Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

PDF CHÂN LÝ VÀ THỰC TẠI - Krishnamurti - TẢI SÁCH PDF MIỄN PHÍ

Sinh ra gần THÀNH PHỐ MADRAS, Miền nam Ấn Độ, Jiddu Krishnamurti (1895 – 1986). Năm mười bốn tuổi sống dưới quyền giám hộ của Bà Annie Besan, người theo chủ nghĩa xã hội, nhà cải cách, và chủ tịch của Hội Quốc Tế Thông Thiên Học tại Adyar, gần thành phố Madras. Bà và người cộng sự, G,W, Leadbeater tin tưởng rằng Krishnamurti là phương tiện của đấng cứu thế đang giáng lâm như người hội viên Thông Thiên Học đã báo trước. Hội Cứu Tinh Đông Phương, một tổ chức được dành riêng để chuẩn bị cho nhân loại về sự giáng lâm của Đấng Giáo Chủ Thế giới, đã được thành lập năm 1911 với Krishnamurti là người lãnh đạo. Cùng trong năm này, ông được mang sang Anh quốc để được giáo dục riêng và được huấn luyện đảm nhận vai trò sắp tới của mình.Tuy nhiên vào năm 1929, ông đã tuyên bố giải tán Hội Cứu Tinh và từ bỏ tiền bạc và tài sản đã được tích trữ nhân danh ông. Ông đã tuyên bố rằng không thể tìm thấy chân lý thông qua bất kỳ môn phái, phe phái hay tôn giáo nào mà chỉ bằng cách tự giải thoát mình khỏi mọi hình thái qui định tù ngục. “Bạn có thể thành lập một tổ chức khác và kỳ vọng ở người khác”, ông nói, “Điều đó tôi không quan tâm, cả việc tạo ra những chuồng giam mới… Mối quan tâm duy nhất của tôi là giúp con người tự do một cách tuyệt đối, vô điều kiện”. Đã được nhìn nhận từ lâu như một nhà giáo về mặt tâm linh hàng đầu thế giới, Krishnamurti đã cống hiến trọn đời mình cho việc diễn thuyết khắp nơi trên thế giới. Không ở nơi nào lâu quá vài tháng, ông tự nhận mình không thuộc chủng tộc hay quốc gia nào. Nhiều năm qua, các cuộc họp mặt hàng năm ở Ấn Độ, tại Ojai, California, ở Seanen, Thụy Sĩ và Brockwood Park ở Hampshire đã thu hút nhiều ngàn người quốc tịch, nghề nghiệp, nhân sinh quan khác nhau.

Nguồn: dantocking.com

Đọc Sách

CHÂN LÝ VÀ THỰC TẠI - Krishnamurti
Sinh ra gần THÀNH PHỐ MADRAS, Miền nam Ấn Độ, Jiddu Krishnamurti (1895 – 1986). Năm mười bốn tuổi sống dưới quyền giám hộ của Bà Annie Besan, người theo chủ nghĩa xã hội, nhà cải cách, và chủ tịch của Hội Quốc Tế Thông Thiên Học tại Adyar, gần thành phố Madras. Bà và người cộng sự, G,W, Leadbeater tin tưởng rằng Krishnamurti là phương tiện của đấng cứu thế đang giáng lâm như người hội viên Thông Thiên Học đã báo trước. Hội Cứu Tinh Đông Phương, một tổ chức được dành riêng để chuẩn bị cho nhân loại về sự giáng lâm của Đấng Giáo Chủ Thế giới, đã được thành lập năm 1911 với Krishnamurti là người lãnh đạo. Cùng trong năm này, ông được mang sang Anh quốc để được giáo dục riêng và được huấn luyện đảm nhận vai trò sắp tới của mình. Sinh ra gần THÀNH PHỐ MADRAS, Miền nam Ấn Độ, Jiddu Krishnamurti (1895 – 1986). Năm mười bốn tuổi sống dưới quyền giám hộ của Bà Annie Besan, người theo chủ nghĩa xã hội, nhà cải cách, và chủ tịch của Hội Quốc Tế Thông Thiên Học tại Adyar, gần thành phố Madras. Bà và người cộng sự, G,W, Leadbeater tin tưởng rằng Krishnamurti là phương tiện của đấng cứu thế đang giáng lâm như người hội viên Thông Thiên Học đã báo trước. Hội Cứu Tinh Đông Phương, một tổ chức được dành riêng để chuẩn bị cho nhân loại về sự giáng lâm của Đấng Giáo Chủ Thế giới, đã được thành lập năm 1911 với Krishnamurti là người lãnh đạo. Cùng trong năm này, ông được mang sang Anh quốc để được giáo dục riêng và được huấn luyện đảm nhận vai trò sắp tới của mình.Tuy nhiên vào năm 1929, ông đã tuyên bố giải tán Hội Cứu Tinh và từ bỏ tiền bạc và tài sản đã được tích trữ nhân danh ông. Ông đã tuyên bố rằng không thể tìm thấy chân lý thông qua bất kỳ môn phái, phe phái hay tôn giáo nào mà chỉ bằng cách tự giải thoát mình khỏi mọi hình thái qui định tù ngục. “Bạn có thể thành lập một tổ chức khác và kỳ vọng ở người khác”, ông nói, “Điều đó tôi không quan tâm, cả việc tạo ra những chuồng giam mới… Mối quan tâm duy nhất của tôi là giúp con người tự do một cách tuyệt đối, vô điều kiện”. Đã được nhìn nhận từ lâu như một nhà giáo về mặt tâm linh hàng đầu thế giới, Krishnamurti đã cống hiến trọn đời mình cho việc diễn thuyết khắp nơi trên thế giới. Không ở nơi nào lâu quá vài tháng, ông tự nhận mình không thuộc chủng tộc hay quốc gia nào. Nhiều năm qua, các cuộc họp mặt hàng năm ở Ấn Độ, tại Ojai, California, ở Seanen, Thụy Sĩ và Brockwood Park ở Hampshire đã thu hút nhiều ngàn người quốc tịch, nghề nghiệp, nhân sinh quan khác nhau.
CỔ NHÂN ĐÀM LUẬN (1929) - TRẦN TRUNG VIÊN
 Bào-Thúc tiến   Quản-Trọng  lên   Hoàn-Công. Tề Hoàn-Công hỏi Quản-Trọng chính-trị và gây-dựng kỷ-cương trong nước. Trọng thưa: « Lễ, nghĩa, liêm, sỉ, là bốn mối lập kỷ-cương. » Bào-Thúc tiến  lên . Tề Hoàn-Công hỏi Quản-Trọng chính-trị và gây-dựng kỷ-cương trong nước. Trọng thưa: « Lễ, nghĩa, liêm, sỉ, là bốn mối lập kỷ-cương. »— Làm thế nào mà sai-khiến được dân?— Muốn khiến dân trước phải yêu dân.— Đạo yêu dân thế nào?— Trên dưới cùng sửa-sang, cùng dúp nhau, cùng chia lợi lộc, dùng người hiền, chính-lệnh nghiêm. — Cách sử-dân thế nào?— Sĩ, nông, công, thương, trong tứ dân, con kẻ nào nối nghiệp kẻ đó, luyện-tập, yên phận, chớ đổi nghệ, thì dân yên.— Nước nghèo thì làm thế nào?— Đào núi lấy tiền, gạn bể lấy muối, đem dao-thông, thu tài vật thiên hạ về, thì giầu.Vua tôi cùng nhau đàm-đạo suốt ba ngày không chán, rồi Hoàn-Công bái Quản-Di-Ngô lên làm tướng-quốc, trong có vài năm mà nước Tề nên được nghiệp Bá.
