Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tuổi Già Tập 1 - Simone de Beauvoir

Simone de Beauvoir (1908 - 1986) là nhà văn, nhà triết học và một nhà đấu tranh cho nữ quyền người Pháp. Là một nhà văn từng được giải Goncourt nhưng cũng là một học giả uyên bác, các tác phẩm của bà được lấy cảm hứng từ chính cuộc đời mình đồng thời đầy ắp các dữ kiện khoa học, lịch sử, thống kê… Hai tác phẩm non-fiction được biết ở Việt Nam nhiều nhất của bà là Giới tính thứ nhì và Tuổi già. Giới tính thứ nhì (xuất bản năm 1949), được xem là một trong những quyển sách hay nhất của thế kỷ 20, là một cuốn bách khoa toàn thư về các giai đoạn của cuộc đời phụ nữ từ lúc sinh ra, dậy thì, lấy chồng, làm mẹ; đồng thời vạch ra con đường giành quyền lợi cho nữ giới. Với tác phẩm này, bà được xem là “Bà mẹ của phong trào nữ quyền". Tuổi già được viết lúc Beauvoir hơn 50 tuổi, mô tả chi tiết cuộc sống của người già và đấu tranh giành quyền cho họ. Người ta chỉ có thể hiểu được thân phận người già khi ở tuổi đó. “50 tuổi, tôi giật nảy mình khi một nữ sinh viên Mỹ kể lại với mình câu nói của một cô bạn: "Nhưng Simone de Beauvoir là một bà già chứ sao!" Cả một truyền thống dồn cho từ ngữ này một cái nghĩa xấu; nó vang lên như một lời thoá mạ. Vì vậy, người ta phản ứng, thường bằng giận dữ, khi nghe người khác bảo mình già. Tôi có biết nhiều người phụ nữ được biết tuổi tác của mình một cách khó chịu qua một kinh nghiệm giống như kinh nghiệm Marie Dormoy: một người đàn ông, bị vẻ trẻ trung của hình bóng bà đánh lừa, đi theo bà trên đường phố; đến khi đi vượt qua bà và trông thấy gương mặt bà, thì thay vì bắt chuyện, ông ta rảo bước.” "Bạn có biết khuyết tật nào lớn nhất trong các khuyết tật không? Đó là tuổi trên 55" – Tourgueniev. Vào tuổi 55, Trotsky phàn nàn người mệt mỏi, mất ngủ, hay quên; ông có cảm giác sức lực sút kém; và lo lắng. Ông gợi lại quá khứ: "Anh buồn bã nhớ lại tấm ảnh của em, tấm ảnh của chúng ta, trong đó chúng ta trẻ trung biết chừng nào”. Già đi – đó là một điều không thể tránh khỏi và cũng là một quá trình chấp nhận đầy đau đớn. "Wagner kinh hãi thấy mình già đi, 80 tuổi, ông viết: “Hình hài tôi làm người ta khiếp sợ và khiến tôi u sầu một cách xót xa”. Sự suy sụp về thể chất khiến người già không còn có thể tham gia sản xuất hay xây dựng, do đó họ bị xem như gánh nặng, phải phụ thuộc vào người khác. Beauvoir viết về những trại dưỡng lão ở ngoại ô Paris với những người già như bị xã hội bỏ quên, sống mòn mỏi chờ đợi những cuộc viếng thăm của con cháu. Theo Beauvoir, đối đãi công bằng với người già là cách ứng xử có trước có sau mà nếu khác đi là làm lung lay gốc rễ của xã hội hiện đại. *** Khi còn là thái tử Siddharta, bị vua cha nhốt trong một tòa lâu đài tráng lệ, nhiều lần Thích Ca trốn đi dạo chơi bằng xe ngựa trong vùng. Trong lần dạo chơi đầu tiên, thái tử gặp một người tàn tật, tóc bạc, răng rụng, da nhăn nheo, cúi gập người trên một cây gậy, miệng lập cập, hai tay run rẩy. Chàng lấy làm ngạc nhiên và người xà ích giải thích đó là một ông già. Thái tử liền thốt: “Những kẻ hèn yếu và dốt nát, chuếnh choáng vì niềm kiêu hãnh của tuổi trẻ, không thấy được tuổi già. Khốn khổ biết chừng nào! Hãy trở nhanh về nhà thôi. Các trò chơi và niềm vui mà làm gì, vì ta là nơi ẩn náu của tuổi già mai sau”. Qua một ông già Thích Ca nhận ra số phận của chính mình, sinh ra để cứu vớt loài người, Thích Ca muốn chia sẻ hoàn toàn với số phận của họ. Và về điểm này, Người khác họ: họ lẩn tránh những gì không làm họ vui lòng. Và đặc biệt là tuổi già. Châu Mỹ đã loại trừ ra khỏi từ vựng của họ từ: người chết: mà chỉ nói người khuất bóng thân yêu; cũng giống như vậy, họ tránh liên hệ tới tuổi già. Ở nước Pháp ngày nay, đó là một đề tài cấm kỵ. Khi bắt buộc phải vi phạm điều cấm kỵ ấy, tôi đã bị người ta la ó! Chấp nhận mình đã bước vào ngưỡng cửa của tuổi già, tức là cho rằng nó rình rập tất cả mọi người phụ nữ, rằng nó đã tóm cổ nhiều người. Với thái độ dễ thương hay giận dữ, nhiều người, nhất là người già, không ngớt nhắc đi nhắc lại với tôi rằng làm gì có tuổi già! Có những người không trẻ bằng những người khác, chỉ thế thôi! Đối với xã hội, tuổi già xuất hiện như một điều bí ẩn đáng xấu hổ, mà nói tới là điều khiếm nhã. Trong mọi lĩnh vực, văn học viết rất nhiều về phụ nữ, về trẻ em, về thiếu niên; ngoài các công trình chuyên môn, người ta rất ít ám chỉ tới tuổi già. Một tác giả băng hoạt hình đã phải làm lại cả một loạt tác phẩm vì trước đó ông ta đã đưa vào trong số các nhân vật một cặp vợ chồng đáng tuổi làm ông làm bà: “Hãy loại bỏ người già đi!” - người ta hạ lệnh cho ông ta[1]. Khi tôi nói mình viết một cuốn tiểu luận về tuổi già, người ta thường thốt lên: “Sao lại kỳ thế!... Bà đâu có già!... Đề tài ấy, ngán