Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Viên Tướng của Nhà Vua - Daphne Du Maurier

Tác phẩm Le Géneral du Roi (Viên tưởng nhà vua) được đề tựa là "Thiếu nữ tật nguyền thời ly loạn" khi xuất bản, đạt một con số kỷ lục về phát hành: một triệu bản bán hết sạch trong vòng ba tháng bên Hoa Kỳ và được dịch ra 20 thứ tiếng. Tác phẩm nhằm mô tả mối tình nghiệt ngã giữa một cô gái tật nguyền và một viên tướng chọc trời khuấy nước. Nhân vật trung tâm của thiên tiểu thuyết này là một cô gái sinh ra và lớn lên trong một gia đình danh giá ở Cornouailles, Anh quốc, nhưng cũng như bao gia đình khác, sớm bị cuốn hút vào cuộc nội chiến năm 1642 giữa hai phe: một bên là quân đội bảo hoàng trung thành với vua Charles Stuart, bên kia là lực lượng phiến loạn của Hội đồng Nghị Viện. Honor Harris (tên cô gái, nhân vật chính trong truyện) từ lúc quen biết với Richard Grenvile, viên tướng nhà vua ở miền tây, đã bị gia đình phê phán nghiêm khắc, vì Richard mang nhiều tai tiếng và tính khí lạ thường của ông ta không gây thiện cảm với mọi người. Gia đình ép Honor lấy một thanh niên khác, nhưng Honor nhất định cự tuyệt. Cuối cùng gia đình phải thuận cho cô ta làm lễ đính hôn với người mình yêu. Gần đến ngày đám cưới, Richard tổ chức một cuộc đi săn bằng chim ưng. Nhưng cuộc đi săn hào hứng ban đầu lại kết thúc bằng tấn thảm kịch: Honor bị ngã ngựa xuống vực và từ đó hai chân bị bại liệt vĩnh viễn. Tai nạn trên xảy ra một phần do ác ý của Gartred, em gái của Richard. Giữa Honor và Gartred có mối thù từ lâu, khi Gartred còn là chị dâu của Honor, vì Honor không thích tính tình lẳng lơ của chị dâu, ngược lại Gartred ghét tính soi mói của em chồng. Ngay sau khi bị tai nạn và phải chịu tật nguyền suốt đời, Honor trở về nhà xưa ở Lanrest và quyết không cho Richard gặp mặt nữa. Cuối năm đó, Honor được tin người yêu đi lấy vợ. Richard lấy vợ không phải vì yêu, nhưng nhắm vào gia tài của vợ để thanh toán nợ nần. Cũng vì thế họ sớm ly dị với nhau, tuy rằng đã có với nhau một trai, một gái. Đứa con trai tên Dick, ngay từ nhỏ đã chứng kiến cảnh cha mẹ ẩu đả, cảnh máu đổ, nên nó rất oán hận cha nó. Giữa hai cha con luôn xảy ra mâu thuẫn gay gắt. Người cha là hình ảnh hung thần, thích bạo lực và chém giết. Đứa con là biểu tượng của sự yếu đuối tinh thần lẫn thể xác. Năm 1642, nội chiến bùng nổ khắp nước Anh. Phe phiến loạn ủng hộ Nghị Viện do các danh tướng Fairfax và Cromwell chỉ huy dần dần thắng thế. Trong nội bộ phe bảo hoàng ủng hộ Đức Vua, tướng Richard lại không được tin dùng. Năm 1646, phe bảo hoàng bị đánh tan trên toàn cõi nước Anh. Hoàng tử de Galles cùng ban tham mưu phải lưu vong bên Pháp, mưu đồ sự nghiệp khôi phục ngai vàng. Điều đáng nói ở đây là trong cuộc nội chiến huynh đệ tương tàn này, vai trò của Honor, thiếu nữ tật nguyền, không phải là lu mờ. Trái lại chính cô là hình ảnh tiêu biểu của ngươi phụ nữ trong thời chiến với những đức tính dũng cảm, nhẫn nại và thủy chung. Chính Honor đi theo, động viên người yêu trên đường chinh chiến. Chính Honor giúp đỡ hai cha con Richard trốn thoát khỏi sự truy lùng của phe thắng thế. Chính Honor là người khích lệ, an ủi mọi người trong gia đình khi xứ sở lâm vào cảnh bị chiếm đóng. Nữ văn sĩ Daphné du Maurier khi viết tác phẩm này đã dựa trên một số tài liệu có thật, liên quan đến giòng họ Rashleig trong cuộc nội chiến 1642. Trong bối cảnh lịch sử có thật đó, bằng bút pháp chan chứa tình cảm, bà đã lồng vào một mối tình ngang trái của người thiếu nữ tật nguyền hiền lành nhưng không kém phần khôn ngoan với một viên tướng khét tiếng hung bạo, nhưng trung thành với lý tưởng. *** Tháng chín 1653. Cuối hè. Những ngọn gió lạnh đầu tiên của mùa thu. Khi tôi thức dậy, ánh sáng mặt trời không tràn vào cửa sổ hướng đông như thường lệ nữa. Vầng thái dương biếng nhác chỉ đi qua phía trên đỉnh đồi sau làn gió. Một làn sương mù trắng thường che khuất vịnh cho đến giữa trưa, tỏa vào không trung một hơi thở buốt giá. Đồng cỏ không sao khô được và đến trưa vẫn còn ướt đẫm đươi ánh nắng. Những giọt nước treo lơ lửng, bất động trên đầu các ngọn cỏ. Tôi chú ý đến thủy triều hơn. Mỗi lần biển rút xuống, bãi cát khô tỏa rộng thêm, với những đường gợn đều đặn. Trong trí tưởng tượng của tôi lại xuất hiện những giấc mơ xưa như loài sò hến cùng những tảng đá nhô mình ra khi làn nước rút xuống. Một cảm giác lạ lùng, phơi phới xâm chiếm hồn tôi khi mơ về quá khứ. Tôi không hối tiếc gì, trái lại tôi sung sướng và hãnh diện. Trên trời những đám mây đã lẫn trốn và mặt trời bây giờ đã lên cao, những tia nắng ấm chào đón thủy triều lên. Tôi có cảm tưởng vào giữa trưa biển vẫn xuống khi mà hy vọng trong lòng dâng lên cao nhất và tâm hồn tôi lắng đọng. Sau đó, tôi cảm thấy một bóng mờ tỏa lên và niềm vui tan biến. Những đám mây đầu tiên của chiều tối lại ló dạng, vươn dài những ngón tay trên bầu trời biển. Mặt nước căng phẳng, chiếm dần bãi cát. Không còn đá trắng và sò hến nữa. Bãi biển đã bị che lấp và những giấc mơ của tôi cũng bị chôn vùi cùng với màn đêm, biển đã chiếm lại những gì đã mất. Chính vào lúc này Matty đến thắp sáng các ngọn đèn, khều lửa trong lò sưởi và bận rộn với công việc. Nếu tôi trả lời vắn tắt, hay không trả lời, cô ta sẽ gật đầu, nhắc rằng mùa thu là mùa đau khổ của tôi. Nỗi sầu thu của tôi. Nhớ lại những ngày xa xưa, khi còn thanh xuân, tôi đã sớm hiểu thế nào là nỗi sầu thu trong khi Matty sừng sộ xua đuổi người khách: "Hôm nay cô Honor không tiếp khách". Gia đình đã quen để tôi yên. Bình yên! Hai chữ khá mỉa mai đủ mô tả những nổi tuyệt vọng đen tối mà tôi là nạn nhân... Quái!... Đã khá xa rồi những cơn khủng hoảng, những phút giây đau khổ thể xác mà tôi không thể tìm được thảnh thơi. Đó là những cuộc đấu tranh để sinh tồn của tuổi thanh xuân. Tôi không nổi loạn nữa. Những năm tháng đã trôi qua. Phần thưởng đã đến với sự chịu đựng. Điều bất hạnh là tôi không thể đọc sách nhiều như khi xưa nữa. Lúc còn hai mươi lăm tuổi, sách là niềm an ủi lớn lao của tôi. Là một học trò giỏi, tôi say mê học tiếng Hy lạp và tiếng La tinh. Sự học đã chiếm một phần lớn trong cuộc đời tôi. Còn bây