Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Mafia - Tên Gọi Đầy Bí Ẩn - V. P. Borovicka

Nghe đến Mafia, người ta thường nghĩ ngay tới những vụ giết người rùng rợn, những trận đấu súng đẫm máu, những vụ cướp nhà băng ly kỳ... Nhưng ai biết Mafia ngày nay còn là một chính phủ vô hình với quyền lực vô hạn, gồm những chủ ngân hàng giàu sụ, những giám đốc công ty kếch xù, những chính khách bệ vệ, chẳng những đã từng ăn cánh với CIA (Cục tình báo trung ương Mỹ) nhúng tay vào nhiều vụ đảo chính khủng bố tày đình, mà còn có thế lực lớn, thừa sức đưa lên hay hạ bệ được cả tổng thống Hoa Kỳ. Vậy tổ chức này xuất phát từ đâu và vì sao nó mang tên Mafia? Hầu hết các nhà nghiên cứu đều nhất trí quê hương của Mafia là Sicilie, một hòn đảo lớn phía nam nước Ý, nằm ở đường giao nhau giữa các châu Âu, Á, Phi. Trong quá khứ cũng như hiện tại, Sicilie vẫn là một vị trí chiến lược quan trọng, nơi giành giật giữa các thế lực đối lập. Những mỏm đá trên đảo đã từng in dấu vó ngựa của các danh tướng như Caesar, Alexandros Đại đế, Hannibal... Trong chiến tranh thế giới thứ hai, đây là nơi đổ bộ của quân Anh, Mỹ, đánh dấu một bước ngoặt quan trọng dẫn đến chiến thắng hoàn toàn của phe Đồng minh, ở một vị trí lịch sử như vậy, nhưng Sicilie lại phải chịu một khí hậu vô cùng khắc nghiệt, đất đai lại quá ư cằn cỗi. Đời này qua đời khác, gió và sóng biển bào đi hết những gì màu mỡ, chỉ để lại những mỏm đá hình thù quái dị. Dưới nước thì toàn những bạch tuộc và mực đen, trên bờ thì đầy rẫy những tổ chim xơ xác như muốn điểm thêm vẻ hoang vu trên đảo. Người dân ở đây sống trong những ngôi nhà nhỏ bằng đá dựng và chìm lấp trong đá. Mùa đông lạnh buốt xương mùa hè lại như rang trong chảo. Cuộc đời quá vất vả không cho phép họ có thì giờ nghĩ đến ngày mai. Phải chăng vì thế mà động từ trong tiếng Sicilie không có thì tương lai? Sicilie miền đất vô hy vọng? Cùng cực và đói rách, nhưng người dân Sicilie vẫn yêu tha thiết bầu trời trong xanh của mình. Khi gót giày quân viễn chinh Pháp đặt lên đảo, họ đã vùng lên chống cự quyết liệt. Vì độc lập dân tộc, các chiến sĩ ngã xuống trong tiếng hô cảm tử: Morta Alla Francia Italia Anela (Giết giặc Pháp, tự do cho nước Ý). Phải chăng Mafia là tên gọi tắt gồm những chữ đầu trong khẩu hiệu trên? Có giả thiết cho rằng tổ chức Mafia xuất hiện sớm hơn từ năm 1670. Lúc đó ở Palermo nảy sinh tổ chức Beati Paoli, thường gọi là “Hội những quý tộc văn minh”. Những cuộc họp bí mật của hội thường được triệu tập trong các hang đá. Từ những thế kỷ trước, Mafia là tên gọi các mỏm đá ở gần Trapani thuộc Sicilie. Tên gọi Mafia bắt nguồn từ đây chăng? Các nhà ngôn ngữ học cũng đã đưa ra một số giả thiết. Mafia trong ngôn ngữ Toskana nghĩa là đói khổ. Mauvais trong tiếng Pháp có nghĩa là xấu, tồi. Còn trong tiếng Ả Rập Mahias là thằng lừa đảo, Magtaa là hang động. Cũng trong tiếng Ả Rập, Mufah còn có nghĩa là sức mạnh tự vệ. Buổi đầu, Mafia là tổ chức tự vệ của những người nghèo chống lại áp bức, bất công. Vậy tên gọi Mafia có liên quan gì đến các từ trên hay không? Dẫu từng ra đời như một tổ chức chính nghĩa nhằm bảo vệ quyền lợi của dân nghèo đi nữa, thì ngày nay Mafia đã hoàn toàn biến chất và trở thành một hội kín khổng lồ, chuyên gây tội ác, có quyền lực vô bờ, có nguồn thu nhập lớn có thể sánh với các tổ hợp tư bản kếch xù như General Motors, Standard Oil, IBM, Texaco, General Electric, Chrysler và Ford. Nó có mặt trong hầu hết các lĩnh vực công nghiệp, thương nghiệp, du lịch, nghệ thuật... Nó nhúng tay vào chính trị, hợp tác với CIA, tổ chức ám sát Tổng Thống, mua chuộc quốc hội... Vậy mảnh đất và không khí nào đã nuôi dưỡng ”cây Mafia xanh tươi” như vậy? Cuốn sách bạn đang cầm trong tay sẽ giúp bạn trả lời câu hỏi đó. Là một nhà nghiên cứu nghiêm túc, tác giả đã từng đến tận các mỏm đá Sicilie tìm hiểu cội nguồn Mafia, từng vượt qua sa mạc nóng bỏng tìm đến thủ đô Mafia Las Vegas để tận mắt chứng kiến bao thủ đoạn kinh doanh của các “bố già”. Bằng ngòi bút sinh động, hấp dẫn, ông đã vẽ nên một bức tranh chân thật về “thế giới ngầm Hoa Kỳ”; từ những thủ đoạn giết người tàn bạo đến các mánh khoé kinh doanh tinh vi, từ sự cấu kết bí mật với CIA trong các hành động lật đổ, ám sát, bắt cóc đến sự liên minh ma quỷ với giới chính khách Hoa Kỳ, từ những cuộc tình kim tiền với các nghệ sĩ danh tiếng đến các phi vụ béo bở với những cha cố trong tòa