lắm...” Chính vì lý do ấy mà tôi viết cuốn sách này: để phá tan sự đồng tình im lặng. Theo Marcuse, xã hội tiêu thụ đem một ý thức tốt đẹp thay thế cho ý thức xấu xa và bài xích mọi ý nghĩ tội phạm. Cần khuấy động sự yên ổn của nó. Đối với người có tuổi, nó chẳng những là phạm tội, mà còn là một tội ác. Ẩn náu phía sau các huyền thoại bành trướng và phong túc, nó cho người già là những kẻ khốn cùng. Ở Pháp, nơi tỷ lệ người già cao nhất thế giới - 12% dân số trên 65 tuổi - họ bị dồn vào cảnh khốn cùng, cô đơn, tàn tật, thất vọng. Ở Mỹ, số phận của họ cũng không sung sướng hơn. Nhằm dung hòa sự man rợ này với thứ đạo lý nhân văn chủ nghĩa mà họ thuyết giáo, giai cấp thống trị có cách đơn giản là không xem họ là những con người; nếu nghe tiếng nói của họ, người ta bắt buộc phải thừa nhận đó là một tiếng nói của con người; tôi sẽ buộc độc giả của mình nghe tiếng nói ấy. Tôi sẽ miêu tả hoàn cảnh của họ và cách họ sống; tôi sẽ nói những gì diễn ra thực sự trong đầu óc và trong con tim họ - những thứ bị dối trá, huyền thoại và những lời sáo rỗng của nền văn hóa tư sản xuyên tạc. Vả lại, thái độ của xã hội đối với họ mang tính chất đồng lõa sâu sắc. Nói chung, xã hội không coi tuổi già là một lớp tuổi rõ rệt. Cuộc khủng hoảng về tuổi dậy thì cho phép vạch ra giữa một thiếu niên và người trưởng thành một đường ranh giới chỉ mang tính võ đoán trong những giới hạn chật hẹp; ở tuổi 18, 21, thanh niên được chấp nhận vào xã hội con người. Hầu như bao giờ xung quanh sự thăng tiến ấy cũng có những “nghi thức chuyển giai đoạn”. Còn thời điểm bắt đầu tuổi già thì không được xác định rõ rệt, nó thay đổi theo từng lúc, từng nơi. Không ở đâu, người ta bắt gặp “nghi thức chuyển giai đoạn” thiết lập một quy chế mới[2], về chính trị, suốt đời, cá nhân giữ nguyên những quyền lợi và nghĩa vụ giống nhau. Luật Dân sự không mảy may phân biệt giữa một cụ già trăm tuổi và một người tuổi bốn mươi. Các nhà làm luật cho rằng ngoài những trường hợp bệnh lý ra, trách nhiệm hình sự của người có tuổi cũng hoàn toàn đầy đủ như của thanh niên[3]. Trong thực tiễn, người ta không coi họ là một lớp người riêng, vả lại, họ cũng không muốn như vậy; có sách, báo, sân khấu, những buổi truyền hình và truyền thanh dành cho trẻ em và thiêu niên: còn đối với người già thì không[4]. Trên tất cả những bình diện này, người ta đồng hóa họ với lớp người lớn tuổi trẻ hơn. Nhưng khi quyết định quy chế kinh tế của họ, hình như người ta cho là họ thuộc một lớp người xa lạ: họ không có những nhu cầu cũng như những tình cảm giống như những người khác, nếu chỉ cần ban cho họ một chút bố thí khốn khổ là cảm thấy hết nợ đối với họ. Các nhà kinh tế học, các nhà làm luật tin vào cái ảo ảnh thuận tiện ấy khi phàn nàn cái gánh nặng những người không hoạt động gây nên cho những người hoạt động: như thể những người này không phải là những người không hoạt động trong tương lai và không bảo đảm chính ngày mai của mình trong lúc xây dựng việc nhận lấy trách nhiệm đối với những người có tuổi. Còn các nhà hoạt động công đoàn thì không nhầm lẫn: khi đưa ra những đòi hòi, bao giờ họ cũng coi trọng vấn đề hưu trí. Những người già không tạo nên một lực lượng kinh tế nào thì không có cách gì để đòi hỏi quyền lợi của mình: lợi ích của những kẻ bóc lột, là tiêu diệt tình đoàn kết giữa người lao động và người không sản xuất, sao cho không một ai bênh vực những người này. Những huyền thoại và lời sáo rỗng theo tư duy tư sản tìm cách chỉ ra một con người khác trong người già. “Chính với những thiếu niên sống khá nhiều năm mà cuộc đời tạo nên lớp người già” - Proust từng nhận định như vậy - họ giữ lại những nết tốt và những tật xấu của con người trong họ. Điều đó, dư luận không muốn biết tới. Nếu biểu thị những ham muốn, những tình cảm, những đòi hỏi giống như những người trẻ tuổi, thì người già làm người ta công phẫn; ở họ, tình yêu nam nữ, lòng ghen tuông hình như là bỉ ổi hay lố bịch, còn tình dục thì đáng ghê tởm và bạo lực thì chẳng có nghĩa lý gì. Họ phải là tấm gương về mọi đức tính. Trước hết, người ta đòi hỏi ở họ sự thanh thản; người ta khẳng định họ có lòng thanh thản ấy, nên cho phép người ta không quan tâm tới nỗi bất hạnh của họ. Cái hình ảnh người ta tô vẽ về họ là hình ảnh một nhà Hiền triết trong ánh hào quang của một mái tóc bạc trắng, giàu kinh nghiệm và khả kính, vượt lên rất xa thân phận con người; nếu rời khỏi hình ảnh ấy, là họ rơi xuống phía dưới; cái hình ảnh đối lập với hình ảnh trên đây, là hình ảnh một lão già điên lẩm cẩm, lố lăng, bị trẻ em chế giễu. Dẫu sao, do đức độ hay do sự đê tiện của họ, họ ở ngoài nhân loại. Vì vậy, người ta có thể không ngại ngần khước từ đối với họ những gì tối thiểu được coi là cần thiết cho một cuộc sống con người. Người