giờ, học có ích lợi gì? Đã từng ngông cuồng khi còn trẻ, tôi e rằng sẽ còn ngông hơn theo tuổi tác. Robin cũng đoán chắc thế. Tội nghiệp Robin. Thời gian cũng không buông tha anh. Năm nay Robin đã già đi rất nhiều. Có lẽ vì lo lắng cho tôi. Tôi biết Matty và anh đã bàn bạc về tương lai khi họ tưởng rằng tôi ngủ. Tôi nghe tiếng thì thầm của hai người trong phòng khách. Nhưng mỗi khi đứng trước mặt tôi, Robin làm bộ tịch vui vẻ khiến tôi đau lòng. Ôi người anhyêu dấu của tôi. Khi anh ngồi bên tôi, bằng cái nhìn phán đoán mà tôi chỉ có đối với những người tôi thương yêu, tôi nhận thấy hai túi lệ đường nặng trỉu dưới đôi mắt anh, hai bàn tay vừa run rẩy vừa mồi ống điếu. Có phải anh đấy không, con người có trái tim thư thái và tinh thần đầy đam mê? Ai đã xông ra chiến trường, tay nắm chim ưng? Ai, mới cách đây mười năm đã cùng với Bevil Grenvile đưa quân đến Braddock Down giương lá cờ đỏ chói với ba sọc vàng óng ánh trước mắt quân thù? Anh có phải là người mà có lần tôi thấy đấu kiếm với tình địch dưới ánh trăng, chỉ vì một người đàn bà không chung thủy? Bây giờ nhìn anh thật buồn cười. Ông anh Robin đáng thương của tôi, với những lọn tóc lỏa xỏa xuống tận vai. Phải, những lo âu của chiến tranh đã để lại dấu vết trên hai chúng tôi. Chiến tranh và những người thuộc huyết thống Grenvile. Có lẽ Robin vẫn luôn gắn bó với Gartred, như tôi gắn bó với Richard. Chúng tôi không bao giờ đề cập đến những vấn đề đó. Chúng tôi chỉ còn lại cuộc sống vô vị của từng ngày. Vả lại, trọng giới hạn bạn bè của chúng tôi, ít ai mà không chịu đựng đau khổ. Có nhiều người đã khuất hoặc tan nát cửa nhà. Tôi không quên rằng Robin và tôi chỉ sống bằng tiền cứu tế. Nếu Jonathan Rashleigh không cho chúng tôi ngôi nhà này, chúng tôi không có lấy một nơi trú ngụ. Lanrest không còn nữa và Radford thì bị chiếm đóng. Jonathan có vẻ rất già và mệt mỏi, sau một năm cay nghiệt bị tù đày ở Saint - Mawes cùng với cái chết của con trai là John. Mary vẫn không thay đổi. Có lẽ phải thêm một cuộc nội chiến nữa mới mong đánh đổi được tính cương quyết trầm tĩnh và đức tin của chị ta nơi Chúa. Alice và các con vẫn ở với họ, nhưng Peter đã quên Alice và không bao giờ đến thăm cô ta nữa. Tôi nghĩ đến cái thời mà tất cả chúng tôi tụ tập trong hành lang dài. Alice và Peter cùng cất tiếng hát, John và Joan hơ tay gần đống lửa. Ai cũng trẻ trung cả! Phải nói như trẻ con! Ngay cả Gartred với ác ý có tính toán, cũng không thể phá tan bầu không khi vui nhộn của buổi tối hôm ấy.. Nhưng Richard, Richard của tôi, vừa mỉm cười, vừa đưa ra một lời nhận xét tàn nhẫn làm mọi người cụt hứng, nỗi vui tan biến. Tôi tưởng chừng căm ghét Richard nhưng hoàn toàn hiểu tính khí chàng. Ôi! Cầu Chúa xui khiến những người thuộc giống họ Grenvile này phải xấu hổ - sau này tôi nghĩ thế - khi họ chỉ gây buồn phiền cho người khác, khi chỉ cần đổi giọng họ biến vui sướng thành đau thương. Làm sao mà họ, Richard và Gartred, có thể tìm thấy được khoái cảm qua những lối nói tàn nhẫn đó? Ác thần nào đã hộ mệnh họ từ khi còn nằm trong nôi? giữa họ và Bevil khác nhau biết bao! Bevil, con người lịch sự nghiêm trang, niềm nở, đạo đức, yêu mến con mình và con người khác. Các con trai của ông ta đều xứng đáng. Jack và Bunny không hề có tật xấu. Nhưng Gartred! Đôi mắt lim dim dưới mái tóc óng ánh, cái miệng dâm đặt và hơi thô. Tôi không bao giờ ngờ rằng, ngay cả cái hồi Gartred thành hôn với Kit, cô ta có thể đánh lừa được ai. Khăn sắc của cô ta thật quyến rũ. Cha mẹ tôi như sắp mcm dưới những ngón tay nhào nặn của cô la. Còn ông anh Kit đáng thương ngay từ lúc đầu đã biến thành nô lệ, cũng như Robin sau này. Nhưng tôi không bao giờ nhường nhịn cô ta. Sắc đẹp của cô ta thật nguy hiểm và luôn luôn nguy hiểm, tôi nghĩ thế. Cô ta sẽ mang theo xuống mồ một vét sẹo dài mỏng từ mắt xuống miệng, dấu ấn của một nhát dao. Vậy mà vẫn còn được nhiều người say mê. Người cuối cùng bị Gartrcđ hớp hồn có thể sẽ là một người thuộc giòng họ Carcy, ở Bedford gần đấy. Tôi tin điều ấy dễ dàng. Bây giờ thì mọi sự đã qua, tôi vẫn có thể khoan dung tha thứ cho cô ta phần nào. Hình ảnh cô ta bỡn cợt với George Carcy - cô ta lớn hơn Carcy hai mươi tuổi - dù sao cũng gieo một ám hiệu tươi vui trong một xã hội u ám. Thật là một xã hội ảm đạm! Những khuôn mặt buồn thảm, áo quần xốc xếch bằng vải len thô. Những năm mất mùa, kinh doanh sa sút, ai cũng nghèo hơn trước và trong dân gian là cảnh khốn cùng. Hậu quả của chiến tranh. Mật thám của viên Công tước Bảo hộ tung hoành khắp thành thị và làng xã. Người ta bỏ tù ngay bất cứ kẻ nào mà họ nghi ngờ là phản bội. Các viên trưởng lão khắt khe nắm quyền và chỉ có những kẻ biết trục lợi thành công, như Frank Buller và Robert Bennett hoặc kẻ thù xưa của chúng tôi là John Robartes. Ai cũng cố trục lợi trên sự đầy đoạ của những con người đau khổ trong xã hội. Những hành động thô bạo, thái độ lịch thiệp chỉ còn là một kỷ niệm xa xưa. Ai cũng nghi ngờ láng giềng của mình. Thật là một xã hội ghê tởm. Người Anh nào đó bảo có thể chấp nhận chế độ này, nhưng chúng tôi, người dân ở Cornouailles thì không. Họ sẽ không bao giờ cướp đoạt được độc lập của chúng tôi và trong một hoặc hai năm nữa, khi mà những vết thương đã liền da, chúng tôi sẽ nổi dậy một lần nữa. Máu sẽ chảy một lần nữa. Lại thêm những cảnh đau lòng. Nhưng chúng tôi chỉ thiếu người chỉ huy. A! Richard! Richard của tôi. Ma quỷ nào đã xui khiến chàng bất hoà với mọi người, và khiến Đức Vua trở thành kẻ thù của chàng? Lòng tôi thương xót chàng lâm vào nổi bất hạnh cuối cùng này. Tôi thấy chàng âu sầu, bị mọi người bỏ rơi, ngồi bên cửa sổ, dõi mắt nhìn trên đất nước Hà Lan bằng phẳng, đang viết hồi ký để tự bào chữa mà Bunny đã kể sơ cho tôi nghe những nét chính, sau lần đi thăm Richard. "Đừng tin tưởng vào các ông Hoàng, lẫn con cái của họ. Họ chẳng giúp ích gì cho mọi người". Những lời lẽ cay đắng, tuyệt vọng, không mang lại một điều gì hay, và chỉ là nguồn gốc của những nỗi đau mới. Vì lòng tự phụ mà ngài Richard Grenvile, bị người ta tuyên bố coi như một tướng cướp và lòng trung tín thật sự của ngài được đánh giá là một tội ác. Nếu