu văn chương như Kenzaburo Oe, hình ảnh của hai cột nấm khổng lồ màu vàng cùng với hàng ngàn cột lửa đỏ lựng bùng lên ở Hirosima và Nagasaki vào cái ngày mồng 8 và mồng 10 tháng 8 năm 1945 ấy hình như mỗi ngày mỗi to hơn, rộng hơn, nóng bỏng hơn, khủng khiếp hơn. Hai cột nấm ấy đã hủy diệt sinh mạng của mấy chục vạn người dân Nhật vô tội. Những cơn mưa phóng xạ khởi nguồn từ hai cột nấm ấy đã làm cho không ít người chết dần, chết mòn trong vòng vài chục năm sau đó và một số người khác, trong đó có người con trai đầu của Kenzaburo Oe, ngay từ khi mới sinh ra đã mang trong mình những căn bệnh trầm kha mà y học đến nay vẫn phải bó tay. Trong Diễn văn trao giải Nobel Văn học cho Kenzaburo Oe, Viện Hàn lâm Thụy Điển khẳng định: "Một đề tài xuyên suốt các tác phẩm của Kenzaburo Oe là bi kịch gia đình cùng tình thương và trách nhiệm đối với người con trai cả Hikari sinh ra đã bị dị tật. Kenzaburo Oe đã sáng tạo ra một thế giới tưởng tượng đầy chất thơ, đã miêu tả tình trạng đau đớn trong khổ cảnh của con người thời hiện đại bằng sự ngưng kết những ngụ ngôn và sinh hoạt hiện thực. Đồng thời ông cũng miêu tả thành công quan hệ của con người trong một thế giới hỗn độn, một thế giới mà ở đó trí thức, tình cảm, giấc mơ, dã tâm, thái độ đã hòa quyện với nhau một cách kỳ diệu"… Trong diễn văn đáp từ, Kenzaburo Oe cũng thừa nhận "Phong cách viết của tôi khởi nguồn từ những vấn đề cá nhân, sau đó gắn kết chúng với xã hội, với cuộc đời và thế giới này. Với tư cách nhà văn, tôi phải thừa nhận rằng chủ đề trung tâm của các tác phẩm trong hầu hết văn nghiệp của tôi là cái cách gia đình tôi đã học cách sống với đứa con tật nguyền…". Có thể kiểm chứng những lời phát biểu này trong "Một nỗi đau riêng", "Sự cố cá nhân", "Sổ tay Hirosima", "Nước ngập hồn tôi", "Trận bóng đá năm Vạn diên thứ nhất", "Trò chơi đương đại", "Hãy đứng lên, hỡi những chàng trai của thế hệ mới"… Kenzaburo Oe bắt đầu sáng tác khi còn là sinh viên chuyên ngành Văn học Pháp tại Đại học Tokyo và năm 23 tuổi, với tiểu thuyết "Nuôi thù", ông đã nhận được giải thưởng Akutagawa, một giải thưởng mà các nghệ sĩ Nhật Bản hằng mong ước. Từ đó trở đi ông sáng tác đều đặn và coi viết văn là nghề mà ông trọn đời theo đuổi. Ba năm sau khi nhận giải thưởng Akutagawa, cuộc đời Kenzaburo Oe bắt đầu rẽ sang một lối khác. Sau khi kết hôn cùng Yukan, con gái của một đạo diễn điện ảnh danh tiếng,  vợ chồng Kenzaburo Oe sinh được một bé trai. Nhưng chẳng như mong đợi và kỳ vọng của đôi vợ chồng trẻ, Hikari là một dị nhân: đầu to quá mức bình thường, đôi mắt không có khả năng nhận biết ánh sáng. Cậu bé cũng không có khả năng nhận biết và nói tiếng người, chỉ có thể phát ra tiếng chiêm chiếp như loài chim. Sự chào đời của Hikari là một "cú giáng trí mạng" đối với Kenzaburo Oe. Đã có lúc ông nghĩ đến việc tự tử để trốn chạy đứa trẻ. Rồi có lần ông định giết Hikari để giải thoát cho chính mình và cho cả đứa con tội nghiệp. Cũng may mà ông đã không đủ điên rồ và gan không đủ lớn để làm cả hai việc đê hèn đó. Ông đã chọn cách chấp nhận, chấp nhận Hikari cùng những bất hạnh của số phận, đồng thời nỗ lực tìm kiếm cách làm cho đứa trẻ "tái sinh". Thường thì bậc làm cha làm mẹ chẳng bao giờ muốn nói về những khuyết tật cùng những thói hư tật xấu của con mình. Nhưng Kenzaburo Oe đã dũng cảm nói về đứa con tật nguyền của mình, không phải một lần, mà là rất nhiều lần. Ông muốn từ nỗi đau của riêng mình nói đến một điều lớn lao hơn: Cần phải học cách chấp nhận những nỗi đau của con người cùng với việc tìm kiếm những cách thức để "tái sinh" những con người bất hạnh.  