ta đẩy xa sự loại thải này tới mức làm cho nó quay trở lại chống chính bản thân mình; người ta sẽ không công nhận bản thân mình trong hình ảnh ông già mà chính mình là ông già đó. Proust nhận xét một cách xác đáng: “Trong mọi hiện thực, (tuổi già) có lẽ là hiện thực mà chúng ta giữ lại một khái niệm thuần túy trừu tượng lâu bền nhất trong đời”. Tất thảy mọi người đều khả tử: họ nghĩ tới điều đó. Nhiều người trong số họ trở thành người già: hầu như không một ai hình dung trước sự biến đổi ấy. Người ta không chờ đón, không dự kiến một cái gì khác ngoài tuổi già. Khi được hỏi về tương lai của họ, thanh niên, nhất là nữ thanh niên, cho đời mình kéo dài nhiều nhất đến tuổi 60. Một số cô gái bảo: “Em không chờ đến ngày ấy, em sẽ ra đi trước đó”. Và thậm chí, một vài cô nói: “Em sẽ tự sát trước ngày ấy”. Người trưởng thành hành động như thế không bao giờ phải trở thành người già. Thông thường, người lao động kinh hoàng khi điểm giờ nghỉ hưu: thời hạn nghỉ hưu vốn đã được ấn định trước, người đó biết thời hạn ấy, nhẽ ra họ phải chuẩn bị sẵn. Sự thật là sự hiểu biết ấy vẫn xa lạ đối với họ cho tới giây phút cuối cùng - trừ phi nó thực sự mang tính chất chính trị. Đến ngày đó, và khi đã bước tới gần, thông thường, người ta thích tuổi già hơn là cái chết. Tuy vậy, đứng cách xa, người ta xem xét cái chết sáng suốt hơn cả. Cái chết nằm trong phạm vi những khả năng trực tiếp của chúng ta, uy hiếp chúng ta ở mọi lứa tuổi; có lúc chúng ta suýt chết; thông thường, chúng ta sợ chết. Con người ta không trở nên già nua trong chốc lát; ở tuổi thanh niên hay lúc tráng niên, chúng ta không nghĩ là tuổi già tương lai đã tiềm ẩn trong con người mình như Thích Ca: tuổi già ấy cách xa chúng ta tới mức khoảng cách ấy lẫn lộn trước mắt mình với sự vĩnh hằng: tương lai đối với chúng ta như thể phi hiện thực. Vả lại, cái chết không là gì cả; người ta có thể cảm thấy một nỗi bàng hoàng siêu hình trước cái hư vô ấy, nhưng bằng một cách nào đó, nó làm người ta yên lòng, nó không đặt thành vấn đề. “Ta sẽ không còn nữa”. : ta giữ hình tích của mình trong sự tiêu vong ấy[5]. Ở tuổi 20, hay 40, tôi nghĩ mình già, tức là nghĩ mình là người khác. Trong mọi sự biến đổi, đều có một cái gì đó khủng khiếp. Ở tuổi ấu thơ, tôi bàng hoàng, và thậm chí kinh hoàng khi hiểu ra sẽ có ngày mình sẽ trở thành người lớn. Nhưng ý muốn mình vẫn là bản thân mình, thường được bù đắp ở buổi thiếu thời bởi những lợi thế của quy chế người trưởng thành. Còn tuổi già thì xuất hiện như một nỗi bất hạnh: ngay cả ở những người mà người ta cho là vẫn giữ được vẻ quắc thước, sự suy sụp về thể chất mà tuổi già kéo theo cũng vẫn lồ lộ trước mắt. Vì ở loài người, sự đổi thay do năm tháng là nổi bật nhất. Loài vật thì gầy đi, yếu đi, nhưng không biến đổi. Còn con người thì có. Người ta se lòng khi nhìn thấy bên cạnh một thiếu phụ trẻ, phảng phất trong gương hình ảnh chính mình những năm tháng sau này: tức là mẹ mình. Theo Lévi-Strauss, người Da đỏ Namblikwara chỉ có một từ để nói “trẻ và đẹp” và một từ để nói “già và xấu”. Trước hình ảnh người già gợi ý với chúng ta về tương lai của mình, chúng ta không tin; một tiếng nói nội tâm thầm thì một cách phi lý với chúng ta rằng điều đó sẽ không đến với mình: sẽ không còn là chúng ta nữa khi điều đó xảy tới. Trước khi nó ập xuống chúng ta, tuổi già là cái chỉ liên quan tới ngườl khác. Vì vậy, có thể hiểu vì sao xã hội có thể khiến chúng ta không coi người già là đồng loại của mình. Thôi, chúng ta đừng tự lừa dối mình nữa; ý nghĩa cuộc sống chúng ta nằm trong tương lai đang đón đợi mình; chúng ta không biết mình là ai, nếu không muốn biết mình sẽ là người thế nào: chúng ta hãy tự nhận biết mình ở ông lão kia, ở bà già nọ. Cần phải như vậy nếu chúng ta muốn đảm nhận thân phận con người của mình một cách trọn vẹn. Chỉ có như vậy, chúng ta mới không còn chấp nhận một cách thờ ơ nỗi bất hạnh của lứa tuổi cuối cùng, chúng ta sẽ cảm thấy mình ở trong cuộc: và quả chúng ta ở trong cuộc. Nỗi bất hạnh ấy tố cáo một cách vang dội chế độ bóc lột chúng ta đang sống. Người ta không thể tự mình thỏa mãn nhu cầu của mình, bao giờ cũng bị coi là một gánh nặng. Nhưng trong những tập thể có một sự bình đẳng nào đó - trong lòng một cộng đồng nông thôn, ở một số dân tộc nguyên thủy - người đứng tuổi, tuy không muốn biết, vẫn biết ngày mai thân phận của mình sẽ là thân phận mà ngày hôm nay người đó quy cho người già. Đấy là ý nghĩa truyện cổ tích của Grim, được thuật lại ở mọi miền thôn dã. Một gã nông dân bắt người cha già ăn riêng, trong một cái máng gỗ nhỏ; hắn bất chợt thấy đứa con trai đang ghép những miếng ván. Nó bảo ông bố: “Cho bố đấy, khi bố về già”. Thế là ông già lại ngồi vào bàn ăn cùng cả nhà. Trước lợi ích lâu dài và lợi ích trước