ngài ta quả thật đáng chê trách, thì cầu Chúa hãy ban cho Đức Vua những người cố vấn trung thành, và cầu mong rằng không ai trong những người này sẽ làm điều gì trái ý Thánh Thượng và những người thuộc giòng dõi hoàng lộc. Còn về phần ngài Richard Grenvile, hãy để ngài ra đi với phần thưởng được là cựu chiến binh của Đức Vua. Bây giờ ngài không biết giúp ích được gì. Mong rằng Hội đồng cố vấn sẽ nghĩ đến ngài, khi cần đến, nếu chưa quá trễ. Biết bao cảm giác, bao tự hào và bao cay đắng cho đến lúc kết thúc. Bởi vì đã đến lúc kết thúc. Tôi biết điều ấy và chàng cũng thế. Nỗi đau không thuốc chữa chàng đã tự hại mình mãi mãi. Mọi người, bạn và thù, đều sợ và ghét chàng. Đại tướng của Đức Vua ở miền Tây, Người mà tôi yêu một thời gian ngắn sau khi đảo Sorlingues bị mất, Jack và Bunny đã đến thăm tôi. Chúng tôi đã nói về Richard và ngay lập tức Jack lên tiếng: Chú Richard của cháu đã thay đổi nhiều. Cô khó nhận ra được chú ấy. Chú ngồi hàng giờ, im lặng, nhìn mưa rơi bất tận qua của sổ của căn phòng xoàng xĩnh - Lạy Chúa! trời mưa ở Hà Lan! - và chú không muốn nhìn thấy mặt ai. Chắc cô còn nhớ khi xưa chú thích bông đùa, cười cợt với chúng cháu và giới trẻ? Còn bây giờ, nếu chú ấy nói, chỉ để chỉ trích, như một người già cau có, la rầy người khác Hoàng thượng sẽ không bao giờ dùng chú Richard nữa, và chú ấy biết thế - Bunny nói - Sự bất hòa với triều đình khiến chú bực tức. Chú ấy thật điên khùng mới khêu lại ngọn lửa thù hận xưa với Hyde. Jack sáng suốt hơn và khi nhìn thấy mắt tôi, nói rất nhanh: Chú cháu luôn luôn là kẻ thù ghê gớm nhất của ông ta. Cô Honor cũng biết điều đó, phải không? bây giờ chú ấy chỉ còn một mình. Và những năm sắp tới chỉ là trống rỗng. Chúng tôi giữ im lặng một hồi lâu. Tim tôi đau nhói vì Richard. Bọn trẻ cũng cảm biết được điều ấy. Chú ấy không bao giờ nói về Dick - Bunny tiếp tục câu chuyện, hạ thấp giọng - có lẽ chúng ta không bao giờ biết được số phận buồn thảm của Dick ra sao. Tôi cảm thấy rùng mình sợ hãi. Tôi quay mặt đi để bọn trẻ không nhìn thấy mặt tôi. không - tôi chậm rãi nói - Chúng ta sẽ không bao giờ biết. Bunny nhịp ngón tay trên bàn, còn Jack vô tình lật những trang sách. Tôi nhìn mặt nước lặng yên dưới vịnh và những thuyền nhỏ đánh cá từ Gorran Haven đến và đang từ từ vượt qua núi Đầu Đen. Trong ánh hoàng hôn, những cánh buồm mang màu vàng óng. Nếu Dick bị rơi vào tay quân thù - Bunny nói tiếp Tại sao người ta lại dấu diếm sự việc này? Tôi không trả lời. Bên cạnh tôi, Jack ngồi không yên. Có lẽ đám cưới - nó mới lấy vợ từ mấy tháng nay - khiến nó mẫn cảm hơn. Tôi hiểu rằng nó đã cảm nhận được nỗi sầu não của tôi. Trở về quá khứ thì có ích gì? - Jack nói - Chúng ta chỉ làm buồn cô Honor thôi. Ít phút sau đó, cả hai hôn tay tôi và từ giã ra về, hứa rằng sẽ trở lại thăm tôi trước khi quay về Pháp. Tôi nhìn chúng phi ngựa xa dần, dáng điệu trẻ trung, tự do, vô tư. Tương lai là của chúng. Một ngày kia, Đức Vua sẽ trở về với dân tộc đang đợi ngài. Jack và Bunny đã từng anh dũng chiến đấu vì ngài, sẽ được trọng thưởng. Người ta sẽ quên đi cuộc nội chiến, quên đi thế hệ trước chiến tranh, thế hệ đã đổ vỡ và thất bại, thế hệ không có gì có thể đền bù lại được. Tôi nằm dài trên ghế, nhìn bóng hoàng hôn xuống dần. Lúc đó Robin bước vào và đến ngồi gần tôi, hỏi thăm tôi có mệt không với vẻ ân cần trìu mến. Anh có ý tiếc vì không gặp được anh em nhà Grenvile và kể lại cho tôi nghe một vài vụ bê bối được đưa ra xử trước tòa án Tywardrcath. Tôi giả bộ lắng tai nghe, nhưng thương hại nghĩ đến tầm quan trọng mà Robin gắn cho những sự việc nhỏ nhặt thường ngày nàv. Nhớ khi xưa, anh ta cùng với các đồng đội đã để lại danh tiếng bất hủ bằng lòng quả cảm bảo vệ lâu dài Pendennis, tuy không thành công, trong nhiều tháng bi thảm của năm 1646. Lúc ấy tất cả chúng tôi đều hãnh diện vì Robin... Vây mà bây giờ anh ta cử lẩm cẩm nhắc đi nhắc lại vụ một bà góa ò St.Blazcy bị mất trộm năm con gà mái. Chính vào lúc ấy, lần đầu. Tiên tôi có ý nghĩ tự giải thoát mình khỏi gánh nặng đè nén bằng cách viết lại hồi ký của những năm mới qua đây. Chiến tranh! Chiến tranh đã thay đổi cuộc sống của chúng tôi như thế nào? chiến tranh đã xâm nhập vào chúng tôi, đã hủy diệt tâm hồn chúng tôi, đã đưa số phận chúng tôi đến chỗ bế tắc. Gartred và Robin, Richard và tôi, cả gia dinh Rashleigh, chen chúc trong ngôi nhà đầy bí ẩn này, vậy mà có ai ngờ rằng chúng tôi đã rã đám? Hiện nay, chỉ còn Robin đi dùng cơm tối ở Menabilly vào mỗi chủ nhật. Tôi không tham dự, lấy lý do vì tình trạng sức khỏe. Vì những điều tôi biết, tôi không thể trở lại nơi đó. Menabilly, nơi xảy ra thảm kịch cuộc đời chúng tôi, lại quá gần chỗ tôi đang ở chỉ cách ba dặm. Ngôi nhà vẫn trống rỗng và điêu tàn như khi xưa khi tôi gặp lại nó lần cuối cùng vào năm 1648. Jonathan không đủ can đảm lẫn tài chánh để trùng tu nó lại, khiến nó càng trở nên tồi tệ hơn trước, Jonathan và Mary cùng con cái chỉ ở một cánh nhà. Tôi cầu xin Chúa cho họ đừng biết gì đến thảm kịch cuối cùng. Chỉ có hai người sẽ mang điều bí ẩn này theo xuống mồ, đó là Richard và tôi. Chàng đang ở Hà Lan, xa tới hàng trăm dặm. Còn tôi đang yên nghĩ ở Tywardcath. Bóng tối u ám đang lượn trên đầu hai chúng tôi. Ngày chủ nhật, khi Robin đi tới Menabilly, tinh thần tôi tháp tùng anh ta. Trí lưởng tượng của tôi theo Robin băng qua hoa viên, đến những bức tường cao bao quanh ngôi nhà. Sân trống trải, mặt tiền hường tây của nhà như nhìn ngó tôi. Những tia nắng cuối cùng lọt vào căn phòng xưa của tôi, phía trên cao, bởi ví tấm rèm được kéo lên. Những cửa sổ phòng bên thì đóng kín, bên ngoài chằng chịt những mầm cây leo, rêu phủ đầy vách đá trên phía trên cửa sổ. Mặt trời biến dạng và một lần nữa mặt tiền phía tấy của ngôi nhà lại quay về với bóng tối. Chính nơi đó gia đình Rashleigh ăn ở. Họ đi ngủ dưới ánh đèn và mơ mộng. Nhưng tôi, cách đó ba dặm, ở Tywardcath, tôi giật mình thức dậy trong đêm ngỡ rằng đang nghe tiếng con trẻ gọi tôi trong nỗi kinh hoàng, ngỡ rằng nghe những ngón tay của nó cào vào vách tường và trong đem tăm tối, hình ảnh con trai của Richard hiện ra sống