Kenzaburo Oe đặt tên cho con trai đầu lòng là Hikari, tiếng Nhật có nghĩa là "ánh sáng". Quả thực, Hikari bé bỏng, luôn "cô đơn như hòn sỏi nhỏ trên đám cỏ" đã tạo ra luồng ánh sáng, những vầng hào quang rực rỡ cho những tác phẩm của người cha. Trả lời phỏng vấn một nhà báo nước ngoài, Kenzaburo đã thẳng thắn: "Năm tôi hai mươi tám tuổi, đứa con đầu của tôi chào đời. Lúc đó tôi đã là một nhà văn khá nổi tiếng và đang là sinh viên ngành văn chương Pháp. Nhưng từ khi con trai tôi ra đời với một chứng bệnh trầm kha về não, vào một đêm kia, tôi muốn tìm sự khích lệ từ cuốn sách đầu tiên. Vài ngày sau tôi nhận thấy mình không thể tìm được niềm an ủi trong quyển sách của chính mình, có nghĩa là độc giả cũng sẽ không tìm thấy sự an ủi từ tác phẩm của tôi. Tôi lâm vào tình cảnh chán nản. Nhưng sau chuyến đi thăm một bệnh viện dành cho những nạn nhân bom nguyên tử ở Hiroshima, tôi đã quyết định viết về Hikari, chia sẻ với độc giả những cảm giác của mình khi phải đối mặt với đứa con mang trên mình những di chứng của thảm họa Hiroshima...". Tất cả những gì tích tụ trong lòng từ khi Hikari chào đời được ông giãi bày trong "Một nỗi đau riêng". Kenzaburo Oe cho rằng, chỉ bằng cách ấy, ông và đứa con trai tội nghiệp mới thể "tái sinh". Cái "tầm" của "Một nỗi đau riêng" là ở chỗ, Kenzaburo Oe đã viết về thảm kịch Hiroshima theo một cách rất riêng. Đó là cái cách ông gắn hành trình "tái sinh" của đứa trẻ bị bại não với quá trình hồi sinh của dân tộc Nhật Bản sau thảm họa thất trận năm 1945. Không chỉ dừng lại ở "Một nỗi đau riêng", trong tập tiểu luận "Một gia đình tự chữa lành", Kenzaburo Oe đã miêu tả thế giới nội tâm phức tạp của nhân vật Điểu khi muốn chối bỏ đứa con tật nguyền của mình, tìm quên trong gái, rượu và những chuyến đi xa. Điểu đã muốn chấm dứt đời của đứa con mang khối u não ác tính bằng một ly sữa độc. Nhưng trong một lần lái xe, khi cố tránh một con chim đã chết trên đường, Điểu ngộ ra rằng cần phải cứu đứa con trước khi quá muộn. Rốt cuộc, cái u ác tính kia chỉ là một cái u thường, sau khi cắt bỏ, đứa bé đã xuất viện bình an… Hành trình tái sinh của Điểu trong "Một nỗi đau riêng", mà thực ra là nỗi đau chung của đồng bào ông, chính là hành trình tái sinh của ông và Hikari. Trong 6 năm trời ròng rã, hai vợ chồng ông đã kiên nhẫn cho Hikari nghe đi nghe lại một cuốn băng ghi âm tiếng hót của các loài chim kèm theo lời thuyết minh về tên của từng loài chim đó. Và điều kỳ diệu đã đến sau ba năm nghe cuộn băng ấy. Khi lên sáu tuổi, Hikari đã bật nói câu đầu tiên: "Đó là chim sẻ", và sau đó là nói đến tên của từng loài chim mà cậu bé đã được nghe qua băng ghi âm trong suốt mấy năm trời. Hikari được cha mẹ đưa đến trường dành cho trẻ em thiểu năng trí tuệ. Ở đây cậu bé được nghe nhạc của Handel, Bach và đến năm 16 tuổi, Hikari trở thành một thiếu niên khỏe mạnh nhưng lại mất thị giác. Vì không thể chơi piano, Hikari đã học sáng tác dưới sự chỉ dẫn của người mẹ… Và đến độ trưởng thành, Hikari đã là một nhạc sĩ danh tiếng, cả ở Nhật và trên thế giới. Những CD nhạc của anh có mặt ở rất nhiều quốc gia, ngay cả nơi dành để bán những ấn phẩm nghệ thuật phục vụ cho lễ trao giải Nobel Văn học. Những bản nhạc của Hikari, theo lời Kenzaburo Oe, "có một nguồn năng lực chữa lành cho trái tim". Ông còn nói: "Khi ta thể hiện ra một cách rốt ráo nỗi tuyệt vọng của con người, ta sẽ chữa lành được chính mình và biết được niềm vui của sự hồi phục…". Trong lễ nhận giải Nobel, Kenzaburo Oe nói rằng, giải thưởng này đúng ra phải trao cho Hikari con trai ông. Ông cũng thông báo từ nay sẽ "gác bút" để tập trung cho Hikari tỏa sáng trên bầu trời âm nhạc. Ông cũng hy vọng âm nhạc của Hikari sẽ mãi là thứ thần dược để chữa lành nỗi đau nhân thế *** Kenzaburo Oe, sinh năm 1935 tại đảo Shikoku (Nhật Bản), đã sáng tác nhiều truyện ngắn, tiểu thuyết và tiểu luận. Ông đoạt nhiều giải thưởng văn học giá trị tại Nhật như Giải Akutagawa với tác phẩm The Catch, Giải Tanizaki với Football in the First Year of Mannen, Giải Văn học Shinchosha với A Personal Matter (Một nỗi đau riêng).   Điểu, nhân vật chính trong Một nỗi đau riêng, là một thanh niên có khuynh hướng chống đối xã hội Nhật, đã có lần khi đương đầu với một vấn đề khó giải quyết, anh tự “cho mình trôi dạt trong biển rượu mạnh như một Robinson Crusoe mất phương hướng”. Nhưng chưa bao giờ anh giáp mặt với một cuộc khủng hoảng cá nhân và nghiêm trọng về viễn cảnh một đời sống tù hãm trong lồng của đứa con mới sinh mang chứng thoát vị não. Liệu anh chạy chữa cho đứa bé được sống? Anh dám giết nó không? Trước khi đi đến quyết định cuối cùng, toàn bộ quá khứ sống dậy trong lòng anh, anh đã bừng tỉnh và nhận ra đó chỉ là một cơn ác mộng của sự lừa dối chính mình. Oe đã tạo nhân vật chính của mình trong tác phẩm này trở thành một trong những khuôn mặt đáng nhớ nhất trong tiểu thuyết hiện đại Nhật Bản.   