Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Scarlett - Hậu Cuốn Theo Chiều Gió

Nếu các bạn đã từng say mê bộ Cuốn Theo Chiều Gió của nhà văn Margaret Michell hẳn sẽ không thể bỏ qua bộ Scarlett - Hậu Cuốn Theo Chiều Gió để xem câu chuyện sẽ được tiếp diễn ra sao? A.Ripley, một nhà văn nữ đã lọt vào vòng chung kết và bản thảo của bà được Hội đồng chấp nhận. Trên nhiều mặt, Hậu Cuốn Theo Chiều Gió đã phát triển được một cách nhuần nhuyễn bộ Cuốn Theo Chiều Gió của M.Michell, nhưng cũng có những mặt A.Ripley phát triển gần với văn học hiện đại hơn. Điều này phù hợp với xu hướng chung của bạn đọc trên toàn thế giới. Trở lại Tara... Trở lại với Scarlett và Rhett... Trở lại với câu chuyện tình lãng mạn và tuyệt vời nhất của mọi thời đại. Scarlett - Hậu Cuốn Theo Chiều Gió của Alexandra Ripley lập tức gây xôn xao văn đàn, làm mê hoặc độc giả toàn tếh giới và lập kỷ lục mới - 2 triệu bản in được bán hết ngay trong lần xuất bản đầu tiên *** Sau 12 năm tìm kiếm, 3 tác giả chấp bút và một bản thảo bị loại bỏ, cuốn tiểu thuyết hậu “Cuốn theo chiều gió” cuối cùng cũng chính thức được lựa chọn. “Rhett Butler’s People” - tác phẩm tiếp nối kiệt tác văn học của Margaret Mitchell - sẽ được xuất bản tại Mỹ vào tháng 10 tới. Không chỉ là phần tiếp theo đơn thuần, cuốn sách mới của Donald McCaig - do St. Martin xuất bản - chính xác hơn là một Cuốn theo chiều gió được kể lại từ điểm nhìn của Rhett Butler. Donald McCaig vốn là tác giả xuất thân từ nghề chăn cừu ở Virginia. Trước đây, ông từng viết quảng cáo và đã xuất bản nhiều tiểu thuyết viết về Nội chiến Mỹ được giới phê bình đánh giá cao. Với dung lượng nhỉnh hơn 400 trang, Rhett Butler’s People chỉ là một mẩu nhỏ so với bản chính hơn nghìn trang của Mitchell. Bối cảnh cuốn sách diễn ra từ 1843 đến 1874, dài hơn gần 2 thập kỷ so với Cuốn theo chiều gió. Độc giả sẽ được biết tường tận về quãng đời thơ ấu của Rhett Butler tại một nông trại, quan hệ của anh với cô gái điếm Belle Watling, những trải nghiệm của anh trong vai kẻ trốn chạy khỏi vùng đất phong tỏa ở Charleston, Bắc Carolina. Trên hết, người đọc sẽ được khám phá những suy nghĩ diễn ra trong đầu óc Rhett khi anh gặp và tán tỉnh Scarlett O’Hara trong một trong những mối tình nổi tiếng nhất mọi thời đại. Xuất bản Rhett Butler’s People, St. Martin sẽ có cơ hội trang trải số tiền 4,5 triệu USD mà họ phải trả cho những người thừa kế di sản Mitchell để có tác quyền xuất bản cuốn sách. NXB cho rằng cuốn sách có triển vọng lớn về mặt thương mại. Họ lên kế hoạch in tới một triệu bản trong đợt phát hành đầu tiên. Sinh thời, Margaret Mitchell đã kiên quyết từ chối những lời đề nghị viết phần tiếp theo của cuốn sách. Khi Scarlett, một Cuốn theo chiều gió II của Alexandra Ripley, ra mắt năm 1991, đó thực sự là một quả bom tấn với 6 triệu bản được bán ra. Nhưng Ripley phải hứng chịu những lời chỉ trích gay gắt. 5 năm trước đó, những người thừa kế di sản của Mitchell cũng đã không thể ngăn chặn được việc xuất bản cuốn tiểu thuyết hậu Cuốn theo chiều gió không chính thức của Alice Randall. Tác phẩm này viết theo lối nhại phong cách của Mitchell, được kể từ điểm nhìn của một người nô lệ - con bà vú Mammy, người bảo mẫu thương yêu của Scarlett. Lần này, Paul Anderson Jr., một trong ba luật sư bảo hộ quyền lợi cho những người thừa kế di sản Mitchell, khẳng định: “Điều chúng tôi trông đợi nhất là một tác phẩm có chất lượng văn học cao, có giá trị, chứ không chỉ là một con gà đẻ trứng vàng”. Bản thân quá trình tìm kiếm tác giả xứng đáng làm người kế nhiệm Margaret Mitchell là cả một câu chuyện hấp dẫn. Khởi đầu năm 1995, khi Emma Tennant, tiểu thuyết gia người Anh, tác giả phần tiếp theo cuốn Kiêu hãnh và định kiến của Jane Austen, bắt đầu ký hợp đồng viết Cuốn theo chiều gió II. Bản hợp đồng này yêu cầu Tennant phải trung thành với giọng điệu, điểm nhìn và nhân vật của Mitchell. Tennant cũng không được phép đưa vào tác phẩm những trang viết đề cập đến vấn đề tình dục hoặc hôn nhân giữa những người đồng giới. Tuy nhiên, bản thảo 575 trang của Tennant bị chê là quá nhiều chất Anh và vì thế bị NXB loại bỏ và cấm xuất bản vĩnh viễn. Kẹt vì không tìm thấy tác giả thích hợp, NXB St. Martin và những người thừa kế đã tìm đến Pat Conroy, tiểu thuyết gia nổi tiếng với cuốn The Prince of Tides và từng viết lời giới thiệu cho Cuốn theo chiều gió trong lần tái bản kỷ niệm 60 năm ngày ra đời cuốn sách. Những cuộc thương thảo hợp đồng đầy căng thẳng lại tiếp tục. Lo lắng trước việc các luật sư có thể hạn chế tự do của mình bằng những quy định như đã đề ra với Tennant, Conroy “rào trước” bằng câu nói đùa: ‘Tôi sẽ mở đầu cuốn sách bằng câu sau: ‘Làm tình xong, Rhett quay sang Ashley Wilkes và nói: ‘Ashley, tôi đã bao giờ kể với anh rằng bà tôi là một người da đen chưa nhỉ?”