động. Tôi ngồi bật dậy, toàn thân ướt đẫm mồ hôi. Matty, người hầu trung tín, nghe tôi thức dậy, vội đến thắp sáng đèn. Cô ta sắc thuốc cho tôi uống, xoa bóp sống lưng đau nhức cho tôi, và choàng một tấm khăn rộng lên hai vai tôi. Trong phòng bên, Robinvẫn chìm đắm trong giấc ngủ không có chiêm bao. Tôi cố đọc, nhưng đầu óc tôi quá bị ám ảnh, không thể tìm thấy thảnh thơi. Matty mang đến cho tôi giấy và ngòi bút lông.Tôi bắt đầu viết. Tôi có nhiều điều muốn nói, nhưng thời gian còn lại của tôi có thể đếm được. Tôi không lầm đâu. Mặc dù vẻ mặt của Robin cố che đậy, nhưng bản năng riêng của tôi báo trước cho tôi biết rằng mùa thu này sẽ là mùa thu cuối cùng của tôi. Và trong khi mọi người còn tranh cãi về những lời bào chữa của Richard qua cuốn hồi ký, trong khi cuốn sách của chàng sẽ được người đời xếp cho một chỗ đứng trong văn khố của thế kỷ Mười bảy này, thì những gì tôi viết đây sẽ theo tôi xuống tận đáy mồ, và sẽ tan rã thành bụi cùng với thân xác tôi. Tôi sẽ nói vì Richard, những gì mà chàng không bao giờ nói cho chính mình. Tôi sẽ chứng tỏ rằng, mặc dù những lỗi lầm của Richard, vẫn có thể có một người phụ nữ yêu chàng bằng cả tâm hồn lẫn trí tuệ - và người đàn bà ấy chính là tôi. Tôi viết lúc giữa đêm, dưới ánh sáng ngọn đèn dầu. Chuông nhà thờ vang lên báo hiệu những giờ đầu canh. Không một tiếng động nào khác vọng đến tôi ngoài những lời than thở của gió bên ngoài cửa sổ và tiếng thầm thì của thủy triều đang dâng lên tràn ngập bãi cát đến tận vũng nước tù dưới cầu St.Blazey. Mời các bạn đón đọc Viên Tướng của Nhà Vua của tác giả Daphne Du Maurier.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Anh Chồng Stockholm, Người Tình Paris và Cậu Bạn Thân Bangkok - Travelling Kat
Nhiều khả năng ngay khi bạn lật giở những trang đầu tiên của Anh chồng Stockholm, người tình Paris và cậu bạn thân Bangkok, bạn sẽ có cảm giác rằng bạn đang gặp môt cô gái, một người mà bạn đã quen từ lâu, vẫn hay nhỏ to và đi cà phê với bạn, khoác tay bạn tung tăng đi khắp nơi và ngồi cạnh cho bạn tựa vào những khi ánh mặt trời trong bạn chợt tắt, cô gái với nước da rám nắng, đôi mắt nâu thẳm long lanh, cái miệng luôn cười và đôi chân thì nhẹ nhàng như gió. Bạn cũng sẽ mỉm cười, lắc lư bờ vai và chớp nhẹ đôi mắt, như thể nhìn thấy chính bản thân mình trong cuốn sách, ở thì quá khứ, hiện tại, hoặc tương lai. Anh chồng Stockholm, người tình Paris và cậu bạn thân Bangkok là một hành trình đi qua rất nhiều thành phố và rất nhiều cung bậc của cảm xúc. Theo những trang viết, bạn sẽ đến thăm một khu rừng kì lạ nằm giữa con phố trung tâm của Bali, những sân ga - minh chứng lịch sử ở Berlin, những kiến trúc xinh xắn uốn lượn theo những con đường trên bề mặt gập ghềnh của Oslo, những xưởng thủy tinh, thêu ren tinh xảo ít người biết tới ở Venice, khu phố đèn đỏ ở Amsterdam, những con phố ở Bangkok hồ hởi trong sự đan xen giữa những khu nhà sang trọng, những đền chùa cổ kính và những xe hàng dạo…; bạn sẽ gặp gỡ những con người Thụy Điển vẻ ngoài xa cách nhưng kì thực lại mang một trái tim ấm áp vô cùng, những cô gái Marimekko rực rỡ và quyến rũ, những “nàng Juliet” của Câu lạc bộ Juliet ở Verona.. Bạn cũng sẽ gặp ở đó những chàng trai, những khoảnh khắc lãng mạn, những rung động chớm nở và cả nỗi nhớ nhung day dứt, tình yêu thương và mối gắn kết gia đình, những niềm thân thương hướng về quê hương…  Trong cuốn sách còn có những phần ghi chú nhỏ rất dễ thương được tác giả góp nhặt từ cuốn sổ tay trong mỗi chuyến hành trình, đó có thể là một vài đều thú vị mà người viết vừa đọc được trong một cuốn sách nào đó, công thức nấu một món ăn, công thức đắp mặt nạ dưỡng da hoặc những bí kíp và chú ý khi đi du lịch . Giống như cái tên Anh chồng Stockholm, người tình Paris và cậu bạn thân Bangkok, mỗi địa danh mà người viết đi qua không chỉ đơn thuần là Paris, Venice, Bangkok, Praha, Amsterdam, Prague…, mà tác giả đặt cho nó những cá tính - như những gì cô cảm nhận về nó, đó là Venice đỏng đảnh, Amsterdam bỡn cợt, Nora nhỏ xinh, Milan đỏm dáng, Helsinki rạng rỡ, Oslo kiêu hãnh, Prague mong manh… Tất cả, đều giống như những cô gái, hoặc, những phần tính cách trong một cô gái “Đây là một cuốn sách tình yêu hơn là một cuốn sách du lịch.” Tác giả đã tự nhận xét như vậy. Và có lẽ vì thế, không giống như những cuốn sách hành trình khác, trong Anh chồng Stockholm, người tình Paris và cậu bạn thân Bangkok, bạn sẽ không có những bức ảnh chụp về những địa danh mà tác giả nhắc tới trong cuốn sách, mà thay vào đó, bạn sẽ có những bức tranh. Bởi cảm xúc chẳng bao giờ rõ ràng được như những ô màu pixel,  mà đó là những gì chúng ta vẽ lại trong trái tim và ký ức của mình. Travelling Kat trẻ, và đầy nữ tính. Cái nữ tính nguyên thủy, chứ không phải thứ nữ tính bó buộc trong khuôn phép của truyền thống, trong lề thói và trong khối óc của xã hội. Cái nữ tính ấy len lỏi trong từng dòng chữ của cuốn sách, làm nên một hương vị rất khác, một màu sắc rất khác của Anh chồng Stockholm, người tình Paris và cậu bạn thân Bangkok. Bạn có thể chọn giữa việc đọc hoặc không đọc cuốn sách này. Nhưng nếu phần nữ tính trong bạn thôi thúc bạn hãy giữ cho mình một cuốn, thì hãy đọc cuốn sách vào những lúc bạn hoàn toàn thư thả, có thể là dịp cuối tuần hoặc những buổi sáng sớm, bên chiếc bàn và khung cửa sổ của bạn. Không cần, và đừng đọc hết một lèo, hãy nhâm nhi từng chút một, đọc nó xen kẽ với những cuốn sách khác, như thể thỉnh thoảng lại hẹn hò với cô bạn thân của mình vậy. *** Tôi thường bỏ qua trang “Lời nói đầu” khi đọc sách. Tôi thích đọc một cuốn sách trần trụi như cách nó được viết ra chứ không cần lời giải thích của tác giả. Sau khi đọc hết cuốn sách, tôi mới trở lại phần “Lời nói đầu” để đọc xem mình có cảm giống tác giả không. Tôi sẽ hoặc là gật gù đồng ý với tác giả, hoặc bĩu môi bất bình. Tôi nghĩ chắc không ít bạn đọc cũng có thói quen tương tự. Thế nên, tôi sẽ viết lời nói đầu này để trình bày “ý đồ” của mình trong cuốn sách; nhưng tôi không lấy làm phiền lòng nếu bạn đọc nó cuối cùng. Câu hỏi đầu tiên: Cuốn sách của tôi dành cho ai? Tôi không dùng những tham số thường