Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Hoang Dã - Hành Trình Tìm Lại Mình Trên Đường Mòn Pacific Crest

Hoang dã là cuốn hồi ký của Cheryl Strayed về chuyến hành trình đi bộ 1.770km dọc theo đường mòn Pacific Crest Trail khi cô 26 tuổi. Sau khi trải qua những năm tháng tàn tạ, mất phương hướng, phải chịu đựng cái chết của người mẹ thân yêu và cuộc ly dị đầy đau khổ, cô đã quyết tâm “xách balo lên và đi”. Và trong suốt cuộc hành trình dài hơn 1000 dặm, cô đã gặp được rất nhiều người, vượt qua nhiều thử thách tưởng chừng như không thể, để rồi chiêm nghiệm lại cuộc đời, tìm lại được chính mình. Sau khi được xuất bản vào tháng 3 năm 2013,Wild đã nhanh chóng leo lên vị trí dẫn đầu trong danh sách best-seller ở Mỹ và chiếm giữ vị trí đó trong vòng 7 tuần liên tiếp. Tính đến nay,Wild đã được dịch ra 28 thứ tiếng và được chuyển thể thành phim năm 2014. *** Những cái cây sừng sững cao vút, nhưng tôi còn cao hơn chúng. Tôi đang đứng trên một sườn núi dốc đứng phía bắc California. Tôi vừa tháo đôi giày leo núi ra và để rơi một chiếc xuống tán cây, đầu tiên, nó bật nhào vào không khí khi bị chiếc ba lô khổng lồ của tôi đổ ụp xuống, rồi lăn theo con đường mòn sỏi đá và bay khỏi đỉnh dốc. Chiếc giày rớt xuống một tảng đá trồi phía dưới cách tôi vài mét và nảy lên trước khi biến mất giữa vòm rừng, chẳng thể nào lấy lại được nữa. Tôi há hốc miệng, điếng người. Dù đã ở giữa nơi hoang dã này 38 ngày và thấm thía rằng điều gì cũng có thể xảy ra và sẽ xảy ra; nhưng tôi khi ấy vẫn không khỏi bàng hoàng. Giày của tôi đã mất. Mất thật rồi. Tôi giữ chặt chiếc kia trước ngực như đứa trẻ, dù tất nhiên là chẳng nghĩa lý gì. Một chiếc giày làm được gì khi không có chiếc còn lại chứ? Chẳng gì cả. Nó vô dụng, cô độc mãi mãi, và tôi chẳng hề mảy may thương cảm. Đó là đôi bốt Raichle vừa to vừa nặng bằng da nâu với dây đỏ cùng lỗ xỏ dây kim loại màu bạc. Tôi giơ chiếc giày lên cao, cố sức ném thật xa, nhìn nó rơi xuống những tán cây xum xuê và biến mất khỏi cuộc đời tôi. Tôi cô độc. Chân trần. Tôi 26 tuổi và mồ côi nữa. Một kẻ lạc đường đúng nghĩa, như một người lạ đã nhận xét vào hai tuần trước, khi nghe tên tôi và cái cách tôi đánh mất mọi thứ trong đời. Cha bỏ đi khi tôi lên sáu. Mẹ mất khi tôi 22 tuổi. Sau cái chết của mẹ, cha dượng – người tôi từng coi như cha đẻ – dần trở thành người mà tôi chẳng nhận ra nổi. Chị gái và em trai tôi mỗi người một phương, đắm chìm trong nỗi buồn khổ riêng của họ. Dù tôi đã gắng sức gắn kết cả gia đình lại với nhau, nhưng rốt cuộc vẫn là ly tán. Vài năm trước khi ném đi chiếc giày ấy, tôi cũng đã vứt bỏ chính mình. Tôi vất vưởng, lang thang, bắt tàu – từ Minnesota tới New York, tới Oregon và xuyên qua miền Tây nước Mỹ – để cuối cùng, vào mùa hè năm 1995, tôi thấy mình chân không giày, không tha thiết cũng chẳng thờ ơ với thế giới. Đó là một thế giới tôi chưa từng đặt chân tới, thậm chí chưa từng biết đến sự tồn tại của nó; nơi tôi lê bước trong muộn phiền và bối rối, sợ hãi và hy vọng. Một thế giới mà tôi tin sẽ biến tôi thành người phụ nữ tôi có thể trở thành, đồng thời đưa tôi về với cô gái Cheryl trước kia. Một thế giới rộng chừng 60 cm và dài 4.285 km. Thế giới ấy mang tên đường mòn Pacific Crest. Lần