mắt, các thành viên còn hoạt động trong tập thể sáng tạo nên những sự thỏa hiệp. Tình trạng cấp bách của nhu cầu buộc một số người nguyên thủy giết chết bố mẹ, dù về sau, có phải chịu một số phận như thế. Trong những trường hợp ít căng thẳng hơn, sự phòng xa và tình cảm gia đình chế ngự tính ích kỷ. Trong thế giới tư bản, lợi ích dài hơn không còn tác dụng: những kẻ có đặc quyền và quyết định số phận của đám đông không sợ phải nếm trải số phận ấy. Còn những tình cảm nhân văn chủ nghĩa thì không bao giờ can thiệp tới, mặc dù những lời huyênh hoang dối trá. Cơ sở của nền kinh tế là lợi nhuận; trên thực tiễn, toàn bộ nền văn minh phụ thuộc vào nó: người ta chỉ quan tâm tới tập thể người trong một doanh nghiệp trong chừng mực tập thể ấy có lợi. Sau đó, họ bị vứt bỏ. Tại một hội nghị gần đây, tiến sĩ Leach, nhà nhân chủng học ở Cambritgiơ tuyên bố: “Trong một thế giới đang chuyển động, trong đó máy móc có những cuộc đời rất ngắn ngủi, con người không nên phục vụ quá lâu. Tất cả những gì vượt qua 55 năm tuổi đều phải loại bỏ”[6]. Cái từ “đồ bỏ đi” nói đúng điều nó muốn nói. Người ta kể lể với chúng ta rằng nghỉ hưu là thời gian của tự do và giải trí; có những nhà thơ ca ngợi “lạc thú nghỉ ngơi”. Đó là những lời dối trá vô liêm sỉ. Xã hội áp đặt cho số đông người già mức sống khốn khổ tới mức từ ngữ “già nua và đói nghèo” trở thành hầu như một từ thừa (pléonasme); ngược lại, số đông người bần cùng là người già. Nhàn rỗi không mở ra cho người nghỉ hưu những khả năng mới; vào lúc cá nhân, đến phút cuối cùng, được giải thoát khỏi những sự ràng buộc, người ta tước đoạt của họ mọi phương tiện sử dụng quyền tự do. Họ buộc phải sống lay lắt trong cô đơn và phiền muộn, như một vật phế thải không hơn không kém. Khi trong mười lăm hay hai mươi năm cuối đời, một con người chỉ còn là một vật chẳng ai đoái hoài, thì đó là sự thất bại của nền văn minh chúng ta: sự thật hiển nhiên ấy khiến chúng ta nghẹn ngào nếu chúng ta coi người già là những con người từng có một cuộc sống con người phía sau họ, chứ không phải là những xác chết dật dờ. Những ai tố cáo cái chế độ đọa đày vốn là chế độ chúng ta, phải đưa điều điếm nhục ấy ra ánh sáng. Chính bằng cách tập trung nỗ lực của mình vào thân phận những người xấu số nhất, người ta có thể làm lay chuyển một xã hội. Để phá hủy hệ thống đẳng cấp, Gandhi tìm cách giải quyết thân phận tầng lớp Tiện dân (parias); nhằm tiêu hủy gia đình phong kiến, nước Trung Hoa cộng sản giải phóng phụ nữ. Đòi hỏi con người cứ phải là con người ở lứa tuổi cuối cùng của họ bao hàm một sự đảo lộn triệt dể. Không thể thu được kết quả ấy với một vài cải cách hạn hẹp không đụng chạm tới hệ thống: chính nạn bóc lột người lao động, chính quá trình phân hủy xã hội và sự khốn cùng của một nền văn hóa chỉ dành riêng cho tầng lớp quan lại, dẫn tới những cảnh già nua phi-nhân văn ấy. Chúng chỉ ra rằng cần làm lại tất cả, từ đầu. Chính vì vậy, vấn đề này bị nhấn chìm trong im lặng hết sức kỹ lưỡng; và chính vì vậy, cần phá tan sự im lặng ấy: tôi mong đợi độc giả giúp đỡ tôi trong công việc này.   Mời các bạn đón đọc Tuổi Già Tập 1 của tác giả Simone de Beauvoir.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Hạnh Phúc Không Khó Tìm Tập 2 - M. J. Ryan
“Quyển sách này có một lực hút thật mạnh mẽ. Lực hút đó nối kết tất cả chúng ta với niềm vui, niềm hạnh phúc của bản thân mỗi người. Và dường như, đây cũng là điều mà chúng ta đã lãng quên từ lâu.” - SARK Tác giả Make Your Creative Dreams Real “Dù tất cả chúng ta đều muốn được sống hạnh phúc, nhưng ít ai dám chắc rằng mình đã biết hạnh phúc là gì hoặc làm cách nào để được hạnh phúc hơn nữa. Cuốn sách tuyệt vời này chính là chiếc chìa khóa giải mã những băn khoăn đó. Bằng sự trải nghiệm quý giá của chính tác giả, với một giọng văn lạc quan, tươi sáng và lôi cuốn người đọc từ đầu đến cuối, Hạnh phúc không khó tìm xứng đáng là một trong những cuốn sách có sức khơi gợi mãnh liệt nhất đối với tâm hồn con người.” - HAL URBAN, Tác giả Những Bài Học Cuộc Sống “Quyển sách là một sự kết hợp tuyệt vời giữa những phân tích mang tính thực tiễn sâu sắc và cảm hứng tích cực thúc đẩy tinh thần con người. Hãy đọc và áp dụng những kinh nghiệm sống đầy ý nghĩa trong quyển Hạnh phúc không khó tìm vào cuộc sống của bạn như một cơ hội quý giá để thưởng thức cuộc sống, trong hiện tại và cả tương lai.” - DAVID NIVEN, Tác giả: Bí Mật của Hạnh Phúc và Bí Quyết Thành Công “Hạnh phúc là điều mà tất cả chúng ta đều mong muốn tìm thấy cho cuộc sống của mình. Với Hạnh phúc không khó tìm, tác giả Ryan đã lần lượt đưa ra những bài học thực tế sâu sắc, những cách thức hữu ích để hướng dẫn bạn đọc vận dụng trên con đường tìm kiếm hạnh phúc. Đây chính là quyển sách soi sáng cho tất cả chúng ta!” - BARRY NEIL KAUFMAN, Tác giả Happiness is A Choice *** “Nếu muốn người khác được hạnh phúc, bạn hãy biết thương yêu. Nếu muốn bản thân mình được hạnh phúc, bạn cũng hãy mở lòng yêu thương với cuộc đời.” - Khuyết danh Có lần, tôi nghe một buổi diễn thuyết về đề tài “Sống hạnh phúc”. Một nữ thính giả đã nêu một câu hỏi khá hóc búa: “Ông nghĩ gì về chiến tranh. Hiện nay trên thế giới, biết bao người dân vô tội đang ngày đêm chịu thảm họa chiến tranh. Chẳng lẽ những kẻ gây chiến cảm thấy hạnh phúc vì tàn phá đất nước của người khác hay sao?”