. - Margaret Mitchell và quá trình viết 'Cuốn theo chiều gió' Ông Anderson - con trai của vị luật sư có mặt trong cuộc thảo luận hợp đồng với Conroy - cho biết, NXB và đại diện của những người sở hữu tác quyền không bao giờ gây sức ép đối với nhà văn: “Mọi người đều hiểu rằng, không có tình huống nào trong cuộc họp thể hiện việc cấm đoán ông miêu tả quan hệ hôn nhân hoặc những cảnh sex đồng giới cả”. Nhưng theo trí nhớ của Conroy thì mọi việc lại diễn ra theo hướng ngược lại. Trong một cuộc phỏng vấn, nhà văn kể, các luật sư đã không ngừng ngăn ông viết về đề tài tình yêu, tình dục đồng giới hoặc không được để nhân vật Scarlett O’Hara phải chết. Cuối cùng, Conroy rút lui khỏi cuộc thảo luận vì ông sợ quyền tự do sáng tác của mình không được đảm bảo. 4 năm sau, Sally Richardson và giám đốc NXB St. Martin Hope Dellon lại bắt đầu tìm kiếm một ứng viên khác. Một lần, Dellon bước vào một cửa hàng sách và nhìn thấy cuốn Jacob’s Ladder – một tiểu thuyết về Nội chiến của McCaig. Bà hứng thú với cuốn sách và cho mời McCaig đến. McCaig cho biết, ông chưa từng đọc Cuốn theo chiều gió, nhưng khi đọc xong, ông thực sự bị mê hoặc. Ngay từ khi nhận được lời mời chấp bút viết phần 2 cuốn sách, nhà văn đã biết, ông sẽ kể câu chuyện của mình từ điểm nhìn của Rhett Butler. McCaig từ chối tiết lộ số tiền mà ông nhận được từ di sản Mitchell khi ký hợp đồng này. Nhà văn dành ra 6 năm để nghiên cứu và viết. Ông đào xới tư liệu lịch sử và đến tận những con thuyền ở cảng Charleston để hình dung ra cảnh Rhett tìm cách thoát khỏi vòng phong tỏa của lực lượng hải quân trong cuộc nội chiến Bắc – Nam. Anne, vợ ông, đã vạch ra một đề cương dài 100 trang ghi lại những chi tiết chính của Cuốn theo chiều gió. Nhờ đó, nhà văn có thể theo dõi dòng chảy của cuốn tiểu thuyết gốc. Cuối cùng, cuốn sách cũng hoàn thành và được nộp cho luật sư và NXB. Anderson cho biết, rút kinh nghiệm từ những hợp đồng trước với Tennant và Conroy, họ đã cố không can thiệp quá sâu vào nội dung tác phẩm. McCaig nhất mực từ chối tiết lộ cốt truyện Rhett Butler’s People. Nhưng ông cho biết, tác phẩm mở đầu bằng cuộc đọ kiếm giữa Rhett và anh trai của Belle Watling, Shadrach. Hà Linh trích dịch (Nguồn: nytimes) *** Dịch từ bản tiếng Pháp của dịch giả CAROLINE AUCHARD, do Nhà xuất bản PIERRE BELFOND ấn hành, có tham khảo nguyên bản tiếng Anh của Alexandra Ripley, Nhà xuất bản WARNER BOOKS Dịch giả: Khắc Thành, Thanh Bình, Anh Việt Lời nhà xuất bản Năm 1987, Nhà xuất bản Văn học bắt đầu cho ra mắt bạn đọc bộ "Cuốn theo chiều gió" của nhà văn Margararet Mitchell. Bản dịch của Dương Tường.  Đây là một bộ sách lớn không phải chỉ của nền văn học cổ điển Mỹ mà ý nghĩa của nó đã vang rộng trên toàn thế giới. "Cuốn theo chiều gió" của Margaret Mitchell thực sự đã trở thành tài sản của mọi người trên hành tinh chúng ta. Nó được in đi, in lại nhiều lần ở nhiều nước khác nhau. Và ở Việt Nam, số lượng in lần đầu tiên lên đến con số kỷ lục hồi ấy: 60.000 bản.  Năm nay, trong kế hoạch của mình, thông qua Cục xuất bản cho phép in bộ "Hậu cuốn theo chiều gió" A. Ripley một nhà văn nữ đã lọt vào vòng chung kết và bản thảo của bà được Hội đồng chấp nhận. Trên nhiều mặt: "Hậu cuốn theo chiều gió" đã phát triển được một cách nhuần nhuyễn bộ "Cuốn theo chiều gió", của M. Mitchell nhưng cũng có những mặt A. Ripley phát triển gần với văn học hiện đại hơn. Điều này phù hợp với xu hướng chung của nguởi đọc hiện nay. Và thực chất nó đã thu hút mạnh mẽ bạn đọc của toàn thế giới. Tất nhiên, cũng không phải không có những độc giả không hàì lòng với bộ "Hậu cuốn theo chiều gió" của A. Ripley. Nhung đấy là số ít, không đáng kể so với con số triệu triệu độc giả đang háo hức chào đón nó. Lần này chúng tôi mời một số nhà dịch thuật trẻ, đã từng dịch qua nhiều bộ sách có giá trị, đã được nhiều nhà xuất bản ấn hành. Mặc dù vậy, chúng tôi vẫn thận trọng và quyết định mời giáo sư Lê Trí Viễn, giáo sư Huỳnh Lý cùng với nhà dịch thuật quen thuộc với bạn đọc cả nước ông Hồng Điểu hiệu đính. Ba học giả này đã làm việc công phu và rất thẳng thắn. Bản dịch lần này theo bản tiêng Pháp, có tham khảo bản tiếng Anh. Mặc dù làm việc hêt sức cẩn thận, tỉ mỉ, chúng tôi vẫn chưa thể nào coi đây là một bản dịch hoàn hảo. Chắc chắn bản dịch sẽ còn nhiều sơ sót. Nhà xuất bản rất mong nhận được những đóng góp của tất cả mọi độc giả để lần tái bản sau bản thảo được hoàn thiện hơn. Một lần nữa Nhà xuất bản xin chân thành cảm ơn sự quan tâm giúp đỡ chân tình của độc giả lâu nay vốn yêu mến Nhà xuất bản. Nhà xuất bản Văn Học, Hà nội, 2004 *** Mọi việc rồi sẽ sớm kết thúc thôi và ta có thể trở về nhà, ở Tara. Scarlett O Hara Hamilton Kennendy Butler đứng tách riêng một mình, cách vài bước những người, cũng như nàng, đã đến dưới cơn mưa tầm tã, để tiễn đưa Mélanie Wilkes. Dưới những chiếc ô cũng một mầu đen, những người đàn ông đàn bà mặc đồ đen đứng nép vào nhau, sụt sùi khóc chia nhau chỗ trú mưa cùng nỗi đau đớn. Scarlett chẳng chia ô và niềm đau với một ai cả. Gió cứ từng cơn giật mạnh dưới chiếc ô, hắt một thứ nước lạnh buốt chảy dọc suốt cổ nàng, song nàng vẫn không hề hay biết. Tê dại trước sự mất mát vừa nếm trải, nàng cảm thấy trống rỗng. Nếu có thể chịu đựng được đau đớn này nàng sẽ khóc ngất. Còn giờ đây, nàng như mất trí, không cảm được cả nỗi đau, cảm xúc và suy nghĩ. Trong tâm trí nàng, chỉ luôn vang lên lời cầu mong có chút sức tàn để sống cho đến ngày nỗi đau dịu bớt đi. Mọi việc rồi sẽ sớm kết thúc thôi và ta có thể trở về nhà, ở Tara, và tro bụi sẽ trở về với tro bụi, cát bụi sẽ trở về với cát bụi… Giọng vị mục sư thấm tận cõi lòng tê tái của nàng và Scarlett thấu hiểu lời ông ta. Không! Nàng kêu lên không thành tiếng. Không thể là Melly được. Không phải là ngôi mộ của Melly, cái huyệt thì quá lớn còn Melly lại quá nhỏ bé, nắm xương