đầu tiên tôi nghe đến nó chỉ chừng bảy tháng trước đó, khi đang sống ở Minneapolis, buồn bã, tuyệt vọng, chuẩn bị ly hôn người đàn ông tôi vẫn yêu say đắm. Tôi với lấy cuốn The Pacific Crest Trail, Volume 1: California (Đường mòn Pacific Crest, tập 1: California) từ giá sách liền kề khi đang đứng xếp hàng, đợi thanh toán một chiếc xẻng. Bìa sách nói: Pacific Crest Trail (PCT) là con đường mòn hoang vu chạy dài từ biên giới Mexico ở California đến sát biên giới Canada, qua chín ngọn núi: Laguna, San Jacinto, San Bernardino, San Gabriel, Liebre, Tehachapi, Sierra Nevada, Klamath và Cascades. Khoảng cách là 1.600 km đường chim bay, nhưng độ dài đường mòn thì gần gấp đôi số ấy. PCT trải dài qua các bang California, Oregon và Washington. Nó đi qua các vườn quốc gia, những vùng hoang dã cũng như nhiều vùng đất thuộc liên bang, bộ lạc và tư nhân; qua hoang mạc, núi đồi và rừng nhiệt đới; qua sông suối và cả những con đường cao tốc. Tôi lật lại, nhìn chăm chăm vào bìa trước – một hồ nước trong đầy sỏi cuội bao quanh bởi những vách đá cheo leo, in bóng bầu trời xanh lồng lộng – rồi đặt lại nó lên giá, trả tiền chiếc xẻng và rời đi. Nhưng sau đó, tôi đã quay trở lại và mua cuốn sách. Khi ấy, đường mòn Pacific Crest chưa phải là một phần cuộc đời tôi. Đó chỉ là một ý tưởng, mơ hồ và lạ lùng, đầy hứa hẹn và bí ẩn. Khi đưa tay miết theo con đường nhấp nhô vẽ trên tấm bản đồ, có điều gì đó như rộn ràng bung nở trong trái tim tôi. Tôi quyết định sẽ chinh phục con đường ấy, hay chí ít là đi xa nhất có thể trong chừng 100 ngày. Tôi sống một mình trong căn hộ studio [1] ở Minneapolis, ly thân chồng, làm phục vụ bàn, và sống những ngày tháng rối bời tệ hại. Mỗi ngày, tôi lại cảm thấy như mình đang ngước lên từ một đáy giếng thẳm sâu. Nhưng từ chính nơi đó, tôi chuẩn bị trở thành một khách bộ hành đơn độc phiêu lãng giữa miền hoang dã. Và tại sao lại không chứ? Đã từng có rất nhiều “tôi” khác. Một người vợ đáng yêu và một phụ nữ ngoại tình. Một cô con gái được yêu thương và kẻ giờ đây phải cô đơn trong những kỳ nghỉ lễ. Một kẻ đầy tham vọng hoài bão và một cây bút tiềm năng liên tiếp nhảy giữa những công việc vô nghĩa trong khi học đòi nghiện ngập và ngủ với vô số đàn ông. Tôi là cháu gái một người thợ mỏ ở Pennsylvania, con gái một nhân viên kinh doanh từng là công nhân ngành thép. Sau khi bố mẹ chia tay, tôi sống cùng mẹ, chị gái và em trai trong một khu chung cư dành cho những bà mẹ đơn thân và con của họ. Thời niên thiếu, tôi từng sống theo kiểu về với tự nhiên trong khu rừng phía Bắc Minnesota, ở một ngôi nhà không có vệ sinh khép kín, không điện, không hệ thống nước. Dù vậy, tôi vẫn trở thành đội trưởng đội cổ vũ trường trung học và hoa khôi học đường. Rồi tôi vào đại học, đứng trong hàng ngũ những người cánh tả cấp tiến về bình đẳng giới. Nhưng trở thành người phụ nữ một mình bước qua gần 1.800 km đường hoang dã ư? Tôi chưa từng có suy nghĩ ấy. Dẫu thế, thử một lần cũng chẳng mất gì. Và giờ đây, đứng chân trần trên ngọn núi ở California này, tôi tưởng như đã vài năm trôi qua, vài năm sống một cuộc đời hoàn toàn khác, kể từ giây phút tôi đưa ra quyết định không tưởng đó: một mình đi bộ đường trường trên PCT để cứu lấy đời mình. Khi đó, tôi