gặp như độ tuổi, nghề nghiệp, môi trường để xác định đối tượng độc giả của mì nh bởi lẽ nhìn qua thống kê Insight của trang Facebook, tôi nhận ra tôi có bạn đọc từ 13 đến trên 65 tuổi, còn nghề nghiệp, nơi sống thì đủ cả. Trò chuyện với một vài người trong số họ và theo dõi phản hồi, tôi nhận ra, họ lãng mạn, nữ tính, có máu phiêu lưu (có thể không quá nhiều hoặc rất nhiều). Họ có khi cũng nghiêm túc và có khi cũng điệu đà. Một số nghiêm túc một cách điệu đà và số khác điệu đà một cách nghiêm túc. Một số trong họ khá mơ mộng; một số lại hơi bi quan và suy nghĩ nhiều. Họ đơn giản là rất phụ nữ hay ít ra là quan tâm nhiều đến cái chất phụ nữ. Tôi yêu thích cái suy nghĩ đó (suy nghĩ thiên về cảm tính hơn là dựa trên những con số – cũng rất phụ nữ). Vì thế, tôi chọn đối tượng bạn đọc của tôi là phụ nữ và những người quan tâm đến cái chất phụ nữ ấy. Tôi đã nghĩ sẽ sắp xếp những bài viết trong cuốn sách này theo thứ tự nào: khu vực địa lý, thời gian đi, hay thời gian viết? Tôi quyết định “tuân” theo thời gian viết bởi cuốn sách này không phải một cuốn sách hướng dẫn du lịch hay nhật ký hành trình. Đây là cuốn sách ghi lại hành trình cảm nhận của tôi: cảm nhận một thành phố, một đất nước, một nền văn hóa lẫn với xúc cảm về những chàng trai và những mối quan hệ. Bạn có thể thấy tôi hờn ghét Venice đỏng đảnh, yêu mù quáng Paris, ngơ ngác trước vẻ bỡn cợt của Amsterdam hay mong manh như Prague... Bạn cũng gặp ở đây anh bạn thân của tôi, người tình tôi yêu đơn phương, những anh chàng tôi cảm nắng, những người đàn ông tôi ngưỡng mộ nhưng không muốn cặp kè, những người đàn ông tôi muốn cặp kè mà không được, người đàn ông tôi sẽ lấy làm chồng và cả những anh chàng, hmm... không ra gì. Họ đến rồi đi. Tôi hờn ghen, yêu thương rồi thay đổi. Với tôi, trình tự cảm nhận như vậy còn quan trọng hơn ngày tôi đến thành phố hay khu vực địa lý đó bởi nếu tôi không ghi lại, sẽ chẳng có một cuốn lịch hay tập bản đồ nào nhớ hộ tôi. Rồi, tôi quyết định chia cuốn sách thành hai phần. Tôi gọi tên nhóm bài viết trong phần 1 là “Anh chàng Stockholm, Người tình Paris và Cậu bạn thân Bangkok”. Với tôi, mỗi thành phố là một thực thể sống. Mà thực thể ấy nhất định phải có cảm xúc. Yêu ghét thôi chưa đủ, có khi còn bay bổng, hờn giận, phụ bạc, lạnh lùng, cuồng nhiệt, chán nản hay ủy mị. Những tính cách ấy được tạo dựng nên bằng thời tiết, kiến trúc, món ăn, con người... Mà có khi được “đơm đặt” bởi chính tôi với đám cảm xúc tôi đeo vào người trước và trong suốt chuyến đi. Thông qua câu chuyện về các chuyến đi, các thành phố, bạn thấy tôi dại khờ, háo hức, sai lầm, can đảm và trưởng thành. Mà tôi là một cô gái Việt điển hình, không hay ho hơn, không cực đoan hơn nên rất có thể bạn sẽ tìm thấy mình trong đó. Phần 2, tôi lấy tên của một bài viết “Trên con đường phiêu lưu, phụ nữ vẫn là phụ nữ.” Chúng ta vi vút trên những nẻo đường, cầm máy ảnh kiên cường giữa sa mạc cát nhưng chúng ta vẫn là phụ nữ. Chúng ta đi du lịch với những nỗi nhớ nhà ngày Tết, với chút ấm áp trong căn bếp mùa Đông của quế, hồi, thảo quả và vẫn có vài lấn cấn nhỏ rất phụ nữ. Sổ tay ghi lại những công thức món ăn nếm thử trên đường, vài công thức làm đẹp của những người bạn đồng hành. Chúng ta – nói thẳng ra – không bao giờ đi du lịch một mình bởi đồng hành cùng chúng ta là cái chất phụ nữ đó. Có lẽ vì thế, cuộc hành trình trở nên mềm mại như trái tim chúng ta. Tôi mong bạn thích cuốn sách này. Tham lam hơn, tôi mong bạn cất lại nó trên giá sách hay trên bàn cà phê để thi thoảng đọc lại. Chính vì thế, tôi và những người bạn của Travelling Kat đã bỏ công đầu tư những thêm thắt ở phần bìa, bưu ảnh, hay những trang ngắn để khi bạn nhìn thấy là mỉm cười. Tôi nghĩ bạn cũng giống tôi và những người phụ nữ nói chung: hạnh phúc vì những điều nhỏ nhoi nhưng tinh tế. Thân, Travelling Kat Mời các bạn đón đọc Anh Chồng Stockholm, Người Tình Paris và Cậu Bạn Thân Bangkok của tác giả Travelling Kat.
Những Mảnh Đời Đen Trắng - Nguyễn Quang Lập
Những mảnh đời đen trắng là một tác phẩm mạnh và dứt khoát. Là cuộc xung đột giữa hai tầng lớp xã hội, hai quan điểm sống khác nhau. Giữa hai thế hệ già và trẻ, giữa lớp người có quá khứ oai hùng và lớp ngưới không được quyền có quá khứ. Giữa lớp bần cố nông làm chủ tập thể, làm chủ tình thế và lớp trí thức tiểu tư sản “đầu thai nhầm thế kỷ, bị quê hương ruồng bỏ giống nòi khinh”. Cả hai giai tầng đều đáng thương mà không đáng trách. Một bên có khả năng nhận thức mà không được sử dụng. Một bên không có khả năng mà phải gánh vác những công việc quá sức mình. “Họa sĩ Tư và Thùy Linh đứng cúi đầu trước nấm mồ trắng lạnh, hương trầm đang nghi ngút. Dưới nấm mồ kia là đại úy Thìn, con người vừa đáng trọng vừa đáng khinh, vừa đáng thương vừa đáng ghét… … Thùy Linh rơm rớm nước mắt. Cô quỳ xuống vái. Nắng chiều đã nhạt, từng đụn cát trắng sẫm màu hoàng hôn. Họ ra về, cả hai cúi đầu bước, thổn thức về một thời họ đã sống với con người ấy dưới nấm mồ kia…” *** Năm truyện ngắn đầu tay của Nguyễn Quang Lập thì ba truyện (Cây sến lửa, Tiếng lục lạc, và Đò ơi) đều được trao giải thưởng, cho đến nay vẫn thuộc về những truyện ngắn hay trong vài ba năm trở lại đây. Từ đó đến này, Nguyễn Quang Lập đã in hai tập truyện ngắn, viết và phóng tác hai vở kịch, xong bản thảo tiểu thuyết Những mảnh đời đen trắng, tất cả đều nhất quán trong một thế giới hình tượng và tư tưởng, khiến cho Nguyễn Quang Lập nổi lên như một cây bút viết về chiến tranh sâu sắc và mới lạ, được công chúng tìm đọc với lòng yêu mến.   Đọc Nguyễn Quang Lập, thoạt đầu người ta đều tưởng rằng tác giả phải là một người lính già đã từng trải trận mạc, và chất chứa bên trong biết bao nhiêu kỷ niệm đau đớn về chiến tranh thì mới viết như thế. Té ra Nguyễn Quang Lập chỉ mới trên ba mươi tuổi, và chỉ sống những năm nghĩa vụ quân sự trong binh chủng bộ đội tên lửa để trở thành nhà văn. Và chính vì thế, để phát hiện ra những nhân vật của mình, Lập đã không nhìn lên bầu trời, mà cúi xuống lòng mình, đào bới ở đó những điều thấy cần nói với mọi người và quả nhiên, công chúng đều chăm chú nghe Lập nói. Trước đó chưa ai nói về chiến tranh giống như Nguyễn Quang Lập cả.   