Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Người Trong Đêm Hè

Người Trong Đêm Hè là cuốn tiểu thuyết đã góp phần đưa giải Nobel Văn học năm 1939 về cho Frans Emil Sillanpää và về cho đất nước Phần Lan. Chính Sillanpää đã gọi "đứa con tinh thần" này là "chuỗi thơ mang tính tự sự" bởi sự đan kết tự nhiên giữa bốn mươi tám văn khúc tả cảnh, đối thoại, độc thoại, có lúc đầy kịch tính, khi lại man mác, nên thơ. Tuy là một tác phẩm ngắn trong địa hạt tiểu thuyết, Người trong đêm hè vẫn dựng được tuyến nhân vật phong phú và sinh động. Trước hết, Sillanpää dành nhiều trang viết cho những phụ nữ ở miền quê: cô thiếu nữ Helka đang trải qua quãng đời thanh xuân yên bình; còn hai người vợ - Hilja và Santra - mỗi người đối diện với một hoàn cảnh, đeo nặng một tâm tư. Song hành cùng các nhân vật nữ, dĩ nhiên, là bóng hình những người đàn ông: chàng sinh viên Arvid hào hoa (bạn trai Helka); anh nông dân Jalmari ngu ngơ, vụng về (chồng Hilja); Jukka - người chồng thờ ơ của Santra. Họ cùng xuất hiện trên nền bối cảnh điền trang, một không gian tưởng chừng đơn sơ, yên ả song lại làm nảy lên bức tranh nội tâm sâu kín, đa chiều. *** Frans Sillanpää sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo, thuộc xứ đạo Hämeenkyrö. Cuộc sống vất vả khiến bố mẹ ông chỉ có thể nuôi ông ăn học trong 5 năm đầu tại trường trung học Tampere, 3 năm sau đó ông phải tự kiếm tiền để học tiếp. Năm 1908, ông đỗ vào Đại học Helsinki, ngành sinh vật học, với số điểm loại ưu. Nhưng chỉ theo học được một thời gian ngắn, ông đã phải bỏ, về nhà mở cửa hàng văn phòng phẩm kiếm sống. Ở nhà, ông bắt đầu viết truyện và ngay từ truyện ngắn đầu tiên, ông đã được tổng biên tập một tờ báo lớn đánh giá cao và mời cộng tác. Tiểu thuyết đầu tay của ông là Elämä ja aurinko (Cuộc sống và mặt trời), in năm 1916. Năm 1919, tiểu thuyết Hurskas kurjuus (Cái nghèo thanh cao) đã đưa ông vào hàng ngũ những nhà văn danh tiếng, khiến một nhà xuất bản nổi tiếng đề nghị ông viết sách cho họ và sẵn sàng ứng tiền để ông chuyên tâm vào công việc; từ năm 1920 ông được chính phủ Phần Lan trao một khoản trợ cấp trọn đời. Tiểu thuyết đỉnh cao giúp ông đoạt giải Nobel năm 1939 là Nuorena nukkunut (Thiếu nữ chết trẻ), kể về số phận bi thảm của những gia đình nông dân Phần Lan bị những mối quan hệ tư bản thâm nhập vào nông thôn tàn phá. Cuối đời ông viết nhiều tiểu luận và hồi ký tự thuật. Trong các tác phẩm của mình, Frans Sillanpää luôn khẳng định sức mạnh bản năng và tư tưởng thần bí, bi quan. Năm 1936, ông được Đại học Helsinki trao bằng Tiến sĩ Danh dự và năm 1939 được Viện Hàn lâm Thụy Điển trao giải Nobel. Do chiến tranh, buổi lễ trao giải không tổ chức được nhưng ông đã nhận bằng trong một cuộc họp của Viện Hàn lâm Thụy Điển vào tháng 12 năm 1939. Thời gian này, sức khỏe của ông giảm sút, ông rơi vào trạng thái trầm cảm nặng vì vợ mất và đất nước bị chiến tranh tàn phá, phải điều trị tại bệnh viện tâm thần đến năm 1943. Tác phẩm cuối cùng của ông là bộ hồi ký gồm ba cuốn xuất bản từ năm 1953 đến năm 1956. Frans Sillanpää được toàn thể nhân dân Phần Lan yêu quý, ông thường được mời phát biểu trên đài phát thanh. Ông mất ở Helsinki năm 66 tuổi. Tác phẩm: Elämä ja aurinko (Cuộc sống và mặt trời, 1916), tiểu thuyết Ihmislapsia elämän saatossa (Những con người trong đường đời,1917), tập truyện Hurskas kurjuus (Cái nghèo thanh cao, 1919), tiểu thuyết Rakas isänmaani (Tổ quốc yêu dấu, 1919), tiểu thuyết Hiltu ja Ragnar (Hiltu và Ragnar, 1923), tiểu thuyết Enkelten suojatit (Sự bảo trợ của các thiên thần, 1923), tiểu thuyết Omistani ja omilleni (Về chính tôi và cho chính tôi, 1924), tiểu thuyết Maan tasalta (Từ độ cao của Trái Đất, 1924), tiểu thuyết Töllinmäki (Ngọn đồi ổ chuột, 1925), tiểu thuyết Rippi (Xưng tội, 1928), tiểu thuyết Kiitos