Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Thời Kế Quán

Tầm mười năm về trước, trong rừng sâu mọc lên một kiến trúc kì lạ tên là Thời Kế Quán, gồm một tháp đồng hồ chuyên chỉ giờ lung tung và một biệt thự chôn nửa xuống đất. Trước và sau khi xây Quán, có rất nhiều người liên quan đến nó đã chết, số người thiệt mạng gần đủ để trám kín các ô số trên mặt đồng hồ, lý do không rõ. Chỉ biết từ đó tháp và nhà gần như hoang phế, không ai nhớ đến nữa. Mười năm trôi qua, cây lá đã gần như phủ kín đường vào thì Thời Kế Quán nổi tiếng trở lại, do những người đi rừng bắt gặp ma trôi nổi quanh đó. Tin tức kích thích sự tò mò của một nhóm người chuyên nghiên cứu tâm linh. Họ mời một bà đồng cùng vào Quán để làm lễ gọi hồn, tìm hiểu chân tướng. Khi cửa mở cho họ đi vào, kim trên tháp đã rụng mất. Khi cửa mở cho họ đi ra, ô số tháp có thể thay mới hết. Thời Kế Quán… Một Quán nữa của năng lượng u uất. Một Quán nữa của uẩn khúc đời người phải giải tỏa qua kiến trúc. Một Quán nữa của tài năng lập dị Nakamura Seiji. *** Thập Giác Quán (1987) là cuốn tiểu thuyết đầu tay thuộc thể loại trinh thám cổ điển của nhà văn Yukito Ayatsuji. Tác phẩm nằm trong series Quán: Thập Giác Quán – 1987; Thủy Xa Quán – 1988; Mê Lộ Quán – 1988; Hình Quán – 1989; Chung Biểu Quán – 1991; Hắc Miêu Quán – 1992; Hắc Ám Quán – 2004; Kinh Hoàng Quán – 2006  Kỳ Diện Quán – 2012. *** Tác giả: Yukito Ayatsuji. Dịch giả: Hải Yến Thể loại: Trinh thám Nhật Cảnh báo: Review viết với giọng điệu tưng tửng, cân nhắc trước khi đọc Nếu “Thập giác quán” đã chinh phục và khiến tôi quyết theo đuổi loạt truyện Quán, thì “Thời kế quán” là cái vẫy tay cuối cùng trước khi tôi tạm biệt series này. Dù series này bị bao lời chê nhưng tôi vẫn trung thành với tác giả Yukito Ayatsuji, cũng từng thích cả bộ Another.   “Thời kế quán” có motip quen thuộc như các cuốn Quán trước, đó là một nhóm người tình cờ tự nguyện bị “giam” vào một không gian u ám hoặc kỳ quái, tại đây, các sự kiện chết chóc liên tiếp xảy ra. Hung thủ có thể thuộc hoặc không thuộc số người đang ở cùng địa điểm đó. Các vụ giết người đều xuất phát từ yêu-hận-tình-thù trong quá khứ. Đặc biệt, tất cả các địa điểm – có chữ cuối trong tên gọi đều là “Quán” – đều là những công trình kiến trúc do một vị kiến trúc sư tài năng cổ quái thiết kế nên. Vị kiến trúc sư này có sở thích đưa vào các công trình của mình những tầng hầm, hành lang ẩn, cửa ngầm, chốt khóa ẩn giấu… Cá nhân tôi nghĩ sống trong những nơi như vậy cũng có nét thú vị riêng, đặc biệt nếu ta là một vị vua thời Trung Cổ đang cần chỗ ẩn nấp trước những người nông dân nổi dậy, nhưng với bản chất đơn giản và thích những gì rõ ràng tươi sáng, tôi không hề muốn bước vào (nói chi là sống) ở những nơi có quá nhiều phòng kín phòng ẩn, quá nhiều những thứ gợi liên tưởng đến hiện trường án mạng (thì nó đúng là hiện trường án mạng mà). Ngay từ những phần đầu, khi thấy xuất hiện chuyện “cầu cơ” thì tôi muốn dừng đọc và cho cuốn sách ra khỏi nhà, nhưng vì thiện cảm đã có từ lâu với series Quán / ngoài ra cũng vì cuốn này được một anh tác giả tôi quen khen hay, nên tôi miễn cưỡng đọc tiếp. Thêm một lý do củ chuối nữa khiến tôi cố gắng đọc đến hết là vì bìa áo đẹp, đẹp hơn cuốn “Hắc miêu quán” dù HMQ có nội dung hay hơn. Câu truyện trong “Thời kế quán” sẽ giúp độc giả có thêm hiểu biết mới mẻ về cách tính giờ cố định và bất định. Bối cảnh truyện là khi smartphone chưa xuất hiện, giới trẻ cũng chưa bị hội chứng nghiện ĐT hoặc làm gì cũng phải chụp hình up fây, nên họ chấp nhận bỏ lại hết phụ kiện tư trang, mặc những bộ áo chùng đen dài cứ như tham gia giáo phái, vào sống mấy ngày trong một không gian thần bí với một nhà ngoại cảm cũng thần bí không kém. Trong bộ áo chùng đen và không gian thiếu ánh đèn thì phân biệt nam nữ còn khó, do đó chỉ cần đánh cắp một chiếc mặt nạ trang trí trên tường là có thể che giấu nhân dạng để thản nhiên giết người. Nhân vật có-thể-xem-như-thám-tử-chính trong truyện vẫn là nhà văn trinh thám kiêm trụ trì một ngôi chùa, không thiết chăm chút bề ngoài và có tài gấp origami cực đỉnh, trong vòng vài phút có thể hoàn thành một mẫu gấp giấy khó mà người khác phải mất mấy tiếng mới gấp xong (tôi thích điều này). Nhưng cũng như những cuốn Quán khác, thám tử này tuy có khả năng suy luận tinh nhạy sắc bén nhưng lần nào cũng suy luận ra khi tất cả nạn nhân đều đã chết. Tuy hiểu rằng trong tiểu thuyết trinh thám thì thường nạn nhân sẽ vô tội (trừ truyện của Tử Kim Trần) nhưng cuốn Quán nào cũng có nhiều-hơn-hai người vô tội bị giết thì tôi cũng hơi buồn bực bức bối. Nhưng đây không phải lý do khiến tôi muốn ngưng đọc series Quán, tôi ngưng đọc là vì hết thấy hay. Giờ khen đến ngoại hình. “Thời kế quán” có bìa được vẽ rất đẹp. Phần dịch thuật tốt, đọc không có cảm giác bị dịch sát nghĩa từ tiếng Nhật. Trình bày đẹp, không có lỗi chính tả hoặc lỗi in ấn. Cũng như những cuốn Quán khác, “Thời kế quán” có danh sách nhân vật và bản vẽ kiến trúc ngay đầu truyện, nhưng khi đọc cuốn này thì tôi không muốn giở tới giở lui để xem cả hai thứ đó, vì nhân vật quá nhiều còn bản vẽ quá phức tạp. Tuy vậy, bản vẽ kiến trúc trong cuốn này có một chi tiết rất thú vị liên quan đến tựa sách. Thêm một điều thú vị khác: thời điểm diễn ra câu truyện là cuối tháng 7 đầu tháng 8, trùng hợp với thời điểm tôi quyết định đọc cuốn này dù không hề biết trước hay cố tình đọc cho trùng. “Thời kế quán” khép lại quãng thời gian trung thành + vui vẻ của tôi với series Quán, nói thì nói vậy nhưng nếu ai tặng những cuốn tiếp theo thì tôi vẫn sẽ đọc. (Sea, 4-8-2020) Cáo Biển Non Xanh *** THỜI KẾ QUÁN Quyển thứ 5 trong xê-ri Quán của Yukito, để khen hay thì hơi khó, nhưng quả thực đây là quyển xuất sắc nhất xê-ri cho đến lúc này. Ưu điểm là rất nhiều nạn nhân, mối quan hệ của các nhân vật trong truyện chồng chéo, mưu kế tinh vi, suy luận phức tạp. Nhược điểm là động cơ tương đối khiên cưỡng, hành vi của thủ phạm thiếu nhất quán, có một chỗ hung thủ gây án mà cảm giác như có đồng phạm (chắc em nhầm, đoạn ý em cũng không đọc kỹ). Nhưng chỗ sáng nhất của tác phẩm này không nằm ở mấy điểm trên, nó sáng bởi vì cho đến lúc này, ít nhất với em, Thời kế quán là tiểu thuyết tiệm cận nhất với những tác phẩm trinh thám cổ điển. Không chỉ tính riêng trong xê-ri Quán, mà kể cả những tác phẩm khác đã từng xuất bản ở Việt Nam như của Shimada Soji hay Paul Halter, hoặc xa hơn như một tác giả (chưa có gì ở Việt Nam) mà em rất thích là Joyce Cato v…v… Tác phẩm này tuy viết ở thời hiện đại, đặt trong thời gian hiện đại (năm 1989) nhưng lại tạo ra được không khí và bối cảnh giống y như thời cổ điển. Điểm cộng lớn ạ. Có một chỗ chắc biên tập viên hơi không chú ý, mong là các anh chị IPM trong group đọc được thì lưu ý giùm em: bản liệt kê thời gian ở trang 306 và 308 bị nhầm ngày, mới cả in thừa ra một đoạn lặp lại những dòng đã ghi phía trên. Còn lại, nhìn chung rất ổn. Phùng Băng *** THỜI KẾ QUÁN Review Thời Kế Quán Tác giả Yukito Ayatsuji Một nhóm người đươc mời đến tham dự một nghi lễ tâm linh gọi hồn tại Thời Kế Quán, một công trình kiến trúc kì