MẶC HỌC (MẶC TỬ VÀ BIỆT HỌC) - NGUYỄN HIẾN LÊ
Trong tập Hồi kí, cụ Nguyễn Hiến Lê cho biết về cuốn Mặc học như sau:Từ năm 1977, được nhàn rỗi, tôi lại tiếp tục nghiên cứu hết các triết gia lớn đời Tiên Tần, để thực hiện xong chương trình tôi đã vạch từ sáu năm trước và soạn thêm năm cuốn nữa: Mặc Học, Lão Tử, Luận Ngữ, Khổng Tử, Kinh Dịch.– Mặc học (gồm Mặc Tử và phái Biệt Mặc) Đạo Mặc là đạo Khổng của bình dân, do một tiện nhân thành lập. Mặc Tử sinh sau Khổng Tử, chịu ảnh hưởng của Khổng, cũng tôn quân, trọng hiền, đề cao đạo đức và sự tu thân như Khổng, nhưng chống Khổng ở chỗ ghét lễ nghi, cho nó là phiền phức, xa xỉ, ghét ca nhạc, mà lại có tinh thần tín ngưỡng rất mạnh. Đạo Mặc gần như một tôn giáo, tổ chức cũng chặt chẽ như một tôn giáo. Nó chỉ thịnh ở thời Chiến Quốc, các thời sau không một triều đại nào dùng nó vì thuyết kiêm ái và bỏ chính sách mĩ thuật, sống khắc khổ của nó không hợp nhân tình, nhưng nó có ảnh hưởng khá lớn: mở đường cho Lão Tử vì nó chủ trương bình đẳng giữa các giai cấp (không kẻ giàu người nghèo) và trở về lối sống bình dị; mở đường cho cả pháp gia nữa vì trọng quyền lực, trọng lao động và buộc người dưới phải thống nhất tư tưởng với người trên, buộc dân phải cáo gian…Mặc Tử mất rồi, chỉ trong vài thế hệ, môn đồ không còn giữ chủ trương của ông nữa, bỏ hẳn chính trị, đạo đức, mà suy tư về tri thức, biện luận, khoa học (hình học, lực học, quang học)… khiến cho triết học Trung Hoa có được vài nét của triết học phương Tây thời Hi Lạp. Đó là một cống hiến đáng kể của bọn môn đệ Mặc Tử mà người ta gọi là phái Biệt Mặc.Gần đây các học giả Trung Hoa rất chú ý tới Mặc học vì họ nghĩ rằng giá triết học đó không bị dìm trong mấy ngàn năm thì chưa biết chừng Trung Hoa đã có tôn giáo, khoa học như phương Tây. Một lẽ nữa là chính sách của Mặc Tử có vài điểm hợp với chế độ cộng sản.Ở nước ta, mới chỉ có Ngô Tất Tố giới thiệu Mặc Tử trong một tập mỏng. Bộ của tôi dày 350 trang, nửa trên về Mặc Tử, nửa dưới về Biệt Mặc, gọi chung là Mặc học. Tôi lại trích dịch mười chín thiên quan trọng nhất của Mặc Tử. Ông có giọng một nhà truyền giáo: hùng hồn, bình dị, lập đi lập lại để đập vào óc thính giả.Đọc cuốn Mặc học chúng ta thấy có rất nhiều chỗ cụ dịch lại những đoạn mà trước kia hai cụ và cụ Giản Chi đã dịch trong Đại cương triết học Trung Quốc, và một phần do vậy mà nhận định của cụ về học thuyết của Mặc tử trong tác phẩm đó nhiều chỗ cũng không giống nhau. Ngay trong cuốn Tuân tử cũng có chỗ khác biệt với cuốn Mặc Học. Trong cuốn Tuân tử, hai cụ bảo:“Tuân Tử rất đề cao nhạc, cho nên ông lấy làm quái về cái chủ trương “phi nhạc” của Mặc gia vì Mặc kết tội nhạc là thứ nhạc của bọn cầm quyền, xa xỉ, không ích gì cho dân, mà tốn của dân. Trái lại, Tuân Tử năm lần, bảy lượt, nhắc đi nhắc lại câu hỏi: “Mặc Tử chê nhạc nghĩa là làm sao?” (Nhi Mặc Tử phi chi nại hà?). Và ông kết luận: Mặc đáng làm tội: “Thế