hetkistä, Herra... (Cảm ơn Chúa đến đúng lúc..., 1930), tiểu thuyết Nuorena nukkunut (Thiếu nữ chết trẻ, 1931), tiểu thuyết Miehen tie (Con đường của người đàn ông, 1932), tiểu thuyết Virran pohjalta (Dưới đáy sông, 1933), tiểu thuyết Ihmiset suviyössä (Người trong đêm hè, 1934), tiểu thuyết Viidestoista (Thứ mười lăm, 1936), tiểu thuyết Elokuu (Tháng Tám, 1944), tiểu thuyết Ihmiselon ihanuus ja kurjuus (Hạnh phúc và đau khổ của đời người, 1945), tiểu thuyết Poika eli elämäänsä (Cậu bé đã sống cuộc đời mình, 1953), hồi ký Kerron ja kuvailen (Tôi kể chuyện và tôi mô tả, 1954), hồi kí Päiva korkeimmillaan (Ngày cực điểm, 1956), hồi kí *** Review SP: Tác phẩm văn học “Người trong đêm hè” – bản giao hưởng cho mùa hạ trắng Phương Bắc.Tiểu thuyết cũng đã nhận được nhiều giải thưởng cũng như đánh giá tích cực của công chúng. “Mùa Hè phương Bắc gần như không có đêm, chỉ có ánh sáng mờ ảo ngập ngừng, chầm chậm trôi qua. Nhưng trong chạng vạng vẫn ngời lên tia sáng không ngôn từ nào có thể tả nổi. Đó chính là lời thì thầm của sáng Hè đang đến gần. Khi giai điệu hoàng hôn lắng lại thành nốt mềm xanh tim tím màu hoa violet, mê say dịu dàng ngân dài ngay trong quãng ngắt ngắn ngủi, là lúc violon chính bừng tỉnh và bắt vào giai điệu cao nghiêng nghiêng, để cho violon xen nhanh chóng hòa nhịp. Ta cảm nhận được từ trong sâu thẳm tâm hồn bức tranh giai điệu đó” trích Tiểu thuyết, tác phẩm văn học, “Người trong đêm Hè” của Frans Emil Sillanpää, (người dịch: Tiến sĩ Bùi Việt Hoa) Tiểu thuyết hay còn được gọi là “chuỗi thơ mang tính tự sự” với 48 bài văn dài ngắn khác nhau của nhà văn Frans Emil Sillanpää (1888 – 1964) cùng với những sáng tác trước đó đã đem giải Nobel văn học đầu tiên vào năm 1939 và cho đến giờ vẫn là giải Nobel duy nhất của Phần Lan. Mùa Hè, tháng Bảy ở Phần Lan, đất nước Cực Bắc của châu Âu, gần như không có đêm nên thường được gọi là mùa hạ trắng với những đêm trắng khi mặt trời gần như không ngủ và thiên nhiên được miêu tả đẹp như tranh vẽ. Tại vùng nông thôn, thiên nhiên êm đềm, không gian tĩnh lặng, trong lành, cũng có nhiều người không ngủ với nhiều lí do khác nhau. Có những lí do rất đẹp và lãng mạn như khi đôi lứa yêu nhau, cô gái mải suy tư mà không dỗ được giấc ngủ, có người mải chèo thuyền trên hồ và đi ngắm nghía đất đai, người đi dự tiệc đính hôn, người trò chuyện, khiêu vũ, người trở dạ sinh con, và có cả những thương đau như đứa trẻ không được chào đời hay người đàn ông mắc tội giết người, người chồng đi không trở về … Người kể chuyện, kể về các cảnh khác nhau với những giọng điệu khác nhau từ trẻ tới già, từ giàu tới nghèo, từ người không có học đến người học thức, có cả mặt tốt và mặt xấu. Ngôn ngữ của tác giả rất chân thật, biểu cảm và giàu chất thơ ngay từ những đoạn văn khởi đầu của cuốn tiểu thuyết mini đã tạo nên một tấm gương phản chiếu đời sống nông thôn điển hình của Phần Lan những năm 30’ nơi thiên nhiên và con người gần như hòa làm một, nơi mọi hoạt động đều chứa đựng nhiều xúc cảm, nơi trong sinh, yêu và tử có đan xen trong niềm vui, nỗi đau, sự trăn trở, tiếc nuối, những khát khao giới tính kỳ lạ… ”Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng trong Người trong đêm Hè thiên nhiên mới là nhân vật trung tâm xuyên suốt tiểu thuyết. Ánh sáng và âm thanh, mặt trời và đêm trắng, cánh đồng lúa, rừng cây, mặt hồ nước, trang viên… một vùng quê với đủ mọi thăng trầm và cuộc sống của những người dân đủ mọi tầng lớp trong ánh sáng mờ ảo của đêm Hè hiện lên thật hoàn hảo dưới ngòi bút của Sillanpää. Đây là tác phẩm văn xuôi mang tính trữ tình đậm đặc nhất, nhiều tính nhạc nhất của nhà văn”. Dịch giả Bùi Việt Hoa, người đã có nhiều năm sống và làm việc ở Phần Lan, nghiên cứu văn hóa và văn học Phần Lan, cho biết. Tác phẩm văn học không chỉ đem đến những áng văn tả cảnh tuyệt đẹp, những câu chuyện đời sinh động, chân thực mà còn nêu ra những triết lý vô cùng đơn sơ mà sâu sắc: “Trên thế gian này ai cũng có lúc nghĩ họ đau khổ nhất trần gian – khi không nghĩ đến người khác, mà chỉ chăm chăm nghĩ về mình”. Chỉ một năm sau khi ra đời, tác phẩm văn học Người trong đêm Hè đã được dịch và xuất bản ở Thụy Điển năm 1935 và hai năm tiếp theo được dịch và xuất bản ở Estonia (1936), Đan Mạch (1937), Na Uy (1937) và Latvia (1937), Anh (1966). Cho đến nay, tiểu thuyết này đã được dịch ra 17 thứ tiếng khác nhau trên thế giới. Tiểu thuyết được chuyển thể thành phim cùng tên vào năm 1948 và nhận được nhiều giải thưởng cũng như đánh giá tích cực của công chúng.   Mời các bạn đón đọc Người Trong Đêm Hè của tác giả Frans Emil Sillanpää.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Trường Học Đờn Bà
Trong tác phẩm này, Andre' Gide ý muốn chẫm rãi kẻ cà tỉ mỉ nói về tâm hồn, tâm lý những kẻ cao nhã u trầm đằm thắm yêu nhau? mà sử dụng ngôn ngữ loài người vô tận tục tĩu chúng sinh bằng mật ngữ u u u nhiên trường kỳ kham nhẫn - Người dịch tạm ghi. "...Tôi rất muốn được đứng một mình ở trong phòng; những cặp mắt của những khách tới viếng khiến tôi khó chịu; tưởng chừng như, cứ mỗi phen tôi ngắm bức tranh, thì thiên hạ dòm ngó tôi quan sát. Tuy nhiên, mặc dù đau khổ và khó chịu, tôi vẫn cứ bị thu hút bởi cái đẹp phi thường của cái " cô nương dã dượi" kia khiến lòng tôi cảm thấy được tràn ngập chứa chan một mối mê man tê mê gần như mê loạn, một mối kỳ vỹ mê ly dịu dàng dập dìu khôn tả; từ trước tới lúc bấy giờ, có bao giờ tôi cảm thụ một nỗi niềm như thế đâu. Một kẻ nào đó đã tiến gần đến tôi, lặng lẽ êm ru, và bất thình lình tôi cảm thấy hai bàn tay mát rượi úp vào hai mắt tôi. Tôi quay lại. Chính là Gisèle. - Gặp lại nhau đây, thật bất ngờ tươi vui ngộ nghĩnh quá! -  Gisèle ríu rít nói như chim. Nàng chợt thấy mẹ tôi. - Cháu đã làm xong việc uỷ thác của bác cho má con, má con nói rằng bà cũng sẽ rất sung sướng nếu được quen biết bác. Thật dịp may hiếm có, má con cùng đi với con tới đây. Nhưng có điều là con không biết giới thiệu. Rồi cô nàng lấy cánh tay bà má, dắt tới bên chúng tôi, vụng về nói: - Má ạ... Bà X..., mẹ của người bạn mới của con; thật vậy, má cũng chưa biết mặt Genevìeve...Ấy đó! đó là cô ta. Bà mẹ của Giesèle thật là kiều diễm và tôi cảm thấy ngay là mẹ tôi cảm mếm bà liền. Bà (vốn người Ăng Lê) bà nói tiếng Pháp rất thạo, tuy giọng nói âm tiết rất mạnh, và như thế càng thêm đậm đà ý vị và dường như còn gia thêm vào cho tính cách cao nhã tự nhiên thiên nhiên thuần thái của bà. Chúng tôi đang đứng trước bức tranh kỳ vỹ ..." *** Review Thanh Hai: Tui yêu Bùi Giáng lắm, một phần là ông là người Quảng nam đặc biệt nhứt, một phần vì ông có cái chất điên quá khác người , những bài thơ của ông thì đã quá nổi tiếng với cái sự “điên rực rỡ” trong từng câu từ, từng tứ thơ. Ở địa hạt chuyển ngữ, Bùi Giáng lại càng khác biệt với phần còn lại. Cũng vì quá khác biệt với những lời dịch đôi khi miên man, bay bổng và những từ ngữ lạ lẫm mà có 1 số độc giả đọc và chỉ trích ông không tôn trọng nguyên tác. Tui thì không đọc được bản gốc nên không dám ý kiến chi, chỉ thấy một điều đơn giản là đọc các bản dịch của ông cảm thấy như được bơi trên dòng sông ngôn ngữ, thứ ngôn ngữ riêng có của ông không lẫn lộn với ai được, như khi tui đọc 1 bài thơ Nguyễn Bính, hay 1 đoản văn của Mikhail Prisvin... Đọc riết 1 hồi có cảm giác như ông đang sáng tác chứ không phải đang dịch, vì dấu ấn cá nhân của ông thổi vào tác phẩm quá lớn. TRƯỜNG HỌC ĐỜN BÀ là một cuốn như rứa. Thiệt ra cái chữ “đờn bà” là từ địa phương chỉ dân Quảng Nam mới dùng, nên tui - là người Quảng mà - mới ngó đã yêu liền, chưa biết nội dung là răng . Nhưng cần chi hè ?? Cặp bài trùng Bùi Giáng - Andre Gide là đủ để cho tui sở hữu liền rồi. Ni không đọc thì mai đọc, năm ni không đọc thì năm sau sẽ đọc ????. Mà đúng là như rứa thiệt á. Vì tui mua sách ni hơn 5 năm rồi chừ mới lôi ra đọc nề. “Nhà trường của gái lớn lên Phiêu bồng rất mực còn nên nói nhiều Sịch mành trở mộng đăm chiêu Tấm lòng nhi nữ cũng xiêu anh hùng” Bốn câu thơ của Bùi Giáng trên trang đầu tiên của cuốn sách, trong đó câu thứ 4 là ông mượn câu thơ của cụ Nguyễn Du. Tiếp đến trang thứ 2 lại là những dòng người dịch tạm ghi : “Trong tác phẩm này, Andre Gide ý muốn chậm rãi kề cà tỉ mỉ nói về tâm hồn, tâm lý những kẻ cao nhã u trầm đằm thắm yêu nhau ? Mà sử dụng ngôn ngữ loài người vô tận tục tĩu chúng sinh bằng mật ngữ u u u nhiên trường kỳ kham nhẫn..” Ui ông viết cái chi mà tui đọc không hiểu nổi , từ ngữ lạ lẫm và không biết sắp xếp theo cái chuẩn mực chi nữa, mới đọc dô thấy mệt rồi . Mệt mà lỡ yêu rồi biết làm răng đây hihi. Cuốn ni đọc bữa vài chương nhẩn nha thôi, hông đọc 1 lần được đâu, vì ông dịch dễ điên lắm ???? Khuya khuya đem ra đọc : “Đứa con bé bỏng của ta ơi, các vị mục sư và ta, không cùng thờ chung một thượng đế - ông bố trả lời tôi như thế, lúc tôi gắng nói (gói nắng) gọi nắng xuân về cho kiều diễm nở hoa - con đừng có nằn nì nài nỉ nông nổi náo nức nữa, con sẽ làm cho ta nổi đóa đấy. Đó là những chuyện mà có lẽ mai sau con sẽ hiểu nếu con không quá giống quá nhiều quá quá là quá giống bà má của con quá đỗi chao ôi ! Đó con ạ !” Mô phật, tui trích đoạn 1 chút cho bà con đọc thử, hễ không hợp với kiểu dịch ni thì đừng mua sách đọc rồi chửi dịch giả hỉ ???? Riêng tui thì đọc dô như thường và cũng thấy hay như thường . Yêu nhứt là Bùi Giáng lúc nào cũng ưng nói lái - một đặc trưng để nhận ra người xứ Quảng dù họ có sinh sống ở bất cứ nơi đâu.   *** André Paul Guillaume Gide (22 tháng 11 năm 1869 – 19 tháng 2 năm 1951) là một trong những nhà văn xuất chúng của thế kỷ 20, người đoạt giải Nobel Văn học năm 1947. Sáng tác đầu tay của ông là cuốn tự truyện Les cahiers d'André Walter (Những cuốn vở của André Walter, 1891) viết bằng thơ và văn xuôi đầy chất thơ, kể về sự giằng xé, giày vò giữa thể xác và tâm hồn và sự tìm kiếm lối thoát trong các hình thái thần bí và thanh cao của tình yêu. Do bị bệnh lao không phải chịu quân dịch, những năm 1893-1894 André Gide du lịch sang Algérie và Tunisia, nơi ông phát hiện ra mình là người đồng tính luyến ái. Thời gian khủng hoảng kéo dài được ghi nhận bởi sự bất ổn tinh thần và những kiếm tìm chân lý thể hiện trong truyện vừa Le Retour de l'Enfant prodigue (Cuộc trở về của đứa con du đãng, 1907). Về mặt phong cách, Gide đã khắc phục lối viết cầu kì ban đầu, đến với một ngôn ngữ giản dị rõ ràng. Năm 1908, ông trở thành người đồng sáng lập Tổng quan mới của nước Pháp, một trong những tạp chí có ảnh hưởng đối với sự phát triển nền văn học Pháp và thế giới. Tiểu thuyết châm biếm Les Caves du Vatican (Những động ngầm dưới Vatican, 1914) đặt vấn đề về sự chấp nhận một cách mê muội những tín ngưỡng và lý tưởng. Năm 1926, tiểu thuyết Les Faux-monnayeurs (Những kẻ làm bạc giả) ra đời mang lại nhiều thành công cho ông, đó là một đóng góp thực sự vào sự phát triển thể loại tiểu thuyết. Một năm sau khi xuất bản truyện vừa Thésée (Theseus, 1946) - mà ông coi như một bức di thư văn học - André Gide được bầu làm Giáo sư Danh dự trường Đại học Oxford và được tặng giải Nobel năm 1947. Năm 1950, André Gide xuất bản tập cuối cùng của bộ Journal (Nhật kí). Ông mất năm 1951 ở Paris.   