dị. Nhà văn trinh thám Shishiya Kadomi với bản tính hiếu kỳ cũng định đến xin tham quan nhưng bị trễ không vào kịp. Trong lúc đó nhóm người kia bị kẹt trong Thời Kế Quán và lần lượt từng người bị sát hại dã man… Truyện dày nhất trong số các cuốn Quán đã xuất bản đến nay và tình tiết cũng phức tạp nhất. Hung thủ không quá khó đoán nhưng trọng tâm nằm ở kế hoạch gây án. Hắn lợi dụng kiến trúc biệt lập bí ẩn của Thời Kế Quán với 108 cái đồng hồ kì dị để vạch ra một kế hoạch gây án khôn khéo và tàn bạo. Mình cũng chỉ đoán đươc lờ mờ, còn động cơ thì bất ngờ vì tác giả dấu đến phút chót. Với động cơ này mà phải giết một đống người thì cũng hơi điên nhưng không phải trọng tâm nên cũng chẳng cần thắc mắc nhiều. Xét tổng thể thì cũng là cuốn được nhất trong số các Quán, dày hơn 500 trang nhưng viết khá hấp dẫn dễ đọc. Bạn nào thích trinh thám suy luận thì sẽ hợp gu cuốn này. chấm cá nhân 7,75/10 *** Kawaminami Takaaki còn đang loay hoay tìm cách thoát khỏi trận mưa tầm tã thì may thay, cư xá điểm hẹn đã xuất hiện trong tầm mắt. Cậu lôi chiếc đồng hồ quả quýt trong túi áo khoác ra xem giờ. Đây là món đồ cậu thừa kế của ông nội hai năm về trước. Kể từ đó cậu bỏ hẳn đồng hồ đeo tay, chuyển sang dùng loại đồng hồ kiểu cổ này. Đã 4 rưỡi chiều, quá giờ hẹn mất nửa tiếng rồi. Cậu đã có ý thức xuất phát sớm đấy chứ. Nhưng do chưa thông thuộc thành phố, cậu xuống nhầm ga. Khi xuống đúng thì trời đổ mưa, cậu lại mất thêm mấy phút đi mua dù, vất vả lắm mới mò được đường từ nhà ga đến địa điểm như người ta chỉ, rốt cuộc trễ hẹn. Hôm nay Kawaminami có hẹn với một người đã lâu chưa gặp, nên tới trễ thế này thật là xấu hổ. Nhưng người đó sẽ không bực đâu, cậu tự an ủi. Đừng nói ba mươi phút, mà dù phải đợi hai tiếng đi chăng nữa, người đó cũng sẽ mỉm cười bỏ qua cho cậu. Kawaminami vừa giũ nước khỏi dù vừa quan sát bên trong. Cậu đang đứng ở tiền sảnh cư xá Green Heights. Cư xá nằm trên một khu phố yên tĩnh ở Kaminoge, quận Setagaya, Tokyo. Bức tường bên trái là một dãy hòm thư màu vàng đều tăm tắp. Cậu vội đi xem họ tên trên hòm thư để xác định lại số căn hộ. 409. Căn số 9, tầng 4. Đã ba năm rồi hai người chưa gặp nhau. Kawaminami thử mường tượng khuôn mặt anh ta. Đó là một người gầy nhẵng, nước da ngăm đen, cằm hơi nhọn. Anh có cái mũi khoằm, đôi mắt thâm quầng trũng sâu, chân mày lúc nào cũng nhíu lại, môi mím chặt, nhìn qua tưởng là người u sầu khó chịu. Nhưng thật ra cực kì vui tính và hay cười, thi thoảng còn cười kiểu vô tư ngây thơ mà Kawaminami rất thích. Tuy nhiên… Thay vì mong đợi một cuộc tái ngộ vui vẻ, Kawaminami lại thấy lòng ngập tràn ngần ngại, một cảm giác mà cậu hiểu rõ nguồn cơn. Tái ngộ người quen cũ này là một việc vô cùng đáng sợ. Đáng sự không phải do bản thân anh ta, mà do kí ức anh ta khơi gợi. Chỉ cần nhìn thấy anh ta, những hình ảnh khủng khiếp của vụ việc ba năm trước dù muốn dù không sẽ ập về tâm trí cậu. Kawaminami cho rằng suốt ba năm qua, chưa một lần cậu nghĩ đến việc gặp lại anh ta, âu cũng là do e dè cảm giác đáng sợ ấy. Cậu biết, mình không nên ôm mãi trong lòng quá khứ đau thương. Vụ việc ba năm trước khiến cậu mất đi khá nhiều bạn bè thân thiết. Kawaminami sốc nặng đến nỗi cuộc sống sau đó của cậu cũng chịu ít nhiều ảnh hưởng. Nhưng thời gian trôi đi, cậu đã quyết định mình phải bước tiếp. Đằng nào thì chuyện đã xảy ra là vô phương thay đổi. Cầu xin đến đâu người chết cũng không thể quay về. Vậy thì chỉ còn cách là vượt qua quá khứ mà sống tiếp thôi. Chẳng biết có phải do cơn mưa phiền phức ngoài kia hay không, tâm trí Kawaminami như sũng nước. Cố gắng kiềm chế dòng cảm xúc đang dần trở nên u uất, cậu thả lỏng người và xoay cổ vài cái, rồi tiến về phía thang máy nằm cuối tiền sảnh. Vẩy nốt mấy giọt nước còn sót lại trên dù, Kawaminami giơ tay bấm nút thang máy. Nhưng cậu chưa kịp chạm vào nút thì cửa thang máy đã mở, một phụ nữ bước ra ngoài. Cô mặc sơ-mi tím và bộ vest may bằng vải thô, dáng người cao ráo với mái tóc xoăn nhuộm nâu dài chấm vai. Trong một tích tắc, ánh lấp lánh của sợi dây chuyên màu vàng ôm lấy cần cổ trắng nõn lóe lên chói mắt. Mùi nước hoa kì lạ dâng ngập bầu không khí ẩm ướt khiến Kawaminami có cảm giác mình đang rơi vào một cơn mê. Liếc nhìn khuôn mặt cô, Kawaminami buột miệng thốt lên, “Ồ.” Người phụ nữ mang kính đen to bản, khuôn mặt trang điểm rất dày, tuổi tầm trên dưới ba mươi. Mặc dù cặp kính che đi phần nào khuôn mặt, nhưng Kawaminami có thể khẳng định đây là một phụ nữ xinh đẹp. Cậu ngờ ngợ mình đã thấy cô ở đâu rồi. Không hẳn là gặp ngoài đời, có lẽ là xem trên ảnh… Kawaminami vô thức đứng lại, nhìn theo người phụ nữ. Cô ngó hộp thư nằm bên trái hộp thư căn 409 cậu kiểm tra ban nãy, lấy ra một gói bưu phẩm. Cô cho bưu phẩm vào túi, đoạn bước thẳng ra cửa kính tiền sảnh. Dõi theo đến khi bóng cô mất hút trong màn mưa, Kawaminami nhìn lại hộp thư đựng món đồ cô vừa lấy. Số trên đó là 408. Nằm ngay cạnh căn hộ của người cậu đến gặp. Tiếp theo là… Komyoji Mikoto Kawaminami giật mình khi thấy bảng tên. Trước lúc đặt chân vào thang máy, cậu nhìn cái tên một lần nữa cho chắc. Quả không sai. Đúng là Komyoji Mikoto. Cái tên đề trên hộp thư. Nếu Komyoji Mikoto này chính là Komyoji Mikoto đó thì cái cảm giác đã thấy cô ở đâu rồi của cậu là chính xác. Cậu bước vào thang máy để đi lên, lòng thầm thắc mắc sao lại tình cờ đến thế. Mùi nước hoa vẫn còn thoang thoảng trong buồng thang. Kawaminami nhấn chuông căn 409, cửa liền mở ra. Người xuất hiện trước mặt cậu mặc áo thun màu đen nhăn nhúm, quần jeans dài che đi đôi chân ống sậy. So với lần gặp cuối cùng cách đây ba năm, anh chẳng thay đổi gì mấy. “Ồ,” và vẫn đọc tên cậu thành Conan, hệt như ba năm trước*. “Cậu đến rồi.” Xem giải thích ở Thập Giác Quán, chương 2. “Vâng. Lâu lắm mới gặp lại anh,” Kawaminami gật đầu tạ lỗi. “Xin lỗi anh, tôi tới trễ.” “Hả?” Anh chủ nhà nghiêng đầu. “Không phải chúng ta hẹn 4 giờ à?” “Vâng.” “Thế thì có trễ đâu?” “Hả?” Lần này đến lượt Kawaminami nghiêng đầu. Cậu lôi chiếc đồng hồ quả quýt ra khỏi túi, “hơn 4 rưỡi rồi mà.” “Kì thật. Đồng hồ nhà tôi mới có 4 giờ thôi.” Có khi anh ta chưa tỉnh ngủ cũng nên. Chủ nhà đưa cặp mắt mơ màng về phía góc phòng, “Đó, cậu nhìn đồng hồ đi.” Một chiếc đồng hồ hình bát giác kiểu cổ treo trên tường phòng khách, kim giờ mới gần đến vị trí 4 giờ. “Gì vậy? Không phải nó chết rồi sao?” Nghe vậy, chủ nhà mới để ý. Anh đưa tay phải vò mớ tóc xoăn mềm mại, “Cũng có khi. Ghét thật, cái đồng hồ đó tôi mua ở tiệm đồ cổ đấy.” “Hèn gì…” “Chiều qua tôi mới lên dây cho nó. Chắc hỏng hóc ở đâu rồi cũng nên.” Anh lúc lắc đầu ra chiều đau khổ, rồi quay qua nở nụ cười vô tư lự với Kawaminami. “Mà thôi, cũng đâu có sao.” Đúng như dự đoán, anh chủ nhà, nhà văn trinh thám Shishiya Kadomi, tên thật là Shimada Kiyoshi, lại bắt đầu cười vô tư, hệt như dáng vẻ ba năm về trước. “Cảm ơn cậu cất công tới đây hôm nay. Làm cậu bận tâm mất rồi. Vào nhà nói chuyện nào, Conan.” Kawaminami Takaaki gặp Shimada Kiyoshi lần đầu vào mùa xuân năm 1986, cụ thể là ngày 26 tháng Ba, đến giờ cậu vẫn còn nhớ. Năm đó cậu 21 tuổi, đang là sinh