Chính cái tuổi cầm bút mới mẻ này của Nguyễn Quang Lập đã mang dấu ấn riêng cho cả một thế hệ nhà văn trẻ lớn lên sau chiến tranh: họ bắt đầu cầm bút ở thời điểm bản lề của lịch sử đất nước vừa chuyển từ chiến tranh sang hòa bình, và trên tất cả những gì đổ nát mà cuộc chiến còn để lại, họ tìm cách kiểm nhận lại quá khứ, không phải dưới con mắt của người lính đánh giặc, mà bằng cái nhìn thao thức của những người trẻ khao khát hòa bình, nhân phẩm và hạnh phúc chân thật.   Nguyễn Quang Lập viết về chiến tranh, nhưng không để ca ngợi chiến công, mà để bày tỏ nỗi lo lắng về vết thương. Dưới con mắt của nhà văn trẻ này, mỗi nhân vật đều mang theo trong bản thân nỗi bất hạnh mà chiến tranh để lại cho con người: sự mất mát về hạnh phúc, nỗi cô đơn khi trở lại cuộc sống bằng hào quang của lửa bom, và nhiều trạng thái méo mó về nhân cách, bằng cái nhìn phân tích khá sắc bén và mang giọng hài hước dân giã để chế ngự bớt nỗi đau đớn, tác giả đã soi mói tận gan của từng nhân vật của mình để chỉ ra những thương tật chiến tranh để lại trong tâm hồn, những thương tật mà dù trong truyện hoặc ngoài đời người ta vẫn muốn giấu kín.   Có thể nhìn thấy cách đặt vấn đề như vậy trong từng truyện ngắn Nguyễn Quang Lập, và ngay trong một vở kịch đang gây xúc động cũng của Lập: vở “Mùa hạ cay đắng”, trong đó một Chủ tịch thị trấn đào nhiệm, một người lính đào ngũ, một cô gái bội tình và một gã cán bộ Đoàn dùng mọi thủ đoạn gian trá để ngoi lên địa vị, tất cả bốn con người đó đã gặp nhau trong một túp lều nhỏ trong khói lửa, qua đó, tác giả lần lượt lột trần bộ mặt thật của họ một cách không thương xót.   Có điều quan trọng là Nguyễn Quang Lập đã không dừng lại trong thái độ của một người tố cáo chiến tranh, qua cách giải bảy của một người muốn nhìn thẳng sự thật, người ta vẫn cảm nhận được cái tâm của tác giả: đó là nỗi căm ghét cái ác, sự đòi hỏi về nhân phẩm và lòng khát khao hòa bình và hạnh phúc cuộc sống. Cách viết của Nguyễn Quang Lập là như vậy, là làm thương tổn lương tâm trong ý đồ làm cho lương tâm trở nên hoàn thiện hơn.   Quê hương của Lập là một mảnh đất đã phải gánh chịu quá nặng cuộc chiến tranh, và có nhiều thương binh trở về sau chiến tranh. Có lẽ vì thế mảnh đất đau đớn này đã sinh ra một cây bút đau đáu về vết thương chiến tranh, bằng cách nêu lên những đạo lý mà con người phải nhận ra và sống theo, để xứng đáng với sự hy sinh của nhân dân, xứng đáng với những thương tích có thật của những người đã chiến đấu cho Tổ quốc.   Luôn luôn là thế, người đọc cám ơn nhà văn và nhà văn cám ơn quê hương của mình.   Huế, 1988   HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG   Thời tôi sống có bao nhiêu câu hỏi   Câu trả lời thật không dễ dàng chi!   NGUYỄN TRỌNG TẠO   Mời các bạn đón đọc Những Mảnh Đời Đen Trắng của tác giả Nguyễn Quang Lập.
Thiên Đường Có Thể Đợi - Cally Taylor
Cally Taylor đang sống tại Brighton. Cô bắt đầu viết tiểu thuyết từ năm 2005. Chỉ trong năm 2006, cô đã đoạt được nhiều giải thưởng như: giải nhì trong cuộc thi viết truyện ngắn của báo Woman’s own, giải thưởng Helen Mullin và cây bút Bank Street trong cuộc thi viết truyện ngắn. Các tác phẩm của cô được đăng tải trên tạp chí Take a Break’s Fiction Feast và My Weekly. Heaven là tiểu thuyết đầu tay của Cally Taylor. Bạn sẽ làm gì nếu bạn nghĩ mình sắp chết? - Lập tức la lên và báo cho mọi người xung quanh? - Chẳng nói với ai và tự suy diễn? - Vờ như việc đó sẽ chẳng xảy ra? Còn tôi, thì giật quần chẽn ra và khóc òa lên. *** Bạn sẽ làm gì nếu bạn nghĩ mình sắp chết? a/ Lập tức la lên và báo cho mọi người xung quanh? b/ Chẳng nói với ai và tự suy diễn? c/ Vờ như việc đó sẽ chẳng xảy ra? Còn tôi, thì giật quần chẽn ra và khóc òa lên. Cả tuần qua, tôi lo cho sức khỏe của mình. Tôi mệt mỏi, mắt cá chân bị phù, nước tiểu thì sủi bọt như cà phê cappuccino[1]. Theo thông tin trên mạng mà tôi in ra và đang cầm trên tay thì như thế chỉ có một cách lý giải duy nhất: tôi mắc bệnh nan y, có thể không chữa được. Lễ cưới của tôi sẽ cử hành trong vòng bốn mươi tám tiếng nữa và báo hủy với chồng chưa cưới là điều duy nhất không nằm trong danh sách ‘việc cần làm’ dài dằng dặc của tôi. Nhưng tôi phải nói với Dan. Theo như thông tin trên mạng thì trong vòng hai tuần tôi sẽ phải nhập viện, chạy thận, thậm chí có khi phải cấy ghép. Dù là ai mắc bệnh đi chăng nữa, thì cũng có rất nhiều thứ phải làm. Mạnh mẽ lên nào Lucy, tôi tự khích lệ mình lúc mở cửa phòng khách. Mày có thể làm được điều này. Chỉ cần mạnh mẽ lên. Dan đang nằm dài trên xô-pha xem phim tài liệu nói về thói quen kết bạn tình của loài nhện vàng. Hai tay anh kê dưới đầu, mái tóc đen rối bù, quai hàm lởm chởm râu. Anh đang mặc quần jean cạp trễ và áo T-shirt Jimi Hendrix màu đen cũ mèm ưa thích khoe bờ vai rộng và cánh tay khỏe khoắn. Dan lúc nào cũng thế, anh có thể khoác bất cứ món đồ cũ kỹ nào lên người mà vẫn trông hết sức bảnh bao. Chẳng hề để tâm đến điều đó, anh là một trong những người ít tự phụ nhất mà tôi từng gặp - điểm khiến tôi yêu anh nhiều hơn. Anh đổi chân để có thêm chỗ trống trên xô-pha khi thấy tôi bước vào phòng, nhưng tôi chỉ ngồi trên tay ghế. Khi con nhện cái cắn đầu con nhện đực và ăn nó, Dan cười toe toét với tôi, sự thích thú nhảy múa trong đôi mắt nâu. “Nếu phải lựa chọn giữa việc đó và ba tiếng liền chuyện trò sau khi quan hệ, dứt khoát là anh chọn chết vì đầu bị nhai rào rạo.” Dan có vẻ ngơ ngác khi tôi không cười trước câu pha trò của anh, mà lại nhìn xuống đôi tay và xoay tròn chiếc nhẫn đính hôn. Ôi, Chúa ơi, anh sẽ phản ứng như thế nào trước điều tôi sắp nói? Anh sẽ khóc? Hay kêu gào? Hay ngất? Hay còn tệ hơn thế? “Dan, em có chuyện rất quan trọng muốn nói với anh.” “Chuyện gì thế?” Anh đáp mà mắt vẫn không rời màn hình ti vi. “Đó là một tin xấu.” “Có phải về lễ cưới không?” Anh tắt ti vi, xoay qua một bên, và nhìn thẳng vào tôi. “Giờ thì có chuyện gì xảy ra? Thợ làm bánh kem đặt hoa ly trên mặt bánh thay vì hoa hồng à?” Tôi hít một hơi thật sâu. “Em nghĩ em bị suy thận giai đoạn cuối [2].” Điều khiên ti vi