thánh Vatican, từ vụ ám sát anh em Kennedy đến kế hoạch mưu sát Fidel Castro... Phải chăng chính phủ vô hình Mafia là anh em sinh đôi với chính phủ phản động, hiếu chiến Hoa Kỳ, và xã hội “thế giới ngầm” là hình ảnh thu nhỏ cửa thế giới tư bản, nơi thịnh hành quy luật: Catch as catch can (cướp giật đến mức tối đa), bất chấp mọi đạo lý, tình người? Sinh ngày 8-9-1920 ở Praha, V.P Borovicka trải qua thời thơ ấu ở Praha và Trencin, nơi ông học tiểu học và trung học phổ thông. Tốt nghiệp trung học năm 1938, ông học đại học thương nghiệp ở Praha cho tới khi trường bị bọn phát xít đóng cửa. Từ năm 1939 đến năm 1941, ông làm việc trong một hiệu thuốc, nhưng sau đó ông bị bắt sang Đức lao động khổ sai cho tới hết chiến tranh trở về Tổ quốc, chàng trai Borovicka hăm hở cùng mọi người góp sức hàn gắn vết thương chiến tranh và góp phần xây dựng xã hội mới trên đất nước Tiệp Khắc (cộng hòa Czech) tươi đẹp. Từ năm 1962 đến năm 1964, ông làm biên tập viên cho nhật báo “Dân chủ nhân dân”. Từ năm 1964 trở đi, ông hoàn toàn chuyên tâm viết văn. Ông du lịch khắp năm châu và đặc biệt lưu tâm đến việc thu nhập tư liệu cho các cuốn sách của mình. Tác phẩm đầu tay của ông là “Kết thúc đảo Oscar”, thuộc thể loại khoa học viễn tưởng, xuất bản năm 1959, đã cho thấy lĩnh vực quan tâm của tác giả. Các đề tài chính trị, thời sự được thể hiện dưới dạng tiểu thuyết viễn tưởng, tiểu thuyết trinh thám, trung thành với lịch sử nhưng không kém phần hấp dẫn. Ông quan tâm trước hết đến các hoạt động tình báo và loại chiến tranh vô hình này (Các bậc thầy tình báo những vụ ám sát xoay chuyển thế giới Watergate). Ông còn viết các tiểu thuyết tâm lý như “Tôi, anh hay Juan”, “Người yêu từ đỉnh núi Cáo”. Trí tưởng tượng phong phú đã được ông sử dụng trong các sách viết cho trẻ em. Trước hết phải kể đến tiểu thuyết viễn tưởng nổi tiếng “Cô bé từ trên trời rơi xuống”, kể về cuộc du lịch của một em bé từ hành tinh xa đến và thành phố kỳ diệu, nói về một xã hội lý tưởng. Theo hai cuốn sách này, tác giả đã viết kịch bản cho một bộ phim cùng tên mà truyền hình Việt Nam đã cho phát nhiều lần. Hai truyện thiếu nhi khác là “Cái bớt” và “Safari” cũng được quay thành phim vô tuyến truyền hình, gồm 7 và 13 tập. Borovicka còn là tác giả kịch bản “Anh tôi có người em tuyệt vời”, đạt huy chương bạc trong đại hội liên hoan phim lần thứ 5 ở Moskva. Phim này cũng đã ra mắt khán giả Việt Nam (Tác phẩm của V.P.Borovicka gồm có: Kết thúc đảo Oscar (1959), Cô bé từ trên trời rơi xuống (1968), Thành phố kỳ diệu (1964), Tôi, anh hay Juan (1964), Vụ giết nhà tiên tri Hanissen (1968), Các bậc thầy tình báo (1969-1974-1984), Các nữ tình báo thế kỷ (1970-1973), Bí mật tình báo (1969), Những phát súng phục kích (1976), Watergate (1976), Người yêu từ đỉnh núi Cáo (1973), Thám tử từ Tel Aviv (1979), Mật mã tuyệt mật (1980), Mafia (1985), Thế kỷ chó sói (1985). ***   Họ xả hơi đến hai giờ khuya. Sau đó họ quay về apartment đợi ở khách sạn Palace. Họ đang vui vẻ nên tài xế taxi được một khoản puốc boa quá mức tưởng tượng và bác thường trực được họ mời một chiếc bánh kem loại một, không dưới năm dollar. Họ cởi áo vét, tháo cravat, cởi giày. Người cao lớn trẻ và gầy hơn đổ rượu Whisky Chivas Regal ra tay. − Có phải bia đâu? - người nhiều tuổi hơn mỉm cười ngạc nhiên hỏi. − Whisky là thứ nước đa năng. Đặc biệt loại Chivas Regal cất cách đây 5 năm. Thứ này bác sĩ cho phép xài cả vào những ngày ăn chay. Một cú áp phe, mà có lẽ ngay cả đại bố già Mafia cũng chỉ gặp một lần trong đời đang chờ họ, Lucky Luciano không dám mơ tới một cơ hội như vậy, còn Vito Genovese thì không thể tưởng tượng ra một mánh siêu đến thế. Người kế vị chúng là Matteo di Lorenzo, biệt hiệu “bác Matty”, đang có cơ hội trong tầm tay. Y uống cạn cốc, nhấm nháp miệng và bằng một cử chỉ điệu bộ đặt cốc xuống bàn. − Những một tỉ dollar. Winnie! - y sung sướng như thể đang cầm các xấp bạc trong tay. − Không đúng, bác Matty. Bác đừng có phóng đại. Chính xác là 950 triệu. − Thôi mà. Winnie! - bố già di Lorenzo cười. - Cũng du di 50 triệu chứ. Y cúi xuống rót rượu và châm thuốc, sau đó nhìn lên trần nhà và như thể đọc những tên gọi trong ánh lấp lánh của chiếc đèn chùm phalê, y chậm rãi nói: − Occidental Petroleum Corporation, Pan American World Airways, American Telephone and Telegraph Company... − Bác đừng quên General Electric Corporation, National