viên năm ba khoa Công nghệ trường Đại học K, tỉnh Oita vùng Kyushu. Mọi việc bắt đầu khi Kawaminami nhận được một bức thư đề tên người gửi là Nakamura Seiji. Nakamura Seiji là một kiến trúc sư nổi tiếng, vì muốn sống ẩn dật nên đã rời khỏi đất liền, tự mình xây dựng quần thể công trình kì lạ mang tên Lam Ốc và Thập Giác Quán chiếm phần lớn diện tích của Giác Đảo, một hòn đảo nhỏ thuộc vùng Kyushu và sống ở đó. Thế nhưng tháng Chín năm 1985, nửa năm trước khi Kawaminami nhận được thư, ông ta đã chết một cách bất thường. Vì muốn tìm hiểu lá thư bí ẩn này, Kawaminami đã đến nhà ông Nakamura Kojiro, em ruột ông Seiji. Chính tại đây, cậu gặp Shimada. Shimada là con trai thứ ba của một trụ trì. Anh có tính tò mò chằng kém gì Kawaminami. Nhác thấy bì thư đề tên ông Nakamura Seiji quá cố, anh liền tỏ ra quan tâm đặc biệt. Trong khi Shimada là người đam mê các thể loại tiểu thuyết trinh thám thì Kawaminami lại là thành viên của hội nghiên cứu tiểu thuyết trinh thám ở trường đại học. Có lẽ đó là lý do khiến Shimada chú ý tới cậu. Mấy ngày sau đó, cả hai bắt tay vào tìm hiểu thư người chết cũng như điều tra thêm về cái chết của ông Seiji nửa năm trước đấy. Nói sơ qua thì kết cục là hai người đã tìm ra chân tướng của vụ giết người trên Giác Đảo mà nạn nhân chính là những người bạn thân thiết của Kawaminami. Tóm lại, vụ việc ba năm trước là vậy. Sau vụ việc trên đảo, cậu và Shimada tiếp tục gặp nhau vài lần nữa, nhưng rồi liên lạc thưa thớt dần đi. Một phần do Kawaminami phải dốc sức hoàn thành khóa luận tốt nghiệp cũng như kì thi đầu vào cao học. Lần cuối cùng hai người gặp nhau có lẽ là tháng Bảy năm đó. Về phần Shimada, sau vụ Thập Giác Quán anh thảnh thơi lang bạt nay đây mai đó, đụng hết vụ án này đến vụ án khác, thi thoảng mới liên lạc thông báo tình hình bản thân. Vào tháng Mười năm 1986, Shimada gọi điện báo cho Kawaminami biết anh có tham gia phá giải vụ án tại Thủy Xa Quán ở Okayama, một trong những công trình kiến trúc do Nakamura Seiji thiết kế. Kawaminami còn nhớ nỗi thôi thúc từ thảm sâu tâm khảm khiến cậu muốn gào lên ngắt lời anh, rằng cậu đã chịu quá đủ những chuyện máu me rồi. Tốt nghiệp đại học xong, Kawaminami học tiếp cao học Công nghệ. Cậu và Shimada bặt tin từ ấy. Hoàn tất chương trình đào tạo thạc sĩ hai năm, Kawaminami đến làm cho Kitansha, một trong những nhà xuất bản lớn ở Tokyo, bắt đầu từ tháng Tư năm nay. Rời khỏi Kyushu đã khá lâu rồi, một hôm cậu quyết định gọi đến nhà Shimada hỏi thăm tình hình thì mới hay anh đã chuyển nhà lên Tokyo từ năm ngoái, chưa hết, Shimada giờ còn là tác giả viết truyện trinh thám, bút danh Shishiya Kadomi. “Lúc đó tôi bất ngờ lắm. Không biết làm sao mà anh lại thành nhà văn.” Kawaminami vừa nói vừa ngồi xuống xô-pha trong phòng khách. Shimada hấp háy mắt tỏ vẻ ngại ngùng. “Tôi cũng bất ngờ. Dân công nghệ như cậu lại đầu quân cho ngành xuất bản, mà còn là chỗ nổi tiếng như Kitansha nữa.” “Tôi nộp thử thôi, không ngờ được nhận. Đến bây giờ tôi vẫn không hiểu tại sao mình lại trúng tuyển kìa… À nói ra khí muộn, nhưng tôi đọc Mê Lộ Quán rồi đấy. Biết tin cái là tôi tìm đọc ngay.” Mê Lộ Quán là tác phẩm đầu tay của nhà văn Shishiya Kadomi, xuất bản tháng Chín năm ngoái. Khi biết cuốn sách do Kitansha phát hành, Kawaminami kinh ngạc nhận ra cậu với Shimada đúng là có duyên nợ với nhau. “Tôi có gửi một quyển tặng cậu, nhưng do địa chỉ không rõ ràng nên bị gửi trả lại. Cậu đổi chỗ ở rồi à?” “Tôi vào cao học thì căn hộ đó cũng bị phá. Tôi quên nhờ bưu điện chuyển hộ thư tín sang địa chỉ mới nên sách của anh không tới được. Đáng lẽ tôi phải liên lạc với anh, nhưng lu bu chuyện này chuyện kia, thời gian trôi qua lúc nào không hay nữa. Tôi xin lỗi.” “Lỗi phải gì! Tôi cũng thế thôi. Lưỡng lự mãi rồi thành ra thế này.” “Nhưng mà…” “Dù sao thì hôm nay cậu cũng đã tới thăm tôi rồi. Còn gì phải phàn nàn nữa.” Shimada vừa nói vừa gật gù. Kawaminami nhận ra anh đang tỏ thái độ thông cảm với mình. Thâm tâm cậu luôn muốn quên đi những kí ức về vụ việc ba năm trước, nên cố cắm cúi vào khóa luận tốt nghiệp và kì thi cao học. Cậu lo là việc liên lạc với Shimada sẽ lại khiến mình nảy sinh những xúc cảm tiêu cực và sợ hãi. Cảm ơn anh, Kawaminami nghĩ, nhưng không nói ra. “À, anh Shimada này.” Tìm quanh bàn được chiếc gạt tàn đã cáu bẩn, Kawaminami châm thuốc hút. “Anh bỏ chùa mà đi thế có sao không?” Shimada đứng cạnh bếp, đang pha cà phê thì khựng lại, nhún vai hững hờ, “Cha tôi vẫn khỏe. Trước mắt vẫn đủ sức đảm đương vai trò trụ trì chứ chưa cần truyền cho thằng con lang bạt này.” “Anh đến Tokyo để tiện công việc à?” “Cũng không hẳn. Ở đây thì chắc chắn là tiện lợi nhiều mặt, nhưng đó không phải nguyên nhân chính của tôi.” “Thế ạ…” “Nói sao nhỉ, tôi muốn chiêm ngưỡng xem thành phố biến đổi ra sao vào những năm cuối thế kỉ 20. Cuộc sống nơi thôn quê rất lành mạnh, nhưng tẻ nhạt lắm.” “Dạ.” Con người này đúng là không thay đổi gì cả. Bước sang tuổi tứ tuần rồi mà suy nghĩ vẫn không chịu tương xứng với độ tuổi. Kawaminami chực hỏi anh đã nghĩ đến chuyện lập gia đình chưa, nhưng nhanh chóng từ bỏ ý định. Cậu dụi điếu thuốc vào gạt tàn, đảo mắt quan sát nhà cửa. Những tưởng nơi đây phải bừa bộn lắm, hóa ra lại rất gọn gàng sạch sẽ, chẳng giống nơi ở của một người đàn ông độc thân chút nào. Phòng khách rất rộng, sàn lát gỗ. “Căn hộ đẹp thật. Khu này chắc giá cao lắm phải không?” “Ừ, cũng tầm tầm.” “Tầm tầm là sao ạ?” “Chủ cư xá là người quen cũ của tôi. Thông cảm với chiếc ví lép kẹp của một cây viết mới tập tọng nên cho tôi thuê với giá khá rẻ.” “Có chuyện đó nữa à!” “Ừ, tôi từng ở đây hồi đại học rồi. Chủ nhà là con trai một gia đình giàu có. Chúng tôi cùng tuổi nên dễ bắt thân. Cư xá tên là Lục Trang.” “Chà. Hèn gì tên tiếng Anh là Green Heights.” “Ừm. Hắn ta thừa kế cư xá cũ, rồi phá đi xây cư xá này.” Kawaminami thình lình nhận ra ở góc bàn có món đồ là lạ. Một mô hình gấp giấy phức tạp màu đen. “Ác ma hở anh?” Kawaminami trỏ mô hình. “Ừ, nó đã xuất hiện trong Mê Lộ Quán. Cậu vẫn hứng thú với nghệ thuật xếp giấy chứ?” “Vẫn.” Shimada đặt tác phẩm xếp giấy lên lòng bàn tay. Từ tai, miệng, chân tay, đến cả đuôi và cánh, từng chi tiết một đều gắn kết với nhau hết sức chặt chẽ. “Mê Lộ Quán quả là nhận được sự ủng hộ ngoài mong đợi. Nguyên bản cách gấp ác ma là do tác giả của nó gửi thư chỉ cho tôi. Tôi đã đọc các tác phẩm của người ấy nên hiểu được đôi chút về nghệ thuật gấp giấy. Về sau tác giả lại chỉ thêm cho phiên bản ác ma cải tiến. Cậu nhìn chỗ này xem. Phiên bản ban đầu có năm ngón tay thôi.” Kawaminami nhón ác ma lên, ngắm nghía. Quả thật, so với nguyên tác năm ngón, bản cậu đang cầm trên tay có tới bảy ngón. “Ra đây chính là ác ma bảy ngón.” “Chắc cậu đọc KChildhood’s End của Arthur C. Clarke rồi. Overloads* cũng từ cuốn đó mà ra đấy.” Nhân vật người ngoài hành tinh trong Kết thúc ấu thơ, giúp ngăn chặn sự diệt vong của nhân loại. “Tuyệt thật. Mô hình này được gấp bằng đúng một tờ giấy thôi phải không anh, tôi không thấy mối ghép ở đâu cả.” “Ừ.” “Xếp giấy đúng là một nghệ thuật đòi hỏi sự tỉ mỉ tuyệt đối.” Cậu không nghĩ người