mà Mặc Tử lại cho lễ nhạc là không phải thì thật đáng làm tội” (Nhi Mặc Tử phi chi, cơ ngộ hình dã).Thật ra, kết tội Mặc thì oan cho Mặc. Không phải Mặc không biết trọng lễ nhạc. Không phải Mặc chỉ thấy cái lợi của cái “hữu” mà không thấy cái dụng của cái “vô”. Cũng không phải Mặc không biết cái lẽ “ngựa kéo mãi không nghĩ, cung dương mãi không buông, giống có huyết khí ai mà chịu nổi” (Lời Trịnh Phồn phê bình chủ trương “phi nhạc” của Mặc trong Tam Biện). Sở dĩ Mặc “phi nhạc” là vì dân chúng đương thời cùng khổ quá mà đối với trăm họ đói rét thì cơm áo cấp thiết hơn âm nhạc, ca vũ và các bộ môn nghệ thuật khác nhiều. Có lẽ chỉ giản dị như thế thôi!”Còn trong cuốn Mặc học, cụ Nguyễn Hiến Lê bác ý kiến trên. Sau khi dẫn một đoạn trong thiên Công Mạnh, cụ kết như sau:“Rõ ràng Mặc tử bắt mọi người phải khắc khổ như ông, mạc sát nhạc và mọi mĩ nghệ, không hiểu rằng nhạc, nếu tốt, có công dịch tục, mà có mĩ nghệ thì kinh tế mới phát triển được. Ông bảo nhu cầu của dân mệt thì được nghỉ ngơi, mà ông quên rằng nghe nhạc là một cách nghỉ ngơi rất tốt; ông chỉ lo tận lực làm việc, sản xuất cho thật nhiều, nhưng ca nhạc có thể giúp cho năng suất tăng lên mà quên mệt, tức như các điệu dân ca khi đi cấy, các điệu hò chèo thuyền v.v… Ngày nay tại các xí nghiệp lớn, người ta còn cho thợ vừa làm việc vừa nghe những bản nhạc êm đềm nữa”.Sau cuốn Mặc học, cụ Nguyễn Hiến Lê còn soạn thêm một số tác phẩm nữa, trong đó có bộ Sử Trung Quốc. Trong Mặc học, cụ nêu thuyết vua Nghiêu truyền ngôi cho vua Thuấn như sau:“Theo truyền thuyết, vua Nghiêu trị vì 100 năm, từ 2357 đến 2257, rồi nhường ngôi cho vua Thuấn chứ không truyền lại cho con. Vua Thuấn trị vì từ 2255 đến 2207, rồi nhường ngôi cho vua Vũ (nhà Hạ) chứ không truyền ngôi cho con. Hai ông ấy rất thương dân, rất bình dân, được dân coi như cha. Và dân tộc Trung Hoa từ thời Tiên Tần đến thời Thanh, đều coi thời thịnh trị của Nghiêu, Thuấn là hoàng kim thời đại của họ. Truyền thuyết đó đáng tin đến mức nào, chưa ai quyết đoán được; có thể hai ông ấy chỉ là tù trưởng của một bộ lạc lớn thời mà Trung Hoa mới biết canh tác, theo chế độ thị tộc, chưa thành một quốc gia, mà việc “truyền hiền” chứ không “truyền tử” chỉ là tục chung của các bộ lạc chứ không phải là “đức lớn” của Nghiêu, Thuấn: khi họ chết thì lựa người nào có tài, có công lớn hơn cả, đưa lên thay họ, họ không có quyền truyền ngôi cho ai hết”.Còn trong bộ Sử Trung Quốc, cụ lại nêu một thuyết khác. Cụ bảo:“Nghiêu và Thuấn chỉ là tù trưởng của một thị tộc. Có thể Nghiêu được nhiều bộ lạc liên hiệp bầu làm thủ lĩnh (mỗi bộ lạc gồm nhiều thị tộc). Nghiêu, Thuấn lên ngôi cách nhau cả trăm năm như truyền thuyết chép lại thì khó có sự Nghiêu nhường ngôi cho Thuấn được: lúc đó Nghiêu bao nhiêu tuổi, Thuấn bao nhiêu tuổi? Có lẽ Thuấn là thủ lĩnh nhiều bộ lạc khác, sau chiếm được đất đai của Nghiêu, rồi thay Nghiêu mà làm “thiên tử”.