Aviation, Unishops, California Computer Corporation, Coca Cola Bottling, tóm lại là tất cả những gì tên tuổi, những gì đó có giá. Nhưng, thưa bác Matty ai đã đưa quả này cho bác? Winnie! Gã trẻ hơn đứng dậy, nhảy lên xiêu vẹo sau mười cốc rượu trắng bavor và hai ly Whisky, gã vỗ ngực kêu to như kẻ truyền đạo. − Nếu bác không biết, bác Matty, thì hãy nghe đây. Winnie là cả kho báu. Winnie kiếm cho bác bạch phiến, súng lục, bazoka và thuốc nổ đủ loại, xe tăng ca nông và con ma, tên lửa điều khiển, tất cả đều do một tay Winnie lo liệu, và dollar giả, cổ phần giả, giấy quý giả, bác muốn bao nhiêu cũng có. Đây, chỉ để bác biết, bác đã chọn một người đồng sự như thế nào thưa sếp. Winnie trẻ hơn, khoảng 48 tuổi, có tên Ý là Wincent Rizzo và gã cũng có điệu bộ như dân Ý. Rizzo mặc đồ mốt mới nhất, may ở nhà may mốt nhất, gã chỉ đeo có một chiếc nhẫn duy nhất, cố gắng nhũn nhặn như một viên chức bình thường. Mới thấy gã không ai nghĩ đây là một gangster ranh ma quỷ quyệt, từ nhỏ đã là thành viên Mafia New York, thuộc hạ của bố già di Lorenzo. Gã lớn lên trên đường phố Lower East Side ở New York và thành thục nghề gangster vào loại số một. Bây giờ gã ngồi trên xa lông đệm trong apartment sang nhất của khách sạn Palace ở Muenchen [101], vươn vai dạng cẳng trước sếp và nghĩ rằng trên đời không ai hơn gã. Rizzo không mảy may biết rằng ở phòng bên cạnh, vài cảnh sát Muenchen và hai thám tử từ New York đang nghe và ghi âm từng lời ba hoa của gã, bởi vì các phương tiện nghe lén đã được cài đặt giữa các lá pha lê lấp lánh của chiếc đèn chùm Czech từ hôm trước. Cảnh sát Muenchen được thanh tra cảnh sát Joe Coffey từ New York thông báo về hai tên Mafia ranh ma đang chuẩn bị một cú hattrik [102] trong đời. Khác với các đồng nghiệp Đức, Coffey đã theo dõi hai thầy tớ Mafia từ lâu và biết rõ địch thủ của mình. Giờ đây Coffey đang chăm chú nghe trong tư thế nửa ngồi nửa nằm, còn hai tên Mafia thì chắc chắn rằng không ai biết chúng đang mưu đồ gì. Mafia thay đổi và các bố già cũng thay đổi. Trong những năm 70 và 80, nó không còn là “Hội những kẻ giết người chuyên nghiệp” mà là một trust quốc tế tổ chức cao với doanh thu hàng năm 120 tỉ dollar và có lĩnh vực kinh doanh rộng lớn. Các trò chơi sát phạt trong các casino trên toàn thế giới, buôn bán ma túy ngày một phát triển, mua bán các cổ phiếu giả và ăn trộm, đó là các lĩnh vực kinh doanh chính của tổ chức tội ác, có trụ sở ở khắp nơi trên thế giới. Các siêu Monopole thế giới, các ngân hàng quốc tế, các con xóc tư bản, các hiệp hội công nghiệp chiến tranh, cả thẩy đều thay đổi chiến thuật và cả phương tiện. Để thu được lợi nhuận cao nhất, các chủ tịch những hiệp hội thế giới này không từ bất kỳ thủ đoạn nào. Mafia có thể thích ứng dễ dàng với luật chơi mới. Các con bạc ở đây ăn thua những món tiền khổng lồ và nhiều khi cả tính mạng đối phương hay kẻ cạnh tranh. ... Mời các bạn đón đọc Mafia - Tên Gọi Đầy Bí Ẩn của tác giả V. P. Borovicka.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Cổ Cồn Trắng - Nguyễn Như Phong
Đây là cuốn tiểu thuyết điều tra hình sự viết về chiến công của những người chiến sĩ công an đã dũng cảm, ngoan cường đấu tranh với bọn tội phạm buôn bán và tàng trữ ma tuý, đem lại bao nhiêu bất hạnh và đau khổ đối với những gia đình có con em trót sa vào vòng nghiện ngập. Lồng vào trong đó là những hoàn cảnh, những bi kịch, số phận, cuộc đời của những con người trực tiếp, gián tiếp, bị buộc phải theo hoặc chủ động lao vào guồng xoáy đầy tội lỗi đó.  Cuốn tiểu thuyết cho chúng ta hiểu tường tận hơn những công việc, những chiến công đôi khi là thầm lặng, và cả sự hy sinh, mất mát cũng rất thầm lặng, để có thể mang lại yên bình, hạnh phúc cho nhân dân của những người chiến sĩ công an đấu tranh chống tội phạm. Bởi bên cạnh cương vị là một cán bộ làm việc vì nước vì dân, trong gia đình các anh vẫn là những người con, người chồng, người cha. Phải làm sao đây để cân bằng cả hai nhiệm vụ (chưa biết bên nào nặng nề, phức tạp và khó khăn hơn) để có kết quả tốt đẹp cho mình, cho mọi người.  