như Shimada có thể tạo ra từng góc cạnh mô hình hoàn hảo thế này. Nội dung cuốn Mê Lộ Quán cậu đọc hai tuần trước dần dần tái hiện trong đầu. Cả chuyện cậu định nói với Shimada nữa, trên đường tới đây cậu đã suy đi tính lại mãi… Do dự một hồi, cậu quyết định, phải nói ra thôi. “Hừm, anh Shimada… à không, nên gọi là nhà văn Shishiya mới phải, vì dù sao thì hiện giờ tôi cũng là biên tập viên của Kitansha…” “Là gì cũng được, nhưng mà bỏ giùm tôi hai chữ ‘nhà văn’ đi.” “Vậy thì, anh Shishiya!” Kawaminami gọi, rồi dừng lại lấy hơi. “Kì thực tôi cũng không biết nói sao, nhưng mà đúng là có duyên!” “Có duyên? Duyên gì?” “À, chuyện là…” Kawaminami ngập ngừng, liếc mắt lên chiếc đồng hồ bát giác treo tường. Kim vẫn chỉ 4 giờ kém y như ban nãy. Cậu vươn tay kéo chiếc gạt tàn trên bàn lại gần hơn. “Anh biết Biệt thự Đồng Hồ ở Kamakura không?” “Biệt thự Đồng Hồ?” Phản ứng của Shimada Kiyoshi, hay Shishiya Kadomi, thật bất ngờ. Đôi chân mày rậm nhướng cao, mắt mở to nhìn Kawaminami, “Không lẽ…” “Vấn đề nằm ở chính mấy chữ ‘không lẽ’ ấy đấy!” Kawaminami đón ánh mắt Shimada. “Biệt thự còn có tên khác là Thời Kế Quán. Như tôi được biết, đó cũng là một trong những công trình do Nakamura Seiji thiết kế.” “Kể tôi nghe chi tiết hơn đi.” Shishiya Kadomi quay trở về bàn bếp, nhấc tách cà phê vừa pha máy xong, mang lại cho Kawaminami. “Cậu lấy thông tin ở đâu? Kiểu này chắc không phải một mình cậu điều tra rồi!? Nói gì thì nói, cậu hẳn không muốn dây vào những chuyện liên quan tới Nakamura Seiji nữa chứ nhỉ!” “Vâng.” Kawaminami ngậm điếu thuốc mới trên môi, “Chính vì thế, tôi mới nói là có duyên… À, tôi xin phép uống cà phê nhé.” Cậu cho thêm đường vào tách, khuấy đều, nhưng không quên dò xét biểu cảm trên mặt Shishiya! Anh đan hai tay sau đầu, mắt chăm chú nhìn cậu. “Chuyện này bẳt nguồn từ bộ phận tôi làm. Tôi có nói sơ qua trên điện thoại với anh rồi, hồi mùa xuân tôi vào làm tạp chí.” “À, ừ.” Shishiya mím cặp môi dày, gật đầu đồng tình. “Cậu làm biên tập cho CHAOS?” “Anh đọc CHAOS chưa?” “Đọc lướt thôi. Tôi không hứng thú với thể loại tạp chí ấy lẳm.” CHAOS là nguyệt san của Kitansha, ra đời ba năm về trước. Tạp chí lấy tiêu chí “ultra science*”, chủ yếu viết về các chủ đề liên quan đến tâm linh như siêu năng lực, UFO hay những hiện tượng kì bí. Đối tượng độc giả từ 15 đến 20 tuổi. Lúc mới phát hành, tạp chí rất được giới trẻ ưa thích, nhưng sau một thời gian không có thêm bài vở gì mới lạ, giờ chỉ xuất bản cầm chừng thôi. Siêu khoa học. “Ở ban biên tập của CHAOS, tôi đảm nhận phần dự án đặc biệt. Một trong số đó là ‘Hồn ma ở Biệt thự Đồng Hồ’.” “Hồn ma à…” Shishiya nhún vai, xoa xoa cặp má hóp. “Có ma thật không?” “Hồi trước có, tôi không rõ chi tiết, nhưng người quanh vùng đều nói thế.” Kawaminami trả lời. “Chủ sở sở hữu biệt thự vốn là ông Koga Michinori, qua đời cách đây chín năm. Trước và sau thời điểm ấy, rất nhiều người trong nhà theo nhau mất mạng. Hiện nay dân trong vùng kháo nhau rằng có một thiếu nữ cứ đi thơ thẩn ở khu rừng gần biệt thự, hình như chính là hồn ma con gái ông Koga Michinori…” “Koga Michinori?! Tôi nghe thấy cái tên này ở đâu rồi thì phải.” “Là người nổi tiếng đấy. Ông là cựu chủ tịch của công ty thuộc hàng nhất nhì trong ngành sản xuất đồng hồ mà.” “À, ra thế. Hóa ra là chủ tịch Koga Michinori của Công ty Đồng hồ Koga. Sau đó lại xây nên Biệt thự Đồng Hồ… Thời Kế Quán hả?” “Nghe bảo công trình kì lạ lẳm. Có tháp đồng hồ khá độc đáo, cấu trúc các phòng rất phức tạp, trong nhà bày đầy đồng hồ cổ.” “Ồ!” Shishiya khe khẽ thốt, mắt dừng ở chiếc đồng hồ bát giác không còn chạy trên tường. Kawaminami tiếp tục, “Công trình kì lạ! Thoáng nghe mấy chữ này tôi đã nghĩ ngay, phải chăng lại liên quan đến ông ta? Bèn hỏi thử phó chủ biên xem sao. Trúng phóc, kiến trúc sư công trình là Nakamura.” “Ra vậy! Đúng là có duyên thật. Conan, cậu cho tôi điếu thuốc!” “Mời anh.” Shishiya rút điếu thuốc ra khỏi bao, lẩm nhẩm, “Điếu cho hôm nay,” rồi châm lửa. Phổi Shishiya vốn rất yếu, vào lần gặp cách đây ba năm, anh từng tuyên bố với Kawaminami rằng đã quyết định mỗi ngày chỉ hút một điếu thuốc thôi. Có thể thấy anh vẫn tuân thủ đúng nguyên tắc đó. “Hừm, dự án đặc biệt của cậu cụ thể ra sao?” Shishiya nhẩn nha nhả khói. “Dự án đó… bảo là thú vị thì cũng thú vị đấy…” Kawaminami bối rối nhìn về phía hành lang dẫn ra cửa chính. “Có chuyện gì khó nói à?” Nghe hỏi, cậu lắc đâu “Dạ không,” chuyển hướng nhìn về lại chỗ cũ, “Mà, anh Shima… à không, anh Shishiya…” “Gọi không thuận miệng nhỉ?” “Không sao ạ. Nãy giờ cũng thuận rồi.” “Có gì đâu, nếu không quen thì không cần gọi thế.” “Không được. Bút danh là để xác nhận danh phận nhà văn của anh mà… Anh Shishiya, căn 408 ở sát vách căn anh phải không?” “Đúng, đây là căn 409 mà.” “Người ở căn đó, anh biết không?” “Căn sát vách á?” Shishiya chớp mắt nghi hoặc. “Biết, cô Komyoji.” “Komyoji Mikoto.” Kawaminami đọc ra cả họ và tên. “Nghe cái tên anh không cảm thấy gì à?” “Cảm thấy gì?” Shishiya ngửa cổ ra sau. “Ý cậu là người nổi tiếng?” “Vâng, cũng có thể nói là người nổi tiếng. Gần đây chị ấy hay xuất hiện trên ti-vi lắm.” “Tôi không mấy khi xem ti-vi. Nghệ sĩ à?” “Không phải nghệ sĩ.” Kawaminami mường tượng lại khuôn mặt người phụ nữ. “Chị ấy là người có khả năng tâm linh, danh tiếng đang lên.” “Có khả năng tâm linh?” Shishiya mở to mắt ngạc nhiên. “Thật á?” “Một nhà ngoại cảm có linh lực mạnh hiếm thấy, lại xinh đẹp nên rất được chú ý. Bên tôi đăng vài bài về chị ấy rồi, ban nãy vừa chạm mặt dưới nhà là tôi nhận ra ngay.” “Trông không có vẻ sở hữu linh lực đặc biệt gì. Thinh thoảng giáp mặt ngoài hành lang tôi chỉ xã giao đôi câu thôi.” “Komyoji xuất hiện trên ti-vi thì toàn mặc đồ đen, mặt mày trang điểm trắng toát như người chết, chắc để tạo bầu không khí ra vẻ thần bí.” “Mà về các hiện tượng siêu nhiên thì quan điểm của cậu như thế nào, tin hay không tin?” “Hồi xưa thì tôi hoàn toàn phản đối mấy chuyện như thế. Nhưng từ ngày làm báo, đọc nhiều tài liệu và bằng chứng, ít nhiều tôi cũng tin là có… Tuy nhiên, chín phần mười bài vở trên báo đều là chuyện bịa.” “Một phần còn lại thì chẳc là chuyện thật hả?” “Có thể nói thế.” “Về linh lực của cô Komyoji, cậu nghĩ sao?” “Tôi cũng không biết nói thế nào… Chị ấy sống một mình ạ?” “Hình như thế. Thi thoảng tôi bắt gặp một người trông cũng có địa vị đi cùng cô ấy.” “Vậy ạ?” “Ừ, mấy lần rồi. Đại khái là một người đàn ông lớn tuổi, nhưng không có vẻ là cha cô ta, chưa chừng lại là bồ bịch cũng nên. Nhà ngoại cảm đi nữa thì cũng vẫn là con người thôi. Đúng không, Conan?” “À vâng… Mà chính vì thế…” Shishiya dụi phần tàn thuốc vào gạt tàn, chờ xem cậu nói gì tiếp theo. “Mấu chốt là ở chỗ, để chứng minh vụ ‘Hồn ma ở Biệt thự Đồng Hồ’ là thật, ban biên tập CHAOS đã quyết định đề cử người đẹp tâm linh Komyoji làm trưởng nhóm lần này.” “Ồ, thế hả?” Vẫn cái vẻ đó, Kawaminami nghĩ thầm, rồi nhún vai, “Vậy nên ban nãy tôi mới bất ngờ. Tôi đâu nghĩ chị Komyoji ở tòa nhà này, lại còn ở sát vách anh.” “Ra là thế. Đúng là trùng hợp đến giật mình.” Shishiya cười híp mắt. “Nhưng mà, đôi khi nguồn