của nàng nào có hơn gì xác một con chim. Không! Melly không thể chết, không thể chết được. Scarlett giật thót người quay ngoắt đi không dám nhìn cái miệng huyệt đang tông hốc đón lấy chiếc quan tài đơn sơ bằng gỗ thông được thả xuống. Tiếng búa nện chan chát hằn những vệt tròn lồ lộ quanh các lỗ đinh trên nắp quan tài đóng chặt, không thể nào nhìn thấy khuôn mặt dễ thương và dịu hiền của Mélanie đâu nữa. Không! Các người không thể làm thế được. Trời đang mưa. Các người không thể đặt nàng nằm đó, cơn mưa này sẽ phủ ngập nàng mất. Nàng đang rét buốt xương mà, không thể bỏ nàng dưới cơn mưa lạnh lẽo này được. Ta không thể nhìn, không thể chịu đựng được điều ấy, ta không thể tin rằng nàng lại từ bỏ chúng ta. Nàng yêu ta, nàng là bạn của ta, là tri kỷ của ta. Melly yêu ta, nàng sẽ không bỏ ta vào lúc ta cần đến nàng nhất. Scarlett đưa mắt nhìn đám người đứng chung quanh ngôi mộ và nàng bỗng giận sôi lên. Không ai trong đám họ yêu nàng hơn ta, không một ai trong đám họ mất mát nhiều như ta. Không ai biết ta yêu nàng đến nhường nào. Ngoại trừ… Melly phải không? Nàng biết điều ấy, ta tin là nàng biết rõ điều đó. Mời các bạn đón đọc Scarlett - Hậu Cuốn Theo Chiều Gió của tác giả Alexandra Ripley & Khắc Thành (dịch) & Thanh Bình (dịch) & Anh Việt (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tiền - Thư Tuyệt Mệnh
Đúng như nhan đề, tác phẩm kinh điển ra đời năm 1984 này là câu chuyện về tiền, những kinh khủng mà tiền gây ra, những tai ương mà tiền mang lại. Nhân vật trung tâm là John Self, kẻ đã sống một đời không tiết chế. Qua lại giữa London và New York, hắn thương thảo hợp đồng, tiêu xài vung tay và thực hiện những thương vụ liều lĩnh trong thế giới phim ảnh, đồng thời quơ cào mọi thứ có thể để thỏa mãn cho khẩu vị vô độ của mình: rượu, thuốc lá, thuốc an thần, văn hóa phẩm đồi trụy, thức ăn nhanh cùng vô số thứ tàn hại sức khỏe. Được kể theo lối độc thoại và gần như không có cốt truyện, tác phẩm vẫn chiếm vị thế nổi bật bởi những phẩm chất không dễ gặp: sắc sảo lộng óc, khôi hài cùng cực và lạc quan sâu sắc. Martin Amis từng cho rằng thước đo duy nhất để xác định thành công của một nhà văn là họ có còn được đọc sau 50 năm hay không. Đến nay, 33 năm kể từ lần xuất bản đầu tiên, Tiền - Thư tuyệt mệnh vẫn chia sẻ với độc giả những mối quan ngại đương thời sâu xa. Từ thời điểm ra đời, tác phẩm được xếp vào top 100 cuốn tiểu thuyết tiếng Anh hay nhất kể từ năm 1923. *** Trong tiểu thuyết Tiền, Jonh Self là kẻ kể chuyện, chính xác là lảm nhảm những câu chuyện trời ơi đất hỡi của hắn với đầy đủ những trạng huống hỉ, nộ, ái, ố... đẩy người đọc vào một vòng tròn vòng vèo, xoay quanh cuộc di chuyển của hắn giữa London và New York. Trong Tiền, John Self là kẻ theo đuổi đam mê cá nhân với sự quan tâm thấp hoặc không hề có đối với cộng đồng rộng lớn, kéo mình qua một chu kỳ tích lũy, tiêu dùng và cuối cùng là sự thỏa mãn – mô hình hoàn hảo cho một người đàn ông trưởng thành trong thời buổi hàng hóa. Bản thân John Self là một người đàn ông được nuôi nấng trên nền văn hóa tiêu dùng, với những câu chuyện nhảy từ ý nghĩ này sang ý nghĩ khác một cách vô tội vạ, và anh ta dường như chính là kẻ có cách sống không có hệ tư tưởng nào.   Tiền là một cuốn sách châm biếm bậc thầy ở mọi thời đại, một cuốn sách hài hước tột bậc, thô tục khôn cùng, lấy cảm hứng từ một nghiên cứu tăm tối về sự cám dỗ của đồng tiền, với đầy những tham lam và phá hoại. Amis sở hữu một sự tinh tế thầm kín về ngôn ngữ. Thể hiện sự hâm mộ Nabokov một cách đầy tự tin, Amis chào Nabokov bằng một hệ thống tường thuật sự méo mó vô cùng đồ sộ và tinh xảo được tính toán rành mạch, thể hiện được phong cách làm chủ, đối thoại sắc bén và mạch lạc về ý nghĩa. Một cuốn sách đến hôm nay vẫn mang đậm hơi thở của thời đại, trong sự xoay sở trở mình vì tiền, loanh quanh những mối bận tâm vì tiền, sống chết vì tiền. Một cuốn sách vừa bủa vây, vừa thức tỉnh con người bởi vô vàn những lẫn lộn giữa thật giả xấu tốt. Tiền thành công không chỉ bởi đã tạo nên được một không khí xã hội luôn trong trạng thái thời thượng, mà hơn thế, Tiền còn giúp độc giả được thưởng thức một cuộc giao hoan chữ nghĩa, như một mê cung, để thỏa sức khám phá, để liên tục trải qua những cuộc sung sướng choáng ngợp mà chiêm ngưỡng tài năng của một bậc thầy ngôn ngữ. Nếu bạn yêu thích Nabokov, yêu thích dòng văn chương hậu hiện đại phá bỏ mọi nguyên lý cơ bản về câu chuyện, chấp nhận dấn thân vào một cuộc chơi đầy thách thức của từ ngữ, thì Tiền là cuốn sách không thể bỏ qua.  *** Martin Amis là một tiểu thuyết gia, nhà tiểu luận, người viết hồi ký và nhà biên kịch người Anh. Tiểu thuyết nổi tiếng nhất của ông là Tiền và Cánh đồng Luân Đôn. Ông đã nhận được Giải thưởng Tưởng niệm Đen James Tait cho Trải nghiệm hồi ký của mình và đã được liệt kê cho Giải thưởng Booker hai lần. Nhà văn Martin Amis, giống như Dostoevsky, quan tâm nhiều đến cách các nhân vật của ông nhìn thế giới như thế nào. Trong dòng chảy này, câu chuyện của Self phản ánh niêm tin của chính mình. John Self là cơ hội để tác giả tạo ra một cuộc đối thoại đa cấp với các quan điểm ý thức hệ khác nhau, được thể hiện trong chính độc thoại của nhân vật, hoặc giữa các cuộc đối thoại giữa các nhân vật.   Mời các bạn đón đọc Tiền - Thư Tuyệt Mệnh của tác giả Martin Amis.