rớt xuống sàn nhà khi Dan đứng bật dậy, vồ lấy tay tôi, vò nhàu tờ giấy in tôi đang cầm. “Em nói cái gì?” Anh hỏi lại, mắt rà khắp mặt tôi. “Em chẳng hề nói với anh em đã đi khám bác sĩ.” “Em chưa đi.” “Vậy thì làm sao mà em biết là em bị suy thận?” Tôi siết tay anh, dùng ngón tay cái cạ lên những ngón tay anh. Rõ ràng là anh không tin. Thông tin trên mạng đã cảnh báo trước với tôi là có thể anh sẽ phản ứng như thế. “Vì em đã thấy các triệu chứng của mình trên mạng.” Anh cau mày, một tay chà xát quai hàm. “Những triệu chứng gì?” Tôi nhìn chằm chằm vào ti vi. Đi thảo luận chuyện tiểu tiện của mình với bạn trai thật chẳng bình thường chút nào. Đó là điều bạn sẽ chẳng bao giờ thật sự cởi mở, cho dù hai người đã yêu nhau bảy năm đi nữa. “Nước tiêu của em có bọt. Chúng nổi bọt và trên mạng nói nước tiểu có bọt là một triệu chứng của suy thận.” Dan cười rũ rượi đến nỗi rớt từ xô-pha xuống sàn nhà. Tôi há hốc miệng nhìn anh, rồi cúi người tới trước, thụi vào cánh tay cứng như thép của anh. “Sao anh cười hả Dan? Ngừng ngay, anh làm em trông giống một con ngốc tự suy diễn.” Anh chống người trên khuỷu tay và với nắm tay tôi. “Anh xin lỗi, Lucy. Anh không nên cười, không nên làm thế khi em đang đứng ở cửa tử. Em đã bị những thứ có-thể- xem-là-triệu-chứng này bao lâu rồi?” Tôi nhẩm đếm trong đầu. “Khoảng một tuần. Không, đúng một tuần. Tính từ thứ Sáu tuần trước.” “Thế thứ Sáu tuần trước chúng ta đã mua cái gì, thứ mà em bảo là rất cần đấy?” Tôi vặn vẹo rút tay ra và trừng mắt nhìn Dan. Tôi chứ không phải ai khác, đang bộc bạch cõi lòng, vậy mà anh lại đang nói với tôi về chuyện mua sắm. Dan bị sao thế? “Em không nhớ, Dan. Chúng ta đã mua cái gì?” “Một chất làm sạch toa lét mới có thể khử trùng trong giây lát.” “Thì sao?” Anh nhướng chân mày. “Em không phải là người duy nhất thấy nước tiêu sủi bọt suốt tuần qua.” “Cái gì cơ?” “Lucy, em đúng là chậm tiêu.” Dan vừa nói vừa hích vào hông tôi. “Em đang tiểu vào chất làm sạch toa lét. Đó là lý do mà nước tiểu của em sủi bọt.” Tôi ngạc nhiên, nhìn anh không chớp mắt. “Vậy là em không bị suy thận à?” “Không, Lucy.” Dan đảo tròn mắt. “Em không bị suy thận.” ... Mời các bạn đón đọc Thiên Đường Có Thể Đợi của tác giả Cally Taylor.
Phiêu lưu vào mỏ than Aberfoyle - Jules Verne
Câu chuyện được khởi đầu từ hai bức thư có nội dung mâu thuẫn nhau mà kỹ sư James Starr nhận được trong cùng một ngày. Một là của người thợ mỏ già Simon Ford kêu gọi ông tới ngay mỏ than Aberfoyle nơi ông đã từng làm việc mấy chục năm về trước để chứng kiến những điều kỳ diệu đang xảy ra, hai là một bức thư nặc danh không người gửi với nội dung đe dọa và ngăn cản việc kỹ sư tới đó. Từ hai bức thư đó đã thôi thúc trí tò mò của ông và ông đã quyết định tới mỏ than theo lời mời gọi của người bạn già. Điều gì sẽ xảy ra... Với một quyết tâm sắt đá, kỹ sư James Starr cùng gia đình nhà Simon Ford lao vào một cuộc phiêu lưu mạo hiểm, cuộc phiêu lưu mà họ có thể phải trả giá bằng mạng sống của mình, để khám phá ra những điều bí ẩn nói trên. Liệu họ có đạt tới mục đích cao cả sau cùng? Với văn tài riêng biệt của ông về thể loại tiểu thuyết phiêu lưu mạo hiểm, viễn tưởng, Jules Verne lại một lần nữa dẫn dắt chúng ta vào thế giới kỳ vĩ ẩn sâu trong lòng đất của vùng than Aberfoyle, một vùng mỏ giàu có của xứ Scotland thuộc vương quốc Anh. *** Kính gửi kỹ sư J. R. Starr K Số 30 Canortgate - Edimbourg Nếu ngày mai, ông kỹ sư James Starr trở về khu mỏ Aberfoyle, hố Dochart, giếng Yarow, ông sẽ được biết một tin quan trọng. Ông kỹ sư sẽ được đón tại nhà ga Callander, trong suốt cả ngày. Người ra đón ngài là anh Harry Ford, con trai của người cựu đốc công Simon Ford. Chúng tôi kính mong ngài giữ kín lời mời này đứng để người khác biết. Trên đây là nội dung bức thư thứ nhất mà kỹ sư James Starr, nhận được ngày mùng 3 tháng Chạp năm 18... Ngoài bì thư có đóng dấu bưu cục Aberfoyle, quận Stirling, xứ Scotland. Trí tò mò của ông kỹ sư được kích thích cao độ. Ông không hề nghĩ là lá thư này chứa đựng một chuyện lừa phỉnh. Đã nhiều năm nay, ông quen biết Simon Ford, một trong những cựu đốc công của vùng mỏ Aberfoyle, nơi mà trong hai chục năm, ông từng làm giám đốc, hay còn gọi là quản đốc, theo cách gọi ở các mỏ than Anh quốc. James Starr là một con người có thể tạng vững chắc, vì vậy, mặc dù đã năm mươi nhăm tuổi mà trông ông cứ như đang tuổi bốn mươi. Ông thuộc một dòng họ cổ xưa vùng Edimbourg, lại là lớp người ưu tú của dòng họ. Công việc của ông đã làm vẻ vang cho toàn thể các kỹ sư khai thác mỏ than ở Vương quốc Anh, cũng như ở Cardiff, từ New Castle cho đến các quận vùng Hạ Scotland. Tuy nhiên, chính ở trong lòng các mỏ than bí ẩn vùng Aberfoyle, tiếp giáp với vùng mỏ Alloa và chiếm gần hết diện tích quận Stirling, tên tuổi của kỹ sư James Starr mới được nhiều người nhắc đến. Chính tại vùng này, ông đã sống gần hết cuộc đời mình. Người Anh đã gọi toàn thể các mỏ than rộng lớn của họ bằng một cái tên rất có ý nghĩa: “Các xứ Ấn Độ đen” ; và các xứ Ấn Độ này có thể đã đem lại cho Vương quốc Anh sự giàu có khủng khiếp còn hơn sự đóng góp của nước Ấn Độ phương Đông. Tuy nhiên sự tiêu thụ năng lượng đã gia tăng một cách đáng kể trong những năm cuối của thế kỷ. Điều này dẫn tới sự khai thác đến mức kiệt quệ của vỉa than. Giờ đây các mỏ than gần như bị bỏ trống, trơ ra những lỗ giếng toang hoác và những đường hầm vắng lặng. Đó chính là tình trạng của khu mỏ than Aberfoyle. Mười năm về trước, chiếc xe ben cuối cùng đã bóc đi tấn than cuối của mỏ. Tất cả các công cụ dùng trong việc khai thác đã được kéo lên khỏi các giếng và được vứt chỏng trơ trên mặt đất. Mỏ than cạn kiệt nom giống như những bộ xương khủng long hóa thạch. Trong số những dụng cụ đó, nay chỉ còn sót lại những chiếc thang bằng gỗ, dùng để đi xuống những hầm than sâu qua lối giếng Yarow - đó là lối duy nhất có thể dẫn vào những ngách hầm phía trong của hố Dochart, kể từ sau khi công việc khai thác mỏ đã ngưng nghỉ. Phía bên ngoài mỏ, người ta còn thấy sót lại những ngôi nhà xưởng, nơi đặt những máy khoan, những cái giếng, miệng hố dẫn vào trong hầm. Những chỗ đó