gốc của nhiều việc đều có liên quan đến nhau cả. Mà bao nhiêu chi tiết ngẫu nhiên trùng hợp thế này thì nhất định là sẽ có chuyện gì đó cho mà xem.” “Nhất định sẽ… có chuyện gì đó…” “Nghe mù mờ nhỉ, không được khoa học cho lắm.” “Nội dung kế hoạch bên tôi đại khái như sau.” Kawaminami tiếp tục. “Từ đêm 30 tháng này, nhóm thực địa sẽ giam mình ở Thời Kế Quán trong ba ngày liên tục. Chị Komyoji với vai trò người gọi hồn sẽ giúp chúng tôi liên lạc với hồn ma đang ngụ trong biệt thự.” “Chắc cậu cũng nằm trong nhóm thực địa phải không?” “Vâng. Thành viên gồm tôi, phó chủ biên, phóng viên ảnh, ngoài ra còn vài sinh viên trong Hội Mystery của Đại học W. “Trinh thám à?” “Không phải trinh thám đâu. Tên hội này hình như là ‘Hội nghiên cứu các hiện tượng kì bí’ nên gọi tắt là Hội Mystery luôn.” “Hầy. Dễ nhầm thật!” “Nghe ‘huyền bí’ chắc mọi người sẽ nghĩ ngay đến người ngoài hành tinh hay UFO. Thật ra chính tôi vẫn luôn nghi hoặc, phải chăng do hiểu lầm này mà tôi mới bị điều đến ban biên tập CHAOS.” “Chắc không đến nỗi chứ…” Shishiya ngả mình ra sau. “Nhốt mình trong ngôi nhà đó hẳn ba ngày? Chà. Chắc sẽ không chịu được đâu.” “Anh nghĩ vậy à?” “Tôi cứ có cảm giác lợn cợn. Nhà ma bình thường thì đã đành, nhưng đây lại còn là một trong những công trình của Nakamura Seiji…” Nhìn vào khuôn mặt băn khoăn của anh nhà văn, Kawaminami hỏi, “Anh cho rằng sẽ xảy ra chuyện gì bất trắc à?” “Ừ… à không. Nói thế thì vô căn cứ quá. Thôi, coi như tôi thần hồn nát thần tính đi.” Shishiya bật cười, nhưng chân mày vẫn nhíu lại. Thập Giác Quán, Thủy Xa Quán, rồi Mê Lộ Quán… cứ điểm qua số thảm án đã xảy ra tại các công trình của Nakamura Seiji thì đủ biết nỗi lo của anh không phải không có lý. “Thời Kế Quán ấy, cậu có tìm hiểu được thông tin gì chi tiết hơn không?” Shishiya hỏi. Như muốn xua đi nỗi ưu tư đang từ từ cuộn lên quấn lấy tâm khảm, Kawaminami lắc đầu thật mạnh, “Chưa có ạ.” “Thế hả? Dù sao thì cũng cứ cẩn thận nhé. Nếu được thì tôi cũng muốn đi cùng. Ngày 30, hai tuần nữa nhỉ?” “Lúc đó anh có bận không?” “Cuốn đang viết hạn chót là mười ngày nữa. Nếu hoàn thành kịp, thì không bận.” Nhìn thái độ không chắc chắn của Shishiya, đủ biết bản thảo đang tiến hành không mấy suôn sẻ. “Thôi tôi cứ về hỏi thăm sếp xem số người tham gia tăng lên có sao không. Nếu không sao thì anh nhập hội nhé.” “Thôi khỏi. Nếu rảnh tôi muốn đi một mình thử coi. Đã là công trình của Nakamura Seiji thì nhất định phải thu xếp đến chiêm ngưỡng.” Nói xong, Shishiya giơ hai tay vươn vai, đứng bật dậy khỏi ghế. “À này, Conan. Gần đây có quán điểm tâm cũng yên tĩnh, đi với tôi ra đấy đi. Từ lúc ngủ dậy tới giờ tôi chưa có gì bỏ bụng. Sẵn tiện hai năm nay bặt vô âm tín rồi, nên tôi cũng có nhiều chuyện muốn hỏi đây.” Chủ nhật, ngày 16 tháng Bảy năm 1989. Bên ngoài, cơn mưa cuối mùa vẫn rả rích rơi. Những lời đầy ẩn ý của Shishiya khuấy động cảm giác bất an mơ hồ trong lòng Kawaminami, nhưng vào thời điểm ấy, cậu vẫn chưa ngờ được rằng chỉ hai tuần sau, trong chuyến viếng thăm Thời Kế Quán, cậu sẽ rơi vào một cơn ác mộng kinh hoàng. Mời các bạn đón đọc Thời Kế Quán của tác giả Yukito Ayatsuji & Hải Yến (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Giả Thuyết Thứ 7 - Paul Halter
Một ngày nọ ở Luân Đôn, có hai người đàn ông tài ba danh giá quá chẳng để làm gì, đã chơi tung đồng xu để thách thức tài trí nhau. Theo đó người thắng phải gây ra một vụ án mạng kiểu gì cũng được, sao cho bản thân mình có đầy đủ chứng cứ ngoại phạm, còn các manh mối phạm tội sẽ đổ dồn vào người thua. Một âm mưu thoạt nhìn chỉ để cho vui, cuối cùng như hơi độc thổi bung ra trong không khí, xé toang lồng ngực bao nhiêu người khác, lại cũng làm ngạt thở chính mình. Bởi vì mạng người chưa và không bao giờ là thứ nên đem ra làm trò đùa cợt. Paul Halter, nhà văn trinh thám người Pháp, sở hữu gia tài gồm hơn 30 tiểu thuyết cùng các giải thưởng trong nước và quốc tế. Ông được ưu ái mệnh danh là “Bậc thầy của những căn phòng khóa kín”. Truyện của ông độc đáo vì đã xây dựng được những câu đố và âm mưu tội ác gần như không tưởng. Dùng tiểu thuyết “chuyên chở thông điệp xã hội, khám phá các vấn đề nhân đạo và triết học” cũng trở thành một điểm nhấn khó phai khi nói về Paul Halter. *** Khoảng 10 giờ tối, cảnh sát Edward Watkins đi ngang cung điện St. James như ông vẫn làm nửa tiếng một lần vào những buổi tối phải trực thế này. Nhiều năm qua, ông đã đều đặn thực hiện đúng lộ trình đó mà không gặp sự cố gì. Thi thoảng chạm trán một tay say xỉn có phần ngỗ ngược không thể bỏ qua, nhưng đám đó cũng chỉ đếm trên đầu ngón tay. Khu vực này rất yên bình, yên bình như cuộc đời cảnh sát viên của ông, khi ông đã đi mòn gót, tâm trí chỉ nghĩ về thời khắc nghỉ hưu sắp tới bên người vợ yêu quý của mình. Một cuộc đời chẳng có biến cố gì, thực vậy - cho tới đêm 31 tháng Tám năm 1938. Hai bàn tay đan chéo sau lưng, chiếc mũ cát kéo sụp xuống đầu, thứ âm thanh duy nhất ông nghe được là tiếng bước chân của chính mình trong cái khu vực đang say ngủ, chìm trong bóng đổ của những tòa nhà gớm ghiếc cao ngất bao quanh. Đêm khá lạnh và màn sương nhẹ lững lờ buông xuống phần mặt tiền đầy vẻ hăm dọa. Ông rẽ xuống phố King, đi được nửa chừng thì dừng lại ngó qua vai, như một việc rất bình thường. Đúng lúc ấy, ông nghe tiếng bước chân ở đâu kia phố King, ngay chỗ ngã tư với phố Bury. Nhưng khi vòng trở lại, ông chỉ thấy cái bóng của một kẻ qua đường, hắt lên bức tường cách đó hơn chín mét nhờ một ngọn đèn đường năm ở góc ngã tư. Cảnh sát Watkins đứng yên vài giây, miệng há hốc. Mặc dù chỉ thấy cái bóng trong một thoáng, ông cũng đủ nhận ra một điểm dị thường: Nó có cái mũi dài lạ lùng. Không phải dài hơn mức bình thường vài phân, mà dài một cách quái đản, dễ chừng bằng cả vành mũ rộng mà kẻ đó đang đội. Quỷ quái gì vậy? Một gã cải trang thành chim chăng? Edward Watkins đứng yên thêm vài giây nữa, tâm trí quay cuồng. Khi trấn tĩnh lại, ông rảo bước tới góc phố Bury và nhìn dọc xuống lối đi, vừa kịp thấy nhân vật kia sắp rẽ phải vào một hẻm ở quãng giữa phố, nơi hình như có thêm nhân vật khác đã đến từ trước. Watkins chưa xác định được nhân dạng của kẻ thứ hai, nhưng thoáng thấy thứ gì đó rất giống áo choàng. Diễn biến tiếp theo khá nhanh. Nhân vật kia, có lẽ bị đánh động bởi tiếng chân bước của viên cảnh sát, quay phắt lại đối diện với ông và, lộ rõ vè ngạc nhiên, nó vọt nhanh vào ngõ hẹp. Trong những tình huống bình thường, viên cảnh sát sẽ lập tức bám theo. Nhưng những gì ông vừa thấy - và đặc biệt là vào thời điểm đó - lạ lùng đến mức phải mất vài phút quý giá tâm trí ông mới phục hồi được. Nhưng các giác quan thì không hề phản bội ông và hình ảnh dị thường kia vẫn rõ rệt trong tâm trí: áo choàng dài đến mắt cá chân, đôi tay đeo găng, chiếc mũ rộng vành, và thay vì khuôn mặt, lại chình ình một chiếc mặt nạ trắng ởn mà ở chính giữa là cái mũi dài ít nhất cũng hơn ba mươi phân. Mặc dù chưa bao giờ nhìn thấy hình ảnh ấy bằng xương bằng thịt, nhưng ông đã xem đủ minh họa để hiểu ra: Ông vừa nhìn thấy một bác sĩ dịch hạch. Một bác sĩ dịch hạch. Đã từng có dịch hạch ở Luân Đôn. Những câu chuyện về bệnh dịch khủng khiếp vụt qua tâm trí ông: Người chết nhiều như ruồi trên đường phố, quằn quại trong đau đớn, thân thể đầy mụn mủ, mí mắt thâm đen, gương mặt teo tóp. Xác chất đống lên xe đẩy, rồi trút xuống hào sâu bên ngoài thành phố, nơi một sự hoảng loạn không tên ngự trị, nơi gần như không thể trốn chạy, và nơi người sống trong những ngôi nhà bị nhiễm bệnh chết vì đói hơn là vì dịch hạch. Viên cảnh sát xua dòng ý nghĩ hắc ám ấy đi và định thần lại. Ba trăm năm nay không còn dịch hạch ở Luân Đôn, đã có nhiều hiện pháp hiện đại để kiểm soát nó. Hơn nữa, các bác sĩ không còn lang thang trên đường phố trong bộ trang phục kỳ dị này nữa. Người ông vừa nhìn thấy hoặc là một người đi dự tiệc hoặc một dạng tội phạm nào đó đang chuẩn bị ra tay. Không, như thế thật vô nghĩa. Có nhiều cách kín đáo hơn để che giấu nhân dạng. Vậy thì là gì chứ? ... Mời các bạn đón đọc Giả Thuyết Thứ 7 (Dr. Twist #6) của tác giả Paul Halter.