Và Nơi Đây Bình Minh Yên Tĩnh - Boris Vasiliev
Và nơi đây bình minh yên tĩnh (tiếng Nga: А зори здесь тихие) là một tiểu thuyết Liên Xô của nhà văn Boris Vasilyev được xuất bản lần đầu năm 1969. Lấy bối cảnh Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại của Liên Xô, tác phẩm nói về cuộc chiến đấu ở hậu phương của một nhóm pháo thủ nữ Hồng quân nhằm ngăn cản âm mưu phá hoại của một tiểu đội lính dù Đức Quốc xã. Khi được tạp chí Thanh niên xuất bản vào năm 1969, tiểu thuyết đã ngay lập tức được độc giả đón nhận và trở thành một trong những tác phẩm văn học về đề tài chiến tranh nổi bật nhất thập niên 1960 và 1970 ở Liên Xô. Cùng với Tên anh không có trong danh sách, đây được coi là tiểu thuyết ngắn xuất sắc nhất của Boris Vasilyev nói về Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại. Bản dịch tiếng Việt của tiểu thuyết này được Nhà xuất bản Cầu vồng in chung cùng Tên anh chưa có trong danh sách với dịch giả Lê Đức Mẫn. Tác phẩm đã nhiều lần được chuyển thể thành phim điện ảnh, trong đó bộ phim cùng tên sản xuất năm 1972 đã được đại diện cho điện ảnh Liên Xô tranh Giải Oscar cho phim ngoại ngữ xuất sắc nhất. *** «… Bạn thân mến!   Ở đó bạn phải tất bật với công việc, còn chúng tôi lại ung dung đi câu cá ở một nơi thanh bình không vẩn một hạt bụi. Thực ra, tụi muỗi chết tiệt cũng có đốt, nhưng cuộc sống vẫn một màu tiên cảnh! Bạn hãy xin nghỉ phép và về đây với chúng tôi. Ở đây hoàn toàn không một bóng xe qua, một người đi lại. Mỗi tuần một lần chỉ có một chiếc xuồng máy chở bánh mì đến thôi, vì thế tha hồ mà rong chơi chả phải bận bịu gì đến quần áo. Phục vụ cho khách du ngoạn thì ở đây có hai hồ nước và một con sông đầy cá. Lại còn nấm mới nhiều nữa chứ!… À, hôm nay có một chiếc xuống máy chở đến một ông già vạm vỡ tóc bạc cụt tay và một đại uý bộ đội tên lửa. Người ta gọi đại uý là Anbert còn ông già thì đại uý gọi bằng bố. Họ đến tìm cái gì ở đây thì tôi cũng chẳng để tâm đến…   … Ngày hôm qua tôi không viết hết: sáng nay mới viết nốt. Thì ra ở đây trước kia cũng có chiến đấu… Chiến đấu khi tôi với anh còn chưa ra đời.   Anbert và người cha chở đến một tấm bia đá cẩm thạch. Chúng tôi tìm thấy một nấm mộ trong rừng bên kia sông. Bố ông đại uý nhận ra nhờ những dấu hiệu riêng. Tôi muốn giúp họ mang tấm bia vào tận nơi nhưng lại không dám.   Bình minh nơi đây thật là yên tĩnh, mãi hôm nay tôi mới nhìn ngắm kỹ càng». *** Boris Vasiliev sinh ngày 21/5/1924 ở Smolensk, Nga. Mùa hè năm 1941, ở tuổi 17, khi Đức quốc xã tấn công Liên bang Xô Viết, Vasiliev tham gia quân đội và đóng góp sức mình vào cuộc Chiến tranh vệ quốc vĩ đại. Những trải nghiệm từ chiến trường sau đó trở thành chất liệu cho các tác phẩm của Vasiliev.   Trong suốt sự nghiệp của mình, nhà văn đã xuất bản hơn 30 tiểu thuyết và truyện vừa. Các tác phẩm đều hướng tới việc kiếm tìm sự thật và ý nghĩa cuộc sống. Phần lớn tiểu thuyết, truyện ngắn của ông đều được chuyển thể thành phim hoặc lên sân khấu ở Nga và nước ngoài.   Tiểu thuyết ngắn “Và nơi đây bình minh yên tĩnh” (А зори здесь тихие) được xuất bản năm 1969 là một trong những tác phẩm về đề tài Chiến tranh Vệ quốc nổi bật nhất thập niên 1960 và 1970 ở Nga. Tiểu thuyết được coi là cách Vasiliev chiêu hồn cho tất cả phụ nữ Nga đã hy sinh trong Thế chiến hai. Tác phẩm chọn thời điểm năm 1941, khi viên sĩ quan Vaskov chỉ đạo một tiểu đội toàn nữ ở hậu phương chiến đấu bảo vệ bầu trời Karelia. Hàng ngày, họ sống với những trò đùa tinh quái của lũ con gái mười tám, đôi mươi trước viên sĩ quan trẻ - thành viên nam duy nhất trong đội. Các cô gái trẻ trung, hồn nhiên, giàu ước mơ và cũng nhiều khát khao hạnh phúc. Dưới cánh rừng xanh tốt, vẳng tiếng nói cười hồn nhiên, trong trẻo của những cô gái tiểu đội pháo cao xạ. Cuộc sống qua đi trong bình yên, cho đến một lần, tiểu đội đối mặt với một toán lính dù của Đức quốc xã. Trước kẻ thù được trang bị vũ khí tối tân cộng với những khắc nghiệt của cánh rừng già, những cô gái trong tiểu đội đã hy sinh. Họ vĩnh viễn để lại tuổi xuân trên cánh rừng, giữa đầm lầy để hai mươi năm sau, khi Vaskov đưa người con trai nuôi trở lại thăm chiến trường xưa, mọi dấu vết của chiến tranh dường như khép lại, trước mắt anh chỉ còn thấy “nơi đây bình minh yên tĩnh”.   Năm 1972, bộ phim cùng tên được chuyển thể từ tiểu thuyết của Boris Vasiliev đã nhận được đề cử Oscar cho Phim nói tiếng nước ngoài hay nhất. Ngoài "Và nơi đây bình minh yên tĩnh", Boris Vasiliev còn nổi tiếng với truyện vừa "Tên anh không có trong danh sách" và nhiều tác phẩm khác.   Tại Việt Nam, tiểu thuyết này được Nhà xuất bản Cầu vồng in chung cùng “Tên anh không có trong danh sách” với bản dịch của Lê Đức Mẫn.   Mời các bạn đón đọc Và Nơi Đây Bình Minh Yên Tĩnh của tác giả Boris Vasiliev.