tin rằng, mọi điều tôi từng trải qua trước đó sẽ là hành trang tốt cho chuyến đi này. Nhưng không. Mỗi ngày trên con đường mòn chính là chuẩn bị duy nhất cho ngày tiếp theo. Và thậm chí đôi khi còn chẳng có cách nào để chuẩn bị cả. Như việc chiếc giày của tôi đã rớt bên sườn núi và chẳng thể lấy lại. Thực sự thì, tôi không hoàn toàn tiếc nuối khi đánh mất nó. Trong sáu tuần đi đôi giày ấy, tôi đã băng qua những hoang mạc và vùng tuyết phủ, thấy cỏ cây, bụi rậm, lá hoa đủ mọi hình thù, kích cỡ và màu sắc; tôi leo lên rồi lại đi xuống núi đồi, qua những cánh đồng, rừng thưa và những dải đất tôi thậm chí còn chẳng biết tên. Tôi chỉ có thể nói rằng mình đã từng ở đó, vượt qua và bỏ lại chúng sau lưng. Trong suốt quãng thời gian ấy, đôi giày khiến chân tôi phồng rộp, trầy da chảy máu; móng chân tôi đen lại và bốn móng đã tự bong ra, đau đớn vô cùng. Khi để mất đôi giày, cả tôi và chúng đều đã hoàn thành nghĩa vụ với nhau, dẫu từ tận đáy lòng tôi vẫn vô cùng yêu quý chúng. Đôi giày ấy chẳng còn là vật vô tri vô giác như với “tôi” ngày trước nữa; cũng giống chiếc ba lô, lều trại, túi ngủ, bình lọc nước, bếp lò siêu nhẹ và chiếc còi nhỏ màu cam tôi mang theo thay cho khẩu súng trong suốt mùa hè ấy. Chúng đều là những thứ tôi hiểu rõ và tin tưởng; những thứ giúp tôi tiến bước. Phía dưới kia, những ngọn cây cao ngất đang khẽ đu đưa trong làn gió nóng bức. Tôi chăm chú nhìn xuyên qua khoảng mênh mông xanh ngắt ấy, thầm nghĩ hẳn đôi giày của mình nằm dưới đó. Vì khung cảnh tuyệt vời trước mắt, tôi quyết định dừng chân tạm nghỉ. Tôi ở đây, trong một chiều muộn giữa tháng bảy, cách xa thế giới văn minh về mọi mặt, và còn nhiều ngày nữa mới tới được trạm bưu điện hiu quạnh để lấy chiếc hộp tiếp tế tiếp theo. Có thể ai đó đang đi xuống theo con đường mòn này; nhưng khả năng ấy rất mong manh. Thường thường, tôi đi rất nhiều ngày mà không thấy một ai khác. Dù sao thì, có người đi cùng hay không cũng vậy cả. Tôi là kẻ độc hành. Tôi lặng nhìn đôi chân trần dập nát với vài móng chân còn sót lại. Khi tháo đôi tất len tôi vẫn thường mang, từ trên mắt cá trở xuống, chân tôi nhợt nhạt khủng khiếp. Bắp chân gân guốc, sạm nắng và rậm lông; lem luốc bẩn thỉu với đầy vết xước và phồng rộp. Tôi bắt đầu đi bộ từ hoang mạc Mojave và không định dừng lại cho tới khi chạm tay tới cây cầu bắc qua con sông Columbia ở ranh giới giữa Oregon và Washington. Một cây cầu có cái tên hoa mỹ: Cầu của Chúa. Tôi nhìn về phương bắc, chăm chăm hướng tới cây cầu “hoa tiêu” ấy. Tôi ngoảnh lại phương nam, vùng đất hoang dã đã “dạy dỗ” và thiêu đốt tôi; cân nhắc những lựa chọn của mình. Và chỉ có duy nhất một đáp án thôi. Luôn luôn là như vậy. Tiếp tục tiến bước. Mời các bạn đón đọc Hoang Dã - Hành Trình Tìm Lại Mình Trên Đường Mòn Pacific Crest của tác giả Cheryl Strayed.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Nhật Ký Franz Kafka - Franz Kafka