Kẻ Giết Người Đội Lốt - Erle Stanley Gardner
Theo GUINNESS, quyển sách ghi các kỷ lực thế giới, Erle Stanley Gardner được ghi nhận là tác giả sách bán chạy nhất của mọi thời đại. - Erle Stanley Gardner có trên 150 tác phẩm trinh thám tin cậy, đáng giá và hợp thời đại. - Erle Stanley Gardner, người đã tạo nên nhân vặt truyền kỳ luật sư Perry Mason, cô thư ký tinh ý Della Street, và viên thám tử tài ba Paul Drake. - Erle Stanley Gardner, tác giả duy nhất có sách bán chạy hơn cả bốn tác giả nổi tiếng khác cộng lại gồm: Agathe Chistie, Harold Robbins, Barbara Cartland và Louis L’amour   *** Một số tác phẩm đã được xuất bản tại Việt Nam:   1. Móng vuốt bọc nhung (Đôi tất nhung) [Perry Mason #1 - The Case of the Velvet Claws] (1933) 2. Cháu gái người mộng du [Perry Mason #8 - The Case of the Sleepwalker's Niece] (1936) 3. Vị giám mục nói lắp [Perry Mason #9 - The Case of the Stuttering Bishop] (1936) 4. Kẻ hùn vốn [Perry Mason #17 - The Case of the Silent Partner] (1940) 5. Con vịt chết chìm (Mười tám năm sau) [Perry Mason #20 - The Case of the Drowning Duck (Le Canard Qui Se Noie)] (1942) 6. Cô gái có vết bầm trên mặt [Perry Mason #25 - The Case of the Black-Eyed Blonde (La Blonde au Coquard)] (1944) 7. Lá thư buộc tội [Perry Mason # 44 - The Case of the Runaway Corpse] (1954) 8. Viên đạn thứ hai [Perry Mason #45 - The Case of the Restless Redhead] (1954) 9. Con mồi táo bạo [Perry Mason #54 - The Case of the Daring Decoy] (1957) 10. Kẻ mạo danh [Perry Mason #64 - The Case of the Spurious Spinster] (1961) 11. Người đàn bà đáng ngờ [Perry Mason #69 - The Case of the Mischievous Doll] (1963) 12. Vụ Án Hoa Hậu Áo Tắm [Perry Mason #78 - The Case of the Queenly Contestant] 13. Kẻ Giết Người Đội Lốt [Perry Mason #40 - The Case of the Grinning Gorilla] (1952) 14. Tiếng Chó Tru Trong Đêm [Perry Mason #04 - The Case of the Howling Dog] (1934) 15. Người Được Minh Oan [Perry Mason #27 - The Case of the Half-Wakened Wife] (1945) 16. Người Đàn Bà Đáng Sợ [Perry Mason #53 - The Case of the Lucky Loser] (1958) *** Vào sáng thứ hai, mười giờ kém năm, Perry Mason, cặp dưới nách một gói bọc giấy màu nâu, một tay gỡ cái mũ phớt và ném về phía bức tượng bán thân Blackstone vốn là thứ trang điểm cái giá sách phía sau bàn làm việc của ông. Chiếc mũ phớt lười biếng quay mấy vòng rồi chụp thẳng xuống vầng trán cẩm thạch của vị luật sư lừng tiếng, tạo cho ngài một vẻ ngang tàng quái đản. Della, cô thư kí riêng của Mason đang mở thư tín buổi sáng bên bàn, vỗ tay hoan hô. “Chà, lần này thực sự thành công lắm!” Mason đồng tình với niềm kiêu hãnh kiểu trẻ con. “Blackstone chắc là phải nhảy chồm lên ở dưới mồ,” Della nhận xét. Mason mỉm cười. “Ông ấy đã quen từ lâu rồi. Năm mươi năm gần đây tất cả các luật sư chỉ có làm mỗi việc là chất mũ của mình lên vầng trán cao thượng của Blackstone. Điều đó là đặc trưng trong thời đại chúng ta.” “Đó là điều gì chứ?” “Ném mũ.” “Tôi sợ là không hiểu được hết ý nghĩa.” “Vài thế hệ trước,” Mason giải thích với cô, “các luật sư từng là những người chán ngắt hiếm thấy. Đặt tay lên vạt áo vét, họ nói những diễn từ cầu kì theo mọi quy tắc của nghệ thuật hùng biện. Các văn phòng của họ nhất thiết phải được trang điểm bằng tượng bán thân của Blackstone. Thế nhưng các luật sư trẻ được thừa kế các bức tượng cùng với đồ đạc văn phòng và hàng đống bộ luật thì phát cáu bởi cái vẻ tự mãn khoa trương đông cứng trên bộ mặt bằng đá của lão già này.” “Chắc là anh cần phải đến gặp nhà phân tâm học, sếp ạ,” Della nói. “Có lẽ đối với anh Blackstone tượng trưng cho cái gì đó mà anh cố sức chống chọi lại một cách vô thức. Thế cái gói gì chỗ anh thế?” “Có quỷ mới biết nó,” Mason đáp. “Theo tôi, tôi cố sức chống chọi các định kiến u tối. Tôi đã trả mất năm đôla - tôi có ý nói cái gói ấy.” Trong giọng Della che giấu lòng bao dung dịu dàng sau vẻ giận dỗi giả tạo, “Tôi hi vọng anh không định ghi khoản đó vào chi phí công vụ chứ?” “Tất nhiên, tôi sẽ ghi. Chứ khác đi thì theo cô các chi phí chung là cái gì?” “Và anh thậm chí không biết cái gì bên trong đó ư?” “Tôi mua nó mà không giở ra.” “Tôi sẽ hơi khó quyết toán, nếu phải ghi vào cột chi năm đôla vì cái gói mà không rõ có gì nằm trong đó. Điều gì đã xui khiến anh như thế?” “Nói chung,” Mason thốt ra, “sự thể là thế…” Ông mỉm cười. “Nào tiếp theo là gì?” Della hỏi, cũng không đủ sức kìm nổi nụ cười. “Cô nhớ cái cô Helen Cadmus nào đó không? Cái tên ấy không nói với cô điều gì sao? “ “Một cái tên khá lạ,” cô nói. “Tôi có cảm giác… Khoan, đó có phải là cô gái đã tự tử, nhảy xuống biển từ tàu buồm của một nhà triệu phú nào đó?” “Phải, phải, chính cô ta. Benjamin Addicts, một triệu phú khá bất thường, nghỉ ngơi trên chiếc tàu buồm của mình. Giữa biển khơi, cô thư kí của ông ta, Helen Cadmus biến mất không để lại dấu vết. Người ta phỏng đoán là cô ta đã nhảy ra ngoài thành tàu. Mà trong cái gói này… Nào chúng ta cùng xem điều gì viết ở đây.” Mason lật cái gói lại và đọc, “Đồ vật riêng của Helen Cadmus. Văn phòng mõ tòa.” Della thở dài. “Đã bấy nhiêu năm tôi là thư kí riêng của anh… và thậm chí đôi khi tôi có cảm giác rằng tôi đã biết anh khá rõ, nhưng rồi lại xảy ra gì đó như kiểu này, và tôi lại nhận thức rằng anh vẫn là ẩn số đối với tôi. Trời ơi, anh lấy thứ đó ở đâu và vì cái gì mà bỏ ra những năm đôla cơ chứ?” “Mõ tòa khá thường xuyên đưa ra đấu giá đủ thứ vớ vẩn khác nhau chất đống trong văn phòng ông ta. Và hôm nay trong gian nghị án đã có cuộc đấu giá, còn tôi lại vô tình có mặt không xa chỗ đó. Ở đấy diễn ra những cuộc đấu giá khá hăng, tất cả tranh giành các chế tác kim hoàn, các bức tranh quý hiếm, bộ đồ ăn bằng bạc và đủ mọi thứ khác nữa. Sau đó người ta đưa ra đấu giá cái gói này, và chẳng có ai thèm trả giá. Cô cũng biết mõ tòa - ông ta là một bạn tốt của tôi. - Thế là tôi nháy mắt cho ông ta, và đề nghị đặt giá đầu tiên là năm đôla, nhằm kích động công chúng. Và cô biết sao không? Tôi chưa kịp trấn tĩnh thì họ đã dúi cái gói cho tôi rồi, thành ra trong ví tôi bớt đi năm đôla.” “Thế có gì bên trong ấy?” Della tò mò. “Ta cùng xem,” Mason đề nghị. Ông mở con dao díp, cắt dây buộc và mở tờ giấy bọc ra. “Ái chà chà! Giống như chúng ta có được cuốn ngữ pháp tiếng Anh, cuốn từ điển, vài sách giáo trình tốc kí, mấy cuốn nhật kí và quyển album với những tấm ảnh.” “Có thế mà mất những năm đôla!” Della kêu lên. “Ta ngó qua album ảnh xem,” Mason nói. “Chà! Đây có những tấm ảnh mà ai cũng muốn xỉa năm đôla mua nó.” Della đi lại gần và ngó qua vai ông. “Nếu đó được gọi là quần áo tắm,” cô nhận xét, “thì tôi…” “Thế nhưng giống như nó chính là thế,” Mason đáp. “Bộ đồ tắm từ ba mảnh vải hình vuông, bằng cách thần diệu nào đó đã bám được vào các đường nét uyển chuyển của thân hình khá đáng yêu. Tôi cho rằng đó chính là Helen Cadmus.” “Cô ta không che giấu quá nhiều khỏi những con mắt người lạ,” Della nói. “Chắc gì người lạ nào đó đã chụp, có lẽ một cô bạn nào đó của cô ta biết sử dụng máy ảnh, may mắn tóm được khuôn hình gây ấn tượng mạnh. Ồ, ở đây còn cả một tập những bức ảnh của lũ khỉ nữa.” ... Mời các bạn đón đọc Kẻ Giết Người Đội Lốt của tác giả Erle Stanley Gardner.