Năm 1994, Kenzaburo Oe đã được Viện Hàn lâm Thụy Điển trao Giải Nobel Văn chương.  *** Điểu chăm chú nhìn tấm bản đồ châu Phi được phơi bày với vẻ thanh lịch kiêu kỳ của một chú nai rừng trong tủ hàng, anh cố nén tiếng thở dài. Các cô bán hàng không để ý đến anh. Bộ đồng phục họ mặc để lộ ra đôi cánh tay và chiếc cổ nõn nà. Đêm xuống dần. Cái nóng đầu hè, giống như nhiệt độ của một xác chết khổng lồ hạ hẳn xuống. Người ta di chuyển như đang mò mẫm từng bước trong bóng tối của tiềm thức, mong tìm lại ký ức về cái ấm áp ban trưa còn nấn ná chút hơi tàn trong da thịt: họ thốt lên tiếng thở dài mơ hồ. Tháng sáu, sáu giờ rưỡi: không một ai trong phố lại đổ mồ hôi vào lúc này. Nhưng vợ của Điểu thì nằm trần truồng trên một tấm nệm cao su, đôi mắt nhắm nghiền giống như một con gà lôi bị trúng đạn từ trên trời rơi xuống, và trong khi nàng than vãn cơn đau, bày tỏ nỗi âu lo cùng niềm mong đợi thì mồ hôi nhỏ giọt trên cơ thể nàng.   Điểu nhún vai, chăm chú vào những chi tiết của tấm bản đồ. B quanh lục địa châu Phi là màu biển xanh da trời mùa đông của buổi bình minh. Kinh độ và vĩ độ không phải là những đường nét máy móc của chiếc com-pa: những đường nét rõ ràng gợi lên sự phóng khoáng và thất thường của người vẽ. Lục địa trôi giống như chiếc sọ của một người bị treo đầu. Với đôi mắt sầu thảm, chán chường, một con người có cái đầu to tướng đang đăm đăm nhìn châu Úc, miền đất của gấu koala, thú mỏ vịt và kanguru. Bức tiểu họa châu Phi chỉ sự phân bổ dân số nằm dưới góc bản đồ, giống đầu người chết bắt đầu thối rữa. Một bức khác, hiện lên những con đường giao thông, giống đầu người bị lột da lộ ra những mao mạch đau đớn. Cả hai bản đồ châu Phi nhỏ bé này gợi lên sự chết chóc bất thường, nguyên sơ và quá tàn bạo.   “Tôi lấy tập bản đồ cho anh xem?”   “Không, đừng bận tâm,” Điểu nói. “Tôi đang tìm những tấm bản đồ chỉ đường của Tây Phi, Trung và Nam Phi do hãng Michelin in.” Cô gái cúi xuống chiếc ngăn kéo đựng đầy bản đồ Michelin và bắt đầu lăng xăng lục lọi. “Dãy số 182 và 185,” Điểu chỉ cho cô bán hàng, rõ ràng anh là một tay sành sõi về châu Phi.   Tấm bản đồ mà Điểu khao khát bấy lâu nay là một trang trong tập bản đồ bìa da, nặng ký. Một vài tuần trước, anh đã dò giá tập bản đồ và biết nó bằng năm tháng lương giáo viên của anh dạy tại một trường luyện thi. Nếu muốn có đủ tiền mua, anh có thể làm thêm công việc phiên dịch và phải mất ba tháng. Nhưng Điểu còn phải nuôi thân mình và nuôi vợ, vợ anh lại sắp sinh. Điểu là cột trụ của gia đình!   Cô bán hàng chọn hai tấm bản đồ bìa đỏ đặt lên quầy. Đôi tay nàng gầy và vấy bẩn, những ngón tay kỳ nhông bám trên cành cây. Mắt Điểu dán vào nhãn hiệu Michelin nằm dưới ngón tay nàng: một gã đàn ông hằng cao su trông giống như con cóc đang lăn cái ruột xe chạy xuống đường làm anh cảm thấy việc mua bản đồ là điều ngớ ngẩn. Nhưng đây là những tấm bản đồ mà anh muốn dùng vào mục đích quan trọng. ... Mời các bạn đón đọc Một Nỗi Đau Riêng của tác giả Kenzaburo Oe.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Bố Con Cá Gai - Cho Chang In
Có những câu chuyện mãi được yêu thương, và nằm trong trái tim bạn đọc suốt năm này qua năm khác… Bố con cá gai là một câu chuyện như thế, trong trái tim độc giả Hàn Quốc, suốt nhiều năm nay. Ở đó có một em nhỏ đã chiến đấu với bệnh hiểm nghèo từ lúc lên ba, giờ em gần mười tuổi. Hãy khoan, đừng vội buồn! Vì em bé này sẽ chẳng làm bạn phải buồn nhiều. Em chịu tiêm rất giỏi, em không khóc, ngoài những lúc mệt quá ngủ thiếp đi, em còn bận đỏ bừng mặt nghĩ tới bạn Eun Mi kẹp-tóc-hoa, bận xếp hình tàu cướp biển, bận lật giở cuốn truyện Bảy viên ngọc rồng… Nhưng bố em thì khác, một ông bố làm em nhỏ của chúng ta phiền lòng