Trên Bờ Sông Hoang Vắng - Boris Polevoi
Từ “chặng đường đã qua”, ông đã rút ra những nguyên mẫu và những sự kiện cả cho tiểu thuyết “Trên bờ sông hoang vắng”, cuốn sách viết về những người công nhân xây dựng một nhà máy thủy điện có công suất lớn ở Xi-bê-ri. Hàng nghìn con người từ khắp mọi miền của đất nước đã đổ đến đây, đến bên bờ của con sông lớn, nơi thâm sơn cùng cốc của vùng rừng tai-ga này. Và mỗi người đều tìm ra “mảnh đất dụng võ” của mình. Nơi đây đã diễn ra một cuộc khảo sát cả về kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp của mọi người, và những khát vọng đạo đức và nhu cầu cá nhân của họ... *** Tác giả cuốn sách này - Bô-rít Pô-lê-vôi (1908 - 1981) - là một nhà văn Nga nổi tiếng, Anh hùng Lao động Xã hội chủ nghĩa, đã được tặng Giải thưởng Quốc gia Liên bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô-viết. Ông đã viết gần ba mươi tác phẩm, trong đó có cuốn “Truyện một người chân chính” mà cả thế giới đều biết.   Bô-rít Pô-lê-vôi không hề hư cấu các nhân vật chính, các sự kiện chủ chốt trong các tác phẩm của mình. Ông đã tìm chọn các nhân vật và các sự kiện như vậy từ thực tế cuộc sống. Chính ông, chứ, có lẽ không ai khác, có toàn quyền tuyên bố: “Tôi đã sống trọn cả cuộc đời văn học giữa các nhân vật của mình”. Luôn luôn tìm kiếm, luôn luôn đắm mình trong thực tế, Pô-lê-vôi đã tiếp xúc với rất nhiều con người tuyệt vời của thời đại chúng ta, ông đã viết về họ một cách đầy cảm phục và tự hào về tình bạn đối với họ. “Thật vui sướng biết bao nhiêu được sống giữa các nhân vật của mình, được trao đổi thư từ với họ, được theo dõi xem cuộc sống sẽ tiếp tục và phát triển một cách chính xác đến mức nào, hướng đi của các tính cách được miêu tả trong các cuốn sách, và phần kết của chúng, bạn, với tư cách là tác giả, đã đánh dấu chấm hết từ lâu”, - ông đã viết như vậy trong tập bút ký “Nhìn lại chặng đường đã qua”.  *** -... Mãi tối hôm đó, em mới làm cho cô ta tỉnh lại. Bọn em đã kiệt sức. Em không còn hy vọng nữa. Sau cùng, cô ấy lắc đầu và hé mở con mắt còn nguyên vẹn, - vài hôm sau, Đi-na kể cho Đi-u-giép. Họ ngồi trên đỉnh lèn Kỳ diệu, trên một chiếc ghế dưới gốc cây thông rậm lá. Một đêm màu lam, thơm ngát mùi hương, vi vo tiếng muỗi, trùm lên trên dòng sông bị chinh phục. Một đêm thanh khiết, đêm mùa hè ấy, ở giữa rừng tai-ga, mà những ánh sáng ở công trường và những ngọn lửa hàn lập lòe hầu như không thay đổi được màu sắc thiên nhiên của nó. Trước đây, lúc mới khởi công, những bàn tay thân thiết của những người nào đó đã làm nên chiếc ghế này trên cao nguyên thu nhỏ lại. Từ đó nó là nơi ẩn náu của những cặp tình nhân và những người mơ mộng. - Toàn thân cô ấy đều bị thương, ruột đứt, xương gãy. Tuy vậy, cô ấy vẫn cố nói điều gì đó, - Đi-na nói tiếp, mắt thẫn thờ. - Em cúi xuống và đoán ra hơn là nghe thấy những lời cô ấy thều thào: “Cháu bé, cháu bé...” Cô ấy lo cho con. Anh Pa-ven, thật là sung sướng biết bao được nói với cô ấy: “Cháu còn sống!” Em cho đem đến máu sinh mệnh bé tí bọc trong tã bông lấy trong lồng ấp trẻ sơ sinh ra. Pa-ven, anh sẽ không tin em, vì phải là phụ nữ mới tin được điều đó. Này nhé, con mắt nguyên vẹn trên bộ mặt sưng phù, đẫm máu ấy biểu lộ một niềm vui, vâng, một niềm vui. Một ảo ảnh, anh sẽ nói với em thế chứ gì? Ổ, không, không phải đâu anh ạ!. . Em vô cùng xúc động. Đi-na cắn môi. Chị nhìn mỏm Đầu bò ở bên kia sông, giống như vẽ bằng mực tẩu lên nền đêm màu xanh nhạt - Anh có biết Va-xi-li-xa ví Ma-ri-a với con gì không? Con tu hú. Lần này thì cô bé đã nhầm, phải không anh? Có thật người ta quyết định chôn cô ấy ở công viên Anh Hùng, bên cạnh những người du kích đưa từ rừng tai-ga về không? - Ông cụ bảo thế. - Có thật Ông cụ cử anh đến U-xchi-Tséc-na-va để chỉ huy chi nhánh của công trường không?   Mời các bạn đón đọc Trên Bờ Sông Hoang Vắng của tác giả Boris Polevoi.