Chiếc Khuy Đồng - Lev Ovalov
Cuốn tiểu thuyết tình báo "Chiếc khuy đồng" của Ô-va-lốp viết dựa trên một câu chuyện có thật, xảy ra tại thành phố Ri-ga, nước Cộng hòa Lét-tô-ni (Liên-xô) tạm thời bị quân phát xít Đức chiếm đóng vào những năm đầu chiến tranh thế giới lần thứ hai. Câu chuyện lý thú phản ánh cuộc đấu tranh gay go, mạo hiểm, quyết liệt giữa cơ quan tình báo Liên xô và bọn gián điệp của các nước đế quốc; nêu lên những mâu thuẫn, xung đột tất yếu không thể tránh khỏi trong nội bộ bọn gián điệp đế quốc, phản ánh sự cấu xé vì quyền lợi và tham vọng giữa các nước đế quốc, dù lúc bấy giờ với danh nghĩa là đồng minh của Liên xô chống phát xít Hít-le. Hiện nay, bọn phản động bành trướng bá quyền Bắc Kinh đang ra sức cấu kết với đế quốc Mỹ, tiến hành một kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt đối với nước ta. "Chiếc khuy đồng" ra mắt lần này chắc chắn sẽ góp phần giúp bạn đọc nâng cao tinh thần cảnh giác Cách mạng, bồi dưỡng và củng cố thêm ý chí bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. *** Lời Tác giả: Tính đến nay đã gần tròn 20 năm, tôi có viết về Prô-nin, một cán bộ của Cục An ninh Quốc gia, và là người bạn của tôi, một tập truyện nhan đề là NHỮNG VIỆC MẠO HIỂM CỦA THIẾU TÁ PRÔ-NIN. Xuất bản tập truyện ấy chẳng được bao lâu thì cuộc Chiến tranh bảo vệ Tổ quốc bùng nổ. Từ đó chúng tôi mỗi người một ngả, không liên lạc và cũng không hề gặp nhau. Trong quãng thời gian ấy, những sự kiện lớn lao đã bắt buộc một số người phải rút vào hoạt động bí mật.. . Rồi chiến tranh lại tan đi, công cuộc kiến thiết hòa bình trở lại trên khắp đất nước, người người lại sum họp và sau đó một thời gian mà tôi cho là dài lắm, cuộc sống lại trả hai chúng tôi về cảnh cũ. Đương nhiên tôi có hỏi về cái quá khứ của Prô-nin, tuy rằng anh không bao giờ thích để ai ca tụng mình. Anh đáp: "Tôi đã làm những gì thì chưa đến lúc phải kể lại, mà tôi cũng không có quyền nói hết những việc mình làm. Nhưng tôi có quyển nhật ký nhỏ của một đồng chí sỹ quan mà tôi có nhiệm vụ phải gặp gỡ trong những ngày đầu chiến tranh. Xin biếu anh đây. Đọc trong ấy tất anh sẽ biết được ít nhiều về tôi. Anh ta ghi quyển nhật ký này không phải để cho mọi người xem, nhưng nếu thấy thích, anh có thể phổ biến. Tất nhiên, những tên thật nên thay đổi đi ". Tôi đọc hết những dòng nhật ký đó và quyết định viết thành tiểu thuyết này. Lời lẽ quyển tiểu thuyết gần giống y như bản thảo nhật ký, tôi chỉ chữa lại một vài tình tiết ở đôi chỗ và thay đổi vài ba tên thật mà thôi. Tôi mở ngăn kéo bàn giấy lấy chiếc khuy đồng ra. Chiếc khuy đồng giản dị này là vật kỷ niệm duy nhất của tôi để ghi nhớ lại những sự việc lạ lùng nửa hư nửa thực mà tôi đã bị bắt buộc phải chứng kiến và tham dự vào... Cái vật bằng đồng nhỏ bé đó nằm gọn lỏn trên lòng bàn tay, gợi lại trong tâm trí tôi hình bóng ả đàn bà ấy, một hạng đàn bà kỳ dị hiếm có ở trên đời mà tôi đã quen biết trong những cảnh ngộ thật là éo le, khó hiểu. Đó là Xô-phi-a An-cốp-xcai-a. Nếu nói theo quan niệm thông thường của ta thì ả không phải là một trang tuyệt thế giai nhân: nét mặt không cân đối, thân hình chả lấy gì làm hoàn mỹ. Thế mà ả đã khiến cho nhiều kẻ mày râu phải "đổ quán xiêu đình" trước cái sóng khuynh thành của mình... Bạn thử hình dung ra một người đàn bà khá cao, tóc nâu sẫm, mặt hơi dài, trán dô gần như trán đàn ông với đôi mắt một mí màu gio mà trong cơn giận dữ thường biến sang màu xanh như mắt mèo và sắc như lưỡi dao cạo. Mũi hếch, cằm thon. Khác thường nhất là đôi môi đỏ chót, trề ra y hệt như môi trẻ con và có thể đột ngột mím chặt lại một cách dữ tợn, tái dần đến nỗi trắng nhợt ra. Hai vành tai quá rộng nói lên đặc khiếu thẩm âm của ả. Đôi má thỉnh thoảng mới ửng hồng, mái tóc mềm hơi uốn cong bên thái dương, hai cánh tay có vẻ quá mảnh khảnh nếu đem so với bộ đùi nở nang như đùi nhà thể thao chuyên nghiệp. Trong khi trò chuyện với ai ả chỉ nghe một bên tai, còn tai kia hình như đang mải lắng nghe một khúc nhạc hiu hắt từ cõi xa xăm nào vọng tới; nếu một mắt nhìn chòng chọc vào mặt người đối diện thì mắt kia hình như đang đăm chiêu soi vào khoảng không gian thăm thẳm. Và nếu tay phải ả dịu dàng vuốt ve anh thì tay trái có thể thình lình móc khẩu súng lục xinh xắn tối tân ở trong xắc ra để bắn chết anh trong nháy mắt. Phải chăng trong câu chuyện oái oăm này cũng phải có một nhân vật lạ đời như thế? Tôi là thiếu tá Ma-ca-rốp, sĩ quan tham mưu Liên Xô. Mấy tháng trước khi xảy ra chiến tranh, tôi được phái đến Ri-ga, một thành phố lớn và cổ kính nằm giữa hai miền Đông và Tây Âu... Nhiệm vụ của tôi là nghiên cứu chiến trường và chuẩn bị kế hoạch bố trí quân lực ở miền Tây Bắc để ngăn chặn một cuộc tiến công bất ngờ của quân địch khi chiến tranh bùng nổ. Công tác đó có tính chất hết sức bí mật. Lúc bấy giờ Ri-ga là một thành phố đông đúc và phức tạp. Những dãy nhà nguy nga tráng lệ ngất nghểu bên những phố xá tồi tàn đổ nát. Trước mắt chúng tôi đầy rẫy những nghịch cảnh giàu nghèo, sang hèn, vừa khêu gợi trí tò mò mà lại vừa kỳ lạ. Ri-ga là thủ đô của nước Cộng hòa xô-viết Lét-tô-ni vừa thành lập được ít lâu. Tôi sống khá kín đáo trong căn buồng riêng tại nhà đồng chí công nhân xưởng cơ khí tên là Xe-plít. Đồng chí là một đảng viên cộng sản lâu năm đã được tôi luyện trong thời kỳ hoạt động bí mật. Nhờ có chìa khóa riêng để ra vào cửa lớn nên tôi ít làm phiền đến chủ nhà. Tôi còn nhớ rõ đêm ấy vào khoảng cuối tháng sáu, sau khi báo cáo tình hình công việc hàng ngày với thủ trưởng, tôi bước ra khỏi tòa nhà đồ sộ sáng trưng ánh điện, đi qua một phố nhỏ rồi rẽ xuống đường bờ sông Đô-gáp xây bằng đá, rộng thênh thang. Mùa hè ở biển Ban-tích thật là êm dịu. Khí trời khô ráo nhẹ nhõm. Lòng tôi lâng lâng giữa biển hương thơm ngào ngạt dâng lên từ dòng sông và từ hoa cỏ dại đẫm sương... Đêm đã khuya. Bốn bề vắng ngắt. Tôi đội mũ dạ, mặc áo choàng màu sẫm, trong bóng tối khó mà nhận thấy. Một làn gió lạnh thoảng qua. Tôi rùng mình định kéo cổ áo lên chợt nghe tiếng gọi khẽ sau lưng. ... Mời các bạn đón đọc Chiếc Khuy Đồng của tác giả Lev Ovalov.