Đó là bài toán mà các chiến sĩ phải tìm ra lời giải thích đáng nhất. Và lời giải sẽ được tìm trong bộ tiểu thuyết này. Vẳng nghe đâu đây tiếng hát Ai giữ ngọn lửa qua đêm đen? Ai đếm những bàn chân thân quen, gửi làn hương thầm theo về trong gió, suốt chặng đường gian lao.... *** Đêm đã về khuya. Trời cuối thu đầu đông se lạnh. Chạy sát ven hồ Thủy Nguyệt là con đường nhỏ mang cái tên của một danh nhân rất mực tài hoa: Cao Bá Quát. Trên đường, thấp thoáng bóng những đôi trai gái đi như dựa vào nhau để tận hưởng sự êm ả, thanh khiết của trời thu. Cuối phố, nơi có những cây hoa sữa cổ thụ mốc thếch rêu phong là một quán bar khá đẹp mang tên Hoa Sữa. Đây là một biệt thự kiến trúc hoàn toàn Pháp đã có tuổi thọ hơn bảy mươi năm. Chủ của ngôi biệt thự là một nhân sĩ được Nhà nước kính trọng, có lẽ vì vậy mà trong hồi cải tạo tư sản những năm cuối thập kỷ 50 của thế kỷ trước, ngôi nhà đã không bị tịch thu. Năm 1990, ông qua đời để lại ngôi nhà cho hai người con trai. Người con cả là một Thiếu tướng quân đội thì được ở toàn bộ ba phòng tầng một và khu sân trước rộng hơn năm chục mét vuông. Người con thứ hai là một kỹ sư hóa chất ở toàn bộ tầng trên. Nhà Thiếu tướng có ít người, hơn nữa ông cũng được quân đội chia cho một khu đất khá đẹp ngoài ngoại ô, và ông đã xây ngôi nhà bốn tầng. Từ khi có ngôi nhà mới ông hầu như không về phố ở nữa cho nên ông đem tầng dưới cho thuê mở quán bar. Người đứng ra thuê là một tay kinh doanh bất động sản khá tiếng tăm tên là Trần Dung và có biệt hiệu là Dung Tỉ Phú. Trần Dung cho sơn sửa lại với một gam màu vàng nhạt và trang trí quanh tường bằng những bức tranh phiên bản của những họa sĩ nổi tiếng như Văn Cao, Bùi Xuân Phái, Tô Ngọc Vân, Nguyễn Phan Chánh và đặc biệt là âm nhạc trong quán thường là nhạc cổ điển của Mozart, Chopin, Betthoven... Nhờ những cái đó, quán bar này đã tạo ra một bản sắc riêng biệt mà chỉ có những người ưa thích sự sâu lắng, nhẹ nhàng mới lui tới. Bar mở cửa từ 10 giờ 30 sáng và đóng cửa khi nào hết khách, nhưng thường thường là khoảng 12 giờ đêm thì vắng hẳn. Hôm nay cũng vậy, khi con chim cu từ trong chiếc đồng hồ quả lắc mang nhãn hiệu ODO thò đầu ra gáy mười một tiếng thì trong quán chỉ còn lại có bốn người. Hai thanh mến ngồi phía ngoài cửa và uể oải ngáp ngủ, còn phía góc trong của phòng có hai người vẫn đang nói chuyện - đó là một người đàn ông và một phụ nữ. Người đàn ông tên Tiên, biệt hiệu là Tiên Chỉ đã cứng tuổi, có mái tóc chải cẩu thả, mặt tròn, mắt nhỏ và môi mỏng. Tiên Chỉ tên chính là Hoàng Văn Tiên và do anh ta có tật khi nói chuyện cứ hay dùng ngón trỏ chỉ vào người đối thoại nên mới có biệt hiệu là Tiên Chỉ. Tuy nhiên, biệt danh Tiên Chỉ còn mang một ý nghĩa khác. Tiên vốn là một tay giang hồ có tiếng ở thành phố H, đã từng hai lần lĩnh án tù, tuy mỗi lần chỉ vài ba năm. Tiên được coi là thủ lĩnh của một băng nhóm tội phạm hoạt động theo kiểu xã hội đen trên các lĩnh vực cờ bạc, cho vay nặng lãi, bảo kê vũ trường, kinh doanh bất động sản; và ngoài ra, Tiên còn lập cả công ty kinh doanh hàng điện máy, điện tử. Là kẻ mưu mẹo, có ý chí, được giới giang hồ nể trọng, xếp vào hàng chiếu trên, vì thế Tiên Chỉ thường được gọi thêm là "Cụ Tiên Chỉ". Năm 1996, Tiên ra tù và từ đó người ta thấy anh ta hiền lành hẳn. Tuy nhiên, cảnh sát hình sự thì vẫn coi anh ta là đối tượng điểm. Còn cô gái khoảng gần 40 tuổi - đó là Oanh, biệt hiệu là Oanh Sói. Cũng là một ả giang hồ, là nữ quái nổi tiếng một thời của đất cảng Hải Phòng. Oanh Sói không đẹp nhưng có nét hấp dẫn, đặc biệt là mái tóc cắt tém như con trai và ánh mắt nhìn sắc lạnh. Oanh hút thuốc liên tục và nét mặt xem ra có vẻ căng thẳng: - Em rất cảm ơn ý tốt của anh. Nhưng bây giờ thì em chưa cần... Em muốn phải thanh toán sòng phảng với hắn. - Hắn là ai? Cô cho anh biết. Anh sẽ giúp cô thanh toán món nợ đó? - Chuyện này của riêng em. Em không muốn ai biết và cũng không muốn phải nhờ ai. Tiên nheo mắt nhìn hai gã thanh niên trông còn rất trẻ con đang ngồi phía ngoài: - Đệ tử của em đấy à? - Vâng, em cũng cần phải bảo vệ mình. Em biết có kẻ muốn "chơi" em, nhưng đâu có dễ. Nói rồi Oanh vẫy tay gọi một đứa đến và bảo: - Các em về trước đi. Chị ở đây, lát nữa về sau. Hai gã thanh niên lễ phép chào hai người rồi bước ra. Tiên gật gù, nhìn theo chúng rồi quay lại: - Nếu em đồng ý, anh giao cho em ba sòng ở ngoại thành. Em không cần góp thùng tẩy [1], nhưng được ba chục phần trăm. Chỉ có điều là mấy sòng này đang bị bọn thằng Phướn Chột quấy phá. Em đưa mấy thằng đệ tử của em về, chắc chúng chịu thôi? - Đến như anh mà cũng sợ thằng nào quậy ư? Thế những cảnh sát hình sự chiến hữu của anh đâu rồi? ... Mời các bạn đón đọc Cổ Cồn Trắng của tác giả Nguyễn Như Phong.