. Diễn giả trả lời: “Sự thật là, chẳng có ai cảm thấy hạnh phúc khi gây thảm họa cho người khác cả! Rất nhiều người từ chiến trường trở về, đã ân hận và bị cắn rứt lương tâm suốt đời vì những hành động sai lầm của họ. Con người ta không có ai cảm thấy hạnh phúc khi gieo rắc đau khổ cho người khác”. Câu trả lời của vị diễn giả như khiến tôi bừng tỉnh. Lâu nay, tôi chỉ nghĩ đơn giản rằng, quanh tôi có hai loại người: người tốt và người xấu. Những ai mang lại cho tôi điều tốt đẹp, khiến tôi cảm thấy hạnh phúc thì đó đương nhiên là người tốt. Còn ngược lại, người xấu là những người chỉ toàn mang đến cho tôi buồn bực và đau khổ. Với cái nhìn nhỏ nhen, ích kỷ như vậy, tôi đã không đủ bao dung để hiểu được những người mà tôi xếp vào “người xấu”. Và chính vì thế, vô tình tôi lại đào sâu thêm hố ngăn cách giữa tôi và họ. Nếu hiểu được rằng, hạnh phúc là khát vọng của tất cả mọi người, tôi sẽ biết yêu thương người khác nhiều hơn. Ngay cả khi người khác có làm tôi buồn phiền, tôi cũng cố gắng tìm cách tha thứ cho họ. Tôi làm như vậy không chỉ vì tôi yêu thương người khác, mà còn là vì tôi yêu thương chính mình. Hiểu ra chân lý trên là một điều có ý nghĩa vô cùng sâu sắc trong cuộc đời tôi. Trái tim tôi trở nên rộng mở khi tôi nhận ra bất kỳ ai cũng muốn được hạnh phúc. Tôi đã có thể giữ một thái độ điềm nhiên, bình tĩnh mỗi khi có ai đó gây hấn hay tìm cách xúc phạm, chứ không đến nỗi nóng giận như trước đây. Khi một người nào đó cư xử thô lỗ với tôi, tôi chỉ nghĩ rằng, anh ta cũng như mình, cũng muốn được hạnh phúc, chỉ có điều là cách thể hiện ra bên ngoài không được nhã nhặn cho lắm. Có lẽ, anh ta chưa may mắn lắm khi không được thụ hưởng một nền giáo dục ưu việt như những người khác. Chính vì xã hội vẫn còn những con người như vậy, nên tôi mới có dịp để chia sẻ yêu thương. Và công việc viết cuốn sách về đề tài “hạnh phúc” này càng có ý nghĩa. Khi nghĩ như vậy, tự nhiên tôi cảm thấy thanh thản hơn! ...   Mời các bạn đón đọc Hạnh Phúc Không Khó Tìm Tập 2 của tác giả M. J. Ryan.
Bốn Thỏa Ước - Don Miguel Ruiz
Bốn thỏa ước - Chỉ dẫn thiết thực để đạt đến tự do cá nhân, cuốn sách 6 năm liền đứng trong top bestseller của The New York Times và bán được hơn 4 triệu bản trên toàn thế giới của tác gia người Mexico Don Miguel Ruiz vừa đến với độc giả Việt Nam qua bản dịch của dịch giả Nguyễn Trung Kỳ.   Được xem là những chứng nghiệm của Don Miguel Ruiz về tồn tại và hạnh phúc của con người, cuốn sách đã đưa đến những dẫn giải và thực hành cơ bản nhất để đạt tới tự do tinh thần cũng như sự khai phóng cá nhân với những quan điểm rất gần với tư tưởng Phật giáo.   Theo Don Miguel Ruiz, xã hội duy lý có tổ chức cần thiết để duy trì đời sống của cộng đồng, tuy nhiên với những luật định và giá trị (áp đặt) luôn có nguy cơ thoái hóa và bị lợi dụng, xã hội đó lại chính là “địa ngục”, “biển khổ” trần gian ngăn cản con người trở về với chân tính, với niềm vui sống đích thực của mình.   Từ đó, Don Miguel Ruiz đã đưa ra ba thỏa ước khởi đầu: Không phạm tội với lời nói của bạn - được hiểu là không dễ dãi, máy móc lặp lại những quan niệm và thành kiến của mọi người xung quanh khi nhìn nhận một vấn đề hay con người nào đó, hoặc khi đánh giá chính mình; Không vơ mọi chuyện vào mình - là không ngộ nhận, không có sự đánh giá nào từ bên ngoài lại thực sự phù hợp với bạn và có thể tác động lên chính cuộc sống của bạn; Không giả định, phỏng đoán - vì giả định, phỏng đoán thực chất cũng chỉ là lặp lại những thiên kiến, thành kiến sẵn có về sự vật, nó không thể cho bạn biết ý nghĩa đích thực của điều đang diễn ra.   