Trần Trụi Giữa Bầy Sói - Bruno Apitz
Trần trụi giữa bầy sói là một trong những tác phẩm nổi tiếng sau đại chiến thứ hai, được dịch ra hai mươi thứ tiếng và trở thành một sự kiện văn học. Trần trụi giữa bầy sói xoay quanh một câu chuyện rất bình thường. Một chú bé Do Thái Ba Lan được cứu thoát khỏi tay phát-xít Đức, khi chúng đang điên cuồng tàn sát những người dân Do Thái Ba Lan ở Vacsava. Chú bé được bỏ vào một chiếc va ly cho một tù nhân xách đi và được đưa đến Bukhânvan. Sự có mặt của đứa bé gây ra biết bao nguy hiểm cho năm vạn tù nhân sống trong trại, vì bọn phát-xít sau khi đánh hơi thấy đứa bé đã sục sạo đi tìm những dấu vết của tổ chức Đảng đang lãnh đạo các tù nhân trong trại. Câu chuyện tuy bình thường như vậy nhưng nó xúc động người đọc mãnh liệt vì tác giả bố trí nó chặt như một vở bi kịch và nêu lên được cái đẹp, cái cao thượng vô song của con người. Đây không chỉ là một cuốn sách hay, mà còn có một giá trị to lớn. Như nhiều nhà phê bình nhận định, nó đề cập đến chính vấn đề phong cách của tiểu thuyết hiện đại, và là một trong những hướng giải quyết táo bạo nhưng thành công. *** THƯ CỦA TÁC GIẢ GỬI ĐỘC GIẢ VIỆT NAM Cuốn sách của tôi kể lại cuộc đấu tranh của các tù nhân, trong trại tập trung Bukhânvan để cứu một đứa trẻ Ba Lan; đứa trẻ đó được đưa nào trong trại, bất chấp muôn ngàn nguy hiểm. Nhưng mục đích của cuốn sách còn nhằm xa hơn nữa: nó muốn nói lên cái đẹp về tinh thần của con người bênh vực cho con người và làm nổi bật sự vĩ đại của con người. Nó muốn ca ngợi tình đồng chí giữa những con người của bao nhiêu dân tộc châu Âu đằng sau những hàng rào dây thép gai mắc điện cao thế - tình đồng chí có một không hai trong lịch sử. Cuốn sách cũng muốn kể lại sự chiến thắng của con người đối với bản tính thú vật của bọn phát xít. Hạt mầm của lòng bác ái mà hàng triệu con người khi chết xuống đã vùi theo họ trong mảnh đất đẫm máu ở Bukhânvan, ngày nay lại bùng nổ lên trong cuộc chiến đấu của các dân tộc chống kẻ thù, những kẻ mang thảm họa tới cho nhân loại. Tôi chỉ là mật con người bình thường nên mục đích cuốn sách của tôi cũng bình thường: đó là Hòa bình và Hạnh phúc cho hết thảy mọi người. Đem dịch nó ra tiếng nước ngoài, cũng không cần phải có nghệ thuật lắm mới làm nổi, vì mọi người tất sẽ hiểu được nó. Berlin tháng 6 năm 1962 BRUNO APITZ *** TRẦN TRỤI GIỮA BẦY SÓI là một trong những tác phẩm nổi tiếng sau đại chiến thứ hai. Xuất bản lần đầu tiên năm 1958 với 60 vạn cuốn ở Cộng hòa dân chủ Đức, cùng năm ấy tác phẩm này được Chính phủ Cộng hòa dân chủ Đức tặng giải thưởng Văn học Quốc gia, được tái bản liên tiếp ngay cả ở Tây Đức, được dịch ra hai mươi thứ tiếng rà trở thành một sự kiện văn học được nhiều người bàn đến ở châu Âu. Tác giả cuốn sách, Brunô Apitz (1900 - 1979), xuất thân từ một gia đình công nhân ở Laixich, một trung tâm công nghiệp lớn ở Đức. Con người ấy suốt đời là một chiến sĩ chống bọn gây chiến. Trong đại chiến thế giới lần thứ nhất, ông bị giam hai năm vì tuyên truyền hòa bình. Năm 1934 ông lại bị bọn Hítle bỏ tù vì hoạt động chống phát-xít. Ba năm sau ông là một trong những tù nhân đầu tiên bị bọn phát-xít đưa đến Bukhânvan[1] để xây dựng trại tập trung khổng lồ nhốt hàng vạn người. Ông đã ở đấy mãi cho đến khi Hồng quân đánh bại phát-xít Đức, và là một trong những tù nhân cuối cùng của địa ngục Bukhânvan. Phải có nước Cộng hòa dân chủ Đức, người công nhân đã hy sinh tất cả tuổi trẻ của mình trong các nhà tù ấy, mới thành một nhà văn. Ông viết báo, được cử làm chủ nhiệm một nhà hát của nước Cộng hòa dân chủ Đức. Năm 1950 ông làm biên tập cho hãng phim Đêfa và đã chuyển thể quyển tiểu thuyết này thành kịch bản để xây dựng thành phim. Từ mười mấy năm nay đã có rất nhiều tác phẩm viết về các trại tập trung của phát-xít Đức, nhưng không tác phẩm nào để lại cho độc giả ấn tượng mãnh liệt như Trần trụi giữa bầy sói. Điều đó có nhiều nguyên nhân. Một nguyên nhân chủ yếu là vì tác giả của quyển tiểu thuyết này là một chiến sĩ. Là một chiến sĩ nên đối với ông, Bukhânvan không phải chỉ có lò đốt xác, có boong-ke, trại giam, có tháp canh, hàng rào dây điện cao thế, có lũ phát-xít hoành hành bắn giết tra tấn và hàng vạn tù nhân đói khổ, đau ốm, chết chóc và nếu còn sống sót thì kiếp sống cũng chẳng hơn gì thú vật. Điều đó là hiển nhiên. Nhưng còn có điều quan trọng hơn, và là trung tâm sự chú ý của Brunô Apitz. Đó là sự vĩ đại của con người, tình đồng chí “có một không hai trong lịch sử” của hàng chục dân tộc. Con người ở đây “trần trụi” thực đấy, nhưng họ gắn bó với nhau, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng. Đảng có mặt mọi nơi. Hơfen, một nhân vật trong chuyện, nói: “Nếu chúng mình sống sót ra khỏi