Tôi Vô Tội - Agatha Christie
Tiểu thuyết trinh thám tiếp theo về Thanh Tra Hercule Poirot. Elinor Carlisle, một người bị nữ bị kết tội giết Mary Gerrard vào ngày hai bảy tháng bảy năm nay. Liệu rằng Elinor Carlisle có tội hay không có tội? Elinor đứng thẳng người, đầu hơi cúi. Đó là một phụ nữ trẻ, kiều diễm với những đường nét thanh tú và mái tóc dầy đen nhánh. Hàng lông mày thành một nét mảnh giản dị nằm bên trên cặp mắt xanh biếc. Không khí đột nhiên lặng lẽ... bấy giờ vấy lên một sự lặng lẽ ngột ngạt. Edwin Bulmer, luật sư của bị cáo, cảm thấy hoảng sợ. Thân chủ của ông định nhận tội chăng? Cô ta đã mất hết sự tự chủ rồi. Elinor hé miệng, nói khẽ : - Tôi vô tội. *** ... Anh bạn nên biết rằng, - Hercule nói - điều dối trá nhiều khi đáng quý ngang với sự thật đấy. - Nghĩa là người ta đã nói với ông những điều dối trá? - Bác sĩ Peter Lord hỏi. Hercule Poirot gật đầu. - Tất nhiên, và với nhiều lý do khác nhau. Nhưng người làm tôi ngạc nhiên chưa từng thấy là Elinor Carlisle. Cô ta nói dối vì quá nghiêm khắc trước lương tâm. Cô ấy bị nghi oan nhưng không đấu tranh mà định đầu hàng ngay, nhận trước tòa một tội mà cô không làm. Bác sĩ Lord mệt mỏi thở dài. - Quả là khó ai tin nổi. - Vậy mà lại có! Cô ấy tự kết án... bởi cô ấy tự đặt ra một tiêu chuẩn đạo đức cao hơn hẳn tiêu chuẩn của con người nói chung. Lúc mới tiến hành điều tra, tôi đã nghi cô ta chính là thủ phạm. Nhưng vì anh yêu cầu tha thiết nên tôi tiếp tục tìm hiểu thêm và tôi hiểu ra rằng các bằng chứng đều nói lên, thủ phạm là người khác. - Mụ y tá Hopkins? - “Đúng thế. Nhưng không phải tôi nghi mụ ấy ngay. Đầu tiên tôi nghi Roddy, mà trường hợp này cũng do một lời nói dối. Anh ta bảo anh ta rời nước Anh ngày 9 tháng Bảy và trở về ngày 1 tháng Tám. Trong khi mụ Hopkins lại tình cờ lộ ra với tôi rằng Roddy đến gặp Mary ở London, nhắc lại lời cầu hôn, nhưng Mary từ chối. Theo tin tức của anh thì ngày 10 tháng Bảy, Mary mới đến London... Một ngày sau khi Roddy rời khỏi đó. Vậy làm sao Roddy gặp cô ta được? Tôi bèn xem hộ chiếu của Roddy, thì ra anh ta có về Anh hai ngày, từ 25 đến 27 tháng Bảy. Anh ta đã cố tình nói dối tôi. Tôi nghĩ đến quãng thời gian ngắn ngủi từ lúc Elinor rời khỏi bếp, ra chỗ trạm bảo vệ rủ hai người phụ nữ kia vào cùng ăn. Tôi đã nghĩ có kẻ nào định giết Elinor, chứ không phải giết Mary. Mà Roddy lại có một động cơ rất quan trọng để thủ tiêu Elinor. Dùng một cách hỏi khéo léo, tôi phát hiện ra là anh ta có biết nội dung bản di chúc của Elinor Carlisle”. - Vậy sao ông lại biết anh ta vô tội? - “Nhờ một lời nói dối... Một lời nói dối vớ vẩn chẳng để làm gì. Mụ Hopkins bảo rớm máu ở cổ tay là do gai hoa hồng leo. Tôi đến tìm hiểu thì ra cây hoa hồng leo ở trạm bảo vệ không có gai. Câu nói dối đó rõ ràng là vô ích và ngu xuẩn, chẳng để làm gì, nhưng lại khiến tôi chú ý. Thế là từ đấy tôi bắt đầu quan tâm nhiều đến mụ ta. Trước kia tôi tưởng mụ ta thành thật. Tuy mụ ta đổ diệt tội cho Elinor, tôi vẫn nghĩ là tại mụ ta yêu Mary quá. Nhưng sau khi mụ nói dối một cách vụng về kia, tôi chợt hiểu tôi đã bỏ sót một chi tiết. Mụ ta biết một điều gì đó về Mary Gerrard nhưng giấu biệt, mà chỉ nói theo lời đồn của mọi người”. Viên bác sĩ ngạc nhiên kêu lên : - Vậy mà tôi lại đánh giá khác kia chứ! - “Mụ rất giảo quyệt. Mụ đóng vai một người biết một điều nhưng không nỡ nói ra. Sau khi suy ngẫm, tôi thấy mụ ta có một dụng ý, một mục đích. Và tôi đã tìm ra được mưu mẹo của mụ. Từ lúc ấy, tôi nhận ra sự khác nhau giữa kiểu nói dối của mụ với kiểu nói dối của người khác, thí dụ kiểu của Roddy Welman. Một bên là nói dối tội lỗi và một bên là nói dối vụng về nhưng vô tội. Roddy chính là thuộc loại thứ hai này. Vì không có mặt ở nơi xảy ra vụ án nên anh ta nói dối cho gọn là lúc đó ở nước ngoài. Roddy thuộc loại người ngại mọi phiền phức. Lọ moóc-phin vẫn trong tay mụ, nhưng mụ lại rao ầm lên là bị mất để đánh lạc hướng. Mụ sử dụng chị y tá O’Brien khờ khạo làm cái loa, để mỗi khi cần tung ra một cách hiểu nào đó. ... Mời các bạn đón đọc Tôi Vô Tội của tác giả Agatha Christie.