Với ba thỏa ước trên, tác giả nhằm nhấn mạnh vào mối quan hệ cá nhân với cộng đồng, trong đó đề cao bản lĩnh cá nhân, chủ kiến, lòng tự tin, trung thực mà thực chất là sự quay về với con người độc lập, với bản tính tự nhiên sẵn có một cách có ý thức. Cuối cùng là thỏa ước thứ tư Hãy làm hết khả năng của mình như là nguyên lý thực hành căn bản để khai phóng “cái tôi” của con người. *** Tác giả Don Miguel Ruiz sinh năm 1952 trong một gia đình ở nông thôn Mexico. Lên đại học, ông chọn thi trường Y rồi trở thành một bác sĩ khoa ngoại. Ngoài Bốn thỏa ước được xuất bản lần đầu năm 1997, ông còn viết nhiều cuốn khác, trong đó nổi bật nhất là Beyond Fear (1997) vàThe Mastery of Love (2002). Là con một curandera (thầy lang) và cháu một nagual (pháp sư). Gia đình đã sớm nhận thấy Miguel sẽ kế thừa di sản lâu đời của gia đình và phát triển những kiến thức Toltec bí truyền. Nhưng cuộc sống hiện đại đã làm ông xao nhãng việc đó. Ông đã chọn thi trường Y rồi trở thành một bác sĩ khoa ngoại. Ông biết tiếng Anh và thường đi diễn thuyết xuyên nước Mỹ. Một lần cận kề cái chết đã thay đổi cuộc sống của ông. Một đêm đầu những năm 1970, ông gặp một tai nạn giao thông khủng khiếp. Khi nhớ lại, Don Miguel khẳng định lúc đó ông không ở trong thân xác mình, bởi ông đã nhìn thấy chính mình đã kéo tay hai người bạn thoát khỏi nguy hiểm. Choáng váng sau sự kiện này, ông bắt đầu tự luyện tập khám phá bản thân, ông dành mọi thời gian để tìm hiểu sự thông thái của tổ tiên xưa kia, cùng mẹ nghiêm túc nghiên cứu di sản đó đồng thời theo học một pháp sư uy tín ở vùng sa mạc Mexico. Bốn thỏa ước là cuốn sách chia sẻ những hiểu biết của các Toltec để giúp con người đạt được tự do cá nhân thông qua các thỏa thuận và niềm tin với bản thân và với người khác. Cuốn sách xuất bản lần đầu năm 1997, bán được hơn bốn triệu bản trên toàn thế giới và vẫn được xếp trong danh sách các cuốn non-fiction bán chạy nhất. *** HÃY DÀNH MỘT CHÚT THỜI GIAN ĐỂ NHẮM MẮT lại, mở rộng trái tim và cảm nhận tất cả tình yêu tuôn trào từ trái tim bạn. Tôi muốn bạn kết nối với những lời của tôi trong tâm trí bạn, để cảm nhận một sự gắn kết chặt chẽ của tình yêu. Cùng với nhau, chúng ta sẽ thực hiện một cuộc cầu nguyện rất đặc biệt, để trải nghiệm một sự liên thông với Đấng Sáng Tạo của chúng ta. Hãy tập trung chú ý vào hai lá phổi, như thể chỉ có hai lá phổi tồn tại mà thôi. Hãy cảm nghiệm sự khoan khoái khi phổi của bạn dãn rộng để thỏa mãn nhu cầu lớn nhất của cơ thể con người: Hít thở. Hãy hít một hơi sâu và cảm nhận không khí đang tràn vào đầy phổi. Hãy cảm nhận không khí không là gì khác ngoài tình yêu. Hãy chú ý sự kết nối giữa không khí và phổi, một sự kết nối của tình yêu. Hãy dãn nở lá phổi của bạn bằng không khí, cho đến khi cơ thể bạn có nhu cầu tống xuất lượng khí ấy. Sau đó, hãy thở ra và cảm nhận sự khoan khoái một lần nữa. Vì khi chúng ta thỏa mãn bất cứ nhu cầu nào của cơ thể, nó sẽ cho ta sự khoan khoái. Hít thở khiến chúng ta vô cùng khoan khoái. Chi cần được hít thở là đủ để chúng ta luôn luôn hạnh phúc và tận hưởng cuộc sống, chỉ sống là đủ. Hãy cảm nhận niềm hoan lạc được sống, niềm hoan lạc của cảm giác yêu thương... .... Mời các bạn đón đọc Bốn Thỏa Ước của tác giả Don Miguel Ruiz.
Ba Người Thầy Vĩ Đại - Robin Sharma
“Tôi đã nếm trải nhiều thất bại trong hành trình đi qua những tháng ngày của mình. Thế nhưng, mỗi chướng ngại cuối cùng đều lại chính là một bàn đạp đưa tôi gần hơn nữa tới chân lý trong tâm khảm và cuộc đời tốt đẹp nhất của mình. Cho dù tôi có thu thập được bao nhiêu tài sản vật chất đi chăng nữa thì cái thằng người mà tôi nhìn thấy trong tấm gương phòng tắm mỗi buổi sáng vẫn y nguyên – tôi không hề hạnh phúc hơn và không hề cảm thấy tốt hơn tí nào. Suy ngẫm nhiều hơn về thực trạng cuộc sống của mình, tôi bắt đầu nhận thức được sự trống rỗng ngay trong tim mình. Tôi bắt đầu chú ý đến những tiếng thầm thì lặng lẽ của con tim, những điều chỉ dẫn tôi rời bỏ nghề nghiệp mình đã chọn và bắt đầu quá trình tìm kiếm tâm hồn một cách nghiêm túc. Tôi bắt đầu suy nghĩ về lý do tại sao tôi lại ở đây, trên hành tinh này, và nhiệm vụ cụ thể của tôi là gì. Tôi tự hỏi tại sao cuộc đời mình lại không có tác dụng và cần phải thực hiện những thay đổi sâu sắc nào để giúp mình đi đúng hướng. Tôi xem xét những niềm tin cốt lõi, những giả định, và những lăng kính mà mình nhìn ra thế giới, và tôi tự cam kết làm sạch những lăng kính không lành mạnh.” “Cuốn sách này là một tác phẩm hư cấu. Đây là câu chuyện về một người đàn ông có tên Jack Valentine mà đường đời có nhiều điểm giống với tôi. Có cảm nhận rất không đầy đủ với tư cách một con người, anh ấy lên kế hoạch tìm kiếm tri thức để sống một cuộc sống hạnh phúc hơn, khoẻ khoắn hơn và đẹp hơn.”  *** Cuốn sách này là một tác phẩm hư cấu. Đây là câu chuyện về một người đàn ông có tên Jack Valentine mà đường đời có nhiều điểm giống với tôi. Thông qua một loạt cuộc gặp gỡ với ba người thầy đặc biệt, Jack phát hiện ra một triết lý mạnh mẽ để định hình lại cuộc sống và tiếp cận vận mệnh của mình. Những bài học Jack tiếp thu được qua chuyến phiêu lưu phi thường của anh ấy cũng sẽ khiến bạn tạo ra những thay đổi tuyệt vời trong đời mình. Làm thế nào tôi biết được điều này? Bởi vì đó chính là những bài học đã biến cải cuộc đời tôi. Tôi đã nếm trải nhiều thất bại trong hành trình đi qua những tháng ngày của mình. Thế nhưng, mỗi chướng ngại cuối cùng đều lại chính là một bàn đạp đưa tôi tới gần hơn với chân lý trong tâm khảm và cuộc đời tốt đẹp nhất của mình. Nhiều năm trước, tôi là một luật sư, theo đuổi sự thành đạt và tất cả những cám dỗ vật chất đi kèm với nó, nghĩ rằng đây chính là cuộc đời mình. Nhưng khi tôi làm việc tích cực hơn và đạt được nhiều hơn, tôi nhận ra rằng thực sự chẳng có gì thay đổi cả. Cho dù tôi có thu thập được bao nhiêu tài sản vật chất đi chăng nữa thì cái thằng người mà tôi nhìn thấy trong tấm gương phòng tắm mỗi buổi sáng vẫn y nguyên - tôi không hề hạnh phúc hơn và không hề cảm thấy tốt hơn tí nào. Suy ngẫm nhiều hơn về thực trạng cuộc sống của mình, tôi bắt đầu nhận thức được sự trống rỗng ngay trong tim mình. Tôi bắt đầu chú ý đến những tiếng thầm thì lặng lẽ của con tim, những điều chỉ dẫn tôi nên rời bỏ nghề nghiệp mình đã chọn và bắt đầu quá trình tìm kiếm tâm hồn một cách nghiêm túc. Tôi bắt đầu suy nghĩ về lý do tại sao tôi lại ở đây, trên hành tinh này, và nhiệm vụ cụ thể của tôi là gì. Tôi tự hỏi tại sao cuộc đời mình lại không có tác dụng và cần phải thực hiện những thay đổi sâu sắc nào để giúp mình đi đúng hướng. Tôi xem xét những niềm tin cốt lõi, những giả định và những lăng kính mà mình nhìn ra thế giới và tôi tự cam kết làm sạch những lăng kính không lành mạnh. Trong suốt giai đoạn biến đổi quyết liệt này, tôi đọc những cuốn sách về tự lực cánh sinh, về vai trò lãnh đạo cá nhân, về triết học và duy linh. Tôi tham gia nhiều khóa học phát triển bản thân. Tôi thay đổi chế độ ăn uống, lối suy nghĩ, và hành vi của mình. Cuối cùng, cái con người mà tôi phát triển đến là một con người đáng tin cậy hơn, hòa hợp hơn, và uyên bác hơn cái con người trước kia của tôi. Tôi sẽ là người đầu tiên nói với bạn rằng, ở nhiều khía cạnh, tôi vẫn chỉ là một kẻ nhập môn trong hành trình tự khám phá này. Đỉnh quả núi này là chân quả núi tiếp theo của tôi, và quá trình khám phá con người của tôi là một quá trình không bao giờ kết thúc. Ngay cả lúc này, khi tôi viết ra những dòng này, tôi vẫn đang di chuyển qua một giai đoạn biến đổi cá nhân toàn diện khác và đánh giá lại những giá trị cơ bản nhất của mình, cùng với cách tôi nhìn nhận thế giới. Nhưng tôi cố gắng hòa nhã với bản thân. Tôi nhắc mình rằng tôi phải kiên nhẫn và đừng hấp tấp vội vàng. Mỗi ngày sẽ mang lại sự rõ ràng hơn, chắc chắn hơn, và những hạnh phúc mới. Và với tôi, đó là những gì cuộc sống tươi đẹp đang mở ra này mang lại. Tôi hy vọng cuốn sách 3 người thầy vĩ đại này sẽ lay động bạn ở mức độ thật sâu. Nếu bạn thực sự muốn “sở hữu” tài liệu này, thì tôi gợi ý rằng trong vòng 24 giờ sau khi đọc xong cuốn sách, bạn hãy ngồi xuống và chia sẻ triết lý bạn học được với ai đó mà bạn quan tâm. Điều này sẽ làm sáng tỏ hiểu biết của bạn và hỗ trợ việc kết hợp những bài học vào cuộc sống của bạn. Tôi cũng hy vọng rằng bạn thấy vui khi vận dụng kiến thức của cuốn sách này. Đem một cảm nhận rất trẻ thơ về những điều kỳ diệu và niềm say mê cho những gì bạn sẽ khám phá trên những trang sách sau đây chính là một trong những cách tốt nhất để trở thành con người mà tôi biết bạn mong muốn. Xin cảm ơn bạn đã dành cho tôi đặc ân được chia sẻ tác phẩm này với bạn. Tôi chúc bạn có một cuộc sống đầy triển vọng, niềm vui và bình an. Và tôi hy vọng rằng bạn sẽ thực hiện phần việc của mình để giúp xây dựng nên một thế giới mới. ROBIN SHARMA Mời các bạn đón đọc Ba Người Thầy Vĩ Đại của tác giả Robin Sharma.
Làm Cha Mẹ Cũng Cần Phải Học: 7 Bài Học Dành Cho Cha Mẹ - Trương Hoành Vũ & Liệu Khang Cường
Để có một phương pháp giáo dục trẻ đúng đắn nhất, thì ngay từ khi bắt đầu làm cha mẹ, bạn đã phải xây dựng cho mình ý thức tự rèn luyện để trở thành bậc cha mẹ có tinh thần trách nhiệm, xem việc làm cha mẹ là một công việc thực thụ để chăm chỉ rèn luyện bản thân hơn. Muốn trở thành cha mẹ tốt thì cần có các phương pháp và kiến thức dạy dỗ khoa học, không nên chỉ dựa vào những tình cảm đơn thuần và kinh nghiệm truyền thống. Cuốn sách Làm Cha Mẹ Cũng Cần Phải Học - 7 Bài Học Dành Cho Cha Mẹ là ấn phẩm đặc biệt dành cho các bậc phụ huynh. Thông qua cuốn sách, cha mẹ sẽ nắm bắt được những kiến thức đúng đắn trong quá trình dạy dỗ con cái. 7 bài học là 7 phương pháp đề cập trực tiếp đến quá trình giáo dục trẻ trong gia đình, đó cũng là phương pháp chuẩn mực để giáo dục cha mẹ trở thành những phụ huynh hoàn hảo, giúp cha mẹ thay đổi những quan điểm dạy dỗ truyền thống lạc hậu, bắt kịp với các phương pháp giáo dục mới mẻ và khoa học, tránh tình trạng cha mẹ quá yêu thương chiều chuộng trẻ mà gây hại cho chúng. Chỉ cần có ý thức học cách làm cha mẹ thì tất cả các ông bố bà mẹ đều có thể trở thành những bậc cha mẹ thông thái. Hãy để cuốn sách