Những nhân vật của Gide đều mang bóng dáng cuộc đời ông, như ông từng viết: “Kẻ khác có thể đã viết nên một tập sách; nhưng câu chuyện tôi kể ra đây, tôi đã hồi tưởng lại bằng cả tâm hồn”. Để hiểu về những tác phẩm gây chấn động của Gide, cần nhìn lại chính đời ông. Gide sinh ra vốn là đứa trẻ nhạy cảm, sống bản năng. Về sau, ông lại gặp thêm quá nhiều bão táp trường đời: Mất cha từ nhỏ, chiến tranh liên miên, bệnh tật và đặc biệt là cú sốc năm 26 tuổi, khi ông phát hiện ra mình là người đồng tính. Trước đó, Gide đã mối tình lãng mạn kéo dài với cô em họ Madeleine Rondeaux từ khi ông mới là cậu bé 12 tuổi (ông đã hồi tưởng lại mối tình đầy ngang trái này trong tác phẩm Khung cửa hẹp). Phát hiện này khiến ông bị rối loạn cảm xúc. Về sau, ông vẫn trân trọng và cưới Rondeaux nhưng đồng thời chạy theo những mối tình đồng giới và thật bất ngờ, lại có con với một người phụ nữ khác. Như con thiêu thân, Gide lao vào những cuộc sa đọa trác táng và không ngần ngại phô bày trên trang giấy. Nhiều người đã lên án Gide kịch liệt, coi những tác phẩm của ông như liều thuốc độc cho người đọc. Bạn bè trong giới văn chương cũng có phần dè chứng ông. Nhưng Gide không vì thế mà chùn bước. Ông vẫn trung thành với bản chất con người, coi thường những hình thức phù phiếm, giả tạo. Ông nâng tầm quan điểm của mình lên thành triết lý trong Kẻ vô luân, kể về Michel, kẻ vượt qua mọi rào cản đạo đức trong hành trình nổi loạn để khám phá con người thật của mình. Mời các bạn đón đọc Trường Học Đờn Bà của tác giả André Gide.
Đẹp Là Một Nỗi Đau
Một phụ nữ, chết đã hai mươi mốt năm, sống lại. Hoàn toàn bằng xương bằng thịt, trở lại cõi đời từ dưới nấm mồ. Ở thế giới nào khác, đây có thể là chuyện hoang đường, quỷ dị, nhưng trong thế giới của Đẹp là một nỗi đau thì không. Và, đến cả cái đẹp truyền kiếp của những phụ nữ trong gia đình Dewi Ayu dường như cũng vừa hoang đường quỷ dị vừa bình thường, hợp lẽ. Qua bao biến động và thăng trầm lịch sử của Indonesia, từ thời thuộc địa Hà Lan cho tới Thế chiến thứ hai với sự hiện diện bạo tàn của phát xít Nhật, rồi thời độc lập với cuộc xung đột một mất một còn giữa thế lực tư bản đang lên và những người cộng sản trung kiên, những người đàn bà đó, dẫu có làm gì, dẫu được xã hội gọi là gì, vẫn luôn là họ, những phụ nữ đẹp cả bên ngoài lẫn bên trong, để rồi đều được số phận đáp lại bằng một cách mà họ không chờ đợi. Nếu sắc đẹp là một trong những đặc tính vĩnh hằng của gia tộc này và có lẽ của cả Halimunda, quê nhà họ, thì nỗi đau cũng là một đặc tính vĩnh hằng. Đẹp là một nỗi đau, tiểu thuyết đầu tay của Eka Kurniawan, viết khi tác giả chưa đầy ba mươi tuổi, là một tác phẩm đẹp, đau, thực sự khó quên. *** Sau khi lau chùi vũ khí, sửa chữa mũ mãng, đặt cho ngựa và cho mình một cái biệt hiệu khá oai, chàng thấy còn một việc nữa là phải tìm một tình nương, vì một trang hiệp sĩ giang hồ không có người yêu ví như cây không lá không quả, như xác không hồn. - Miguel de Cervantes, Don Quijote *** Một buổi chiều cuối tuần tháng Ba, Dewi Ayu bước ra khỏi ngôi mộ của bà sau khi đã chết hai mươi mốt năm. Một thằng bé chăn cừu, bừng tỉnh sau giấc ngủ ngày dưới gốc cây đại, đã tè cả ra quần và hét toáng lên, rồi cùng với bốn con cừu chạy tán loạn giữa những tấm bia mộ bằng gỗ như thể người ta vừa ném một con hổ vào giữa chúng. Mọi chuyện bắt đầu từ tiếng động phát ra từ ngôi mộ cũ có tấm bia không tên ngập trong cỏ dại cao tới gối nhưng ai cũng biết đó là mộ của bà Dewi Ayu. Bà qua đời ở tuổi năm mươi hai và sống lại sau khi chết hai mươi mốt năm, và từ thời điểm đó trở đi không ai biết làm thế nào để tính chính xác tuổi của bà. Nghe thằng bé chăn cừu kể lại chuyện xảy ra, người trong xóm liền đổ tới chỗ ngôi mộ. Cuốn lại mép xà rông, bế theo con cái, ôm khư khư cán chổi, lấm bùn ngoài ruộng, họ tụ tập sau mấy bụi anh đào, rặng dầu mè và trong các vườn chuối gần đó. Không ai dám lại gần, họ chỉ lắng nghe tiếng ầm ào phát ra từ ngôi mộ cũ như thể đang túm tụm quanh người bán thuốc rong chào hàng ngoài chợ mỗi sáng thứ Hai. Tất thảy đám đông đều thích thú với cảnh tượng đáng