quá nhiều, cũng làm những ai dõi theo “bố con cá gai” phải buồn không ít, có khi buồn quá hóa giận! Ông bố ấy đích thị là bố cá gai - một cá bố rất kỳ lạ - cả nguồn sống chỉ co cụm quẩn quanh cá gai con tí xíu. Như một ông bố ngốc! Ra đời năm 2000, câu chuyện cảm động về ông bố cá gai và cậu bé con mà người bố ấy nâng niu trong Bố con cá gai có sức lay động mạnh mẽ, trở thành một trong những câu chuyện về tình cha được người Hàn Quốc yêu thích nhất. *** Một câu chuyện khiến mình rất xúc động. Mình đã khóc rất nhiều khi đọc đoạn cuối của truyện. Em bé Daum, một em bé dù mới 10 tuổi nhưng chiến đấu dũng cảm với căn bệnh ung thư máu trắng; dù rất đau đớn nhưng em chịu đựng hết, luôn suy nghĩ lạc quan tích cực. Em cũng rất thông minh, một em bé 10 tuổi nhưng rất hiểu chuyện, rất ngoan. Em yêu và quan tâm bố từng tý một. Lúc nào em cũng nghĩ: bố cảm thấy thế nào? Bố có buồn không? Bố Daum, người bố xoay xở mọi bề để có thể vừa lo viện phí cho con, vừa chăm sóc động viên cổ vũ con chiến đấu với căn bệnh ung thư. Đọc truyện mình cảm được tình yêu lớn lao của ông với Daum. Có lẽ mọi ông bố trên thế giới này đều như vậy. Con là trên hết. con là cả thế giới. Con là nguồn sống, nguồn hi vọng hơn hết.  Tình yêu thương của hai bố con khiến mình rất xúc động. Vì thế cái kết dẫu có hợp lý, thì đối với mình vẫn là một cái kết buồn. Daum đã mạnh mẽ vượt qua cả cuộc chiến ung thư khắc nghiệt, thì còn có khó khăn nào em không thể vượt qua? Nhưng chỗ dựa tinh thần của Daum đã không còn nữa, có ai yêu em, hiểu em như bố em được nữa? *** Tôi có một người bạn thân quen đã lâu. Đó là một người bạn có con bị mắc bệnh nan y. Người bạn đó chẳng hề kêu ca về nỗi đau, cũng chẳng hề oán thán. Đứa trẻ thế nào rồi? Trước câu hỏi của tôi, anh chỉ khẽ cười và nói. Nó đang khỏe dần lên. Tuy nhiên, đó không phải là căn bệnh có thể dễ dàng khỏe dần lên. Không, thời gian càng trôi qua, nó càng trở nên tồi tệ hơn chứ. Thỉnh thoảng gặp nhau, chúng tôi lại cùng nhau uống rượu soju, và một ngày nọ, duy chỉ có một lần, người bạn đã nói với tôi: “Anh có biết hy vọng của tôi là gì không? Đó là giá như tôi có thể gánh bớt phần nào thay nó. Nhưng mà, tôi lại chẳng thể làm gì cho nó. Điều đó thật khó có thể chịu đựng được.” Điều đó thật khó có thể chịu đựng được... Câu nói của người bạn là lý do khiến tôi nặng lòng viết nên cuốn tiểu thuyết này. Đôi lúc trong lúc viết câu chuyện này, mỗi khi nghĩ đến nỗi đau đớn mà người bạn phải chịu đựng, tôi lại thở dài, và đã có những lúc tôi gập bản thảo lại suốt một thời gian dài. Nhưng tôi muốn viết ra câu chuyện này, để niềm hy vọng da diết của bạn tôi không bị hoài phí đến tận giây phút cuối cùng. Tôi đã mất bố từ khi còn bé. Khi đó tôi sáu tuổi. Sáu tuổi là thời điểm mà cuộc sống còn quá mới mẻ với tôi, ngay đến cả ký ức về bố giờ cũng mịt mờ. Tôi không còn nhớ rõ khuôn mặt bố. Bố là người đã rời đi như chiếc lá úa trong cơn gió heo may. Là một người sống một cuộc đời rồi đột ngột rời bỏ thế gian như cơn gió thoảng qua. Sự cười chê hay lòng thương cảm gượng gạo của thế gian dành cho một đứa trẻ không cha, tôi đã quen dần từ những năm tháng tuổi thơ. Biết đâu chính sự cười chê hay lòng thương cảm đó đã dồn nén trong tôi khao khát về một người cha. Tôi đã chẳng oán giận bố, cũng không hề nhớ đến bố. Vì thế mà trong một thời gian dài tôi đã không hiểu được ý nghĩa của người cha, và mặt khác, tôi cũng đã vờ như không biết. Như thể đó là cách tự bảo vệ mình trước nỗi đau vậy. Thế rồi tôi lại viết nên một cuốn tiểu thuyết về tình cha ấm áp như ánh nắng mùa xuân. Nó xuất phát từ cảm xúc khi được làm cha của một đứa trẻ, và mong muốn có thể đặt lên bàn một cuốn sách thay cho lời hứa rằng nhất định sẽ trở thành một người cha tốt. Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới Viện trưởng Choi Kwang Won, Bệnh viện Y học Gia đình Ansan, người đã giúp đỡ tôi từ những giây phút bắt đầu đến tận khi hoàn thành cuốn sách này. Trên một hòn đảo trơ trọi giữa mùa đông, Cho chang-In Mời các bạn đón đọc Bố Con Cá Gai của tác giả Cho Chang In.