AI CẬP SINH TỬ KỲ THƯ
Ai Cập sinh tử kỳ thư là cẩm nang chỉ dẫn cho linh hồn hướng tới sự bất tử của Ai Cập cổ đại. Trong đó, "Bản thảo của Ani" là cuốn bản thảo ghi chép hoàn chỉnh nhất nội dung của Ai Cập sinh tử kỳ thư. Theo như những gì ghi chép trong cuốn sách, cuộc hành trình mà linh hồn phải trải qua để được bất tử sau khi chết thật ly kỳ và lắm gian nan. Sau khi người ta ta chết đi, linh hồn của họ sẽ trở về cõi âm, sau đó đi qua từng con đường nhỏ âm u dưới sự hướng đạo của thần chỉ dẫn và chiến thắng các loài ma quỷ đáng sợ. Trong quá trình tôi luyện này, chính linh hồn cũng không ngừng trưởng thành, họ dần dần hồi phục được các khả năng như khi còn sống , đồng thời cũng có được các phép màu thần thông... Ai Cập sinh tử kỳ thư là cẩm nang chỉ dẫn cho linh hồn hướng tới sự bất tử của Ai Cập cổ đại. Trong đó, "Bản thảo của Ani" là cuốn bản thảo ghi chép hoàn chỉnh nhất nội dung của Ai Cập sinh tử kỳ thư. Theo như những gì ghi chép trong cuốn sách, cuộc hành trình mà linh hồn phải trải qua để được bất tử sau khi chết thật ly kỳ và lắm gian nan. Sau khi người ta ta chết đi, linh hồn của họ sẽ trở về cõi âm, sau đó đi qua từng con đường nhỏ âm u dưới sự hướng đạo của thần chỉ dẫn và chiến thắng các loài ma quỷ đáng sợ. Trong quá trình tôi luyện này, chính linh hồn cũng không ngừng trưởng thành, họ dần dần hồi phục được các khả năng như khi còn sống , đồng thời cũng có được các phép màu thần thông... Ai Cập sinh tử kỳ thư - Đồ giải được biên soạn dựa theo tác phẩm nổi tiếng nói trên của người Ai Cập. Tác giả đã tiến hành giải thích những lời kinh sâu xa, khó hiểu, làm rõ mối quan hệ của từng nội dung, đồng thời xâu chuỗi chúng lại thành một câu chuyện hoàn chỉnh. Nét đặc sắc của cuốn sách là đã sử dụng khá nhiều hình minh họa quý giá trong "Bản thảo của Ani", tiến hành giải thích theo trình tự của lời kinh để ý nghĩa rõ ràng và người đọc có thể nắm bắt các nội dung một cách dễ dàng hơn. Ai Cập sinh tử kỳ thư - Đồ giải được biên soạn dựa theo tác phẩm nổi tiếng nói trên của người Ai Cập. Tác giả đã tiến hành giải thích những lời kinh sâu xa, khó hiểu, làm rõ mối quan hệ của từng nội dung, đồng thời xâu chuỗi chúng lại thành một câu chuyện hoàn chỉnh. Nét đặc sắc của cuốn sách là đã sử dụng khá nhiều hình minh họa quý giá trong "Bản thảo của Ani", tiến hành giải thích theo trình tự của lời kinh để ý nghĩa rõ ràng và người đọc có thể nắm bắt các nội dung một cách dễ dàng hơn.“Ani đứng trước một cái cân khổng lồ bằng vàng, nơi mà vị thần có cái đầu chó – Anubis – đang cân trái tim của chàng với một cái lông đà điểu thuần khiết”. Ani là một nhân vật có thật, một người thơ lại ở thành phố Thebes, Ai Cập sống vào khoảng thế kỷ 13 TCN. Và những gì được mô tả ở trên là một cảnh tượng trong cuốn Ai Cập sinh tử kỳ thư (Sách của người chết) của chàng, một cuộn giấy cói dài 24 mét được viết để giúp chàng đạt tới sự bất tử. Loại “điếu văn” này vốn chỉ được viết cho các Pharaoh, nhưng cùng với thời gian, người Ai Cập bắt đầu tin rằng kể cả người thường cũng có thể đến được kiếp sau nếu họ hoàn thành được cuộc hành trình. Hành trình thần thánh của Ani bắt đầu từ cái chết của chàng. Thân thể chàng được một nhóm tu sĩ đem đi “ướp xác”, bằng cách lấy mọi cơ quan nội tạng ra khỏi cơ thể, chỉ trừ lại trái tim, nơi tập trung cảm xúc, trí nhớ và sự thông thái. Sau đó, cơ thể được nhồi bằng một thứ muối gọi là natron và được gói lại