Bãi Biển Cây Cọ - Pierre Rey
Sau Đời Tỉ Phú và Đồng Tiền Lấm Máu..., Pierre Rey lại đưa chúng ta vào cuộc phiêu lưu đầy hấp dản trong BẢI BlỂN cày cọ, ờ đó một chàng viên chức ngân hàng nhờ vận may dã chiến thắng mọl mưu mỏ xào quvệt của các nhà tỷ phú để trờ thành một ông chủ ngôn hàng khổng rỏ và một... trái tim trong trắng của cỏ gái không bị lóa mắt vì dồng tiền.. *** Pierre Rey là tiểu thuyết gia người Pháp, ông sinh ngày 27 tháng 4 năm 1930 tại Courthezon (gần Avignon) tỉnh Vaucluse, mất ngày 22 tháng 7 năm 2006 ở Paris. Pierre Rey hoàn thành khóa học thứ hai tại trường đại học Orange, rồi ông nhập học Trường Mỹ Thuật Paris nơi ông học về vẽ tranh và lịch sử nghệ thuật. Sau khi tốt nghiệp Trường Mỹ Thuật, đầu tiên ông vẽ minh họa báo chí và nhiều tác phẩm của ông được đưa lên các báo lớn của Pháp. Ông bắt đầu với mục Nghệ thuật và Giải trí, rồi phóng sự thường ngày cuộc sống của người dân thủ đô ở báo Paris Presse (1959) hay Paris Jour (1963). Ông thắng Giải thưởng phóng sự Paris năm 1963. Năm 1965, ở tuổi 33, ông trở thành biên tập viên và tổng biên tập báo Marie Claire, về sau ông chia tay công việc này để hợp tác với Jacques Lacan mười năm trong công việc nghiên cứu. • Tác Phẩm - Le Grec (1972) Đời Tỷ Phú, tiểu thuyết lịch sử của Aristotle Onassis, được dịch ra nhiều ngôn ngữ. - La Veuve (1976) - Out (1977) - Palm Beach (1979) Bãi Biển Cây Cọ - Sunset (1988) Mật Danh Hoàng Hôn - Une saison chez Lacan (1989) - Bleu Ritz (1990) - Liouba (1992) - Le Rocher (1995) - Le Désir (1999) - L'Ombre du paradis (2001) - L'Oncle (2002) *** Lúc mười ba giờ, chuông báo nghỉ ăn trưa reo lên trong tám tầng nhà của cơ quan Đầu Tư Hóa Chất Hacket (Hackett Chemical Investraent). Cả sáu trăm hai mươi hai công chức, tiếp viên, trưởng phòng, kế toán, nhân viên phục vụ, thư ký, đánh máy và nhân viên ban hòa giải tranh chấp... nhất loạt chạy như điên ra thang máy. Thang vụt xuống ba mươi hai tầng, nhả họ ra từng tốp hấp tấp ào ra phố 42 nóng ẩm ngột ngạt. Chỉ một mình Alan Pope trong phòng 8021 tầng ba mươi ngôi lầu chọc trời Rilford này là không chồm lên. Anh vẫn như bị đóng đinh vào ghế, vẻ nhìn xa xăm dường như không nghe thấy gì. Samuel Bannister băn khoăn nhìn anh, tay đặt lên núm cửa: - Làm thêm hả? - Có ai trả tiền đâu! - Alan trả lời bằng giọng lơ đãng. Bannister nhìn chăm chú hơn. - Mình đến tiệm Romano chén đây. Đi với mình. - Không đói. Cảm ơn. Lưỡng lự, Bannister đổi chân đứng: - Cái gì dằn vặt cậu? Murray chắc? - Ừ. Murray. Tuy vội đi, Bannister vẫn phải rời bỏ cái núm cửa nắm chặt trong tay từ nãy. Bước hai bước tới chiếc bàn sắt vẫn ngồi cùng với Alan Pope từ bốn năm nay. - Đi làm chầu bia lạnh! Vừa uống vừa nói chuyện đó. Alan lắc đầu từ chối, lún sâu hơn vào ghế. - Cậu đi một mình đi, Samuel. Tớ cần suy nghĩ. Bannister lúc lắc người, định mở miệng nói câu gì nhưng lại thôi, rồi hỏi: - Lão triệu cậu vào mấy giờ? - Ba. - Chắc sẽ lên lương cho cậu. - Chuyện lạ! - Cậu lo lắng không đâu. Mình tin là chuyện hay, rất hay. - Nói như thằng cha bị xử tử bằng ghế điện. Mong bị mất điện. Bannister do dự một lát, nhún vai rồi nói với vẻ làm ra nhởn nhơ - Nếu đổi ý! Đến Romano. Alan còn lại một mình. Ruột gan thắt lại vì lo lắng, anh thở dài, đứng lên dán mũi vào cửa kính đưa mắt xuống bãi biển tuy chẳng nhìn gì. Đứng lặng trong mười phút, rồi nhảy bổ tới điện thoại quay số: Phải gặp Marina! May ra cô ta vẫn còn nằm trên giường, trần truồng, nóng hổi... Đường dây bận! Đột nhiên anh thấy rất thèm được nói với cô, sờ lên người, làm tình với cô. Anh gác máy, quật áo vét lên vai rồi mất hút trong hành lang vắng ngắt. *** - Thế nào Penny? Mụ nào vậy? Tên gì? - Abel Hartman cáu kỉnh hỏi. Anh là một luật sư cỡ nhỏ ở khu phố, chuyên trách các vụ: vợ chồng xích mích, tường ngăn chung hai hộ, nhà ngập nước, đụng xe tróc sơn. Anh ta căm ghét thân chủ của mình. Nữ thư ký riêng bình tĩnh trả lời: - Bà Mabel Pope. Có nghĩa là cựu phu nhân Alan Pope. Hartman rên khàn khàn trong cổ. - Lại như mọi bận. Chậm nhận được tiền trợ cấp nuôi dưỡng. - Ai bảo lấy thằng chồng kiết! Bảo mụ là tôi đang ở Thổ Nhĩ Kỳ. - Mụ đã trông thấy ông lúc ông đi lấy hồ sơ Leyland. Ông nên gặp thì hơn. Mụ sẽ đập phá tan hoang hết. - Mụ có nợ tiền ta không? - Không nợ một xu - Tôi quá ghét bọn hút máu người như mụ. Khốn nạn cho những thằng rơi vào vuốt mụ. Không còn lấy một giọt máu! Bắt gặp cái nhìn khinh bỉ của Penny, anh ta sực nhớ cô thư ký cũng vừa ly dị chồng. Anh ta dọn giọng càu nhàu: - Thây kệ, cho mụ vào. Tôi sẽ lập tức tiến hành việc tố tụng đối với Alan Pope! Mời các bạn đón đọc Bãi Biển Cây Cọ của tác giả Pierre Rey.