Cho Xem Đùi Nào, Leila - Rachid El-Daif
Trên giường bệnh viện, nhân vật chính hồi dần ký ức, anh nhớ ra rằng mình đã đâm phải cột điện và vào lúc tai nạn xảy ra, anh đang gọi điện cho cô bạn gái Leila. Chiếc xe hơi Nhật mua lại của người bạn liên tục đem tới đủ loại lo âu; khiến anh cảm giác mình đang lái một chiếc xe bị quỷ ám. Rắc rối bắt đầu vào cái ngày anh nhận được tin ông bố sáu mươi lăm tuổi của anh sẽ cưới vợ lẽ, và để thỏa mãn thói đỏng đảnh của cô vợ mới, ông sẽ bán căn hộ gia đình. Anh tìm cách ngăn cản đám cưới và không ngần ngại lập ra các mưu mẹo, ngày càng quái đản, thậm chí đề nghị cả nàng Leila dịu dàng và vô tội tới điều tiết cơn khát tình dục của người cha... Rachid El-Daif mổ xẻ xã hội Libăng đương đại bằng một ngòi bút mạnh mẽ mà hài hước hiếm có, mở một cánh cửa vào cuộc sống nội tâm phức tạp của giới trẻ Libăng - đất nước Âu hóa bậc nhất trong thế giới Hồi giáo. *** Rachid El-Daif là một tác giả người Lebanon, viết bằng tiếng Ả Rập. Ông đã được dịch sang nhiều ngôn ngữ, bao gồm tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Bồ Đào Nha, tiếng Ba Lan, tiếng Thụy Điển, tiếng Hà Lan, tiếng Ý, tiếng Hy Lạp, tiếng Nhật và tiếng Việt. Lần đầu tiên tôi gặp Rachid El-Daif là vào một ngày mùa thu cách đây gần hai năm. Tháp Eiffel mờ sau mưa bụi. Chúng tôi ăn trưa trong một quán nhỏ ven sông Seine cùng một người bạn chung. Lần đầu tiên được làm quen một tác giả Liban, tôi vô cùng háo hức, như thể đã đợi cuộc gặp gỡ này từ lâu lắm rồi. Văn chương Hồi giáo với tôi cho tới khi ấy là một vũ trụ hoàn toàn xa lạ, có cảm giác không thể không lạc lối nếu thiếu người bản xứ dẫn đường. Ấy vậy mà, cho tới giữa bữa ăn, cả văn chương lẫn Hồi giáo đều không phải là chủ đề được đẩy về phía trước như tôi tưởng. Tôi đã thử đề cập. Tôi gợi đến Kamel Daoud, người vừa nhận giải Goncourt cho tiểu thuyết thuyết đầu tay cách đó vài ngày. Tôi bàn về chuyện vượt biển của di dân Syria đang rất thời sự. Nhưng người đàn ông vóc dáng thanh mảnh dù đã bước sang tuổi thất thập ngồi trước mặt tôi tỏ ra chỉ quan tâm tới món cá thờn bơn không hiểu hấp hay nướng mà người ta vừa mang ra cho ông. Lọc xương cá một cách tài tình bằng dao và dĩa, ông bảo cuối bữa sẽ xin bồi bàn cách nấu để dạy lại bà bếp của ông ở Beyrouth. Chà, nhà văn thời nay mà có người phục vụ cơm nước! Tôi liền nói với ông rằng tất cả các tác giả Việt Nam mà tôi quen hay không quen đều là những tay bếp cừ khôi, còn các tác giả Pháp đương đại thì hầu như đã trở thành những kẻ tiêu thụ đồ hộp kỷ lục, một bên để đưa ẩm thực Việt ra thế giới, một bên để rút ẩm thực Pháp khỏi văn chương. Rachid nghe xong thì phá lên cười, một nụ cười phóng khoáng kèm tia nhìn láu lỉnh và cũng thật bình thản mà sau này tôi nhận ra là rất đặc trưng của ông. Cuối cùng, chính con cá thờn bơn đã cho tôi cái cớ để mở đầu câu chuyện có tính riêng tư hơn. Rachid El-Daif sinh năm 1945 ở Zgharta, một vùng núi cao của Liban, trong một gia đình đông con và bình dân, mẹ ông một thời gian dài thậm chí còn mù chữ. “Tôi luôn chọn những cách biểu đạt giản dị nhất có thể, cô đoán tại sao không?” Rachid hỏi, rồi trong khi tôi còn lúng túng chưa tìm được cách trả lời thì ông nheo mắt tinh nghịch: “Cho tới khi qua đời, mẹ tôi đã đọc hết những gì tôi viết trước đó.” Tôi im lặng, nhớ ra rằng mẹ của chính tôi, một kỹ sư nông lâm, không bao giờ vượt qua nổi chục trang đầu bất cứ cuốn tiểu thuyết nào của tôi nhưng luôn có chiều hướng khuyên tôi nên viết như những tác giả mà tôi cũng không bao giờ vượt qua nổi chục trang đầu. Vâng, lúc ấy tôi im lặng không đáp lại lời Rachid, nhưng vài ngày sau, khi bắt tay vào dịch Cho xem đùi nào, Leila!, tôi mới choáng váng nhớ lại câu nói kia của ông. Thật khó lòng tưởng tượng mẹ ông, một phụ nữ Hồi giáo lớn tuổi, vừa thoát nạn mù chữ, lại có thể bỏ chiếc mạng truyền thống sang một bên mà đọc những trang viết tràn đầy tự do như thế, cho dù tính hài hước đã được tác giả găm gài rất nhiều để người đọc thường xuyên được phá lên cười thay vì nhíu mày, nhăn trán. Cặp nhân vật chính – hai người đàn ông – được gắn kết với nhau bằng mối quan hệ gia đình