Lời Người Dịch: Franz Kafka là một trong những nhà văn phức tạp nhất của thế kỉ XX - phức tạp ngay trong chính tư tưởng sáng tác của ông, phức tạp cả ở sự tiếp nhận, đánh giá ông của công chúng và các nhà nghiên cứu, phê bình khắp thế giới. Ðể hiểu ông hơn phải cần đến những chìa khoá dẫn vào cánh cửa tâm hồn ông. Nhật kí của Kafka, nhiều trăm trang, được viết rải rác trong nhiều năm, là một trong những chìa khoá quan trọng đó. Vì vậy, trong khi làm Tuyển tập tác phẩm Kafka, chúng tôi cố gắng chọn dịch một số trang nhật kí của ông, nhằm giúp bạn đọc có thêm tư liệu tìm hiểu cuộc đời và tác phẩm của nhà văn "bí ẩn" này. Dịch nhật kí rất khó, đặc biệt là nhật kí Kafka, chúng tôi là người đầu tiên làm việc này, - nghĩa là dịch nhật kí Kafka sang tiếng Việt, mà lại qua một thứ tiếng trung gian, - nên chắc chắn không thể nào tránh khỏi sai sót (ngay ở hai bản tiếng Nga của cùng một dịch giả mà chúng tôi sử dụng đã có những khác biệt nhiều khi trái nghĩa nhau, nên rất khó xử lí). Chúng tôi chỉ hi vọng rằng đây mới là bước đầu có ích cho người khác về sau tiếp tục công việc hoàn chỉnh, tốt hơn. Mong được bạn đọc thông cảm, các nhà nghiên cứu, phê bình chỉ bảo, giúp đỡ.  Bản dịch nhật kí này được Ðoàn Tử Huyến thực hiện từ bản tiếng Nga (của E. Caxeva in trong tạp chí Những vấn đề văn học số 3 năm 1968, tham khảo thêm văn bản lấy từ Internet), có sử dụng một số đoạn do Nguyễn Văn Thảo và Nguyễn Kiều Diệp phác dịch và Ðoàn Tử Huyến hiệu đính. Người dịch cám ơn dịch giả tiếng Ðức Lê Chu Cầu, hiện đang sống và làm việc ở Cộng hoà Liên bang Ðức, đã nhiệt tình đọc đối chiếu với nguyên bản tiếng Ðức và góp nhiều ý kiến sửa chữa cho bản dịch này.  *** Franz Kafka sinh ngày 3/7/1883 tại Prague, khi đó thuộc Đế quốc Áo – Hung, trong một gia đình Do Thái thuộc tầng lớp trung lưu. Cha ông là Hermann Kafka, một nhà buôn còn mẹ là Julie Kafka, con một thương gia giàu có. Trong lịch sử văn học, có lẽ không có người cha nào lại trở thành đối tượng sáng tác văn học dai dẳng và ám ảnh như cách ông Hermann Kafka xuất hiện trong các tác phẩm của con trai Franz Kafka. Không riêng gì cha, mà cả ông nội Jakob Kafka cũng phủ bóng trong sáng tác của nhà văn. Nhìn rộng hơn, lý lịch Do Thái tác động sâu sắc tới Kafka, đồng thời luôn khiến ông cảm thấy bị cô lập. Bản thân Kafka luôn tuyên bố rằng mình không dính dáng gì tới Do Thái, nhưng rõ ràng, xã hội thời đó đã ảnh hưởng rất lớn tới ông, người thuộc về một gia đình Do Thái thiểu số, trong một cộng đồng Do Thái thiểu số ở Prague lúc bấy giờ. Ngay trong gia đình, Kafka cũng là một trường hợp thiểu số. Là đứa con trai duy nhất còn sống, anh trai của ba cô em gái, Kafka là mối kỳ vọng lớn của ông bố gia trưởng. Giữa hai người là một mối quan hệ mâu thuẫn phi lý: chung huyết thống, yêu thương nhau, hiểu nhau nhưng bất hòa đến cay nghiệt. Chính người cha đã hình thành nên phong cách văn học đặc trưng của Kafka: nền văn học thiểu số, phi lý và ám ảnh quyền lực. Sinh thời, Kafka học và có bằng tiến sĩ luật. Kafka đạt thành tựu trong nghề bảo hiểm, nhưng viết lách mới là thiên hướng của ông. Sau này, ông đã phải nghỉ việc để tập trung viết lách. Thậm chí, là người yêu đương mãnh liệt nhưng ông cũng nhiều lần lỡ hẹn với những hôn thê, cũng chỉ vì muốn hết mình cho văn chương. Chỉ duy nhất cái chết mới khiến ông ngừng viết. Ngày 3/6/1924, ông qua đời Vienna vì bệnh lao, khi mới 41 tuổi. Những ước nguyện sau cùng của ông cũng là về văn chương: đốt hết các bản thảo. ... Mời các bạn đón đọc Nhật Ký Franz Kafka của tác giả Franz Kafka.