sợ này, không hề bận tâm rằng giả như họ chỉ có một mình thì một nỗi kinh hoàng như thế chắc hẳn đã khiến họ chết khiếp rồi. Họ thậm chí còn chờ đợi một điều kỳ lạ nào đó, chứ không phải mỗi ngôi mộ cũ ồn ào, bởi người đàn bà nằm dưới ba thước đất đó từng là gái điếm cho người Nhật trong chiến tranh và đức kyai cũng luôn nói rằng, những người có tội lỗi ô nhục chắc chắn sẽ bị trừng phạt dưới mồ. Chính bởi thế mà âm thanh ồn ào đó dứt khoát là tiếng roi quất của một thiên thần đang đày đọa, nhưng họ dần dà thấy chán và hy vọng có điều kỳ diệu nho nhỏ nào khác nữa. Nhưng khi điều đó xảy ra, nó đến theo cách kỳ khôi nhất. Ngôi mộ rung lắc và rạn nứt, mặt đất bùng nổ tựa như bung ra từ sâu bên dưới, gây ra cơn địa chấn nhỏ và một cơn dông khiến cỏ giả và bia mộ bay ràn rạt, bên dưới làn mưa bụi đất như cả một tấm màn dày đó, xuất hiện hình dáng một người đàn bà lớn tuổi đứng dậy trông bực bội và cứng nhắc, thân thể vẫn bọc trong vải liệm như thể bà mới được chôn đêm trước thôi. Lúc này mọi người đều hoảng loạn chạy tứ tán, thậm chí còn hỗn loạn hơn cả bầy cừu, tiếng la hét của họ dội vang vào những dãy đồi ở phía xa. Một người đàn bà quẳng đứa bé con mình vào bụi cây còn bố nó trốn biệt sau thân cây chuối. Hai người đàn ông lao xuống mương, một số người lăn ra bất tỉnh bên đường trong khi một số người khác nữa chạy một mạch không ngừng mười lăm cây số. Chứng kiến tất cả những điều này, bà Dewi Ayu chỉ ho vài tiếng rồi hắng giọng, khoan khoái thấy mình đang giữa bãi tha ma. Bà cũng gỡ bớt nút thắt cao nhất của tấm lót bộ vải liệm, rồi nới lỏng bớt hai nút thấp nhất để hai chân có thể bước đi. Mái tóc bà đã dài ra một cách kỳ lạ, thế nên khi bà giũ tóc ra khỏi tấm vải hoa quấn quanh, nó xõa ra bồng bềnh trong gió chiều, quét lên mặt đất và óng ánh như lớp địa y đen dưới lòng sông. Tuy đã có nếp nhăn nhưng gương mặt bà vẫn trắng sáng, đôi mắt vẫn linh hoạt chăm chú nhìn đám người đứng xem đang bỏ chạy khỏi chỗ nấp phía sau bờ bụi, một nửa số họ chạy đi, số còn lại sắp ngất xỉu. Bà phàn nàn, không phải riêng với người nào, rằng người ta thật ác độc khi đã chôn sống bà. Điều đầu tiên bà nghĩ tới là đứa con nhỏ của bà, tất nhiên bây giờ nó không còn là đứa trẻ nữa rồi. Hai mươi mốt năm trước, bà đã chết mười hai ngày sau khi sinh hạ một bé gái hình hài gớm ghiếc, nó xấu tới mức bà đỡ khi đó còn không chắc nó có thực sự là một đứa trẻ không nữa, vì cái lỗ nơi nó chui ra và cái lỗ để thải phân chỉ cách nhau có hai xăng ti mét thôi. Nhưng rồi đứa trẻ này oằn mình vặn vẹo và mỉm cười, rốt cuộc thì bà đỡ cũng tin rằng nó thực sự là người chứ không phải phân và nói với mẹ nó, bấy giờ đang nằm mệt lử trên giường và không có vẻ gì khao khát được nhìn thấy con mình, rằng đứa bé đã chào đời, khỏe mạnh và có vẻ dễ gần. “Là con gái phải không?” Dewi Ayu hỏi. “Phải,” bà đỡ đáp, “giống như ba đứa trẻ ra đời trước nó vậy.” “Bốn đứa con gái, đứa nào cũng đẹp,” Dewi Ayu nói với giọng bực bội. “Lẽ ra tôi nên tự mở một nhà chứa mới phải. Nói cho tôi biết con bé này đẹp thế nào đi?” Đứa trẻ được cuốn chặt trong lớp tã bắt đầu oằn mình khóc trong vòng tay bà đỡ. Một người đàn bà đi ra đi vào căn phòng, vơ đống quần áo bẩn dính đầy máu mang đi, vứt bỏ nhau thai và suốt một hồi bà mụ không trả lời vì bà không sao có thể nói đứa trẻ trông giống đống phân đen sì này là xinh đẹp được. Cố tình phớt lờ câu hỏi, bà nói, “Cô đã lớn tuổi rồi, nên tôi e cô không đủ sữa nuôi con đâu.” “Đúng vậy, tôi đã bị ba đứa trước vắt kiệt rồi.” “Và hàng trăm thằng đàn ông nữa.” “Một trăm bảy mươi hai thằng. Người già nhất đã chín mươi, đứa nhỏ nhất mới mười hai, một tuần sau lễ cắt bao quy đầu của nó. Tôi nhớ tất cả bọn họ.” Mời bạn đón đọc Đẹp Là Một Nỗi Đau của tác giả Eka Kurniawan & Nguyễn Thái Hà (dịch )& Dương Kim Thoa (dịch).