nơi đây, tôi sẽ chịu trách nhiệm trước Đảng về việc ấy, anh có thể tin như vậy”. Thì Krêmơ nghiêm nghị nhìn vào mặt Hơfen: “Đảng ở ngay đây”. Đảng ở ngay đây, ở ngay Bukhânvan, đó mới là chủ đề của cuốn truyện, ở đây không phải chỉ có đàn sói mà còn có con người, tuy bên ngoài ai cũng như ai đều mặc áo tù kẻ sọc, nhưng bên trong, đó là những con người lớn, đoàn kết, kỷ luật, sáng suốt, kiên nhẫn, mạnh hơn cái chết. Nội dung Trần trụi giữa bầy sói xoay quanh một câu chuyện rất bình thường. Một chú bé Do Thái Ba Lan được cứu thoát khỏi tay phát-xít Đức, khi chúng đang điên cuồng tàn sát những người dân Do Thái Ba Lan ở Vacsava. Chú bé được bỏ vào một chiếc va-li cho một tù nhân xách đi và được đưa đến Bukhânvan. Sự có mặt của đứa bé gây ra biết bao nguy hiểm cho năm vạn tù nhân sống trong trại, vì bọn phát-xit sau khi đánh hơi thấy đứa bé đã sục sạo đi tìm những dấu vết của tổ chức Đảng đang lãnh đạo các tù nhân trong trại. Câu chuyện tuy bình thường như vậy nhưng nó xúc động người đọc mãnh liệt vì tác giả bố trí nó chặt như một vở bi kịch và nêu lên được cái đẹp, cái cao thượng vô song của con người. Thời gian trong Trần trụi giữa bầy sói là thời gian của một vở kịch. Tác giả miêu tả Bukhânvan trong những ngày cuối cùng của nó. Sự việc xảy ra trên dưới một tháng. Ở trang đầu là tháng ba năm 1945, quân Mỹ vượt qua sông Rainơ, biên giới Đức, ở quãng Rêmagân là Hồng quân ào ạt tiến vào đất Đức. Và cứ thể: Haau, Opênhaimơ, Katxen, Aidơnăc... rồi ngày 8 tháng 4 tới Ecfuôc, và cuối cùng quân đồng minh ở cách trại giam 12 cây số và cuộc khởi nghĩa bùng nổ ở Bukhânvan. vấn đề đối với trại Bukhânvan là làm sao theo dõi được tin tức bên ngoài và tìm cách giành giật từng giờ từng phút, vì tương lai thuộc về họ cho nên họ càng trì hoãn được phút nào là họ tiến gần đến thắng lợi phút ấy. Không khí do đó càng ngày càng nồng nặc mùi thuốc súng. Trong những giờ phút ấy, tất nhiên con người càng dễ lộ bản chất của mình. Bọn phát-xit càng điên cuồng, lồng lộn, tàn ác, tìm cái khoái trá trong việc tra tấn, kìm kẹp, bắn giết, nhưng lại càng hốt hoảng, nhớn nhác, tìm cách tháo thân. Đối lập với chúng, Đảng Cộng sản càng nêu cao tinh thần kỷ luật, kiên quyết, sáng suốt lợi dụng thời cơ, ráo riết chuẩn bị. Chính trong khoảng thời gian ấy, cơn lốc của cuộc sống lôi cuốn mọi sự việc diễn biến rất nhanh, khiến từng giờ từng phút phải đối phó, đặt kế hoạch, tranh cãi, quyết định. Người ta không còn thì giờ nghĩ đến quá khứ, không còn thì giờ để hồi tưởng, mơ màng. Toàn bộ tác phẩm chỉ có hai cảnh nhắc đến quá khứ, nhưng trong một trăm trang đầu đã có tới sáu mươi cảnh khác nhau, trong đó người ta phải vật lộn với những vấn đề trước mắt. Biến cố xảy ra dồn dập với tốc độ của tia chớp. Jankôpxki đưa đứa bé vào trại, Hơfen phát hiện, Pipich đem giấu, Rôsơ bắt gặp, Bôkhâu ra lệnh: nó phải ra khỏi trại, Hơfen băn khoăn… Thế rồi người giữ đứa bé lại, người tìm ra nó, người đem giấu nó... Biến cố này chưa hết, biến cố khác đã xảy tới, trong khi bên ngoài là máy bay oanh tạc ầm ầm, và xa hơn nữa, những đoàn quân đang rầm rộ tiến. Cuộc sống ở đây căng thẳng đến nỗi các đồng chí trong ủy ban quốc tế các trại tập trung (ILK) không nhớ đứa bé làm cả trại khốn đốn kia là con trai hay con gái nữa cũng như chúng ta dễ dàng quên rằng mụ Horten có cái bộ ngực núng nính là người đàn bà duy nhất trong truyện. Đọc Trần trụi giữa bầy sói, không ai có thể quên những con người bảo vệ danh dự cho dân tộc Đức, Hơfen, Suyp, Pipich, Krêmơ anh chàng Ba Lan Krôpinxki, và những người lãnh đạo ủy ban quốc tế các trại tập trung; Bôkhâu, Bôgoxki, Riômăng, Van Đalen, Kôđixec. Họ khác nhau về tính tình, có người nôn nóng, có người trầm lặng, có người bao giờ cũng bình tĩnh, có người vui vẻ, có người lạnh lùng. Nhưng tất cả đều mang trong người tình nhân đạo cao quý. Cái gì đã khiến Hơfen giữ đứa bé lại, cái gì bắt Krêmơ làm ngơ không kiểm soát công việc của Hơfen, cái gì làm Hơfen đau khổ hơn là bị tra tấn khủng khiếp, cái gì làm Pipich sung sướng khi sắp chết vì đã kịp thời giấu súng. Họ không phải không có khuyết điểm hưng họ vẫn là những hình ảnh đẹp vô cùng. Đó là bài ca về cái đẹp của con người. Càng về sau, tính chất anh hùng ca càng nổi bật. Nếu ở nửa đầu tác phẩm, chủ yếu là miêu tả tâm trạng của cá nhân, thì nữa sau dành cho việc miêu tả hành động của quần chúng. Quần chúng trì hoãn việc dời trại, quần chúng che giấu 46 “nạn nhân” của thần chết, quần chúng bảo vệ đứa bé khiến cho Kluttich tuy đứng trước mặt nó mà không dám làm gì, đành phải rút lui và cuối cùng quần chúng khởi nghĩa. Có thể nói ít người có được ngòi bút khách quan hơn Brunô Apitz trong việc miêu tả nhân vật và sự kiện. Khi nói