Thủy Triều Đen - Andrew Gross
Là đồng tác giả của 5 tiểu thuyết ăn khách với nhà văn nổi tiếng James Patterson, Andrew Gross một lần nữa khẳng định tài năng trong thể loại trinh thám với tiểu thuyết mới “Thủy Triều Đen”. Tác giả đặt người đọc vào trạng thái hồi hộp ngay ở những trang đầu tiên bằng vụ đánh bom ở nhà ga trung tâm thành phố New York. Vụ nổ đã khiến cho cuộc sống hạnh phúc và phẳng lặng của Karen Friedman rơi vào khủng hoảng bởi chồng cô cũng có mặt trên chuyến tàu định mệnh ấy. Charles Friedman, nhà quản lý tài chính thành đạt, chồng của Karen, là một trong những nạn nhân. Vài ngày sau, nghe tin nhiều thi thể không tìm thấy được, Karen phải chấp nhận sự thật đau buồn là người chồng sống với cô 18 năm nay đã mất. Cũng vào ngày hôm đó, một vụ tai nạn ôtô làm thiệt mạng một thanh niên cùng quê với Karen ở Greenwich, Connecticut. Ty Hauck, một nhà thám tử nhận điều tra vụ này và tìm được manh mối cho thấy mối liên hệ bất ngờ giữa hai sự kiện tưởng như không hề liên quan. Đọc Thủy Triều Đen, độc giả sẽ ít thấy những cảnh máu me, súng ống, đường hầm tăm tối hay những đường vòng quanh co khúc khuỷu lờ mờ ở xa phía trước, nhưng cuốn tiểu thuyết vẫn rất gay cấn ly kỳ đến nghẹt thở. Bởi Andrew Gross đã khéo léo xây dựng một nhân vật chính thú vị và một câu chuyện kết hợp giữa yếu tố hình sự truyền thống xen lẫn một âm mưu nhẹ nhàng và xúc động. Thủy Triều Đen còn khiến người ta phải đặt câu hỏi về cuộc sống hôn nhân hiện đại. Phải chăng sự hòa hợp của những đôi vợ chồng tưởng chừng như hạnh phúc nhất cũng chỉ là sự giả tạo bên ngoài khi vẫn còn nhiều bí mật riêng đáng sợ luôn tồn tại. *** Sáu giờ mười sáng. Khi ánh nắng ban mai xuyên qua lớp kính cửa sổ phòng ngủ, Charles Friedman mới thả chiếc gậy gỗ truyền tay chạy tiếp sức xuống. Đã nhiều năm rồi Charles không hề gặp lại giấc mơ đó, ấy vậy mà giờ đây anh thấy mình đang đứng đó, cao lớn ở cái tuổi mười hai, chạy tiếp sức vòng ba trong cuộc thi cắm trại hè, cuộc đua đấu loại trực tiếp giữa đội Xanh và đội Xám. Bầu trời xanh đến tận cùng, đám đông ngoài kia đang nhấp nhô như những làn sóng - làn sóng những đầu đinh, những cái má đỏ hồng mà cậu sẽ chẳng bao giờ được thấy ở một nơi nào khác ngoại trừ nơi này. Đồng đội của cậu là Kyle Bergman đang chạy về phía Charles, dẫn trước đội bạn ở khoảng cách không nhiều, hai má phập phồng theo từng nhịp thở. Tới rồi... Charles chuẩn bị tinh thần, sẵn sàng đón lấy chiếc gậy tiếp sức. Những ngón tay cậu giật nhẹ, chờ đón chiếc gậy đập vào lòng bàn tay. Và đây rồi! Đã đến lúc! Charles đón lấy chiếc gậy. Bỗng nhiên một tiếng rên lớn vang lên. Charles ngừng lại, nhìn xuống hoảng sợ. Chiếc gậy nằm chỏng chơ dưới đường chạy. Đội Xám đã hoàn tất cung tiếp sức, vụt qua trước mặt Charles để tiến tới một chiến thắng mà trước đây không chắc sẽ xảy đến với họ. Đám cổ động viên cho đội Xám rồ lên vui sướng, tiếng hoan hô mừng vui hoà lẫn trong những lời chế giễu đầy thất vọng cứ vọng mãi trong đầu Charles. Đó cũng chính là lúc Charles bừng tỉnh. Bao giờ cũng vậy. Tỉnh dậy, thở nặng nhọc, ga trải giường ướt đẫm mồ hôi. Charles đưa mắt nhìn hai bàn tay trống không. Anh đập xuống tấm ga trải giường như thể chiếc gậy tiếp sức vẫn còn ở đó, sau ba mươi năm đã qua. Nhưng ở đó chỉ có Tobey, chú chó tha mồi Cao nguyên miền Tây màu trắng, đang nằm, hai chân xoài dưới ngực, chăm chăm nhìn anh chờ đợi. Charles thở dài, thả người xuống gối. Anh liếc nhìn đồng hồ. Sáu giờ mười. Mười phút trước chuông báo thức. Vợ anh, Karen, đang nằm úp thìa bên cạnh. Anh ngủ chẳng được bao nhiêu. Anh đã thức trắng từ ba giờ đến bốn giờ sáng, chăm chú theo dõi Giải vô địch Nữ lực sĩ trên kênh ESPN2, không bật tiếng vì không muốn làm ảnh hưởng tới vợ. Có điều gì đó đang đè nặng tâm trí Charles. Có lẽ đó là cái vị trí lớn lao mà anh đã chiếm được trên thị trường