Quê Hương Tôi - Tràng Thiên
Trong tập tuỳ bút này, Tràng Thiên bàn về đủ chuyện của nước Việt: từ chiếc áo dài, cho đến những món ăn, rồi những tập tục, tiếng nói, ngôn ngữ, v.v.. Dù bàn luận về chuyện gì, thì trong đó luôn hàm chứa một nỗi niềm trăn trở, khắc khoải với quê hương. *** Nhã khúc quê hương  Đọc Quê Hương Tôi của Tràng Thiên (Võ Phiến), tôi chợt nghĩ tới ca từ trong bài hát Mái Đình Làng Biển: "Gửi vào đây vào đây vui buồn người Việt Gửi vào đây vào đây tâm hồn người Việt...., Ơi nước non ân tình Hồn Việt Nam như thế Hơ ... thuở bình minh" Có lẽ "Quê hương tôi" (QHT) chính là vậy! Và trước mắt tôi hiển hiện hình dáng cụ Võ Phiến đang so dây chiếc đàn bầu, gảy từng tiếng lòng của đất nước, giữa một khán phòng nhạc giao hưởng phương Tây. Tiếng đàn dân tộc độc đáo chợt như lạ lẫm, và bỡ ngỡ trước những đổi thay của xã hội trong thời đại mới... đàn đôi lúc ngân nga cung đúng của dân ca miền Bắc, lúc là cung oán của dân ca miền Nam, rồi lại chuyển sang cung ai trong dân ca Thừa Thiên - Quảng Trị. Đọc QHT để cảm nhận tình yêu đất nước tha thiết của một người Việt đã sống hơn nửa đời người, nhìn đất nước thay da đổi thịt theo vòng quay của thời cuộc, mà hoài niệm, mà lo lắng; đó có lẽ cũng là tâm trạng chung của một thế hệ cha ông chúng ta trước sự du nhập của một trào lưu mới, đang làm thay đổi phần nào cách sống, cách nghĩ của dân tộc mình, đất nước mình. Với tôi, QHT như một điệu lý dân dã, ngọt ngào nhiều luyến láy, trúc trắc, lại gần gũi thân thương. Điệu hò ấy sẽ dẫn ta đi suốt chiều dài đất nước, từ Bắc, lên Thượng du, xuôi dọc Trung, vào tới Nam.  Thủ thỉ cho ta nghe đặc điểm của từng vùng miền, từ giọng Huế dịu dàng, đến vẻ bình thản của người Huế, chững chạc mà khuôn phép...Từ cuộc di dân Nam tiến của người Bình Định, làm thay đổi cả giọng nói, cách nói... Từ nhận xét rằng trong huyết quản của mỗi người dân Quảng hình như đều có tí máu "chính trị luân lưu"... đến cái tính cách "rụp rụp" mau mắn của dân miền Nam, với cái tiếng" rồi" tiếng "luôn" rất đặc trưng điển hình. Từ câu lục bát ru con của dân tộc Chàm, đến hình ảnh cô giáo người Thượng ngày ngày điệu con lên lớp; giải nghĩa cho ta biết xuất xứ của tên gọi nhiều địa danh, nghe quen đọc hoài mà giờ mới hiểu như Đà Nẵng, Hội An, kinh Vĩnh Tế...  