này đồng hành và nhẹ nhàng khai phá "tiềm năng" LÀM CHA MẸ của bạn! *** Là các bậc cha mẹ, chỉ mang lại nhiều của cải cho trẻ là chưa đủ mà bản thân phải tự nâng cao năng lực và trách nhiệm để có cách giáo dục trẻ đúng đắn. Một nhà giáo dục đã từng hỏi tổng thống một câu hỏi như thế này: “Ngài cảm thấy làm lãnh đạo và làm cha mẹ, vai trò nào khó hơn?” Tổng thống rất ngạc nhiên: “Tại sao anh lại hỏi câu này? Đương nhiên là làm cha mẹ khó hơn rồi.” Đến lượt nhà giáo dục cảm thấy rất kì lạ: “Có phải vì làm lãnh đạo trước tiên là được bồi dưỡng sau đó mới được đề bạt, trong khi làm cha mẹ không được bồi dưỡng cũng không có đề bạt gì?” Chúng ta thấy rằng, có rất nhiều ông bố bà mẹ hao tâm tổn sức để làm tất cả mọi việc cho trẻ. Họ không tiếc tiền bạc, cũng chẳng tiếc thời gian cho trẻ nhưng họ chưa bao giờ nghĩ tới một vấn đề: Để trở thành cha mẹ, họ cũng cần phải học. Có phụ huynh cho rằng, cuộc sống bây giờ cạnh tranh vô cùng ác liệt, áp lực công việc lại lớn, làm gì có thời gian để làm những việc như vậy. Việc của họ là mang lại cho con một cuộc sống vật chất đầy đủ, còn giáo dục, dạy dỗ trẻ là việc của nhà trường. Những suy nghĩ này của cha mẹ trái ngược với kì vọng lớn lao mà họ đã dành cho trẻ. Cha mẹ cần biết một điều, về phương diện tâm lí và hành động thì trẻ con thời nay khác rất nhiều so với thời kì mà cha mẹ đã sống, vì vậy cha mẹ cần không ngừng nghiên cứu đặc điểm tâm lí của trẻ, học cách giao lưu với trẻ, như vậy mới có thể hòa hợp với trẻ được. Rất nhiều cha mẹ có trình độ văn hóa cao, có quan niệm sống hiện đại, nhưng do không hiểu trách nhiệm của bản thân, không hiểu tính cách của con cái, cũng không hiểu được các quy luật và phương thức cần có của việc dạy dỗ trong gia đình, nên khi nuôi dạy trẻ đã không nắm được những phương pháp phù hợp, dẫn đến xảy ra những sai lầm không đáng có. Cha mẹ vì con cái mà sẵn sàng hi sinh cho con tất cả. Theo suy luận thông thường, người mà con cái tôn trọng nhất sẽ là cha mẹ chúng. Nhưng theo một kết quả điều tra ở thành phố Thượng Hải - Trung Quốc thì trong suy nghĩ của trẻ, người cha bị xếp ở hàng thứ mười, còn hàng thứ mười một lại dành cho mẹ, điều này chứng tỏ trong thâm tâm trẻ, cha mẹ không phải là một “hình ảnh sáng chói”. Làm thẩm phán thì phải tinh thông luật pháp, làm nghệ nhân thì phải có sự khéo léo của đôi tay; làm bác sĩ phải tinh thông y thuật, tương tự làm cha mẹ cũng phải có những “tố chất chuyên nghiệp”, bao gồm việc dạy dỗ trẻ đúng đắn, nắm bắt được phương pháp và quy luật của giáo dục gia đình để không ngừng nâng cao năng lực giáo dục của bản thân. Những tố chất đó là điều bắt buộc phải có đối với các bậc cha mẹ, bởi nó không chỉ ảnh hưởng đến hiệu quả của giáo dục trong gia đình mà còn tác động trực tiếp đến sự phát triển của trẻ. Để có một phương pháp giáo dục trẻ đúng đắn nhất, thì ngay từ khi bắt đầu làm cha mẹ, bạn đã phải xây dựng cho mình ý thức tự rèn luyện để trở thành bậc cha mẹ có tinh thần trách nhiệm, xem việc làm cha mẹ là một công việc thực thụ để chăm chỉ rèn luyện bản thân hơn. Muốn trở thành cha mẹ tốt thì cần có các phương pháp và kiến thức dạy dỗ khoa học, không nên chỉ dựa vào những tình cảm đơn thuần và kinh nghiệm truyền thống. Maria Montessori là nhà giáo dục người Ý, thông qua quá trình nghiên cứu và tìm hiểu về trẻ em, bà đã rút ra một kết luận: cha mẹ phải tuân theo quy luật phát triển theo từng giai đoạn của trẻ để nâng cao tài năng, phát huy những năng lực như tính độc lập, tự tin, chăm chú và sáng tạo ở trẻ…, tất cả phải được thực hiện trong một môi trường thư giãn và vui vẻ, như vậy mới đặt nền móng tốt cho sự phát triển của trẻ sau này. Để nâng cao trình độ và kĩ năng giáo dục trẻ, cha mẹ nên tuân theo những phương pháp giáo dục đã được trình bày trong cuốn sách "Làm cha mẹ cũng cần phải học - 7 bài học dành cho cha mẹ” dưới đây. Đây là cuốn sách “Dạy cách làm cha mẹ” mà tác giả đặc biệt dành cho các bậc phụ huynh. Thông qua cuốn sách, cha mẹ sẽ nắm bắt được những kiến thức đúng đắn trong quá trình dạy dỗ con cái. 7 bài học là 7 phương pháp đề cập trực tiếp đến quá trình giáo dục trẻ trong gia đình, đó cũng là phương pháp chuẩn mực để giáo dục cha mẹ trở thành những phụ huynh hoàn hảo, giúp cha mẹ thay đổi những quan điểm dạy dỗ truyền thống lạc hậu, bắt kịp với các phương pháp giáo dục mới mẻ và khoa học, tránh tình trạng cha mẹ quá yêu thương chiều chuộng trẻ mà gây hại cho chúng. Chỉ cần có ý thức học cách làm cha mẹ thì tất cả các ông bố bà mẹ đều có thể trở thành những bậc cha mẹ thông thái. Xin được gửi lời chúc phúc tới tất cả những bậc làm cha mẹ trên thế gian này. Mời các bạn đón đọc Làm Cha Mẹ Cũng Cần Phải Học: 7 Bài Học Dành Cho Cha Mẹ của hai tác giả Trương Hoành Vũ & Liệu Khang Cường.