Vẫn Có Một Người Đợi Em Nơi Cuối Con Đường
⊹⊱ Phong, anh là ngọn gió mát lạnh thênh thang giữa đất trời trông trói buộc, thế nhưng không biết tự lúc nào, anh đã là ngọn gió ấm áp bên đời em, sưởi ấm con tim em, chỉ riêng em mà thôi. ⊰⊹ ⊹⊱ Có thể một khoảng khắc nào đó trong cuộc đời, anh sẽ không thể bên cạnh em nữa, nhưng em vẫn cứ vẫn tin bước tiếp nhé, vì anh sẽ luôn chờ em ở phía cuối con đường. Dù có khó khăn, giông bão gì, anh vẫn đợi em, đợi em vượt qua nỗi buồn, đợi em vui vẻ nắm lấy tay anh đi hết những quãng đường còn lại. ⊰⊹ ⊹⊱ Anh là ngọn gió, là ánh mặt trời, là tia hy vọng trong cuộc đời em. Vì vậy anh chỉ được thuộc về em, chỉ của một mình em thôi đấy! ⊰⊹ *** 7h30' sáng Sân bay Tân Sơn Nhất Một người con gái nhỏ nhắn, phong cách ăn mặc hơi bụi bặm với chiếc nón lưỡi trai che khuất một phần gương mặt hoàn mĩ đang kéo vali bước ra hòa vào dòng người tấp nập. Đứng lặng trước cửa sân bay, cô dõi mắt xuống đường phố ngoài kia. Sài Gòn lại mưa nữa rồi, sau 10 năm, Sài Gòn vẫn đón chào người con gái bé nhỏ này bằng một cơn mưa. Ừ thì cô thích mưa, rất thích nhưng giờ đây, ở tại nơi này, nó lại làm cô nhớ đến những ngày đã từng hạnh phúc trong quá khứ. 10 năm, rất dài mà cũng rất ngắn, những kỉ niệm đẹp đó tưởng chừng như mới xảy ra ngày hôm qua. Cuộc đời này vùi dập cô, đưa cô từ bất hạnh này đến bất hạnh khác. 10 năm qua có được bao nhiêu ngày cô sống trong hạnh phúc thực sự? Có chăng thì cũng chỉ là những nụ cười giả tạo, những giọt nước mắt lặng lẽ rơi trong đêm. Cô không có bất kì một người bạn nào cho đến năm 11 tuổi, mọi người xung quanh đều nhìn cô bằng ánh mắt khinh bỉ, những đứa trẻ cùng trang lứa ai cũng mắng cô là “Đồ mồ côi“. Ừ thì cô mồ côi. Ha, mồ côi nhưng vẫn còn ba - người đàn ông đáng khinh nhất trên đời này. Một chiếc xe sang trọng đỗ xuống trước mặt cô, người lái xe cung kính cúi đầu, cô đưa hành lí cho ông ta rồi lấy một cây dù, bảo ông ta về trước còn mình thì lặng lẽ bước đi ngắm nhìn đường phố Sài Gòn. Sài Gòn thay đổi nhiều quá, ồn ào hơn, tấp nập hơn nhưng cũng buồn hơn... Trời mưa nên rất ít người đi lại trên vỉa hè, cô rảo bước thật chậm, ngắm nhìn dòng người tấp nập vội vã trong cơn mưa. Những con người ngoài kia, chắc ai ai cũng có những hoài bão, những ước mơ cho riêng mình, không như cô, sống chỉ vì một người - một tia hy vọng nhỏ nhoi trong cuộc đời tối tăm lạnh lẽo của cô, một người mà cả đời này có thể cô sẽ không bao giờ gặp lại. Mưa ngày một lớn, tiếng mưa rơi phát ra âm thanh lộp bộp trên chiếc dù của cô, nghe thật vui tai. Đường phố vắng người hơn, thỉnh thoảng mới có một vài chiếc xe lướt nhanh qua. Quả thực bây giờ, cô rất muốn vứt chiếc dù này qua một bên, để cơn mưa lạnh buốt xối thẳng vào người cô.   Mời các bạn đón đọc Vẫn Có Một Người Đợi Em Nơi Cuối Con Đường của tác giả Sky Angels.