Đàn cũng réo rắt tỉ tê với tôi về chiếc áo dài dân tộc, như tự hào về nét đẹp truyền thống, tuy kín đáo mà lại gợi mở nhẹ nhàng thướt tha đón gió. Và chiếc áo dài quốc phục này hầu như chỉ dành riêng nhất cho dáng vẻ dịu dàng của phụ nữ Việt Nam. Và trong giai điệu trầm bổng lao xao cả tiếng rao hàng nơi góc chợ: "Hai tay xách hai vịm, Một vài mụ le te, Tiếng non rao lảnh lót: Chốc chốc: 'Ai ăn chè'?" Quê hương có chè Huế tế nhị, thanh tao, có món bún bò Huế cay cay dậy mùi quyến rũ, hay với bát nước chè Huế ngon lành được nấu tỉ mỉ, công phu, bát chè phải thật nhiều bọt, đầy bọt, bọt hầu như phủ kín mặt nước, thứ bọt dẻo quánh lại, và nhỏ hạt, uống một bát là uống cả niềm sảng khoái dân dã, thâm tình. Món ngon rải đều khắp mọi miền đất nước, những món ăn gắn với lịch sử nước nhà như bánh tráng của Bình Định, có món là đặc thù của vùng miền như nước mắm Phan Thiết, sa-kê và mắm của miền Nam. Đâu chịu dừng ở món ăn, Võ Phiến còn vẽ những bức tranh rất thơ với cây liễu, cây nhãn lồng ở Huế, hoa dầu bay bay Sài Thành, sắc anh đào hồng thắm Đà Lạt, cây bàng đất Vũng Tàu... hay phượng đỏ rực trời Đà Nẵng. Nhưng điệu xàng xê của QHT không chỉ là giọng kể, mà tràn đầy nỗi niềm lo lắng trước sự đổi thay, lo về những tập tục truyền thống như cúng giỗ, thờ tổ tiên bị xem nhẹ, lo về cái thú hưởng nhàn tao nhã của tiền nhân sắp bị thay thế, về cái tình trong đối nhân xử thế rồi sẽ bị cái lý soán ngôi. Cả nỗi lo về vốn từ ngữ của dân tộc không phong phú, không phát triển như Tàu, như Tây.  Nhẩn nha đọc lại Võ Phiến mới thấy câu ca dao xưa thật hay: "Yêu nhau trái ấu cũng tròn Ghét nhau bồ hòn cũng méo" Trái ấu trong QHT nằm trong hai tập tính của dân mình: chửi (chửi tục) và không cười. Kiểu nào thì Võ Phiến vẫn cứ "đáng yêu" và lập luận thật lý lẽ, nghe xong chỉ có thể mỉm cười xoa tay hài lòng.  Điệu hò QHT khi kết thúc vẫn còn âm vang trong tôi tiếng chim én "những cánh én lao tới lao lui, rộn cả lên," nó ríu rít, "nó cuống quýt, nôn nao, rộn rực một niềm vui không chịu được, niềm vui rung lên trong tiếng kêu." Cùng với đó là hình ảnh "ở chân trời, vài đám khói ùn lên, chậm chạp, tỏa cao và rộng. Khói đốt cỏ: Nông dân phát cỏ, dồn lại đốt, để chuẩn bị làm mùa. Chao ơi, những đám khói đốt cỏ ở chân trời trong nắng trưa, sao mà xúc động, cảm hoài." Chao ôi! Tiện tay phóng bút sao hay đến vậy? Bằng lối hành văn bình dị mà giàu cảm xúc, êm như thơ mà hóm hỉnh, trào lộng, thêm chút châm biếm tê người, Võ Phiến đã tấu lên một nhã khúc mang bóng hình Đất - Nước - Tâm - Hồn người Việt chúng ta. Lichan - Happiness Project Mời các bạn đón đọc tập tùy bút Quê Hương Tôi của tác giả Tràng Thiên.