mật thiết, nhưng lại bị chia rẽ nặng nề bởi những quan niệm đối lập về tình dục, trách nhiệm và... nàng Leila. Ông bố, sau cái chết của vợ, khao khát làm lại cuộc đời bằng cách cưới một phụ nữ khác, không cần đẹp, không cần trẻ, không cần cả nhu mì, nhưng nhất thiết phải bảo đảm cho chồng một cuộc sống tình dục bền vững, và để đổi lại, ông sẵn sàng chiều lòng người vợ tương lai, thậm chí đồng ý có con ở tuổi lục tuần. Ngược lại, cậu con trai, một thanh niên thành công và quyến rũ, thừa sức có một cuộc sống tình dục bền vững, nhưng chỉ chọn lên giường với các phụ nữ xinh đẹp, và nhất quyết không đánh đổi vui thú bằng bất cứ cái gì, không nhận trách nhiệm trước bất kỳ ai, mối quan tâm lớn nhất là xe hơi và đô-la. Nàng Leila dạn dày mà ngây thơ, bình dân nhưng ưa hàng hiệu, sẽ chen chân như thế nào vào những mâu thuẫn vốn đã chồng chất giữa hai người đàn ông – một già và một trẻ, một rộng lượng và một ích kỷ, một ham sống và một hủy diệt? Có phải cũ bao giờ cũng đồng nghĩa với xấu xa, còn mới với tốt đẹp? Bằng văn phong tao nhã, hiện đại và phóng khoáng, Rachid El-Daif đã mở một cánh cửa vào xã hội Liban vốn được coi là Âu hóa bậc nhất trong thế giới Hồi giáo nhưng vẫn mang trên mình những vết thương chiến tranh và giới hạn tín ngưỡng. Tuy thế, qua sự nghiệp gồm ba tập thơ và hàng chục tiểu thuyết, tôi tin rằng đóng góp lớn nhất của ông không nằm ở chỗ ông dám tấn công những thói giả dối, những xung đột về giới, những bất bình đẳng giữa các tầng lớp xã hội, mà là ở chỗ ông dám tấn công lối dùng ngôn ngữ văn chương phức tạp, bóng bảy và hùng biện, bằng cách tối giản các hình thức biểu đạt, ngôn từ, cấu trúc, ngữ pháp, hình ảnh... Và ông đã làm với tài năng, kiến thức, trong đó có những hiểu biết sâu sắc đến từ Pháp văn hiện đại được ông coi như ngôn ngữ thứ hai, nhưng trên hết là với niềm say mê mà ông nợ ở thi ca, thể loại ông đã buộc phải khước từ để nộp mình trọn vẹn cho tiểu thuyết. Với tất cả những nỗ lực ấy, Rachid El-Daif xứng đáng được đứng vào danh sách những cây bút hàng đầu của nền văn chương Ả-rập.   Mời các bạn đón đọc Cho Xem Đùi Nào, Leila của tác giả Rachid El-Daif.
Vô Hồn - Chuyện Về Một Người Không Chân Chính - Sergey Minaev
Vô Hồn - Chuyện Về Một Người Không Chân Chính: Tác giả đã vẽ nên một bức tranh tổng thể về những con người trẻ tuổi, thế hệ 7X của giới thời thượng bằng tính từ ngắn gọn: Vô hồn. Nhiều nhà phê bình văn học đã so sánh " Duhless " với tác phẩm " Người anh hùng thời đại " của Mikhai Lermontov (The times - Anh ) Cuốn sách kể về số phận của một giám đốc kinh doanh thuộc thế hệ 7X làm việc cho một tập đoàn tư bản. Công việc trong văn phòng, các mối quan hệ với cấp trên, những cuộc mây mưa với nhân tình và cuộc sống về đêm của đám người Nga mới.... Danh mục những " gánh nặng " của giới trẻ thời thượng khá ấn tượng đối với độc giả trẻ tuổi: nốc rượu tuý luý ở các nhà hàng, nơi mà một chai rượu giá không dưới 1.000 dollar Mỹ, toilet vói bồn rửa mặt mạ vàng, nơi có thể chơi thuốc lắc mệt nghỉ mà không bị sợ kiểm soát, những cuộc vui trác táng, dâm loạn với đám cave, những đêm dật dờ của đám " xăng pha nhớt ", bọn chó cũng " thời thượng " như chủ và vô số thứ không có linh hồn khác. (Theo Ria Novosti) Duhless là một từ ghép của Duh - tiếng Nga (tâm hồn) và less - tiếng Anh ( không có, thiếu) và được dịch là vô hồn, không hồn. Nhân vật chính là một tay chơi không có tên, một " cổ cồn trắng " mẫn cán nhưng chán trường...., một con người tồn tại như cỗ máy trong một thế giới mà bất cứ thứ gì cũng có thể đem ra mua bán, đổi chác, kể cả tình cảm. Thế giới trở nên phức tạp trong con mắt của nhân vật, tuy nhiên, nền tảng cuộc sống thì vẫn vững chải như ngàn đời nay. Và cuộc đấu tranh chống lại những thói ăn chơi thời thượng này cũng chỉ là một cách gọi khác đi trong ý thức của người dân thời Xô Viết đối vời cuộc chiến chống lại những ham muốn thú vui vật chất...... Nhân vật của Minaev đang chiến đấu chống lại cái gọi là " văn hoá vũ trường " trong nỗ lực níu kéo lại phần " người " của mình trước những thói hư tật xấu của đám " xác ướp ". *** Không phải văn chương, cũng không