cát dầu ở Canada hôm thứ năm vừa qua và đã nắm giữ vị trí đó suốt mấy ngày cuối tuần đầy rủi ro, khi giá dầu đã bị rò rỉ ra ngoài bằng một cách nào đó. Hoặc có thể là cái cách anh dồn thêm vốn cho các hợp đồng khí đốt có thời hạn sáu tháng, trong khi lại rút bớt đi đối với những hợp đồng một năm. Hôm thứ sáu, chỉ số chứng khoán đối với các mặt hàng nhiên liệu tiếp tục giảm. Anh thực sự sợ hãi mỗi khi bước ra khỏi giường ngủ, bởi sợ không dám nhìn vào màn hình sáng nay để xem những gì đang diễn ra ở đó. Hay đó là Sasha? Trong mười năm qua, Charles điều hành quỹ đầu tư hợp tác năng lượng tại Manhattan, có năng lực tài chính thực sự trên mức đi vay lên đến một phần tám. Nhìn bên ngoài, với mái tóc hung hung nâu, cặp kính gọng sừng cùng dáng vẻ bình thản, trông anh giống nhà đầu tư bất động sản hay một nhà tư vấn hơn là một người sống nội tâm (trong cả những giấc mơ) luôn nghĩ về một thực tế là đã và đang phải sống trong địa ngục, mà thậm chí là địa ngục tầng hai. Charles, trong chiếc quần hộp, chống khuỷu tay đẩy người lên, và ngừng lại. Tobey nhảy ra khỏi giường, cuống quýt cào lên cánh cửa. “Cho nó ra đi anh.” Karen cựa quậy, cuộn người lăn sang bên, giật mạnh chăn phía trên đầu. “Có chắc là mày muốn ra ngoài không?” - Charles hỏi lại chú chó, lúc này hai tai đang vểnh lại phía sau, đuôi ngoáy tít, nhảy trên hai chân sau chờ đợi, như thể nó có thể sắp xoay nắm đấm cửa với hai hàm răng của mình đến nơi. - "Mày biết chuyện gì sẽ xảy ra mà.” “Thôi nào, Charles, sáng nay đến lượt anh đấy. Cho nó ra ngoài đi.” "Những từ cuối cùng mới thật hay...” Charles ra khỏi giường, mở cánh cửa dẫn ra khoảnh sân rộng chừng nửa yard (1) có hàng rào bao quanh, một khu nhà gần eo biển ở Old Greenwich. Tobey lao vụt ra khoảnh sân, đuổi theo mùi một con thỏ hay sóc nào đó vừa để lại. Rồi ngay lập tức, con chó bắt đầu rít lên cái thứ tiếng bản năng có thanh vực cao của nó. Karen vò chiếc gối trên đầu và cũng thốt ra những tiếng gầm gừ. "Ggggừừ....." Vậy đấy, mỗi ngày đều bắt đầu như vậy, Charles chậm chạp bước vào bếp, bật kênh CNN và cắm điện bình cà phê, nghe tiếng chó sủa vọng vào từ bên ngoài. Sau đó, anh vào phòng làm việc kiểm tra lượng hàng bán qua mạng ở châu Âu trước khi đi tắm. Sáng hôm đó, hàng bán không được tốt lắm, chỉ đạt giá 72.10 đô. Lại tiếp tục giảm. Charles làm nhanh một phép tính trong đầu. Anh lại buộc phải bán ra thêm ba hợp đồng nữa. Vài triệu đô đã không cánh mà bay. Charles ngâm mình trong bồn tắm, lúc đó mới chỉ hơn sáu giờ sáng một chút. Bên ngoài, Tobey đang sủa tới tấp, tới ba phút không nghỉ. Trong phòng tắm, Charles điểm lại hoạt động trong ngày. Anh sẽ phải thay đổi vị trí liên tục. Giải quyết các hợp đồng dầu phi truyền thống, sau đó là họp với một trong những nhà đầu tư vốn. Liệu đã đến lúc anh gột rửa sạch sẽ? Anh đã chuyển tiền vào tài khoản của cô con gái, Sam, để dành cho nó học đại học; mùa thu tới con gái anh sẽ bước vào năm cuối trung học. Khi đó cũng chính là lúc mọi việc đổ ụp lên anh. Chết tiệt thật! Anh sẽ phải đi lấy chiếc xe khốn kiếp đó vào sáng nay. Để bảo dưỡng cho xe Mercedes đã chạy được mười lăm ngàn dặm, tuần trước Karen đã kỳ kèo buộc anh phải làm chuyện này. Thế có nghĩa là anh sẽ phải đi tàu đến nơi làm việc. Anh sẽ bị muộn một chút. Trong khi anh muốn có mặt tại bàn làm việc của mình vào lúc bảy giờ ba mươi để thực hiện những công việc trong ngày như dự kiến. Sau đó Karen sẽ đón anh tại nhà ga vào buổi chiều. Quần áo chỉnh tề, thường thì giờ này Charles đã sẵn sàng cho giờ cao điểm. Đúng sáu giờ ba mươi, việc cần làm là đánh thức Karen dậy, gõ cửa phòng hai đứa con Alex và Samatha cho chúng kịp đến trường. Và còn một việc nữa là lướt qua tiêu đề các bài viết trên tờ Tạp chí Phố Wall (2) được đưa tới ở cửa trước. ... Mời các bạn đón đọc Thủy Triều Đen của tác giả Andrew Gross.