Miếng Ngon Hà Nội - Vũ Bằng
Văn học Việt Nam thời xưa có nhiều tác phẩm có giá trị to lớn về mặt nhân văn và nghệ thuật, đã được công nhận và chứng thực qua thời gian. Bộ sách Việt Nam danh tác bao gồm loạt tác phẩm đi cùng năm tháng như: Số đỏ (Vũ Trọng Phụng), Việc làng (Ngô Tất Tố), Gió đầu mùa, Hà Nội băm sáu phố phường (Thạch Lam), Miếng ngon Hà Nội (Vũ Bằng), Vang bóng một thời (Nguyễn Tuân)... Hy vọng bộ sách sau khi tái bản sẽ giúp đông đảo tầng lớp độc giả thêm hiểu, tự hào và nâng niu kho tàng văn học nước nhà. *** Vào khoảng năm tàn tháng hết, ở miền Nam nước Việt có những buổi tối đìu hiu lạnh như mùa thu đất Bắc. Gió buồn đuổi lá rụng trên hè. Mây bạc nặng nề trôi đi chầm chậm như chia mối buồn của khách thiên lý tương tư. Người xa nhà đột nhiên thấy trống trải trong lòng. Lê bước chân trên những nẻo đường xa lạ, y thấy tiếc nhớ một cái gì không mất hẳn, nhưng không còn thấy. Nhớ vẩn vơ, buồn nhẹ nhẹ. Cái buồn không se sắt, cái nhớ không day dứt, nhưng chính cái buồn và cái nhớ đó mới thực làm cho người ta nhọc mệt, thẫn thờ. Lòng người, cũng như cánh hoa, chóng già đi vì thế. Người ta không nặng lắm về hiện tại, nhưng thiết tha với quá khứ hơn. Một tiếng dế ở chân tường, một ngọn gió vàng heo hắt, hay một tiếng lá đụng cành trâm đều nhắc nhở ta những kỷ niệm xa xôi, dìu dịu. Ngày xưa, người cung nữ ở trong tiêu phòng lạnh ngắt thấy xe dê thì nhớ đến lúc được quân vương ấp ủ thương yêu. Tiếng con ý nhi gợi lại ở trong lòng người chinh phụ buổi người tráng sĩ “lâm hành”. Tại kinh đô Trương Hàn thấy lá ngô rụng giếng thu thì sực nhớ đến rau thuần, cá lư và muốn treo ấn trở về quê cũ. “Gió thu một tiếng bên tai, Thuần, lư sực nhớ đến mùi Giang Nam.” Đôi khi cũng mang bệnh nhớ nhung, người viết sách này vào lúc năm tàn hầu hết cũng ưa nghĩ đến một vài kỷ niệm xa xưa. ... Mời các bạn đón đọc Miếng Ngon Hà Nội của tác giả Vũ Bằng.
Món Lạ Miền Nam - Vũ Bằng
Suốt những năm tháng ròng rã vật lộn mưu sinh tại miền Nam, của ngon vật hiếm nơi đất khách đã giúp Vũ Bằng vơi đi nỗi buồn hoang hoải hướng về cố hương. Món lạ miền Nam đã ra đời như vậy, cuốn tùy bút độc đáo của Vũ Bằng về những trải nghiệm hương vị ẩm thực mà mới nghe tên thôi người ta đã cảm thấy thích thú. Công bằng mà nói, món ngon hay không là do khẩu vị mỗi người. Mỗi miếng ngon có thể sẽ thay đổi, biến chuyển theo từng giai đoạn để vừa lòng ông thần khẩu. Nhưng đồ ăn miền Nam thì không đổi thay. Thứ hương vị làm người xa quê cảm thấy ngon lành, khang khác, nhận thức được lòng thương yêu của cõi nhân sinh ở chung quanh vì thế mà tự nhiên rõ rệt đậm đà. *** Có người đọc cuốn "Miếng ngon Hà Nội" 1 của tôi xong, thúc giục: - Miền Nam nước Việt có nhiều thức ngon lành lắm, sao không sưu tầm lại mà viết thành một cuốn nữa coi chơi? Tôi bỏ nhà đi lang bạt từ lúc mười bảy tuổi. Đến Sài Gòn dạo đó, tôi đã ăn nem Thủ Đức, thưởng thức phá lấu Lồ Ồ, ăn tóp mỡ nhiễn đường ở Sa Đéc, nếm suông ở Cây Mai, thịt bò bảy món Bà Hom, mì Cột Đèn Năm Ngọn. Rồi đến kỳ này, lại trở về quê ngoại mến thương, tôi đã thưởng thức nhiều món hơn, nhưng thú thực tôi không thấy các món đó có nói lên được cái gì mới mẻ, lạ lùng cho lắm. Có lẽ tô cá chìa vôi ngon thực, nhưng lòng còn gởi về cố lý nên cá rô đầm Sét vẫn là hơn, trái su su mát như da cô gái tuyết trinh, ô hay, sao lại như đăng đắng, mà miếng thịt gà muốn chế hóa cách gì đi nữa cũng vẫn cứ nhạt phèo? Mãi đến gần đây, tôi mới nhận ra rằng hương vị của những miếng ngon không hoàn toàn do nơi khẩu cái. Tự nhiên, không vì lý do gì hết, vào một buổi chiều xuống mầu kia, mình thấy miếng thịt gà đậm đà hơn, trái su su thoang thoảng ngọt và con cá chìa vôi ăn béo mà thơm. Ồ, tại sao lại thế? ... Mời các bạn đón đọc Món Lạ Miền Nam của tác giả Vũ Bằng.