phải do xuất thân của tác giả, doanh nhân kiêm nhà báo Sergey Minaev, mà chính những hiện thực tàn nhẫn của nước Nga đầu thế kỷ 21 buộc người ta phải đọc tập sách này. Giống như tự truyện với nhân vật xưng Tôi, câu chuyện bắt đầu từ một quán cà phê thời thượng của Moskva, nơi "có rất nhiều gái điếm giả nai đóng vai những thiếu nữ thủ đô ngây thơ ngơ ngác và vô số các con nhà lành thủ đô không hiểu tại sao lại thích giả điếm". Những nhân vật trong sách chỉ quan tâm đến các tạp chí, rượu, xe hơi xịn, cửa hàng thời trang cao cấp, nhà hàng, quán bar, vũ trường, văn hóa DJ, performance, tivi, và cuối cùng là tình dục, thứ tình dục thừa cặn sau một ngày đắm chìm trong men rượu và ma túy. Tôi chỉ mới hai chín tuổi, đã bốn năm là giám đốc kinh doanh của một công ty kinh doanh đồ hộp Pháp vào Nga, một công ty ra đời bởi những người "một đêm có thể nướng hết hai nghìn đô nhưng hôm sau lại có thể kiếm ra năm nghìn mà chẳng biết tại sao". "Với mức lương ngất ngưởng và tiền thưởng hàng năm hậu hĩnh" nhưng Tôi lại có cái nhìn hết sức cay độc: giám đốc kinh doanh "là một biến thể hiện đại của loại điếm cao cấp, vừa phải chiều chuộng đám chủ luôn yêu cầu doanh số quá cao, vừa phải làm hài lòng nhân viên cấp dưới...". Với tâm thế như vậy, Tôi vừa tham gia tích cực vào mọi hoạt động hưởng lạc của "nhóm" mình: "một cõi đầy ắp khoái cảm nhục dục với đám gái làng chơi, với thứ nước giải sầu cay cay, với thứ ma túy phiêu linh và nhạc dậm dật chốn vũ trường" lại vừa âm thầm phỉ nhổ nguyền rủa chúng. Mỗi thành viên như Tôi đều đánh mất sự tự tin, bị bao vây và lệ thuộc vào các giá trị mới du nhập, và xã hội Nga cứ thế mà phân hóa một cách mục rã. Kẻ nào nhìn ra bản chất của xã hội ấy và có đủ độ lưu manh cần thiết đều có thể trục lợi một cách dễ dàng. Sáng kiến kinh doanh của Misa mới trở về từ New York: "Hãy vẽ cho họ ý tưởng cầu kỳ nhất, món ăn vớ vẩn nhất với giá trên trời nhất... Hãy cho họ những đêm giải trí ngu xuẩn nhất. Và họ sẽ tự mang tiền đến cho cậu". Chán chường đám thị dân Moskva chỉ đua đòi ăn chơi và hoàn toàn vô can, vô cảm với cả quá khứ lẫn tương lai nước Nga, Tôi lại càng ngán ngẩm trước kiểu gồng mình tự tôn của những người bạn - công dân Peterbourg. Cuộc đối thoại dài của hai nhân vật đang say cần sa chính là chủ đề của tập sách: ai sẽ là người cứu chuộc nước Nga và nhân dân Nga? Bởi quan niệm của người bạn Peterbourg lại quá luẩn quẩn: "Chúng tớ ở đây toàn dân trí thức, còn ở chỗ các bác rặt những lũ đầu cơ... Xung quanh chúng tớ toàn là những tượng đài lịch sử, trong khi chỗ các bác lại chỉ rặt những nhà hàng hay vũ trường...". Liệu có thể tin cậy, hy vọng gì vào những con người như thế? "Có lẽ sự hồi chuyển của các xác ướp trong nhiều cuộc chơi bời nhậu nhẹt đã làm tiêu tan hoàn toàn trong con người tôi khả năng giao tiếp với những người bình thường rồi". Đó là ý thức về sự bất lực của Tôi, khi yêu Julia mà không biết cách nào để bày tỏ. Và cuối cùng Tôi đã làm hỏng mọi thứ, đánh mất luôn mối quan hệ duy nhất có thể cứu mình, trả mình lại cho thế giới con người từ thế giới xác ướp. Tôi muốn kêu cứu, muốn báo động rất nhiều thứ với rất nhiều người nhưng hình như tất cả đều đang mơ hồ, cả về chỗ đứng của mình lẫn chỗ đứng của cộng đồng: "Trong khi chúng ta đang loay hoay đẻ trứng thì trên đất nước chúng ta đã xuất hiện những chủ nhân ông mới - những kẻ thiết lập luật pháp mới... Trong cái sơ đồ tổ chức quốc gia và phân bố lợi ích, của cải được vẽ lên bởi những ông chủ mới, không có chỗ cho chúng ta. Trong khi bạn hoang phí cuộc đời mình trong rượu mạnh và ma túy, đã có ai đó kịp thay đổi tất cả...". Với câu chuyện khai thác cuộc sống thời thượng và trở thành sách best - seller, Vô hồn lại đặt ra một luận đề nghiêm túc. "Mỗi người trong chúng ta đang tự cảm thấy mình là kẻ chiến thắng, trong một quãng thời gian ngắn, mà không hiểu là có thể chiến thắng một trận đánh nhưng lại bại trận trong cả cuộc chiến tranh". Công dân Sergey Minaev đã phát ngôn như thế, qua nhân vật chính, Tôi. Ngô Thị Kim Cúc Mời các bạn đón đọc Vô Hồn - Chuyện Về Một Người Không Chân Chính của tác giả Sergey Minaev.