Đừng Nghi Ngờ Tình Yêu Của Anh - Daisy Thomson
Trong tác phẩm Đừng Nghi Ngờ Tình Yêu Của Anh của tác giả Daisy Thomson không đơn thuần là câu chuyện trinh thám hay mang nhiều tình tiết hồi hộp, gay cấn và kịch tính. Đừng Nghi Ngờ Tình Yêu Của Anh hội tụ những cung bậc cảm xúc đặc trưng của truyện trinh thám lãng mạn. *** Tôi thích thú quan sát thằng bé lắp cánh buồm lên chiếc thuyền to gần bằng người nó. Trong lúc kiên nhẫn con gọi đến giúp, bố thằng bé cũng đang ngắm nó với vẻ trìu mến hiện rõ trên khuôn mặt. Thằng bé tập trung vào việc của mình, còn người bố tập trung vào nó. Họ tạo ra một cảnh rất thú vị. Tôi lấy máy ảnh ra khỏi bao đựng và hướng máy vào họ. Tôi thích chụp cảnh đó. Rất tự nhiên, cảnh đó sẽ thật tuyệt cho cuốn album gia đình. Tuy vậy, nó cũng chẳng thể nổi bật trong một cuốn album được, bởi vì tôi không thể tiến đến trước mặt một người lạ mà nói rằng:” Xin lỗi, tôi vừa chụp ảnh anh và con trai anh. Nếu anh cho tôi địa chỉ, tôi sẽ gủi ảnh đến” . Tôi mà làm vậy thì người đàn ông đó sẽ nghĩ tôi đang hoặc đang rình mò làm ăn giống như các thợ ảnh quanh công viên, hoặc là đang cố làm quen với anh ta một cách lộ liễu. Tôi tiếp tục ngắm hai bố con người đàn ông đó trong lúc họ lắp cánh buồm vào thuyền theo ý của thằng bé. Lắp xong, người bố đứng ngoắc ngón tay vào dây lưng quần, còn thằng bé thì cúi xuống bờ hồ đẩy chiếc thuyền nó vừa thả về phía một chiếc thuyền nhỏ khác lúc ấy đang bị một cơn gió thu chao đảo trên mặt hồ gợn sóng. – Luke, thuyền trôi rồi, phải đưa nó vào thôi. Gió làm vọng tới tai tôi tiếng reo phấn khích của thằng bé và thật bất ngờ đối với tôi khi nhận ra thằng bé nói tiếng Anh. Ơn Chúa! Tôi tự khen mình đã không hỏi địa chỉ của người đàn ông ấy, bởi ở Paris nếu đường đột đến trước mặt một người Anh hỏi địa chỉ của người ta thì thế nào cũng bị cho là có ý không tốt Theo lời khuyên của bác sĩ, tôi đã đi nghỉ. Sau một trận cảm cúm, tôi bị suy nhược, bồn chồn và thiếu tự tin. Bố tôi, đồng thời cũng là ông chủ của tôi cho rằng tình trạng bồn chồn của tôi không phải do hậu qủa của cơn cảm cúm mà là (như theo ông gọi) do một cơn sốt cuối xuân, song ông cũng ủng hộ nhiệt tình lời khuyên của bác sỹ. Ông bảo: “Lisa ạ, bố đã để ý và nhận thấy con bị bồn chồn từ mấy tháng nay rồi. Đã đến lúc con phải nghỉ ngơi thôi, tháng này phòng chụp không bận lắm. Bây giờ không phải là thời điểm học sinh chụp ảnh cho lễ tốt nghiệp cũng không phải là mùa cưới. Bố sẽ xoay sở được công việc ở phòng ảnh. Gần đây con đã có chút thành công với các tạp chí du lịch, sao con không đi Pháp hay đi Ý và chụp những bức ảnh về những nơi con tới. Như vậy, kì nghỉ của con sẽ thú vị đấy” . Ý tưởng ấy nghe khá hấp dẫn. Mặc dù trước đó tôi cũng đã tính sẽ làm gì đó để thay đổi, nhưng tôi không muốn bỏ bố tôi một mình ở phòng chụp. Tôi cũng đã biết nơi tôi muốn đến thăm và chụp ảnh là Paris, thành phố mà hồi học ở trường Sorbonne tôi đã từng biết ít nhiều. Một cơn gió thu nữa ào tới bứt thêm những chiếc lá từ trên cây. Một chiếc lá to màu vàng thẫm nhảy nhót trước mặt tôi. Tôi ngắm chiếc lá bay lòng bồi hồi nhớ lại tuổi thơ của mình. Tôi đưa tay chộp chiếc lá. Tôi để trượt nó rồi cố chộp lại lần nữa. Tôi reo lên hoan hỷ khi bắt được chiếc lá. Tôi mở túi khoác và cẩn thận đặt chiếc lá vào đó. Tôi biết tôi làm thế xem ra có vẻ ngớ ngẩn, nhưng hồi còn bé có người bảo tôi rằng bắt được một chiếc lá rơi là một điều may mắn và tôi nghĩ biết đâu tôi chả gặp may, thoát ra tâm trạng bồn chồn và vui vẻ hơn. Kéo túi khoá xong, tôi nhìn ra hồ và chợt nhận thấy người đàn ông lúc trước đứng cùng thằng bé đang nhìn thẳng vào tôi. Tôi thấy rõ vẻ thích thú trên khuôn mặt anh ta. Anh ta không cố tình tránh cái nhìn của tôi, mà cứ tiếp tục nhìn tôi khiến tôi mắc cỡ. Trước mặt anh ta tôi mới ngớ ngẩn làm sao khi nhảy cuống cuồng như một đứa trẻ lên sáu để chộp một chiếc lá. Tuy nhiên tôi nhận ra rằng nụ cười trên khuôn mặt người đàn ông ấy không phải là nụ cười chế nhạo. Đó là nụ cười thể hiện rằng anh ta biết mục đích mang tính mê tín của tôi khi bắt chiếc lá.Và còn hơn thế. Đó là nụ cười mà sau những giây phút bối rối tôi đã phải mỉm cười đáp lại, cứ như thể người đàn ông đó là một người tôi đã quen biết. Đó là một nụ cười, mà tôi chắc sẽ khuyến khích sự đáp lại của bất cứ người phụ nữ nào, thậm chí cả người phụ nữ nghiêm nghị nhất. Tôi muốn tiếp tục cười với anh ta. Tôi đã vượt qua được cảm giác xa lạ, dường như tôi cứ bị hút vào người đàn ông ấy và cảm giác ấy mạnh mẽ đến nỗi khiến tôi bước lên một bước về phía anh ta trước khi tôi kịp trấn tĩnh. Quay nhìn sang hướng khác, tôi đặt quai túi lên vai và bước ra lối ra cổng công viên nơi có đại lộ Saint Michel. Tôi vừa đi được vài bước thì chợt nghe thấy tiếng thét của một đứa trẻ. Tôi quay lại, vừa kịp nhìn thấy một đám choai choai đang giật chiếc thuyền của thằng bé ban nãy tôi chụp ảnh. Đám choai choai ấy đẩy thằng bé ngã xuống đất rồi vừa tháo chạy về phía tôi, vừa chạy chúng vừa hét inh ỏi. Trên đường chạy, chúng xô ngã những đứa trẻ khác đang chơi trong công viên. ... Mời các bạn đón đọc Đừng Nghi Ngờ Tình Yêu Của Anh của tác giả Daisy Thomson.