Tây Thu Tiểu Công Chúa
Để tôi kể bạn nghe, câu chuyện về cô bé Tây Thu già trước tuổi, con gái nhà bác bán đậu phụ cuối chợ. Cô bé lên cấp ba thì được chuyển vào ngôi trường mới, học cùng với con trai nhà bác bán kim cương đá quý. Đây là một bộ truyện TEEN đích thực, chỉ thích hợp với teen thôi vì nó là một câu chuyện học đường, không quá cao trào, kịch tính, chỉ là vài chuyện linh tinh của một cô bé con, trường lớp bạn bè xung quanh cô. Mình viết bộ này vì mấy bộ kia làm mình stress và ám ảnh kinh khủng nên phải viết cái gì nhẹ nhàng tươi mới cho tâm trạng phấn chấn lên một chút. Là một câu chuyện ONGOING và viết theo cảm xúc và cho nên không có thời gian ra chap cụ thể, có thể ba ngày, một tuần, cũng có lúc bế tắc thì cả tháng. Các bạn cân nhắc trước khi nhảy hố. P/S: Lan Rua’s Story ~ Porcupine & Duck Family. *** Review Ý Văn: Tôi đọc "Tây thu tiểu công chúa" cũng không phải là mới đây và phải nói là tôi đã khá ấn tượng với câu chuyện của Lan Rùa. Chuyện bình thường về một cô bé con bác bán đậu hũ và cậu con trai của đại gia kim cương. Cũng thuộc kiểu mô-tip lọ lem - hoàng tử nhưng bù lại ở đây, Lan Rùa cho tôi một góc truyện mà theo tôi thấy thì nó... mới mẻ hơn. Tây Thu là một cô bé nhà nghèo, nung nấu cho riêng mình một giấc mơ du học. Ngay từ những chương đầu, có thể thấy được sự quyết tâm của Tây Thu lớn đến thế nào. Và dù có chuyện gì xảy ra, Tây Thu cũng nhất định cố gắng cho bằng được. Còn Khôi, là con một đại gia nổi tiếng, là người mà mọi cô nàng trong trường ao ước được ngắm nhìn. Thế nhưng Khôi mắc một chứng bệnh khiến cậu không thể giao tiếp bình thường với mọi người. Cậu chủ động tách biệt ra với lớp, lầm lì và ít nói. Cũng như những gì bọn mình dự đoán được thì Thu là người khiến Khôi chủ động nói chuyện nhiều hơn. Rồi từ đó một tình yêu màu hường thời cấp ba được tô đậm. Văn phòng của Lan Rùa trong tác phẩm này rất hài hước, nhiều đoạn đọc khiến tôi cười ngất. Lắm lúc mà Khôi ghen tuông hờn giận thật sự tuy mình nhìn vào thấy "có thế thôi" nhưng cái sự trong cuộc thì chao ôi, chẳng ai ngờ. Ngoài cặp chính ra còn có cặp Chi - Hưng, cặp đôi chật vật lắm mới đến được với nhau. Bởi ban đầu Chi thích Khôi, và Hưng thì mặc cho điều đó cứ mải mê theo đuổi Chi. Ngoài các tuyến nhân vật trên còn có thêm nhiều những nhân vật khác nữa, đóng góp không nhỏ cho tác phẩm này. Đặc biệt phải kể đến ba mẹ Thu, mẹ Khôi và dì của Khôi. Mặc dù bây giờ đọc lại tuy tôi vẫn thấy tan chảy với tình yêu đẹp đẽ của đôi trẻ nhưng có chút gì đó khiến tôi cảm thấy thật mơ hồ, nội dung có phần hơi trẻ con và không ấn tượng mấy. Dẫu vậy tôi vẫn dành 4/5 sao cho chính những cảm xúc ngày đầu của tôi. Còn bây giờ, 3/5 sao là những gì tôi nhận thấy. Có lẽ... góc nhìn tôi bây giờ khác với tôi ngày xưa. *** Cảnh báo: Đây là một bộ truyện TEEN đích thực, chỉ thích hợp với teen thôi, truyện học đường. Chào các cậu! Hôm nay là sinh nhật lần thứ 14 của tớ. Ba mẹ tặng cho tớ một quyển sổ xinh xắn lắm, dùng để viết nhật kí. Cả đời tớ chưa bao giờ được dùng một quyển sổ đẹp đến vậy, nghe nói trị giá của quyển sổ này tương đương với hai mươi tư bìa đậu. Tớ trước giờ chưa bao giờ viết nhật kí cả, chẳng biết viết gì luôn. Xem nào, nên giới thiệu họ tên trước nhỉ, tớ tên Thu, nhưng vì nhà tớ bán đậu phụ ở cuối chợ nên bạn bè bà con cô bác thường gọi là Tây Thu, so sánh với Tây Thi ấy mà. Khổ nỗi Tây Thi đẹp nghiêng nước nghiêng thành, còn Tây Thu tớ đây, đi đến đâu cũng được nghe người ta khen, con này xấu quá, xấu lạ. -“Thu, đi giao hàng con.” Ba tớ gọi rồi, tạm bỏ bút. Thực ra thì tớ cũng không nghĩ mình xấu tới mức đấy đâu, có chăng chỉ là da đen nhẻm thôi. Biện minh chút xíu nha, da tớ thuở bé trắng lắm đấy, mà tội đi ship tào phớ nhiều nên bị cháy nắng. Ngày xưa nhà tớ chỉ bán hàng ở cuối chợ thôi, nhưng từ ngày tớ lên lớp 7, một lần tình cờ chơi facebook thấy hay hay, liều mình lập page Tây Thu Đậu Phụ, xong chuyển cả qua bán online nữa. Lúc nào tớ rảnh đều phụ ba đi giao hàng, toàn đi bằng xe đạp thôi, đến hơi bị chậm ý, nhưng khách họ hay thương trẻ con lém, không mắng mỏ gì cả. Mẹ tớ về sau làm thêm cả mấy món ăn vặt như nem chua, cóc dầm, xoài dầm, ốc xào…bán chạy không kém gì tào phớ cả, tuy nhiên nghề chính vẫn là làm đậu. Mời các bạn đón đọc Tây Thu Tiểu Công Chúa của tác giả Lan Rùa.