trong 1 tấm vải tẩm nhựa thông. Ngoài ra, tấm vải bọc còn được yểm và bên trên trái tim còn đặt thêm một lá bùa hình con bọ hung, thứ mà sau mày sẽ cần dùng tới. Mục đích của quá trình kéo dài 2 tháng này là để bảo quản thi hài của Ani ở dạng hoàn hảo nhất để linh hồn của chàng về sau có thể nhập trở lại. Nhưng trước hết, linh hồn đó phải qua được “duat”, hay gọi là “âm phủ”. Đây là một vương quốc với các hang động rộng lớn, hồ lửa và những cánh cổng thần kì, tất cả đều được gác bởi những con quái vật đáng sợ như rắn, cá sấu, và những quái vật nửa người, có tên, ví dụ, như “kẻ tắm máu”. Để khiến mọi thứ kinh khủng hơn, Apep, vị thần hủy diệt hình con rắn khổng lồ, luôn nấp trong bóng tối, chờ cơ hội nuốt linh hồn của Ani. May mắn thay, Ani đã chuẩn bị trước các pháp thuật, ghi trong cuốn sách của mình. Như những người Ai Cập khác, Ani ghi trong cuộn giấy của mình những thần chú, lời kinh và mật mã mà chàng nghĩ rằng linh hồn chàng sẽ cần đến. Với những vũ khí này, người hùng của chúng ta vượt qua mọi trở ngại, đẩy lùi những cuộc tấn công của quái vật và khéo léo tránh được Apep, đến được tới Sảnh của Ma’at, nữ thần của sự thật và công lý. Ở đây, Ani đối mặt với thử thách cuối cùng. Chàng bị phán xét bởi 42 vị thần, những người sẽ phán xét xem liệu chàng đã sống một cuộc đời ngay thẳng hay chưa. Ani tới chỗ từng người, gọi họ bằng tên riêng, và nói ra một tội chàng chưa từng phạm phải. Trong những lời thú nhận hay khẳng định mình vô tội này, chàng tuyên bố rằng chưa từng làm ai khóc, không phải là kẻ rình mò, và chưa từng làm ô uế nguồn nước. Ani thực sự có một cuộc đời hoàn hảo đến như vậy? Không hẳn, nhưng đây là lúc lá bùa bọ hung phát huy tác dụng. Lá bùa có ghi dòng chữ “Đừng làm chứng chống lại ta”, như vậy trái tim chàng sẽ không phản bội lại chàng bằng việc gợi lại lần chàng nghe lỏm người hàng xóm cãi nhau hay rửa chân ở dòng sông Nile. Giờ mới là giây phút quyết định của Ani, cuộc “cân trái tim”. Nếu trái tim chàng nặng hơn chiếc lông vũ, tức là nó đã bị kéo xuống bởi những điều sai trái của Ani, nó sẽ bị cắn xé bởi con quái vật Ammit, nửa cá sấu, nửa báo và nửa hà mã, và Ani sẽ bị biến mất mãi mãi. Nhưng Ani đã gặp may. Trái tim chàng được phán là thuần khiết. Ra, vị thần mặt trời, đưa chàng tới chỗ Osiris, vị thần âm phủ, người cuối cùng sẽ cho phép Ani bước sang thế giới bên kia. Trên cánh đồng lau bất tận và tươi tốt, Ani gặp lại cha mẹ đã chết của mình. Nơi đây, không có nỗi buồn, đau đớn hay giận dữ, chỉ có công việc phải hoàn thành. Như những người khác, Ani phải trồng trọt trên mảnh đất của mình, việc này chàng được trợ giúp bởi con búp bê Shabti đặt trong mộ của chàng. Ngày nay, cuộn giấy của Ani được trưng bày ở bảo tàng Anh, nơi ở của nó kể từ năm 1888. Chỉ có mình Ani biết được điều gì đã diễn ra sau khi chàng chết. Nhưng nhờ có Cuốn sách của chàng, ta có thể tưởng tượng ra chàng vẫn mãi mãi canh tác trên cánh đồng của mình. “Ani đứng trước một cái cân khổng lồ bằng vàng, nơi mà vị thần có cái đầu chó – Anubis – đang cân trái tim của chàng với một cái lông đà điểu thuần khiết”.Ani là một nhân vật có thật, một người thơ lại ở thành phố Thebes, Ai Cập sống vào khoảng thế kỷ 13 TCN. Và những gì được mô tả ở trên là một cảnh tượng trong cuốn Ai Cập sinh tử kỳ thư (Sách của người chết) của chàng, một cuộn giấy cói dài 24 mét được viết để giúp chàng đạt tới sự bất tử. Loại “điếu văn” này vốn chỉ được viết cho các Pharaoh, nhưng cùng với thời gian, người Ai Cập bắt đầu tin rằng kể cả người thường cũng có thể đến được kiếp sau nếu họ hoàn thành được cuộc hành trình.Hành trình thần thánh của Ani bắt đầu từ cái chết của chàng. Thân thể chàng được một nhóm tu sĩ đem đi “ướp xác”, bằng cách lấy mọi cơ quan nội tạng ra khỏi cơ thể, chỉ trừ lại trái tim, nơi tập trung cảm xúc, trí nhớ và sự thông thái. Sau đó, cơ thể được nhồi bằng một thứ muối gọi là natron và được gói lại trong 1 tấm vải tẩm nhựa thông. Ngoài ra, tấm vải bọc còn được yểm và bên trên trái tim còn đặt thêm một lá bùa hình con bọ hung, thứ mà sau mày sẽ cần dùng tới. Mục đích của quá trình kéo dài 2 tháng này là để bảo quản thi hài của Ani ở dạng hoàn hảo nhất để linh hồn của chàng về sau có thể nhập trở lại. Nhưng trước hết, linh hồn đó phải qua được “duat”, hay gọi là “âm phủ”.Đây là một vương quốc với các hang động rộng lớn, hồ lửa và những cánh cổng thần kì, tất cả đều được gác bởi những con quái vật đáng sợ như rắn, cá sấu, và những quái vật nửa người, có tên, ví dụ, như “kẻ tắm máu”. Để khiến mọi thứ kinh khủng hơn, Apep, vị thần hủy diệt hình con rắn khổng lồ, luôn nấp trong bóng tối, chờ cơ hội nuốt linh hồn của Ani. May mắn thay, Ani đã chuẩn bị trước các pháp thuật, ghi trong cuốn sách của mình. Như những người Ai Cập khác, Ani ghi trong cuộn giấy của mình những thần chú, lời kinh và mật mã mà chàng nghĩ rằng linh hồn chàng sẽ cần đến. Với những vũ khí này, người hùng của chúng ta vượt qua mọi trở ngại, đẩy lùi những cuộc tấn công của quái vật và khéo léo tránh được Apep, đến được tới Sảnh của Ma’at, nữ thần của sự thật và công lý. Ở đây, Ani đối mặt với thử thách cuối cùng. Chàng bị phán xét bởi 42 vị thần, những người sẽ phán xét xem liệu chàng đã sống một cuộc đời ngay thẳng hay chưa. Ani tới chỗ từng người, gọi họ bằng tên riêng, và nói ra một tội chàng chưa từng phạm phải. Trong những lời thú nhận hay khẳng định mình vô tội này, chàng tuyên bố rằng chưa từng làm ai khóc, không phải là kẻ rình mò, và chưa từng làm ô uế nguồn nước. Ani thực sự có một cuộc đời hoàn hảo đến như vậy? Không hẳn, nhưng đây là lúc lá bùa bọ hung phát huy tác dụng. Lá bùa có ghi dòng chữ “Đừng làm chứng chống lại ta”, như vậy trái tim chàng sẽ không phản bội lại chàng bằng việc gợi lại lần chàng nghe lỏm người hàng xóm cãi nhau hay rửa chân ở dòng sông Nile. Giờ mới là giây phút quyết định của Ani, cuộc “cân trái tim”. Nếu trái tim chàng nặng hơn chiếc lông vũ, tức là nó đã bị kéo xuống bởi những điều sai trái của Ani, nó sẽ bị cắn xé bởi con quái vật Ammit, nửa cá sấu, nửa báo và nửa hà mã, và Ani sẽ bị biến mất mãi mãi. Nhưng Ani đã gặp may. Trái tim chàng được phán là thuần khiết. Ra, vị thần mặt trời, đưa chàng tới chỗ Osiris, vị thần âm phủ, người cuối cùng sẽ cho phép Ani bước sang thế giới bên kia. Trên cánh đồng lau bất tận và tươi tốt, Ani gặp lại cha mẹ đã chết của mình. Nơi đây, không có nỗi buồn, đau đớn hay giận dữ, chỉ có công việc phải hoàn thành. Như những người khác, Ani phải trồng trọt trên mảnh đất của mình, việc này chàng được trợ giúp bởi con búp bê Shabti đặt trong mộ của chàng.Ngày nay, cuộn giấy của Ani được trưng bày ở bảo tàng Anh, nơi ở của nó kể từ năm 1888. Chỉ có mình Ani biết được điều gì đã diễn ra sau khi chàng chết. Nhưng nhờ có Cuốn sách của chàng, ta có thể tưởng tượng ra chàng vẫn mãi mãi canh tác trên cánh đồng của mình.