Người Vợ Paris - Paula McLain
Với nội dung về thời điểm những năm 1920 của cuộc gặp gỡ của Hadley Richardson với văn hào Ernest Hemingway tại Paris, Người vợ Paris đã tái hiện lại thời khắc đáng nhớ và cuộc tình sét đánh mau chóng đi đến hôn nhân của hai người chênh lệch tuổi tác. Hơn Hemingway 8 tuổi, Hadley đã ở bên văn hào này khi ông bắt đầu theo đuổi nghiệp văn chương. Họ đã trở thành cặp đôi vàng của giới viết lách Paris khi châu Âu vừa qua khỏi cuộc Thế chiến thứ I. Tiểu thuyết cũng khắc họa mối quan hệ của họ với một nhóm văn sĩ nổi danh tạo nên một “thế hệ mất mát” như Gertrude Stein, Ezra Pound và F. Scott Fitzgerald. Mặc dù yêu nhau say đắm, nhưng vợ chồng Hemingway phải đối diện với những khủng hoảng của hôn nhân trong những năm tháng “hội hè miên man” của Paris, nhạc Jazz và rượu mạnh. Câu chuyện gây chú ý bởi đã bám sát những dữ kiện đời thực của Hadley Richardson và đưa ra cách quan sát từ góc nhìn người vợ của một văn hào được mệnh danh là cây bút có ảnh hưởng nhất trong văn học thế giới hiện đại.  “McLain đã viết nên một chân dung đẹp đẽ về việc sống ở Paris vào những năm 1920 hào nhoáng – trong vai trò một người vợ và người đàn bà của một nhân vật đình đám.”  - Entertainment Weekly  *** Cuốn tiểu thuyết Người vợ Paris giống như một hồi ký của Hadley Richardson - người vợ đầu của Hemingway. Truyện được viết dựa trên những tài liệu có thật về giai đoạn cặp vợ chồng sống tại Paris qua cái nhìn của người vợ. Câu chuyện bắt đầu tại Chicago, Mỹ năm 1920, Hadley là cô gái 28 tuổi, sống khép kín và gần như lỡ thời. Cô là con gái út trong một gia đình có cha tự vẫn. Cô phải tự tay chăm nom người mẹ đau yếu cho tới khi bà qua đời. Hadley gần như không còn hy vọng nào về tình yêu hay hạnh phúc gia đình.  *** Khi cuốn tiểu thuyết Mặt trời vẫn mọc (The Sun Also Rises) ra đời, Hemingway đã có chút ít tiếng tăm; còn Hadley vẫn giữ vai trò người vợ, điểm tựa của ông. Người đàn ông mà bà nghĩ "đầy trách nhiệm và cuốn hút hơn bất cứ ai" đã phải lòng một biên tập viên thời trang. Pauline, biên tập viên cho tạp chí Vogue, làm bạn với Hadley và yêu cầu một quan hệ mở: Ernest vừa có vợ, vừa có tình nhân. Có thời gian cả ba sống chung trong một nhà. Tới năm 1927, Hadley bằng lòng ly dị, với bà tình yêu đã không còn thì chẳng khác gì sống trong một thành phố bỏ hoang.  Kết hợp giữa hiện thực và hư cấu, Paula Mclain đã dựng nên chân dung một Hadley Richardson như một phụ nữ Mỹ tử tế nhất. Bà nhìn rõ, thấu hiểu những thói xấu bên trong con người chồng mình.  Thực tế cho thấy, sau khi ly hôn, Hadley đi bước nữa và có cuộc sống hạnh phúc, nhưng bà vẫn cho rằng Ernest là hoàng tử của lòng bà, và thời kỳ ở Paris vẫn là giai đoạn đẹp nhất. Bà đã trả lời trong một cuộc phỏng vấn: "Đời sống lúc đó đơn giản, khó khăn mà có hạnh phúc. Đó là thời kỳ mà Ernest hoàn hảo nhất. Tôi có chàng, và chàng có tôi. Chúng tôi đã mang lại cho nhau những gì tốt đẹp nhất". Hemingway sau Pauline còn có thêm hai người vợ nữa. Trong cuốn hồi ký Hội hè miên man (A Moveable Feast), tác phẩm cuối cùng của Hemingway, ông đã viết về giai đoạn sống ở Paris, về Hadley. Và tác giả đoạt giải Nobel viết: "Tôi thà chết còn hơn yêu ai, ngoài Hadley". Như vậy ở cuối đời, qua bao thăng trầm, trải qua mối quan hệ cùng ba người vợ khác và bao tình nhân, Hemingway mới nhận ra rằng, Hadley là người ông yêu và ông đã thật sự mất bà. *** Paula McLain là tác giả của hai tập thơ, một hồi ký và hai tiểu thuyết. Tác phẩm Người vợ Paris ra mắt đầu năm 2011 tại Mỹ, nằm trong danh sách bán chạy của tờ The New York Times.    Mời các bạn đón đọc Người Vợ Paris của tác giả Paula McLain.