đến bè lũ phát-xít, tác giả không có một nét nào là biếm họa. Ông cẩn thận cân nhắc trong việc miêu tả, chú ý đến dáng điệu, cử chỉ, thái độ của từng đứa, cũng với tất cả sự quan tâm như đối với những đồng chí của mình. Người ta thấy cái lưỡi thè lè của Xvailinh; cái vẻ lịch sự dịu dàng che giấu một sự đểu giả tàn ác của Rainơbôt, ngay trong lúc tra tấn tù nhân y vẫn còn giữ cái vẻ lịch sự mềm mại của những động tác thể thao; cái tên man rợ Mandrin chuyên việc tra tấn người, càng nốc rượu vào thì lại càng tàn ác và tìm thấy trong việc tra tấn một thú vui khủng khiếp. Tên Svan có cái cằm phình ra, hay đi quanh cái bàn giấy to tướng, mở miệng là nói giọng ngoại giao; tên Kluttich thô bạo mở miệng là đòi bắn giết v.v... Ngay trong ngôn ngữ tác giả cũng để cho chúng biểu hiện được rõ cá tính của chúng. Người ta thấy đằng sau thái độ khách quan ấy là cái nhìn rất sáu sắc của một người đã sống một phần lớn đời mình trong việc theo dõi những kẻ thù của nước Đức và của thế giới. Ngay đối với các bạn, tác giả cũng vẫn giữ cái nhìn nghiêm khắc khách quan ấy. Brunô Apitz không gượng nhẹ họ, nếu trong óc họ nẩy ra những ý nghĩ khủng khiểp... Để cho Bôkhâu nghĩ đến cái chết của Hơfen và Hơfen nghĩ đến việc mình khó lòng chịu đựng được cảnh tra tấn nữa, để cho những con người nhân đạo nhất trên đời phải thốt lên: “Tại sao đứa bé kia không chết quách đi cho rồi”, tác giả làm người ta liên tưởng đến bút pháp của Secxpia, vị thầy của nghệ thuật. Người ta khó lòng khắt khe đối với những con cưng của mình hơn Apitz, nhưng kết quả sẽ không phải là làm giảm giá trị nhân vật. Trái lại, từ đó sẽ toát lên cái người ta thường gọi là lôgic khách quan của cuộc sống, tất yếu khách quan của hoàn cảnh và càng làm nổi bật cái tất yếu khách quan ấy thì cái thực, cái giả mới xuất hiện rõ, cũng như vàng, thau, chỉ có thể phân biệt bằng lửa chứ không thể đoán bằng mắt. Cuộc sống những ngày cuối cùng ở Bukhânvan tự bản thân nó là lửa. Cho nên đã xuất hiện thứ vàng cao nhất. Đã xuất hiện: chàng thợ xếp chữ Pipích, có đôi chân khuỳnh khuỳnh, nhỏ bé nhưng đến lúc hiểu sự thật thì anh dũng tuyệt vời; Krêmơ với đôi vai rộng đủ sức che chở cho toàn trại, với đầu óc sáng suốt, thần kinh tốt đến nỗi không còn có sự đe dọa, lừa bịp, không một biến cố nào vật ngã nổi; Bôgoxki với nụ cười vui vẻ, cười trong những lúc khó khăn nhất, Bôkhâu, con người của nguyên tắc, của tổ chức, nhưng nặng nề khối óc mà nhẹ về trái tim; Pribula sôi nổi, nôn nóng, luôn luôn đòi bạo động; Hơfen, con người xứng dáng với lời khen đẹp nhất của Bôgoxki: “Nghi ngờ Hơfen hóa ra nghi ngờ mình sao?”, “Chúng ta phải khỏe như Hơfen” v.v... Đặc biệt, trong tác phẩm đã xuất hiện cả một khối quần chúng vĩ đại, với trực giác được rèn luyện lâu dài trong những năm tù tội, với lòng tin sắt đá vào tổ chức, vào Đảng, ngay khi đứng trước cái chết cũng vẫn là một đội quân vô cùng anh dũng. Chính nhờ bút pháp khách quan ấy đã giúp cho tác giả tận dụng được vốn sống dồi dào của mình và vẽ lên được, tuy chỉ một mảnh của Bukhânvan thôi, nhưng một mảnh nóng hổi sức sống như trái tim của con người. Đối với văn hoc hiện tại, Trần trụi giữa bầy sói không chỉ là một cuốn sách hay, mà còn có một giá trị to lớn. Như nhiều nhà phê bình nhận định, nó đề cập đến chính vấn đề phong cách của tiểu thuyết hiện tại, và là một trong những hướng giải quyết táo bạo nhưng thành công. Trong nhóm chúng tôi, một người đã được nhìn thấy tận mắt Bukhânvan năm 1956. Trại tập trung Bukhânvan hiện nay đã được cải tạo thành một khu lưu niệm trưng bày những vết tích cũ. Từ những lò đốt xác cho đến những mớ tóc, những mảnh quần áo của tù nhân còn được giữ lại, từ những hàng rào thép gai đến những căn hầm đào dưới đất để trốn tránh, tất cả đều gợi lên cảnh của địa ngục trần gian, mà lịch sử loài người cho đến đại chiến thứ hai chưa từng được chứng kiến. Nếu như mỗi hòn đất, mỗi ngọn cỏ nơi đây có thể nói lên được, chúng sẽ kể lại không biết bao nhiêu thảm cảnh khó tưởng tượng; nhưng cuốn sách này của tác giả, theo chúng tôi nghĩ, đã có thể xứng đáng thay mặt cho những vật lưu niệm kia mà tố cáo trước loài người tiến bộ những hành vô cùng dã man của bọn phát-xít, nhắc nhở cho những người còn sống thêm cảnh giác trước những âm mưu thâm độc của bọn khát máu, đồng thời cũng là một bản anh hùng ca nói lên tinh thần bất khuất của tất cả các tù nhân, không kể là thuộc dân tộc nào, đấu tranh giành lấy quyền sống của con người, và sau cùng nói lên vai trò không thể thiếu của Đảng, của giai cấp công nhân, giai cấp tổ chức và lãnh đạo mọi cuộc đấu tranh để giành lấy quyền sống thiêng liêng ấy. Những người dịch Mời các bạn đón đọc Trần Trụi Giữa Bầy Sói của tác giả Bruno Apitz.