nay cũng bị bỏ hoang phế như toàn bộ khu mỏ Aberfoyle vậy. Năm ấy, vào một ngày buồn, những người thợ mỏ đã từ giã mỏ than, nơi họ đã sống và làm việc trong nhiều năm tháng. Vài ngàn người thợ mỏ đang tập trung, họ là những người tích cực và quả cảm nhất của khu mỏ. Những con người tốt bụng này, đã từ nhiều năm qua, cha truyền con nối, lao động tại đây, khu mỏ Aberfoyle. Giờ đây họ náu lại để nói lời từ biệt với ông kỹ sư, một lời từ giã không hẹn ngày tái ngộ. Kỹ sư James Starr lúc này đang đứng chờ họ trước cửa những gian nhà xưởng, nơi đã bao nhiêu năm ông điều hành các cỗ máy với áp suất hơi nước cực lớn, dùng cho công việc khai thác. Simon Ford, người đốc công của hố Dochart, năm đó đã năm mươi lăm tuổi, cùng vài người cai thợ đang đứng vây quanh ông kỹ sư. James Starr tiến về phía họ. Đám thợ mỏ, ngả mũ, đứng yên lặng chờ nghe ông nói. Cái cảnh chia tay này mới cảm động và cao cả làm sao. - Thưa toàn thể các bạn, - Ông kỹ sư nói - giờ phút chia tay của chúng ta đã tới. Khu mỏ than Aberfoyle, nơi mà trong nhiều năm qua đã tập họp chúng ta lại vì công việc chung, nay đã cạn kiệt. Chẳng những chúng ta không khám phá ra được một vỉa than mới nào mà lại còn tiếp tục khai thác chỗ than cuối cùng của hố Dochart này! Giờ đây, tất cả đã cạn kiệt! Lời nói cuối cùng mà tôi dành cho các bạn là lời chào từ biệt. Tất cả chúng ta đã từng sống nhờ vào công việc khai thác than, giờ đây than đã hết. Đại gia đình của chúng ta sẽ buộc phải phân tán và trong tương lai cũng khó lòng có cơ may để tập họp lại những đứa con ly tán. Nhưng dù các bạn có đi đến bất cứ nơi nào, chúng tôi vẫn để mắt dõi theo bước đi của các bạn, và những lời dặn dò, tiến cử của chúng tôi vẫn đi theo các bạn. Giờ đây, xin từ biệt các bạn và cầu Chúa luôn ở bên các bạn! Nói xong, mắt đẫm lệ, James Starr giang rộng vòng tay ôm lấy người thợ già nhất mỏ. Kế đó, những người đốc công của các giếng khác nhau, lần lượt đến siết chặt tay ông kỹ sư, trong lúc đám thợ mỏ, giơ cao nón và reo hò: - Từ biệt ông James Starr, người giám đốc và cũng là người bạn của chúng ta! Những lời từ biệt đó, rồi đây sẽ trở thành một kỷ niệm sâu sắc trong những trái tim quả cảm. Và lần lượt kẻ trước người sau, đám thợ rời khỏi mảnh sân rộng đó. Chỉ còn lại duy nhất một người ở lại bên James Starr. Người đó chính là đốc công Simon Ford. Bên cạnh ông già là một thiếu niên, tuổi chừng mười lăm, cậu bé đó chính là Harry, con trai ông, người đã từ vài năm qua, bắt đầu học việc trong mỏ. James Starr và Simon Ford quen biết nhau từ lâu, và càng hiểu nhau, họ càng quý trọng nhau. - Từ biệt nhé, Simon - Ông kỹ sư nói. - Từ biệt ông James, - Viên đốc công đáp lại - nhưng có lẽ ông cho phép tôi nói thêm. Tạm biệt ông! - Đúng vậy, tạm biệt Simon! - James Starr tiếp lời - Chắc ông cũng hiểu là tôi sẽ vui sướng chừng nào khi gặp lại ông để ta cùng trò chuyện về khu mỏ Aberfoyle của chúng ta! - Vâng tôi biết, thưa ông James. - Đừng quên là cánh cửa ngôi nhà tôi ở Edimbourg luôn mở rộng với ông! - Edimbourg quá xa vời! - Viên đốc công lắc đầu nói. - Vâng! Thế ông dự tính sẽ cư trú ở đâu? - Ngay nơi đây, thưa ông James! Chúng tôi sẽ không rời xa khu mỏ, nơi đã nuôi nâng đời tôi, dù cho nguồn sữa mẹ đó có cạn kiệt! Vợ tôi, con trai tôi và tôi, chúng tôi sẽ thu xếp sao cho mình luôn trung thành với khu mỏ này! - Vậy thì vĩnh biệt Simon - Ông kỹ sư nói mà giọng đã nghẹn ngào vì cảm động. - Không, không phải vĩnh biệt mà là tạm biệt, thưa ông! - Viên đốc công trả lời - Ông hãy tin lời Simon Ford này là vùng mỏ Aberfoyle sẽ gặp lại ông! Đây là toàn bộ những gì đã xảy ra mười năm về trước, mặc dù ý muốn của người đốc công là sẽ sớm gặp lại, nhưng kể từ đó James Starr đã không còn nghe nói đến người đốc công này nữa. Và thế là sau mười năm xa cách, lá thư của Simon Ford đã đến tay người kỹ sư, trong thư lại khẩn khoản mời ông tới ngay mỏ than Aberfoyle. Một tin quan trọng! Nhưng tin gì mới được chứ? Hố Dochart, giếng Yarow à? Ôi! biết bao nhiêu kỷ niệm của quá khứ đã ùa về trong tâm trí ông? James Starr đọc đi đọc lại bức thư. Ông tìm cách lật đi, lật lại vấn đề theo mọi chiều hướng có thể được. Tại sao Simon lại không viết rõ thêm một chút. Ông thầm trách Simon Ford quá tiết kiệm lời nói. Rất có thể là viên đốc công này đã khám phá ra một vỉa than mới có thể khai thác? Không! “Không, ông tự nhắc lại lần nữa, không! Làm sao có thể tưởng tượng những gì mà ta đã hoài công tìm kiếm, giờ đây lại được Simon Ford phát hiện? Tuy nhiên, viên đốc công già này thừa biết trên đời này, ta chỉ quan tâm đến có một điều, rồi còn đề nghị ta giữ kín chuyện này nữa chứ...” James Starr cứ loay hoay mãi với những ý nghĩ trên. Mặt khác, người kỹ sư hiểu rất rõ Simon Ford là một người thợ mỏ khéo léo, rất có ý thức về nghề nghiệp của mình. Ông chưa bao giờ gặp lại người đốc công này kể từ khi công việc khai thác ở mỏ Aberfoyle chấm dứt. Ông cũng không rõ viên đốc công già giờ đây ra sao, hiện làm gì, ở đâu cùng với vợ con. Tất cả những gì ông biết bây giờ chỉ là một cuộc hẹn ở giếng Yarow và người con trai của Simon Ford tên là Harry sẽ chờ ông ở nhà ga xe lửa Callander suốt cả ngày mai. Rõ ràng là họ muốn mời ông đến thăm khu hố Dochart. “Ta sẽ đi, nhất định ta sẽ đi!” James Starr lẩm bẩm trong miệng, trong lòng như có lửa đốt khi thấy giờ hẹn càng đến gần. Thế nhưng, một sự cố bất ngờ đã xảy ra. Nó giống như một dòng nước lạnh làm ngưng tụ nhất thời những giọt hơi nước bốc lên trong ấm nước sôi. Thực vậy, vào khoảng sáu giờ chiều, người gia nhân đã mang đến cho ông một lá thư thứ hai. Lá thư này đựng trong một chiếc phong bì xấu xí, nét chữ đề ngoài phong bì được viết bởi một bàn tay ít khi cầm đến bút. James Starr vội xé phong bì ra. Bên trong chỉ một mẩu giấy nhỏ đã bị thời gian làm ố vàng. Hình như nó được xé ra từ một quyển tập cũ. Trên mẩu giấy đó chỉ vẻn vẹn một dòng chữ sau đây: “Kỹ sư James Starr không cần bận tâm đến lá thư của Simon Ford làm gì. Lá thư đó giờ đây không còn nói lên điều gì nữa”. Bức thư không có tên người gửi. ... Mời các bạn đón đọc Phiêu lưu vào mỏ than Aberfoyle của tác giả Jules Verne.